Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Năm Tháng Của Tôi ở General Motors - Alfred P. Sloan, Jr

Cuốn sách đã được nhiều người công nhận là một trong những quyển sách về quản trị hay nhất mọi thời đại, trong đó có chuyên gia Peter Drucker và tỷ phú Bill Gates. Trong Những năm tháng của tôi ở General Motors, Sloan đã mô tả sự nghiệp của ông một cách vô cùng chân thực, không khoa trương hay màu mè. Ông trình bày các suy nghĩ của mình, nhấn mạnh về việc quản trị, cách tổ chức và dẫn dắt một doanh nghiệp lớn, cũng như cách ông biến suy nghĩ của mình thành hành động ra sao. Bên cạnh đó, đây còn là một cuốn sách về lịch sử kinh tế của một trong những giai đoạn biến động nhất lịch sử, với cuộc Đại suy thoái, Chiên tranh thế giới thứ II, ... Hơn hết, độc giả sẽ biết được General Motors đã vượt qua mọi trở ngại to lớn đó để vươn lên dẫn đầu như thế nào, mà trong đó công lao to lớn đó để vươn lên dẫn đầu như thế nào, mà trong đó công lao to lớn nhất đương nhiên không thuộc về ai khác - chính là Alfred Sloan. *** Cuốn sách các bạn đang cầm trên tay mô tả rất chi tiết về quá trình hình thành và phát triển của General Motors. Có rất nhiều điều để nói về doanh nghiệp tư nhân lớn nhất thế giới này. Lịch sử của nó kéo dài cả thế kỷ, hiện hữu ở nhiều khu vực trên thế giới, xuất hiện ở bất cứ đâu có đường đi. Nó liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mau lẹ của nghệ thuật chế tạo máy. Rõ ràng, tên tuổi của tập đoàn được viết nên bằng các dòng xe Chevrolet, Pontiac, Oldsmobile, Buick, Cadillac và GMC Truck & Coach cùng với các nhà sản xuất của khoảng một nửa lượng xe lữ hành và xe tải được sản xuất tại Mỹ và Canada ngày nay. Các cơ sở tại nước ngoài của chúng tôi – gồm Vauxhall ở Anh, Adam Opel ở Đức, General Motors-Holden’s ở Úc và các nhà máy sản xuất của chúng tôi ở Argentina và Brazil – chiếm khoảng 1/10 số lượng xe lữ hành và xe tải được sản xuất ngoài Mỹ và Canada năm 1962 trong thế giới tự do. Tập đoàn cũng sản xuất ra một lượng ổn định các đầu máy, động cơ diesel, tua-bin khí và nhiều đồ gia dụng trên toàn thế giới. Từ khi General Motors tập trung chủ yếu vào sản xuất các sản phẩm ô tô – chiếm khoảng 90% mảng kinh doanh dân dụng hiện tại – thì tôi đa phần ở trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, tôi cũng dành riêng một vài chương cho lĩnh vực phi ô tô và vai trò của GM trong chiến tranh và quốc phòng. Những ấn tượng của tôi về khoảng thời gian hơn 65 năm hoạt động trong ngành công nghiệp ô tô – với 45 năm ở GM – là mạch nguồn của cuốn sách này. Tuy nhiên, bởi câu chuyện diễn ra trong một thời gian quá dài, chủ đề phức tạp và những hạn chế về tư duy nên câu chuyện của tôi chủ yếu dựa trên những ghi chép và hồi ức về quá khứ. Tôi cũng thường xuyên nhờ đến trí nhớ của các cộng sự của mình. Để không bị dàn trải, tôi phải tập trung vào các nhân tố cụ thể mà theo tôi, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tập đoàn – cụ thể là nguồn gốc và sự phát triển một tổ chức phi tập trung như GM, hệ thống kiểm soát tài chính, cũng như quan điểm về hoạt động kinh doanh được thể hiện qua cách tiếp cận với thị trường ô tô đầy cạnh tranh trên toàn cầu. Theo tôi, có 3 nhân tố làm nền tảng đường hướng phát triển cho hoạt động kinh doanh của GM trên thị trường. Về lịch sử, tôi đã phác thảo ra toàn bộ vòng đời phát triển của GM, từ khi được thành lập bởi thiên tài công nghiệp W.C. Durant vào năm 1908 – với những sự kiện thời kỳ đầu – cho đến nay. Nhưng tôi tập trung chủ yếu vào giai đoạn sau năm 1920, hay thứ mà tôi gọi là tập đoàn hiện đại và cụ thể hơn là giai đoạn từ năm 1923 đến năm 1946, giai đoạn mà tôi là tổng giám đốc, rồi sau đó là chủ tịch, kiêm CEO của tập đoàn. Trong suốt giai đoạn này, tập đoàn đã định hình nên một vài đặc điểm cơ bản vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tôi đã mô tả một tập đoàn thời cũ trước năm 1921 để các bạn thấy được xuất phát điểm mà từ đó chúng tôi đã bắt tay vào xây dựng một tập đoàn hiện đại như ngày nay. Về phần tự truyện, tôi sẽ kể lại thời gian đầu mới vào ngành và mối lương duyên của tôi đối với tập đoàn trong năm 1918. GM và Hyatt Roller Bearing Company, một doanh nghiệp mà tôi là giám đốc kiêm cổ đông trước khi nó trở thành một phần của United Motors Corportation và sau đó là GM, chiếm một phần rất quan trọng trong cuộc đời sự nghiệp của tôi. Tôi là một cổ đông quan trọng của tập đoàn từ ngày gia nhập và trong một thời gian dài, tôi đã là một trong những cổ đông cá nhân lớn nhất với khoảng 1% cổ phần của tập đoàn. Gần như toàn bộ số tiền mà lượng cổ phần đó đại diện đã biến mất và đến với tổ chức từ thiện dưới tên tôi và rồi từ đó, vào giáo dục và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực y khoa và các lĩnh vực khác. Vì thế, tôi đưa ra quan điểm ở cương vị một cổ đông rất tự nhiên. Tôi luôn giữ một vị trí quan trọng với cương vị một cổ đông, đặc biệt là với các vấn đề như quyền đại diện trong ban giám đốc và các ủy ban hay việc phân chia cổ tức. Thế nhưng, tôi cũng coi mình là một trong những giống loài mà giờ đây chúng ta gọi là “giám đốc.” Chuyên môn của tôi là quản lý. Trong thời gian là CEO, thi thoảng tôi được quyền đưa ra các chính sách. Tuy nhiên, ở GM, đã trở thành thông lệ: Chính sách có thể được đưa ra từ bất cứ đâu, nhưng nó phải được các ủy ban nhất trí phê duyệt trước khi được các cá nhân thực thi. Nói theo cách khác, GM được quản lý theo nhóm được tạo nên từ nhiều cá nhân có năng lực. Và vì thế, tôi thường dùng đại từ nhân xưng “chúng tôi” thay cho “tôi,” và mặc dù thi thoảng tôi cũng dùng “tôi,” nhưng nó cũng vẫn hàm ý là “chúng tôi.” Xét đến sự phát triển của GM, chúng tôi cần phải nhìn nhận đến rất nhiều các nhân tố đa dạng xuất hiện ở nền tảng của tổ chức. Hiếm ai nghĩ, với đội ngũ doanh nhân năng động; với các nguồn lực khoa học, công nghệ, kinh doanh cũng như phương pháp sản xuất công nghiệp; với các không gian lớn, đường sá và thị trường màu mỡ; với những đặc điểm như dễ thay đổi, cơ động và sản xuất đại trà; với việc mở rộng mạnh mẽ trong thế kỷ này cũng như với hệ thống tự do nói chung và doanh nghiệp cạnh tranh tự do nói riêng, GM có thể tồn tại ở đâu đó ngoài quốc gia này. Việc thích ứng với đặc tính chuyên biệt của thị trường ô tô tại Mỹ là một nhân tố rất quan trọng và khá phức tạp trong quá trình phát triển của GM. Nếu chúng tôi đóng góp vào phong cách Mỹ như đóng góp vào ngành ô tô, thì hẳn là kết quả có được nhờ sự tương tác. Ví dụ, sự sống sót trong ngành công nghiệp ô tô tại Mỹ dựa chủ yếu vào việc giành được thiện ý của người mua ô tô mới mỗi năm. Một phần là nhờ mẫu mới hàng năm, khuyến khích tổ chức phải đổi mới hoặc chết. GM được thúc đẩy bởi sự cấp thiết của việc làm thỏa mãn yêu cầu này. Rất nhiều yếu tố về sự phát triển của doanh nghiệp và ngành đã “đâu vào đó” nhờ ý tưởng về mẫu xe mới hàng năm – nguồn gốc và sự phát triển của nó; quan điểm liên đới về các loại xe đang được nâng cấp trong đó GM đóng vai trò tiên phong đối lập với tổ chức Ford ban đầu. Tôi cũng không quên việc nhấn mạnh rằng ô tô đại diện cho một trong những cơ hội công nghiệp lớn nhất trong thời hiện đại. GM đã thật may mắn khi tiên phong trong lĩnh vực này. Suy nghĩ này đã làm nảy sinh quan điểm liên quan đến hai chương đầu tiên – chủ yếu tập trung vào thời kỳ đầu trong quá trình phát triển của GM. Hơn thế nữa, bằng cách trao cho GM mối liên kết gần gũi với sự phát triển của động cơ đốt trong, ô tô đã khuyến khích chúng tôi tham gia vào việc ứng dụng nguồn năng lượng kiểu này cho các loại máy móc cần sử dụng năng lượng khác, điển hình là máy bay và đầu máy xe lửa. Tỷ lệ tăng trưởng của chúng tôi phần lớn là nhờ việc sản xuất hàng loạt các phương tiện được lắp động cơ đốt trong. Không có gì ngạc nhiên khi tôi cảm thấy lạc quan về GM và hoạt động hiệu quả của tập đoàn. Nhưng đó chỉ là quan điểm chủ quan của riêng tôi khi nói rằng GM đã biến cơ hội mang tính lịch sử của mình thành sự hài lòng xét về quyền lợi của tập đoàn, từ cổ đông đến nhân viên, từ nhà cung cấp đến người tiêu dùng cuối. Tuy nhiên, với vị thế của một doanh nghiệp lớn nhất – với hơn 1 triệu cổ đông, khoảng 600.000 nhân viên, 9,2 tỷ đô-la tài sản; 14,6 tỷ đô-la doanh thu và 1,46 tỷ đô-la lợi nhuận trong năm 1962 – GM nổi lên như một điểm khác biệt và đôi lúc khiến tập đoàn trở thành mục tiêu chính trị. Tôi rất vui khi đề cập đến vấn đề về quy mô, đối với tôi, quy mô của một doanh nghiệp cạnh tranh là kết quả của hiệu suất cạnh tranh và khi doanh nghiệp sản xuất những thứ như ô tô, đầu máy xe lửa với số lượng lớn cho một cường quốc và thị trường thế giới, thì quy mô lớn là điều dễ hiểu. Cũng phải nhớ rằng giá cả của những sản phẩm này rất cao, thậm chí một nhà sản xuất ô tô “nhỏ” cũng có thể nằm trong hàng ngũ hàng trăm các tập đoàn công nghiệp lớn nhất nước Mỹ. Tôi tin rằng tăng trưởng là nguồn sống cho sự phát triển của một doanh nghiệp. Ngừng tăng trưởng đồng nghĩa với chết. Chúng tôi có thể đưa ra đầy rẫy các ví dụ điển hình minh chứng cho điều đó trong nền công nghiệp Mỹ. Trong ngành công nghiệp ô tô và rất nhiều ngành khác, quá trình tăng trưởng đã mang đến cho chúng ta những doanh nghiệp quy mô lớn vốn được cho là nét đặc trưng của xã hội. Chúng ta làm mọi thứ một cách rầm rộ tại Mỹ. Tôi luôn tin vào việc lập kế hoạch lớn và cũng luôn khám phá ra sự thật sau đó rằng, dù là gì đi chăng nữa, chúng ta cũng làm chưa tới. Thế nhưng, tôi đã không tiên đoán quy mô của GM hay đặt quy mô là một mục tiêu trong đầu. Đơn giản bởi tôi nghĩ rằng, chúng ta nên tập trung vào công việc hiện tại và bỏ qua mọi hạn chế. Tôi không giới hạn đà tăng trưởng của tập đoàn. Tăng trưởng và phát triển có mối liên hệ mật thiết với nhau bởi một doanh nghiệp không được phép nghỉ ngơi hay lơ là trong một nền kinh tế cạnh tranh. Những trở ngại, xung đột, các vấn đề mới nảy sinh ở mọi hình dạng và những giới hạn mới gia tăng liên tục đã khuấy đảo hình dung và sự liên tục của quá trình tăng trưởng ngành. Tuy nhiên, thành công có thể mang đến sự tự mãn. Lúc đó, sự cạnh tranh sinh tồn, động lực kinh tế mạnh mẽ nhất, sẽ bị làm lu mờ. Tinh thần mạo hiểm trôi tuột, thay vào đó là tâm lý ngại thay đổi. Khi những ảnh hưởng như thế nảy sinh, tăng trưởng có thể ngừng lại hoặc suy giảm, nguyên nhân là do doanh nghiệp không nhận ra công nghệ đã được nâng cao hoặc nhu cầu của khách hàng thay đổi, hay có lẽ là do cạnh tranh ngày càng gay gắt và mạnh mẽ. Trong bất cứ ngành công nghiệp nào, việc liên tục duy trì được thành công hoặc tiêu chuẩn cao bất thường về khả năng lãnh đạo đôi khi còn khó khăn hơn nhiều so với việc đạt được thành công hoặc khả năng lãnh đạo ban đầu. Đó là một thách thức cần GM đáp ứng trong tương lai. Cần phải làm rõ rằng tôi không coi quy mô là một rào cản. Đối với tôi, đó chỉ là một vấn đề về quản lý. Những suy nghĩ của tôi vốn xoay quanh một quan điểm ẩn chứa sự phức tạp rất lớn cả về lý thuyết lẫn thực tế – khái niệm được đưa ra với cái tên đã được đơn giản hóa: Phi tập trung. Tổ chức kiểu GM – phối hợp trong chính sách, phi tập trung trong quản lý – không chỉ hiệu quả đối với chúng tôi mà còn trở thành tiêu chuẩn trong phần lớn các ngành công nghiệp Mỹ. Khi được kết hợp với sáng kiến hợp lý về tài chính, khái niệm này là bước đệm chắc chắn cho chính sách về tổ chức của GM. Một khía cạnh cần thiết liên quan đến triết lý quản lý của chúng tôi là cách tiếp cận thực tế đối với hoạt động đánh giá kinh doanh. Đương nhiên, hành động cuối cùng trong đánh giá kinh doanh chỉ mang tính trực giác. Có lẽ, có rất nhiều cách chính thống để cải thiện tính hợp lý của chiến lược kinh doanh hay hoạch định chính sách. Nhưng phần quan trọng đằng sau đánh giá kinh doanh là tìm kiếm và thừa nhận những sự thực và tình huống liên quan đến công nghệ, thị trường, v.v… với các dạng thức thay đổi liên tục. Tốc độ thay đổi công nghệ hiện đại đã khiến việc tìm kiếm những sự thật trở thành một tính năng rất cần thiết trong ngành. Điều đó có vẻ rõ ràng, thế nhưng, một vài thay đổi lớn nhất về vị thế trong ngành xuất hiện một phần bởi ai đó đã đưa ra ý tưởng mà anh ta cho là bất biến. Tuy nhiên, để đảm bảo cho hoạt động quản lý có cơ sở vững vàng, phải cần hơn một sơ đồ tổ chức. Không có ai tổ chức hợp lý hơn những người điều hành nó và ủy quyền cho người khác điều hành nó. Họ là những người “cầm cân, nảy mực” trong một tổ chức phi tập trung hướng đến sự tập trung và thậm chí là quy tắc một-người. GM trụ được lâu trên thương trường đến như vậy là nhờ được điều hành bằng cả tinh thần và sự ổn định của hoạt động phi tập trung. Có vẻ hợp lý khi nói GM là một thể chế. Tập đoàn có môi trường hoạt động khách quan và tinh thần đoàn kết doanh nghiệp. Một trong những thế mạnh lớn nhất của tập đoàn nằm ở sự khách quan, khác hẳn kiểu tổ chức đắm mình trong chủ nghĩa chủ quan cá nhân. Tuy nhiên, kinh nghiệm của tôi cho thấy, không có công thức đơn giản nào về vấn đề này của tổ chức. Vai trò của tính cá thể quan trọng đến mức đôi lúc nó là nhân tố cần thiết để xây dựng tổ chức hoặc một phần tổ chức theo một hoặc một vài cá nhân thay vì ép các cá nhân phải phù hợp với tổ chức. Xét dưới góc độ phát triển đội ngũ nhân viên kỹ thuật thời kỳ đầu của chúng tôi, điều đó xuất hiện dưới dạng rất ấn tượng. Tuy nhiên, khi bất cứ phần nào của tập đoàn bị gò theo một cá nhân nào đó, thì áp lực nặng nề gia tăng bởi mỗi quy trình đều có những hạn chế riêng. Và như tôi đã nói ở trên, để tồn tại và phát triển, mỗi tổ chức phải luôn thường trực xu hướng vượt lên trên tính chủ quan cá nhân của mình. Nếu đề cập hoặc ám chỉ đến thứ được gọi là ý thức hệ trong cuốn sách này, thì đó là bởi tôi cho rằng cạnh tranh như một tín điều, một phương tiện tiến bộ và một cách sống. Cạnh tranh xuất hiện ở nhiều dạng: Ví dụ, GM cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên cương vị một tổ chức (phi tập trung) và trong các hoạt động kinh doanh lâu dài (nâng cấp các dòng sản phẩm), cũng như trong các hoạt động kinh doanh thường nhật. Mặt khác, Henry Ford lại đặt niềm tin của mình vào cơ cấu tổ chức tập quyền và kiểu mẫu không có gì thay đổi. Cuộc cạnh tranh về chính sách cơ bản như thế đôi lúc rất dứt khoát. Chúng tôi cũng tiếp tục tiến lên với niềm tin vào sự thay đổi, điều thể hiện rõ trong hoạt động hoạch định đầu tư cho tương lai. Chúng tôi sản xuất hàng hóa không phải cho số ít khách hàng chọn lọc mà cho thị trường đại chúng dựa trên mức sống ngày càng tăng cao của người dân. Nhận thức của chúng tôi về mức sống ngày càng tăng đã làm nên sự khác biệt mang tính quyết định giữa chúng tôi và các đối thủ trong thuở sơ khai làm nên thị trường hiện đại. Lĩnh vực thuộc GM mà tôi tập trung trong cuốn sách này không phải là thứ lúc nào cũng hữu hình. Nó bắt nguồn từ ban giám đốc đến các bộ phận sản xuất, gồm cả hành chính tổng hợp, các giám đốc điều hành, các ủy ban chính sách, tổ chức chuyên môn và năng lực và các mối quan hệ giữa các bộ phận sản xuất; nói cách khác, lĩnh vực mà trong đó bộ phận bổ sung cho tổ chức còn tổ chức hỗ trợ các bộ phận. Vì thế không phải các bộ phận sản xuất mà là sự tổng hòa của mọi bộ phận làm nên General Motors – chủ đề của tôi trong cuốn sách này. Cuốn sách được chia thành hai phần. Phần I là một câu chuyện liên tục, thống nhất với nội dung chính liên quan đến quá trình phát triển của GM, đề cập đến nguồn gốc và sự phát triển của những quan điểm về quản lý cơ bản của tập đoàn trong các lĩnh vực tổ chức, tài chính và sản phẩm. Phần II đi vào các thông tin chi tiết và chuyên biệt như kỹ thuật, phân phối, các hoạt động ở nước ngoài, chiến tranh và các sản phẩm quốc phòng, bồi thường khuyến khích và nhiều khía cạnh khác cũng như các chi nhánh của tập đoàn. Tuy nhiên, tôi không cố gắng liệt kê ra mọi thông tin. Việc cố gắng kể lại chi tiết một câu chuyện về GM với quá trình hình thành và phát triển trong hơn một nửa thế kỷ là điều không tưởng. Tôi đã chọn lọc – hầu hết các tác giả đều làm vậy – dựa trên phần lớn kinh nghiệm của bản thân và các đồng sự để đưa ra những phán đoán hợp lý. Cuốn sách này ra đời nhằm phân tích các hoạt động kinh doanh dựa trên một quan điểm logic, kết hợp các ý tưởng với lịch sử. Cấu trúc của cuốn sách này, cụ thể là thứ tự các chương trong phần I, là kết quả của sự cân nhắc về tính logic trong quản lý liên đới với các sự kiện của ngành công nghiệp ô tô. Đương nhiên, cũng có những cách tiếp cận tiềm năng khác, về tâm lý, xã hội, chủ quan, v.v… nhưng tôi vẫn lựa chọn cách tiếp cận logic bởi nó giúp diễn giải một lượng lớn các tài liệu phức tạp trong không gian hạn chế. Nó cũng giúp hiện thực hóa việc đưa ra quan điểm rõ ràng về hoạt động kinh doanh trên cương vị một doanh nghiệp. Cách tiếp cận như vậy khá phù hợp đối với mục tiêu của GM, bởi một khía cạnh trong chiến lược kinh doanh của tập đoàn là nỗ lực luôn khách quan trong suốt quá trình theo đuổi các mục tiêu kinh doanh. Vậy nên, tôi đã tập trung vào những gì đã đạt được trong quá khứ, khi rất nhiều các chính sách cơ bản, lâu dài lần đầu tiên được đưa ra. Tuy nhiên, tôi cũng nhận ra rằng trong suốt những năm tháng thăng trầm của tập đoàn, đội ngũ cán bộ và công nhân viên ở đây đã luôn nỗ lực trong việc định hình và làm mới các chính sách ban đầu. Hơn nữa, các chính sách mới cũng được đưa ra để đáp ứng với các điều kiện trong tình hình mới. Như tôi từng nói, thay đổi đồng nghĩa với thách thức và khả năng xử lý những thách thức là một dấu hiệu cho thấy hoạt động quản lý hiệu quả. Những thay đổi khó khăn về sản phẩm, nhu cầu và áp lực từ bên ngoài phải được đáp ứng mau lẹ để duy trì sự tăng trưởng và thịnh vượng của GM. Thực tế, ban quản lý hiện tại của GM đang đáp ứng và bao quát được gần như toàn bộ các vấn đề mới nảy sinh vốn làm đau đầu các thế hệ nhà quản lý của tập đoàn này. Mời các bạn đón đọc Những Năm Tháng Của Tôi ở General Motors của tác giả Alfred P.sloan, Jr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

48 Nguyên Tắc Chủ Chốt Của Quyền Lực
Nói chung, chúng ta không thể nào chịu nổi cái cảm giác rằng mình không có tí ti quyền lực nào đối với những con người và sự kiện quanh ta. Ai cũng muốn có nhiều quyền lực hơn, không ai muốn nhường bớt. Tuy nhiên trong thế giới ngày nay, thật nguy hiểm khi để mọi người nhìn thấy mình quá khát khao quyền lực, hoặc quá lộ liễu trong việc mưu cầu quyền lực. Chúng ta phải tỏ ra vừa phải và biết điều. Vì vậy ta cần phải tinh vi – tỏ ra tương đắc nhưng bên trong thì láu lỉnh, bề ngoài dân chủ nhưng lòng dạ lại thủ đoạn. Trò chơi hai mang này giống với việc mưu cầu quyền lực từng tồn tại ở các triều đình xưa kia. Điểm lại lịch sử, ta thấy một triều đình tự hình thành quanh người quyền lực – nhà vua, hoàng hậu, hoàng đế, lãnh tụ. Các quần thần trong những triều đình ấy chiếm một vị thế hết sức tế nhị: Họ phải phục vụ chủ nhân, nhưng nếu tỏ ra quá xum xoe, nếu cầu xin ân huệ một các quá lộ liễu, những triều thần khác sẽ chú ý và hãm hại. Vì vậy mọi cố gắng để lấy lòng quan thầy đều phải hết sức tinh vi. Ngay cả những triều thần tài ba nhất, tinh tế nhất cũng phải có phương cách tự vệ đối với bạn đồng triều, những người bạn ấy luôn tìm cách hất chân anh ra khỏi vị trí vốn đang được chiếu cố. Thế mà lẽ ra triều đình phải đại diện cho đỉnh cao của văn minh và tao nhã. Mọi động thái mưu cầu quyền lực quá tàn bạo hoặc công khai sẽ bị chỉ trỏ. Các quần thần sẽ hành động âm thầm và bí mật để chống lại những đồng liêu nào dùng bạo lực. Đó chính là tình huống khó xử của một triều thần: Một mặt phải chứng minh ta là điển hình của lịch lãm, mặt khác phải khôn ngoan để đánh bại đối thủ bằng những phương cách tinh vi nhất. Qua thời gian, một triều thần thành công hiểu rằng mọi nước cờ đều phải gián tiếp, nếu muốn đâm sau lưng bạn đồng liêu thì phải mang găng nhung, mặt phải nở nụ cười ngọt lịm nhất. Thay vì phải áp bức hay phản bội, một triều thần hoàn hảo đạt đến mục đích bằng sự cám dỗ, mê hoặc, lừa bịp, và chiến lược tinh vi, luôn phải dự kiến sẵn sàng nhiều nước cờ. Cuộc sống ở triều đình là thứ trò chơi không bao giờ kết thúc, nó đòi hỏi người ta phải cảnh giác thường xuyên và tư duy chiến thuật. Đó là một cuộc chiến văn minh. Ngày nay chúng ta chứng kiến một nghịch lý tương tự đối với cách hành xử của một triều thần: Mọi hành động đều phải có vẻ văn minh, tử tế, dân chủ, và công bằng. Nhưng nếu ngây thơ chơi đúng theo những quy tắc ấy, ta sẽ bị nghiền nát bởi những thành phần không dại dột gì tuân theo. Như nhà ngoại giao nổi tiếng thời Phục hưng là Niccolò Machiavelli nhận xét, “ Bất kỳ người nào cố gắng để luôn tử tế, thì chắc chắn sẽ tàn lụi giữa số đông không tử tế.“ Triều đình tự tạo cho mình hình ảnh của đỉnh cao tao nhã, nhưng bên dưới cái vẻ lung linh đó là một hỏa lò sục sôi những tình cảm đen tối – tham lam, ganh tỵ, dục vọng, ghen ghét. Thế giới chúng ta ngày nay tưởng tượng rằng mình là đỉnh cao công bằng, song những tình cảm xấu xa ấy vẫn khuấy động trong ta, như vẫn luôn khuấy động tự bao giờ. Cuộc chơi vẫn là một. Bề ngoài ta tỏ vẻ tuân theo lối chơi đẹp, nhưng bên trong, trừ khi quá ngây thơ khờ dại, ta nhanh chóng học bài cẩn trọng, và hành động như Napoléon từng khuyên nhủ: “Bàn tay sắt bên trong cái găng nhung“. Nếu tựa như một triều thần của thời xa xưa trước, ta có thể thành thạo nghệ thuật đánh lạc hướng, biết cách quyến rũ, mê hoặc, lừa bịp, và tinh vi đánh lừa các đối thủ, thì ta sẽ đạt đỉnh cao quyền lực. Ta sẽ có khả năng làm người khác thuận theo ý chí ta, mà họ không hề ngờ ta đang điều khiển họ. Và nếu không hề ngờ, thì họ sẽ không bao giờ cay cú hoặc kháng cự ta. Đối với nhiều người, việc chơi trò quyền lực[1] một cách có ý thức – cho dù chỉ là gián tiếp – có vẻ như xấu xa, phi xã hội, như một di tích của quá khứ. Họ bảo là mình có thể rút chân ra khỏi cuộc chơi, bằng cách xử sự như thể họ không dính dáng gì đến quyền lực. Ta cần phải đề phòng dạng người này, bởi vì ngoài miệng nói như vậy, song thật ra thường khi họ lại là những tay chơi thứ thiệt. Đó là những chiến lược khôn ngoan để nghi trang bản chất của sự thao túng đang được sử dụng. Chăng hạn như họ muốn cho người khác thấy rằng sự yếu đuối và không có quyền lực mới là quân tử. Nhưng người thật sự không có quyền lực, nếu không vì động cơ hoặc tư lợi nào, thì sẽ không phô trương sự yếu đuối của mình, thật ra đó là một chiến lược rất hiệu quả, tinh vi và mang tính lừa đảo, trong trò chơi quyền lực (xem Nguyên tắc 22, Chiến thuật Quy hàng). Một chiến lược khác của người mưu cầu quyền lực là đòi hỏi sự công bằng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Ai ai cũng phải được đối xử bình đẳng, cho dù thân thế hay quyền lực họ như thế nào. Nhưng nếu vì không muốn mang tiếng là trò chơi quyền lực mà ta phải đối xử bình đẳng với mọi người, thì ta xử trí như thế nào đây khi có người này giỏi hơn người khác? Đối xử bình đẳng có nghĩa là phớt lờ những dị biệt giữa mọi người, nâng người dở lên và hạ người giỏi xuống. Một lần nữa, ta cần nhớ rằng những người cổ xúy bình đẳng như thế, thật ra họ đang triển khai một chiến lược quyền lực khác, nhằm tái phân phối phúc lợi cho mọi người theo cách họ muốn. Vậy hóa ra để tránh tham dự vào trò chơi quyền lực, ta phải tuyệt đối lương thiện và trung thực, bởi vì bọn tranh giành quyền lực thường lừa đảo và bí hiểm. Nhưng thái độ tuyệt đối lương thiện chắc chắn sẽ xúc phạm rất nhiều người, và vài người trong số đó sẽ quật lại ta. Sẽ không ai xem thái độ lương thiện của ta là hoàn toàn khách quan, hoàn toàn không có động cơ cá nhân nào. Và họ đúng: Thật ra việc sử dụng sự lương thiện chỉ là một chiến lược quyền lực, nhằm thuyết phục người khác tin rằng ta cao thượng, hảo tâm, và vô vụ lợi. Đó chỉ là một hình thức thuyết phục, thậm chí đó là một dạng thúc ép tinh vi. Cuối cùng những ai rêu rao rằng mình không tham dự cuộc chơi có thể giả vờ ngây thơ, để mọi người không lên án họ đang tranh giành quyền lực. Tuy nhiên ta nên cảnh giác, bởi vì cái vẻ ngây thơ cụ đó lại là một phương tiện lừa đảo rất hiệu quả (xem Nguyên tắc 21, Giả điên hạ địch). Và thậm chí ngay cả người thật sự ngây thơ cũng chưa chắc là không muốn mưu cầu quyền lực. Ngây thơ nhất là trẻ em, nhưng thường khi nhiều hành động của chúng vẫn xuất phát từ nhu cầu cơ bản là điều khiển những người quanh chúng. Chúng rất đau khổ khi cảm thấy mình bất lực trong thế giới của người lớn, vì vậy chúng dùng mọi cách để có được thứ chúng muốn. Những người thật sự ngây thơ vẫn có thể mưu cầu quyền lực, và thường khi họ hành động hiệu quả một cách khủng khiếp, vì họ không bị cản trở bởi bất kỳ suy nghĩ nào cả. Vậy ta hãy nhớ rằng ai phô trương hay trình diễn vẻ thơ ngây sẽ là kẻ ít ngây thơ nhất. Với những người rêu rao không tham quyền, ta có thể nhận ra họ qua cách họ hô hào nào là đạo đức, lương tâm, công bằng. Nhưng vì ai cũng khao khát quyền lực và hầu như mọi hành động của chúng ta đều hướng về đó, nên ta biết rằng những người vừa kể thật ra chỉ định tung hỏa mù, dùng cái bình phong đạo đức để che đậy ý đồ của họ. Nếu quan sát kỹ, ta sẽ nhận thấy rằng họ thường là một trong những bậc thầy về kỹ năng thao túng gián tiếp, thậm chí một số bậc thầy ấy lại hành động theo vô thức. Nếu thế giới này giống như một sân chơi cho những triều thần[2] trăm mưu ngàn chước và chúng ta đang bị kẹt trong đó, thì có cố gắng rút chân ra cũng không ích gì. Làm như thế ta chỉ thêm bất lực, và càng bất lực càng khốn khổ. Thay vì vùng vẫy chống lại điều không thể tránh, thay vì tranh cãi, than vãn, và tự chuốc cảm giác tội lỗi, tốt hơn ta nên thành thạo trò chơi quyền lực đó. Trên thực tế, hễ càng giỏi tung hứng quyền lực thì ta càng trở nên một người bạn, người tình, người chồng, người vợ giỏi giang hơn. Đi theo lộ trình của một triều thần hoàn hảo (xem Nguyên tắc 24), ta giúp người xung quanh cảm thấy hài lòng hơn với bản thân họ, ta trở thành nguồn vui cho họ. Họ sẽ lệ thuộc vào khả năng của ta, luôn muốn có ta bên cạnh. Thuần thục được 48 nguyên tắc trong quyển sách này, ta giúp mọi người tránh được nỗi đau khi bất cẩn với quyền lực – chơi với lửa mà không biết tính chất của lửa. Nếu trò chơi quyền lực là điều không thể tránh, tốt hơn ta nên trở thành chuyên gia còn hơn là kẻ phủ nhận hoặc gã vụng về. Muốn học trò chơi quyền lực, ta phải thay đổi viễn cảnh, phải có cách nhìn khác đối với thế giới. Phải mất nhiều năm nỗ lực và thực hành, bởi vì phần lớn trò này không tự nhiên hình thành. Cần phải có một số kỹ năng cơ bản, và một khi đã thành thạo những kỹ năng này rồi, ta sẽ áp dụng được các nguyên tắc quyền lực dễ dàng hơn. Kỹ năng quan trọng nhất, đồng thời là nền tảng sinh tử của quyền lực là khả năng làm chủ cảm xúc. Phản ứng lại một tình huống bằng cảm xúc, đó là rào cản lớn nhất trên đường mưu cầu quyền lực, là lỗi lầm buộc ta phải trả cái giá đắt hơn nếu so với khoảnh khắc khoái chí khi ta biểu lộ xúc cảm. Xúc cảm làm mờ lý trí, và nếu lý trí bị che mờ, ta không thể chuẩn bị và đáp lại tình huống một cách có kiểm soát. Sân giận là phản ứng xúc cảm tiêu cực nhất, vì nó làm cho lý trí bị che mờ nhiều nhất. Ngoài ra, sân giận còn có hiệu ứng phụ là làm cho tình thế càng thêm khó kiểm soát, và khiến kẻ thù quyết tâm hơn. Muốn tiêu diệt kẻ thù đã hại ta, tốt hơn ta nên dụ hắn hạ thấp cảnh giác, bằng cách làm bộ thân thiện, còn hơn là ra mặt giận dữ. Tình yêu và thương mến cũng hại ta, bởi vì nó bịt mắt không cho ta phát hiện mục đích tư lợi của những kẻ mà ta không ngờ là đang chơi trò quyền lực. Nếu không thể đè nén cơn giận hoặc tình yêu, hoặc không thể cảm nhận hai thứ đó, thì bạn đừng nên thử. Nhưng bạn phải cẩn thận về cách biểu lộ những tình cảm ấy, sao cho chúng đừng ảnh hưởng đến cơ đồ và chiến lược. Liên quan đến việc làm chủ cảm xúc là khả năng tạo ra khoảng cách với giây phút hiện tại để suy nghĩ khách quan về quá khứ và tương lai. Giống như Janus, vị thần La Mã hai mặt trông giữ mọi cánh cửa và cổng thành, ta phải có khả năng một lúc nhìn về nhiều hướng để xử lý nguồn nguy hiểm. Đó là gương mặt mà ta tạo cho mình – một mặt luôn nhìn về tương lai, mặt kia nhìn quá khứ. Với tương lai thì khẩu hiệu là „Không có ngày nào không cảnh giác“. Đừng để bị bất ngờ vì bởi bất kỳ việc gì, vì ta luôn dự trù mọi tình huống trước khi chúng phát sinh. Thay vì phung phí thời gian mơ tưởng đến đoạn cuối có hậu của kế hoạch, ta nên suy tính mọi hỏng hóc, mọi biến thể khả dĩ. Càng nhìn xa trông rộng, càng tính trước nhiều nước cờ, ta càng thêm hùng mạnh. Gương mặt thứ hai của Janus luôn nhìn về quá khứ - nhưng không phải để nhớ những vết thương đã qua hoặc nuôi dưỡng hận thù, vì như thế chỉ hạn chế sức mạnh. Điều quan trọng là tập cho quên những sự kiện không vui trong quá khứ, có khả năng mài mòn tinh thần và che mờ lý trí. Mục tiêu thật sự của việc nhìn lại sau lưng là luôn rút tỉa kinh nghiệm – nhìn về quá khứ là để học tập đấng tiền nhân. (Quyển sách này có nhiều ví dụ lịch sử đề bạn tham khảo.) Sau khi nhìn về quá khứ, ta xem xét những việc gần hơn, chẳng hạn như hành động của ta, của bạn bè ta. Đây là trường lớp quan trọng, vì xuất phát từ kinh nghiệm cá nhân. Ta bắt đầu với những lỗi lầm trong quá khứ, loại lỗi lầm nghiêm trọng ngăn cản bước tiến của ta. Ta phân tích chúng qua lăng kính của 48 nguyên tắc quyền lực, rồi rút ra kinh nghiệm cùng với một lời thề: „Tôi không bao giờ lặp lại những lỗi lầm ấy, tôi sẽ không bao giờ rơi vào một cái bẫy như vậy nữa.“ Nếu có thể nhận xét và đánh giá tự thân theo cách ấy, ta sẽ biết cách phá vỡ cách rập khuôn từ quá khứ. Quyền lực đòi hỏi khả năng hí lộng với vẻ bề ngoài. Vì vậy ta phải học cách đeo nhiều loại mặt nạ và để dành một bồ mưu mô thủ đoạn. Bạn đừng xem việc giả trang và lừa dối là những trò xấu xa vô đạo đức. Mọi tương tác của con người đều đòi hỏi phải lừa dối ở nhiều cấp độ khác nhau, và nhìn dưới góc độ nào đó, thì khả năng nói dối là điều khác biệt giữa con người và con thú. Trong thần thoại Hy Lạp, trong sử thi Mahabharata Ấn Độ, trong anh hùng ca Gilgamesh Trung Đông, chính những vị thần mới có phép thuật thiên biến vạn hóa để đánh lừa. Một người được xem là vĩ đại, chẳng hạn như Odysseus, được đánh giá qua việc thi đua với những thần thánh về khả năng láu cá, vì vậy anh ta cũng được tôn vinh lên gần như là thần thánh. Lừa đảo là một nghệ thuật đã phát triển của văn minh, và là vũ khí hùng mạnh nhất trong trò chơi quyền lực. Ta không thể lừa bịp thành công nếu không biết lùi một bước để nhìn lại chính mình – nếu không biết nhập vai kẻ khác, đeo đúng chiếc mặt nạ mà tình hình cần kíp. Nắm được cách tiếp cận linh hoạt như vậy với một vỏ bọc, kể cả vỏ bọc của chính mình, ta sẽ trút bớt gánh vụng về luộm thuộm cản trở tiến bộ. Làm sao gương mặt ta cũng linh hoạt như mặt diễn viên, tập giấu kín chủ tâm, luyện cách dụ người vào bẫy. Hí lộng với cái vỏ ngoài, và thuần thục nghệ thuật đánh lừa là một vài điều thú vị của cuộc sống. Chúng cũng là thành phần chủ chốt để đạt đến quyền lực. Nếu lừa bịp là vũ khí hùng mạnh nhất trong kho khí tài, thì đức kiên nhẫn là tấm lá chắn cực kỳ quan trọng. Kiên nhẫn giúp ta tránh những lỗi lầm ngớ ngẩn. Tựa như việc làm chủ xúc cảm, kiên nhẫn là một kỹ năng – đức tính đó không phải tự nhiên mà có. Nhưng ở lĩnh vực quyền lực thì không có gì là tự nhiên cả. Trong thế giới thiên nhiên, quyền lực là thứ có vẻ thần thánh nhất. Và kiên nhẫn là đức tính cao tột cùng của các vị thần, vì ngoài thì giờ ra, họ không có gì khác. Ngược lại, sự nóng vội chỉ làm ta có vẻ yếu ớt hơn mà thôi. Đó là sức cản quan trọng đối với quyền lực. Tính cốt yếu của quyền lực là phi luân lý, và một trong những kỹ năng quan trọng cần đạt tới là khả năng nhận thức tình huống, chứ không phải phân biệt tốt xấu. Quyền lực là một cuộc chơi – điều này nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần cũng không thừa – và khi chơi, ta không đánh giá đối thủ qua chủ tâm mà qua hiệu quả hành động. Ta đo lường chiến lược và sức mạnh của họ bằng giác quan trực tiếp. Thực tế đã bao lần chứng minh rằng thiện ý chỉ làm cho vấn đề rắc rối và mờ ảo thêm mà thôi. Ích lợi gì khi phe đối tác có thiện ý và muốn làm lợi cho ta, nhưng hành động của họ chỉ gây cho ta sầu đau và đổ vỡ? Cũng tự nhiên thôi, khi thiên hạ đều viện đủ lý luận để biện minh cho hành động của họ, luôn miệng bảo rằng họ chỉ muốn làm điều tốt. Bạn phải tập cười thầm mỗi khi nghe những lý lẽ như vậy, đừng để bị lôi cuốn vào việc đánh giá thiện ý và hành động của người khác qua một loạt những phán xét đạo đức vốn thật ra chỉ là lời biện hộ cho hành động thâu tóm quyền lực. Đó là một cuộc chơi. Đối thủ ngồi đối diện với ta. Cả hai cư xử với nhau rất lịch sự, tuân thủ luật chơi và không cố chấp. Ta chơi theo chiến lược và quan sát những nước cờ của đối thủ với tất cả điềm tĩnh có thể. Cuối cùng ta sẽ cảm kích sự lễ độ của đối thủ hơn là những hảo ý hay thiện ý của họ. Ta hãy luyện cặp mắt để theo dõi những động thái của họ, cùng lúc với tình huống bên ngoài, không để xao lãng bởi bất kỳ điều gì khác. Trong tiến trình mưu cầu quyền lực, một nửa thành công đến từ những gì ta không làm, từ những gì ta tránh không để bị lôi kéo vào. Muốn được kỹ năng này, ta phải học cách xét đoán mọi thứ theo cái giá mà ta phải trả. Như Nietzsche từng viết, „Giá trị của một vật đôi khi không nằm trong thứ mà ta dùng để đạt vật ấy, nhưng trong thứ mà ta phải trả để có nó – cái giá mà ta phải trả.“ Có thể ta sẽ đạt đến mục đích, một mục đích đáng giá, nhưng mà với cái giá nào? Ta hãy áp dụng chuẩn mực này vào mọi thứ mọi điều, kể cả việc cộng tác với người khác hay là đến giúp đỡ họ. Rốt cuộc, đời này quá ngắn, cơ hội hiếm hoi, mà ta cần phải có biết bao sức lực. Dưới góc độ này, thì giờ là một yếu tố quan trọng không kém những yếu tố khác. Đừng bao giờ phí phạm thì giờ quý báu hoặc sự an tĩnh tinh thần cho những vụ việc của người khác, vì đó là cái giá quá cao. Quyền lực là cuộc chơi tập thể. Muốn biết chơi và chơi thành thạo, ta phải phát triển khả năng nghiên cứu và hiểu rõ con người. Nhà tư tưởng vĩ đại Baltasar Gracián của thế kỷ XVII đã viết: „Nhiều người bỏ thời gian ra nghiên cứu thuộc tính loài thú hoặc thảo mộc; nhưng sẽ quan trọng hơn biết bao, nếu ta nghiên cứu thuộc tính con người, những người mà ta sẽ phải sống chung hoặc chết cùng!“ Muốn trở thành một tay chơi lão làng, ta cũng phải là nhà tâm lý lão luyện. Ta phải nhận ra động cơ của đối thủ và nhìn xuyên thấu màn hỏa mù mà họ phủ chụp để nghi trang hành động. Đây là bí quyết giúp ta có thêm vô số khả năng đánh lừa, quyến rũ và thao túng. Bản chất con người vô cùng phức tạp, ta có thể bỏ ra cả đời quan sát mà không bao giờ hiểu rõ. Vì vậy điều quan trọng là ta lập tức khởi sự rèn luyện, với một nguyên tắc không quên: Không phân biệt đối tượng nghiên cứu, không phân biệt đối tượng cần tin cậy. Đừng bao giờ tin ai hoàn toàn, quan sát hết mọi người, kể cả bạn bè và người thân. Cuối cùng, ta phải tiến tới quyền lực bằng con đường gián tiếp. Phải ngụy trang trò trí trá. Tựa như quả bi-da nảy đi nảy lại mấy băng trước khi chạm bi, mọi nước cờ của ta phải được dự trù và triển khai càng ít hiển nhiên càng tốt. Khả năng hành động gián tiếp giúp ta hưng thịnh trong dạng triều đình đương đại: Bên ngoài là mẫu mực của sự tử tế đàng hoàng, nhưng bên trong ta lại là tay tổ thao túng. Bạn hãy xem 48 Nguyên tắc chủ chốt của Quyền lực như là quyển sổ tay của nghệ thuật đánh lạc hướng. Những nguyên tắc được trình bày đều là ghi chép của những người từng nghiên cứu và thuần thục trò chơi quyền lực. Những ghi chép này trải dài suốt hơn ba ngàn năm, xuất xứ từ những nên văn minh rất khác nhau như Trung Quốc và Italia. Tuy vậy chúng cùng chia sẻ những chủ đề về mạch tư tưởng, cùng gợi ý về một cốt tủy của quyền lực chưa được diễn giải minh bạch. Bốn mươi tám nguyên tắc của quyền lực được chiết suất từ sự uyên thâm tích lũy đó, được góp nhặt từ tác phẩm của những bậc thầy về chiến lược (Tôn Tử, Clausewitz), chính trị (Bismarck, Talleyrand), triều ca (Castiglione, Gracián), quyến rũ (Ninon de Lenclos, Casanova) và lừa đảo („Yellow Kid“ Weil) lỗi lạc nhất trong lịch sử. Những nguyên tắc này được lần lượt trình bày theo một bố cục đơn giản và tổng quát như nhau: Sẽ có những hành động làm tăng cường quyền lực (tuân thủ nguyên tắc), trong khi hành động khác lại làm suy yếu thậm chí làm ta sụp đổ (vi phạm nguyên tắc). Nhiều ví dụ lịch sử sẽ minh họa những vi phạm và tuân thủ vừa kể. Sau mỗi ví dụ là phần diễn giải để làm sáng tỏ thêm. Sau đó, ta sẽ cùng đúc kết các yếu tố cốt lõi của nguyên tắc quyền lực đang đề cập và để cho người đọc tiện ghi nhớ, tất cả những điều vừa kể sẽ được cô đọng lại thành một hình ảnh, trình bày ngắn gọn trong vài ba dòng. Để khẳng định hình ảnh ấy là ý kiến của chuyên gia, của bậc thầy ở lĩnh vực đó. Đoạn cuối rất ngắn là phần nghịch đảo để nhắc nhở ta áp dụng nguyên tắc một cách linh hoạt chứ không nên lúc nào cũng nhắm mắt làm y theo. Bạn có thể sử dụng 48 Nguyên tắc chủ chốt của Quyền lực theo nhiều cách. Đọc một mạch từ đầu tới cuối, bạn biết về quyền lực nói chung. Mặc dù nhiều nguyên tắc có vẻ như không liên quan trực tiếp đến cuộc sống của bạn, nhưng qua thời gian bạn nhận thấy rằng tất cả các nguyên tắc đều có đất ứng dụng và chúng thực sự tương quan nhau. Có được tầm nhìn tổng quát về toàn bộ chủ đề này, bạn sẽ tăng cường khả năng đánh giá những hành động đã qua, nâng cao mức độ điều khiển những vụ việc đang diễn biến. Một thời gian lâu dài sau khi kết thúc quyển sách, nếu nghiền ngẫm kỹ lưỡng, bạn sẽ phát sinh tư duy mới, cách nhìn và cách đánh giá mới. Quyển sách cũng được thiết kế để bạn tùy nghi lướt qua và chọn đọc nguyên tắc nào có vẻ thích hợp với tình huống gần gũi nhất. Chẳng hạn bạn đang có vấn đề cần giải quyết với cấp trên và không hiểu tại sao mình lại bỏ ra bao nhiêu công sức mà vẫn không được ghi nhận, không được đề bạt. Nhiều nguyên tắc đặc biệt nhấn mạnh đến tương quan giữa bề trên và cấp dưới, và chắc là bạn đang vi phạm một trong những nguyên tắc ấy. Bạn chỉ việc liếc qua phần liệt kê 48 nguyên tắc ở phần đầu quyển sách để nhận ra thứ mình cần. Cuối cùng, bạn cũng có thể đọc lướt cho vui, chọn đại một chương đọc hú họa, xem như tìm hiểu các nhược điểm và thưởng ngoạn những kỳ công của bậc tiền nhân trên con đường mưu cầu quyền lực. Song chúng tôi cũng có lời cảnh báo cho thành phần độc giả này: Có lẽ bạn không nên tiến thêm nữa mà hãy quay lại đi. Quyền lực rất cám dỗ và trí trá theo cách riêng của nó. Đó là một mê cung – đầu óc bạn sẽ hao mòn vì phải giải quyết những vấn đề vô tận, và bạn sẽ sớm nhận ra rằng mình bị lạc lối một cách thú vị. Nói cách khác, sẽ thú vị hơn khi bạn nhìn quyền lực một cách nghiêm chỉnh. Đừng bông lông với một chủ đề quan trọng như vậy. Những vị thần quyền lực sẽ phật lòng với kẻ phù phiếm, các ngài chỉ thỏa mãn với những ai biết học hỏi và suy xét, trừng phạt người cưỡi ngựa xem hoa. Những ai cố gắng để luôn làm người tốt chắc chắn sẽ thất bại giữa số đông những kẻ không tốt. Do đó đấng quân vương nào muốn giữ vững quyền lực phải biết cách để không làm người tốt, và sử dụng sự hiểu biết đó, hoặc là nén lòng không sử dụng nó,tùy theo hoàn cảnh yêu cầu. THE PRINCE, Niccolò Machiavelli, 1469-1527 *** THAO TÚNG TÂM VÀ TRÍ Hành động cưỡng ép sẽ tạo ra lực dội ngược, có rủi ro phương hại đến ta. Ta nên dụ dỗ người khác tự ý noi theo con đường ta đi. Người đã bị cám dỗ sẽ trở thành quân cờ trung tín. Muốn vậy, ta phải tác động đến tâm lý và nhược điểm cá nhân. Hãy làm họ mềm lòng bằng cách tác động đến xúc cảm, đến những gì thân thương với họ, đến những gì họ khiếp sợ. VI PHẠM NGUYÊN TẮC Vào cuối triều đại Louis XV, cả nước Pháp vô vọng trông chờ đổi mới và người được chọn để kế vị là đứa cháu nội. Khi nhà vua Louis XVI tương lai cưới cô con gái 15 tuổi của nữ hoàng nước Áo, dân Pháp tin tưởng tương lai sẽ xán lạn hơn. Cô dâu mới Marie Antoinette thật xinh đẹp và đầy nhựa sống. Sự hiện diện của nàng lập tức làm thay đổi không khí của triều đình vốn khá ô uế vì sự trác táng của Louis XV. Khi lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng trên chiếc xe ngựa, dân chúng xếp hàng vỗ tay hoan nghênh khiến nàng cảm động viết thư về quê hương, báo mẹ biết rằng thật sung sướng khi được mọi người yêu mến. Khi Louis XV băng hà và chồng nàng lên ngôi vua, Marie Antoinette lại sa đà vào điều yêu thích nhất: Tiêu xài hoang phí cho lễ hội tiệc tùng, quần áo thời trang và những cách chưng diện cầu kỳ nhất. Hoàng hậu tiêu phí mà không cần biết ai sẽ trả và trả bao nhiêu. Marie Antoinette mê nhất là việc thiết kế và xây dựng một khu vườn Địa đàng riêng cho mình tại điện Petit Trianon, nằm gần điện Versailles với cả rừng cây riêng. Vườn địa đàng này phải càng „tự nhiên“ càng tốt, kể cả việc dùng tay ghép từng mảng rêu vào cây và đá. Để cho phân cảnh đồng quê thêm phần sống động, hoàng hậu mướn người vào vắt sữa cho những con bò béo tốt nhất nước Pháp. Bà cũng mướn nhiều người mặc quần áo và đóng vài thôn nữ giặt áo bên bờ suối, nông dân làm pho-mát trong trang trại, người chăn cừu thắt những dải lục quanh cổ từng con. Khi thăm chuồng, bà bảo những cô gái vắt sữa phải hứng sữa bằng bình sứ, sản phẩm của hầm lò hoàng gia. Rồi Marie Antoinette lại đi hái hoa trong khu rừng bao quanh Petit Trianon, ngắm những „nông dân đảm đang“ làm „việc đồng áng“. Vùng đất đó trở thành một thế giới riêng biệt, với cộng đồng chỉ gồm một số người tuyển chọn. Cứ mỗi lần bà đỏng đảnh là quốc khố vơi đi một chút, trong khi nước Pháp đang đói khổ và phẫn uất ngày một tràn lan trong dân. Ngay cả những quần thần thân cận cũng bất mãn. Hoàng hậu chưa bao giờ làm một việc gì cho dân vui lòng, vì luôn nghĩ rằng nghĩa vụ của dân là phải yêu mến mình và mình không có bổn phận phải đáp trả. Năm 1784 hoàng hậu dính líu vào một xì-căng-đan. Nằm trong một kịch bản lừa đảo, chuỗi hạt kim cương đắt tiền nhất châu Âu được mua dưới tên bà. Trong khi tên lừa đảo bị đem ra xem xét, sự xa hoa của Marie Antoinette đã phải công khai: Nhân dân đã biết về những khoản mà hoàng hậu phí phạm cho vòng vàng, quần áo và những dạ tiệc hóa trang. Họ đặt cho bà hỗn danh „Bà thâm lạm“ và từ đó trở đi bà trở thành tâm điểm cho nhân dân nguyền rủa. Mỗi lần xuất hiện ở ô dành riêng trong nhà hát, bà bị dân huýt sáo phản đối. Ngay cả triều đinh cũng quay lưng với bà. Bởi vì trong lúc bà tiêu xài hoang phí thì đất nước đang trên đà phá sản. Năm năm sau, Cách mạng Pháp nổ ra. Hoàng hậu không chút sợ hãi, mà hình như bà cho rằng cứ để bọn chúng nổi loạn một tí, chẳng bao lâu sau ai sẽ về nhà nấy thôi, và ta sẽ tiếp tục cuộc đời khoái lạc này. Năm đó nhân dân tiến chiếm điện Versailles và buộc hoàng gia phải về Paris cư ngụ. Tuy phe nổi dậy thắng thế song đó cũng là dịp để cho hoàng hậu hàn gắn những vết thương trong dân, đồng thời thiết lập mối liên lạc với quần chúng. Nhưng không, hoàng hậu vẫn chưa tiêu hóa được bài học và không thèm ra khỏi cửa. Đến năm 1792 khi lực lượng cách mạng tuyên bố chấm dứt chế độ quân chủ, hai vợ chồng Louis XVI di chuyển chỗ ở từ cung điện sang nhà đá. Năm sau Louis ra tòa, bị tuyên bố có tội và mang ra xử trảm. Trong khi Marie Antoinette chờ đến phiên mình, hầu như chẳng có ai đứng ra bào chữa hay bảo vệ - không người nào trong đám bạn bè cũ ở triều đình, không ông hoàng bà chúa có thế lực nào ở châu Âu, thậm chí gia đình bà ở Áo cũng không, kể cả ông anh đang ngồi trên ngai vàng. Bà bị tất cả mọi người tẩy chay. Tháng 10 năm 1793, đến khi quỳ gối trước máy chém, Marie Antoinette vẫn ngẩng cao đầu thách thức và không chút ăn năn. Diễn giải Từ khi còn bé ở quê nhà Áo quốc, Marie Antoinette đã quen được nuông chiều. Rồi sau này về làm dâu nước Pháp nàng cũng là tâm điểm của mọi sự quan tâm. Marie Antoinette chưa bao giờ học cách lấy lòng dân chúng, hoặc bắt được tần số tâm lý của họ. Chính vì vậy càng ngày nàng càng trở nên một quái vật vô cảm. Marie Antoinette trở thành tâm điểm cho sự bất mãn của cả một đất nước, bởi vì nhân dân rất dễ nổi giận đối với một người không tự cải thiện, cho dù chỉ để làm màu. Và đừng tưởng Marie Antoinette đại diện cho một thời đại đã qua hoặc giả xưa nay hiếm. Loại người như bà ngày nay rất nhiều, chuyên sống trong cái bọt bóng tự mình tạo ra, những tưởng mình là ông hoàng bà chúa bẩm sinh, vì vậy ai ai cũng phải chú ý đến. Họ bất chấp bản tính của mọi người, nhưng lại mang tính khí của mình ra đè bẹp người khác, theo kiểu ngạo mạn của Marie Antoinette. Được nuông chiều từ bé, đến khi lớn lên họ nghĩ rằng mọi thứ phải đến với mình. Tự tin vào sức quyến rũ sẵn có, họ không chút nỗ lực để thuyết phục ai cả. Ở lĩnh vực quyền lực thái độ như thế rất tai hại. Vì vậy bạn phải cố gắng tìm hiểu những người xung quanh, đánh giá tâm lý riêng biệt từng người, tìm lời lẽ thích hợp để dẫn dụ họ. Càng giữ vị trí cao thì bạn lại càng phải dò tìm tần số thích hợp của các tầng lớp bên dưới, để tạo ra một nền tảng ủng hộ mình duy trì vị trí cao tột ấy. Không có được nền tảng này, quyền lực của bạn sẽ loạng choạng, và chỉ cần thời vận thay đổi chút đỉnh là cấp dưới vô cùng hân hoan tiếp tay đánh đổ bạn. TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC Vào năm 225, Gia Cát Lượng làm quân sư và thừa tướng cho chúa công nước Thục ở Trung Quốc. Lúc đó nước Tào Ngụy từ phía Bắc dốc toàn lực đánh xuống nước Thục và điều tồi tệ là Tào Ngụy liên minh với bọn rợ ở biên cương phía Nam của Thục do vua Mạnh Hoạch cầm đầu. Xem như cả Nam Bắc đều có biến, đặt Lượng vào tình thế nguy nan. Lúc Lượng sắp dẫn quân Nam tiến tiễu phạt bọn rợ, một trí giả nói với ông ta rằng sẽ không thể dùng bạo lực để bình định phương Nam. Theo trí giả này, Lượng hoàn toàn có khả năng chiến thắng Mạnh Hoạch, nhưng khi dẫn quân ngược lên phía Bắc chống Tào Ngụy, vị vua rợ này lại tiếp tục quấy nhiễu. „Tốt hơn ta nên chinh phục con tim hơn là thành quách“, vị trí giả khuyên, „tốt hơn ta nên dùng con tim hơn là vũ khí“. „Ngươi đã đọc được ý ta“, Lượng đáp. Như Lượng đã tiên đoán, Mạnh Hoạch xuất kích rất hùng mạnh. Nhưng trước đó quân sư đã giăng bẫy và bắt được vua rợ. Thay vì trừng phạt hoặc hành quyết tất cả tù binh, Lượng tách riêng vua tôi ra, khoản đãi binh lính địch, rồi bảo họ: „Các người đều là người chính trực. Ta biết rằng ai cũng có cha mẹ, vợ con đang trông chờ ở nhà. Chắc họ đang khóc thương số phận người chồng, người cha. Ta sẽ trả tự do để các ngươi có thể về đoàn tụ với gia đình và an ủi họ“. Tất cả tù binh đều rưng rưng cảm tạ Lượng. Sau đó Lượng cho vời Mạnh Hoạch tới: „Nếu ta trả tự do, ngươi sẽ làm gì?“ „Ta sẽ tập hợp quân đội lại và quyết sống mái với ngươi một trận ra trò. Nếu lần sau mà bắt được ta, ta mới tâm phục khẩu phục“, vị vua rợ đáp. Lượng thả Mạnh Hoạch và ban cho tuấn mã yên cương. Khi các tướng ngạc nhiên hỏi tại sao, Lượng bảo: „Ta có thể bắt người này dễ dàng như lấy đồ trong túi áo, nhưng ta muốn chinh phục hắn bằng tấm lòng. Được như vậy, biên cương phía Nam sẽ tự bình định“. Như đã nói, Mạnh Hoạch tấn công lần nữa. Nhưng các phó tướng mà Lượng đã trả tự do lại nổi loạn, bắt sống vua nộp cho Lượng. Khi được Lượng lặp lại câu hỏi trước, vua rợ bảo ông ta chưa thua, mà chẳng qua chỉ bị các tướng làm phản bắt sống, vì vậy Lượng bằng lòng thả ông ta ra để so tài lần nữa, nếu khi đó thua, ông mới cúi đầu khâm phục. Những tháng kế tiếp Mạnh Hoạch bị bắt và thả đến lần thứ năm, dần dà binh sĩ của vua rợ bất mãn. Lần nào họ cũng được Lượng đối xử tử tế, vì vậy không còn tâm trí đâu mà chiến đấu nữa. Khi bị bắt lần thứ sáu, Mạnh Hoạch lại hứa đến lần thứ bảy mới đầu hàng. Lượng bằng lòng, nhưng bảo rằng đến lần sau thì sẽ không tha nữa. Ngay sau đó Mạnh Hoạch cùng đám tàn binh rút về cố thủ ở chốn hiểm trở của xứ Ô Qua. Thất bại quá nhiều lần, giờ đây ông ta chỉ còn hy vọng duy nhất là vua Ngột Đột Cốt xứ Ô Qua, cùng với đoàn quân hùng mạnh và nổi tiếng bạo tàn. Những chiến binh này mặc bộ giáp bằng loại thảo mộc đặc biệt nhúng dầu rồi phơi khô trở thành cứng chắc, tên không thể nào bắn thủng. Mạnh Hoạch ra sức thuyết phục nên vua Ngột Đột Cốt chuẩn thuận xuất đại quân nhắm về hướng Lượng đóng binh mà thẳng tiến. Khí thế hừng hực của đại quân khiến phe Lượng bị nao núng nên vừa chống đỡ vừa tìm đường tháo lui. Nhưng thật ra đó chỉ là cái kế của quân sư Gia Cát Lượng: Khi đại quân Ngột Đột Cốt lọt thỏm vào hẻm núi, Lượng sai người đốt bùi nhùi và cây khô thành một biển lửa. Áo giáp của đại quân Ngột Đột Cốt tẩm dầu nên trở thành nhiên liệu lý tưởng, tất cả đều bỏ mạng. Lần này khi bắt được Mạnh Hoạch, Lượng quá chán nên không thèm ngó mặt hắn, chỉ gửi sứ giả đến thông báo là sẽ tiếp tục tha cho hắn về mà tuyển mộ lại quân đội mới để đánh tiếp. Mạnh Hoạch khẩn khoản xin gặp Lượng, bổ nhào xuống đất quỳ trước quân sư mà thề sống thề chết tâm phục khẩu phục, hứa chắc rằng không chỉ ông ta mà cả đời con đời cháu sẽ luôn trung thành với Lượng. Lượng bày tiệc thết đãi Mạnh Hoạch, phục hồi ngai vàng và trả lại những vùng đất đã tịch thu cho ông ta, sau đó dẫn quân về mà không lưu lại lực lượng chiếm đóng nào. Lượng không bao giờ trở lại nữa – Mạnh Hoạch đã trở thành liên minh trung thành và kiên định nhất. Diễn giải Lượng có hai lựa chọn: Hoặc thử nghiền nát quan rợ ở phương Nam bằng một trận tổng lực tàn sát, hoặc kiên nhẫn thu phục chúng dần dần. Hầu hết những ai hùng mạnh hơn địch thủ sẽ chọn phương án thứ nhất, nhưng người thật tài ba sẽ tính cao hơn: Cách thứ nhất có lẽ dễ dàng và nhanh chóng, nhưng về lâu dài kẻ thủ vẫn nuôi hận trong tâm. Lúc ấy ta sẽ mất thời gian và sức lực để bảo vệ thành quả, và như thế lại rơi vào thế bị động. Tuy khó hơn, nhưng lựa chọn thứ nhì không chỉ giúp ta an tâm mà còn biến kẻ thù thành đồng minh. Mỗi khi đối mặt với tình huống, ta thử lui một bước để có thời gian tính toán và hòa âm theo tông độ xúc cảm của đối phương, từ đó suy ra nhược điểm tâm lý của họ. Ở đây, ta càng mạnh tay thì họ càng kháng lại. Phát hiện được sợi dây tình cảm rồi, ta sẽ làm mềm lòng họ. Ta không chỉ thao túng sự sợ hãi, mà cả những gì họ yêu quý – tự do, gia đình…v.v. Đoạt được trái tim họ rồi, ra sẽ có được người bạn và đồng minh trung tín. Các chính quyền chỉ nhìn thấy con người như đám đông; nhưng con người, vì không đồng đều, nên không phải là tổ chức mà là cá nhân… Vương quốc của chúng ta nằm trong tâm trí của từng người. (Seven Pillars of Wisdom, T. E. Lawrence, 1888-1935) CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC Trong trò chơi quyền lực, xung quanh bạn là những người hoàn toàn không có động cơ nào để giúp bạn, trừ khi họ phải được lợi lộc nào đó. Và nếu bạn không có món gì để thỏa mãn tính tư lợi ấy, có thể họ sẽ đố kỵ, bởi vì họ xem bạn là người cạnh tranh, thêm một người làm họ phí thì giờ. Muốn vượt qua thái độ lạnh lùng ấy bạn phải có chìa khóa mở cánh cửa tâm và trí họ, dụ họ vào sân chơi của bạn, nếu cần có thể mời họ nhậu một lần. Nhưng hầu hết mọi người lại không nhận biết ra khía cạnh vừa kể. Mỗi khi gặp đối tượng mới, thay vì lui một bước để có đủ khoảng cách tìm hiểu đối tượng ấy, họ lại chỉ nói về mình, muốn áp đặt ý chí và tiên kiến của mình. Họ lý luận, khoa trương, trình diễn quyền lực. Có lẽ họ không ngờ rằng mình đang tạo ra một kẻ thù, một kẻ đối kháng, bởi vì không có gì tức bằng cái cảm giác cá nhân của mình bị phớt lờ, tính cách mình xem như vô nghĩa. Tóm lại, cốt yếu của việc thuyết phục là làm mềm lòng đối phương, rồi nhẹ nhàng làm họ sụp đổ. Ta tiến công họ bằng cách thao túng hai lĩnh vực cảm xúc và trí năng của họ. Hãy để ý xem họ khác với những người xung quanh ở điểm nào (tâm lý cá nhân) và họ chia sẻ điều gì với người khác (phản ứng cảm xúc cơ bản). Ta nhắm vào loại xúc cảm cơ bản như yêu, ghét, ganh tỵ. Thao túng được những tình cảm này, ta sẽ giảm thiểu sự tự chủ của họ, khiến họ dễ bị thuyết phục hơn. Khi muốn thuyết phục một vị tướng tài phe đối phương đừng liên minh với Tào Tháo, Gia Cát Lượng không nói về tính tàn ác của Tháo hay chê bai tài cầm binh, mà chỉ nhẹ nhàng báo tướng ấy biết vợ ông ta bị Tháo dụ dỗ. Mao Trạch Đông cũng hành động tương tự khi muốn giật dây cảm xúc của quần chúng, nói lên điều mà họ quan tâm sâu sắc, khuyến khích họ thổ lộ hết cõi lòng trước tập thể. Khi muốn triển khai kế hoạch mới, thay vì mô tả những điều đao to búa lớn, Mao chỉ nói với dân chúng những gì sơ đẳng nhất, ảnh hưởng lên họ sát sườn nhất. Bạn đừng tưởng chiến thuật này chỉ thích hợp với người vô học hoặc dốt chữ - nó hiệu quả với mọi tầng lớp. Tất cả chúng ta ai cũng là người trần và phải đối diện với số đông đáng sợ, và ai cũng muốn có quyến thuộc, có nơi nương náu về tình cảm. Bạn cứ giật những sợi dây cảm xúc ấy là chiếm được con tim. Cách hay nhất là làm như Gia Cát Lượng khi ông ban cho tù binh thực phẩm và tự do, trong khi họ những tưởng cuộc đời bế mạc. Bạn hãy chơi trò tương phản ấy: làm họ sợ điếng, xong lại sướng rên. Khi họ tưởng bị hành hình mà bạn lại cho hoan lạc thì chắc chắn bạn sẽ thành công. Nhiều khi một cử chỉ tượng trưng cũng đủ khơi gợi cảm tình và thiện chí. Ví dụ một cử chỉ khổ nhục – ta cũng đau nỗi đau của ngươi – sẽ làm mọi người đồng cảm với bạn, cho dù nỗi đau của bạn chỉ để làm cảnh hoặc không thấm tháp gì so với họ. Khi mới đến với một nhóm, bạn hãy làm cử chỉ thiện chí để lấy lòng, để sau này gặp việc khó khăn thì họ mới nhiệt tình giúp bạn. ... Mời các bạn đón đọc 48 Nguyên Tắc Chủ Chốt Của Quyền Lực của hai tác giả Robert Greene & Joost Elffers.
Trump - 100 Lời Khuyên Đầu Tư Bất Động Sản Khôn Ngoan Nhất - Donald Trump
Donald Trump đã tập hợp trong cuốn sách tuyệt vời này "100 lời khuyên khôn ngoan nhất" từ các chuyên gia đầu tư bất động sản hàng đầu thế giới. Đây là loại thông tin và sự khôn ngoan mà bạn chỉ có thể nhận được từ kinh nghiệm sống. Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy sự sáng suốt khác thường có được là nhờ vào những kinh nghiệm và bài học mà những nhân vật có thế lực trong kinh doanh bất động sản trên khắp nước Mỹ phải trải bao khó khăn mới rút ra được. Có rất nhiều điều mà lẽ ra tất cả chúng ta đã có thể làm tốt hơn: từ việc bỏ lỡ cơ hội, dự đoán sai về thị trường đến việc thương lượng quá cao hoặc quá thấp. Những nhà kinh doanh này - cả nam lẫn nữ sẽ kể cho bạn biết họ đã học được gì. "Khi bán bất động sản, bạn chỉ phải trả thuế nếu bạn muốn, khi bạn muốn và tùy bạn quyết định bao nhiêu." - Gary Gorman - Người sáng lập tổ chức 1031 Exchange Experts. *** Tôi đã ấp ủ mong muốn được viết cuốn sách này trong nhiều năm ròng. Ai đã từng theo dõi sự nghiệp của tôi đều biết các chiến lược bất động sản mà tôi sử dụng. (Và nếu chưa từng biết đến sự nghiệp của tôi thì bây giờ chính là lúc theo dõi các chương trình về tôi trên ti vi hay mua một trong những cuốn sách tôi đã viết) Mặc dù rất thành công nhưng công việc kinh doanh bất động sản của tôi không bao gồm tất cả các mặt của lĩnh vực này. Những gì tôi biết thì tôi nắm rất chắc, nhưng, tôi không có ý độc quyền về các ý tưởng và sự khôn ngoan trong kinh doanh bất động sản. Tôi không thể biết hết mọi thứ. Đúng như Susan Penzer nhận xét, điều làm nên thành công của tôi chính là “khả năng thu thập những thông tin tốt nhất từ những người thông minh nhất.” Susan đã đưa ra nhận xét này sau khi theo dõi cách tôi thực hiện các hoạt động kinh doanh. Và nhận xét đó cũng đúng với những gì tôi thực hiện trong cuốn sách này, đó là thu thập những thông tin hay nhất từ những người thông minh nhất trong lĩnh vực bất động sản. Họ chia sẻ những kinh nghiệm và những bài học mà họ đã học được từ người khác cũng như từ những sai lầm họ đã mắc. Lời Khuyên Hay Nhất Trong Kinh Doanh Bất Động Sản Mà Tôi Nhận Được chính là tập hợp những lời khuyên khôn ngoan sáng suốt của 100 nhà kinh doanh bất động sản hàng đầu. Đây là loại thông tin và sự khôn ngoan mà bạn chỉ có thể nhận được từ kinh nghiệm sống. Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy sự sáng suốt khác thường có được là nhờ vào những kinh nghiệm và bài học mà những nhân vật có thế lực trong kinh doanh bất động sản trên khắp nước Mỹ phải trải bao khó khăn mới rút ra được. Có rất nhiều điều mà lẽ ra tất cả chúng ta đã có thể làm tốt hơn: từ việc bỏ lỡ cơ hội, dự đoán sai về thị trường đến việc thương lượng quá cao hoặc quá thấp. Những nhà kinh doanh này - cả nam lẫn nữ - sẽ kể cho bạn biết họ đã học được gì. Trong số những người đóng góp cho cuốn sách này, có người là bạn tôi, cũng có người tôi chưa từng gặp mặt, dù tôi luôn ngưỡng mộ họ từ xa. Cuốn sách này là bản tóm tắt hoàn hảo nhất những lời khuyên trong kinh doanh bất động sản được thu thập từ trước tới nay. Và tôi cho rằng nó đã hoàn tất sứ mệnh của mình: cung cấp cho bạn những lời khuyên bổ ích, giúp bạn lập kế hoạch để chính mình thành công trong lĩnh vực bất động sản. Dù bạn mua hay bán nhà của bạn, nhà tập thể hoặc trả góp; dù bạn đang hoạt động hay mới bước chân vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản, tôi nghĩ rằng bạn sẽ học được rất nhiều từ cuốn sách này - Lời Khuyên Hay Nhất Trong Kinh Doanh Bất Động Sản Mà Tôi Nhận Được. ... Mời các bạn đón đọc Trump - 100 Lời Khuyên Đầu Tư Bất Động Sản Khôn Ngoan Nhất của tác giả Donald Trump.
Kinh Doanh Như Một Cuộc Chơi - Richard Branson
Nếu nhắc đến một doanh nhân khởi tạo và điều hành hàng trăm doanh nghiệp đa ngành, đa lĩnh vực, thì suy nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu bạn sẽ là gì? Một người luôn ăn mặc lịch sự, ưa chơi những môn thể thao đậm chất “doanh nhân” như golf hay sở hữu tác phong chuyên nghiệp? Nếu bạn vẫn còn mang nặng tư tưởng này, thì đây hẳn là cuốn sách dành cho bạn – một “luồng gió mới”, sẽ làm thay đổi quan niệm cho rằng, cứ là người làm kinh doanh thì ắt phải khô khan và nghiêm túc. Một cuốn sách đầy triết lý, cung cấp những trải nghiệm về lĩnh vực điều hành cũng như khởi nghiệp nhưng lại đầy hài hước, dí dỏm đậm chất “Branson”, khiến nó đã lý thú lại càng thêm thú vị. Nếu lĩnh vực nghệ thuật có thiên tài Leonardo da Vinci, thì giới kinh doanh hẳn rất tự hào khi có Richard Branson. Ông từng mừng thầm vì đã “khôn ngoan” không chọn trường kinh doanh là xuất phát điểm bước vào thương trường cho mình. Không chịu bằng lòng với những gì mà “người ta cho là” nên hay không nên làm khi khởi nghiệp, sự tò mò thiên bẩm kết hợp với sự hướng ngoại dễ tạo cảm hứng đã làm nên bệ phóng cho hơn 400 doanh nghiệp thành công mà ông đã tạo ra. Thông qua cuốn sách này, Richard cho chúng ta thấy “những điều trường kinh doanh không dạy bạn” mà một người lèo lái công ty cần biết như: Nên nghĩ lớn nhưng hãy tạo dựng các doanh nghiệp nhỏ. Mọi điều đều… nằm trong tầm với. Khoan dung trước những sai lầm. Đã kinh doanh là phải vui. Nhân viên là những người sở hữu doanh nghiệp và đại sứ thương hiệu nhiệt tình. Và hơn thế nữa. Đây thực sự là một cuốn sách rất… Branson. Với giọng điệu hài hước nhưng không kém phần nghiêm túc, đơn giản nhưng chất chứa những ẩn ý sâu xa, Branson đã cho chúng ta thấy rất nhiều thành tựu mà ông có được đều xuất phát từ những ý tưởng đột phá, bất chấp các quy tắc và được thực thi theo cách “không giống ai”. Qua đây, ông cũng muốn nhắn nhủ với bạn đọc rằng, “hãy coi kinh doanh như một cuộc chơi” để nhận về những thành quả đầy bất ngờ và đáng kinh ngạc. Xin trân trọng giới thiệu đến độc giả cuốn sách này! Hà Nội, tháng 11 năm 2014 Công ty Cổ phần Sách Alpha *** Các trường kinh doanh là những nơi tuyệt vời, song giờ nhìn lại, tôi thấy mừng vì mình chưa bao giờ học ở đó. Đơn giản bởi giáo dục chính thống và tôi chưa bao giờ thực sự thuộc về nhau. Tôi mắc chứng khó đọc, chứng bệnh mà ngày nay được chẩn đoán là chứng rối loạn giảm chú ý. Tuy nhiên, khi học tại trường Stowe trong những năm 1960, tôi bị coi là một học sinh nghịch ngợm và thiếu tập trung. Do đó, tôi nghĩ tất cả mọi người, từ hiệu trưởng trở đi, có thể đều đã cảm thấy khá nhẹ nhõm khi tôi quyết định nghỉ học và theo đuổi giấc mơ của tôi (vào thời điểm đó) là xuất bản một tạp chí của riêng mình. Tôi thường tự hỏi, nếu tôi theo đuổi việc học đủ lâu để biết mọi điều nên và không nên làm theo lẽ thường khi khởi nghiệp thì không biết cuộc đời cũng như sự nghiệp của tôi sẽ rẽ theo hướng nào. Mặc dù thuật ngữ này được cho là xuất hiện lần đầu tiên vào thế kỷ XIX, nhưng khi bắt tay vào tạo dựng tạp chí riêng của mình, rồi đến các doanh nghiệp đĩa hát nhận đặt hàng qua thư, tôi chắc chắn không hề biết mình cũng đang có một vài triệu chứng khá rõ rệt của cái gọi là “tinh thần doanh nhân”. ... Mời các bạn đón đọc Kinh Doanh Như Một Cuộc Chơi của tác giả Richard Branson.
Luận Ngữ Ứng Dụng Trong Kinh Doanh - Thiệu Vũ
Tôi được gặp Thiệu Vũ vào cuối năm 2007, không thể không thừa nhận một điều rằng, Thiệu Vũ là một nhà nghiên cứu luôn phấn đấu không ngừng. Trong khoảng thời gian gần bốn năm, việc tìm tòi và nghiên cứu của Thiệu Vũ đã trải qua mấy lần lột xác, từ nghiên cứu tư tưởng quản lý phương Tây mà cuối cùng Thiệu Vũ đã chọn đi theo con đường văn hóa truyền thống Trung Quốc. Trong khoảng thời gian này, với nghị lực và tốc độ làm việc cao, Thiệu Vũ đã cho ra đời mấy chục tác phẩm chuyên ngành nghiên cứu, thể hiện sức sáng tác đến khó tin. Khi rất nhiều người vẫn còn đang say sưa trò chuyện về khái niệm “Sức mạnh quản lý và điều hành” do Thiệu Vũ đưa ra năm 2008 thì Thiệu Vũ đã sớm đi vào nghiên cứu vấn đề mới. Sau khi đọc xong Luận Ngữ ứng dụng trong kinh doanh và Kinh Dịch ứng dụng trong kinh doanh, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng, tác giả hy vọng mỗi nhân viên đều có thể trở thành quân tử để xã hội ngày càng trở nên tốt đẹp. Là một tập đoàn giáo dục đào tạo hàng đầu tại Trung Quốc, Quần Phong đã có bốn năm tổ chức lớp học thuật truyền thống. Trong bốn năm, chúng tôi đã được tiếp xúc với rất nhiều chuyên gia, học giả về lĩnh vực nghiên cứu học thuật truyền thống, trong đó có một số còn là những cây đại thụ ở Trung Quốc, thậm chí là cả những người đức cao vọng trọng. Những lớp học thuật truyền thống do chúng tôi tổ chức nhận được sự hoan nghênh của rất nhiều học viên, nhưng bên cạnh đó, các học viên cũng đưa ra một số vấn đề, trong đó, vấn đề quan trọng nhất và cũng là hay gặp nhất chính là: Làm thế nào để dễ học, dễ hiểu và vận dụng kiến thức quản lý trong học thuật truyền thống? Chính vì vấn đề này, chúng tôi cùng với các giảng viên trong lĩnh vực học thuật truyền thống đã tiến hành trao đổi rất nhiều, cho đến nay vẫn chưa có được phương án giải quyết hữu hiệu, công bằng xác đáng. Nhưng, vào mùa xuân năm 2010, Thiệu Vũ đưa ra Luận Ngữ ứng dụng trong kinh doanh, Kinh Dịch ứng dụng trong kinh doanh”, hai quyển này đã áp thuật lại những kiến thức quản lý trong Luận Ngữ và Kinh Dịch, đồng thời kết hợp với việc vận hành của doanh nghiệp, đưa ra kim chỉ nam cho hành động thiết thực. Tôi không thể nào dự đoán được sức mạnh của hai quyển sách này tạo ra sẽ lớn như thế nào, nhưng có một điểm có thể khẳng định là, hai quyển sách này đã mang đến một góc nhìn mới cho lĩnh vực nghiên cứu quản lý học thuật truyền thống. Điều quan trọng nhất là, chúng thực sự là một cuộc thử nghiệm đầy mạnh dạn, dễ học, dễ vận dụng về tri thức quản lý học thuật truyền thống. Lật mở từng trang của hai quyển sách này, các bạn nhất định sẽ có một cảm giác nhẹ nhàng khoan khoái, bạn chưa hề nghĩ rằng quản lý trong học thuật truyền thống lại được viết ra gần gũi, dễ hiểu đến thế, ở đó bạn không hề thấy bất kì hơi thở nào mang âm hưởng nghiên cứu Nho giáo, càng không hề thấy chỗ nào khó hiểu cả. Đáng quý hơn là, bạn sẽ thấy mỗi một điểm trong quyển sách này đều liên quan mật thiết đến công việc của bản thân mình, mỗi một quan điểm, mỗi một kiến giải trong đó đều giúp chúng ta thoát ra khỏi khó khăn và cản trở để trưởng thành trong công việc. Hoa Mẫn Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Giáo dục Quần Phong, Giang Tô *** Bắt đầu từ năm 2009, tôi quyết định giúp đỡ mọi người vận dụng những trí tuệ, tri thức có trong Luận Ngữ. Do đó, mới có cuốn Luận Ngữ - Nhật kí của nhà quản lý. Có điều tôi nhanh chóng nhận ra rằng, cuốn sách này vẫn không thể nào thực hiện được mục tiêu của tôi: đối tượng độc giả của cuốn sách này chỉ là những nhà quản lý cấp cao và cấp vừa trong các doanh nghiệp, có sự giới hạn nhất định; trong khi tôi hy vọng là có thể khiến nhiều người hơn nữa (đặc biệt là đông đảo mọi người) đọc hiểu Luận Ngữ, đồng thời ý thức được mối quan hệ mật thiết giữa việc đọc hiểu Luận Ngữ với cuộc sống và sự nghiệp của bản thân mình. Cho nên, trên cơ sở của Luận Ngữ - Nhật kí của nhà quản lý, tôi đã đào sâu phát triển thêm, cuối cùng đã tìm ra được quyển Luận Ngữ ứng dụng trong kinh doanh vừa gần gũi, vừa nhẹ nhàng. Thứ nhất, tôi muốn định nghĩa về “công sở”: Xã hội chính là một công sở lớn, mỗi người đều phải suy nghĩ và làm việc, mỗi người đều là người của công việc. Vì vậy, tôi cho rằng Luận Ngữ ứng dụng trong kinh doanh thích hợp với mọi độc giả. Thứ hai, những điều đáng học tập trong Luận Ngữ vô cùng nhiều, nhưng do Luận Ngữ có kết cấu chữ viết đặc biệt, khiến cho độc giả khó mà hình thành nên hệ thống lôgic nhất định, mà tôi thì mong muốn có thể tạo lập nên một hệ thống, hy vọng là những độc giả có tâm huyết sẽ hiểu được sự cố gắng của tôi. Thứ ba, hệ thống mà tôi tạo lập nên luôn xoay quanh một hạt nhân, đó là “phẩm chất”, tôi loại bỏ hết tất cả những nội dung không liên quan đến phẩm chất đi, nên quyển sách này mới ngắn gọn và đơn giản như vậy. Nhưng để chọn lọc ra được sáu phẩm chất từ trong đó, tôi đã bỏ ra rất nhiều thời gian, hơn nữa đã không ít hơn mười lần sửa đổi mục lục, mục đích thì rất rõ ràng: tôi hy vọng có thể tìm ra được sự tinh túy của Luận Ngữ. Còn về việc có làm được như vậy hay không, xin nhường lại cho độc giả đánh giá! Thứ tư, có rất nhiều “nhân sĩ” đã đưa ra cho tôi những kiến nghị xuất sắc, từ đó khiến cho việc đọc cuốn sách này trở nên nhẹ nhàng, dễ hiểu, thậm chí còn có một số điều rất gần gũi, giản dị nữa. Có lẽ như vậy lại đi ngược lại với những thưởng thức học thuật nhất quán của tôi, song đối với các độc giả, điều đó chắc chắn là một phương thức dễ chấp nhận. Phương thức này khiến tôi có thêm niềm tin vào việc phổ biến những quan điểm, tư tưởng của Luận Ngữ. Thứ năm, Luận Ngữ thực sự liên quan rất mật thiết đến cuộc đời và sự nghiệp của chúng ta, một khi thực sự hiểu được Luận Ngữ, cuộc đời và sự nghiệp của chúng ta sẽ đạt được sự vượt bậc và nâng cao về chất, đây là nhận thức của riêng tôi, hy vọng tất cả độc giả cũng nhận thức giống như vậy. Thứ sáu, chúc cho tất cả độc giả đều có thể tiếp thu được những tinh túy từ trong Luận Ngữ, cũng hy vọng tất cả độc giả đều có thể yêu thích cuốn Luận Ngữ ứng dụng trong kinh doanh này. Ngày 16 tháng 5 năm 2010. Thiệu Vũ Mời các bạn đón đọc Luận Ngữ Ứng Dụng Trong Kinh Doanh của tác giả Thiệu Vũ.