Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Ca Cho Huế Đổ Nát - Nhã Ca

M i Ki thân mến, Tôi phải nói với Ki về thành phố đó. Chúng ta đã sinh ra, đã sống ở đó, ít nhất là một phần của tuổi thơ ấu. Tuổi thơ ấu của Ki đã cho tôi thật đầy đủ. Những ngày ở bãi biển Thuận An, đi lang thang ngoài biển, bắt cào cào, đào trộm khoai, chơi cút bắt, hay thơ thẩn một mình ngoài đồng rộng chạy đuổi theo những bông cỏ lăn theo gió. Tắm ở phá Tam Giang, giữa trưa nắng, cát nóng bỏng như lửa. Ki đã chạy nhảy, chân giẫm từ đám cỏ khô này qua đám cỏ khô khác để tới rừng dương, nhìn một cái hồ nhỏ đầy cá mặt trăng. Cá mặt trăng, những mặt trăng nhỏ, trắng muốt của tuổi thơ chúng ta tung tăng trên mặt hồ, bên những cành dương rủ bóng, kênh kiệu một cách đáng yêu với bờ đê, với bãi biển kêu gọi, rủ rê suốt ngày tháng. Rời bỏ Thuận An, Ki bé nhỏ, quê mùa của tôi bước chân lên thành phố. Bỡ ngỡ và rụt rè, bị bắt nạt, nước mắt, đó là đặc điểm của Ki thời đó. Bị bắt nạt là đáng lắm, bởi Ki chỉ biết có bãi cát trắng phau, với những đợt sóng liếm vào bờ suốt ngày không biết chán. Ki chỉ biết có những con đường làng cát bẩn rụng đầy hột keo khô, lẫn với vỏ nghêu, vò sò vỡ. Bị ném vào một thành phố đầy trẻ con tinh ranh, Ki làm sao chống đỡ nổi. Tội nghiệp Ki của tôi hồi tám chín tuổi với một phố Huế xa lạ, giục giã sự tò mò. Ki vẫn giữ khuôn mặt đen dịu, đôi mắt vàng chói nắng biển, mái tóc cắt ngắn kiểu con trai, mặc quần sọt với áo sơ mi bởi vì ba chúng ta muốn có một đứa con gái ngộ nghĩnh hơn là xinh đẹp. Ki bắt đầu đi học, Ki có bạn mới, Ki quên bãi biển Thuận An, quên làng quê buồn hiu nhưng thơ mộng đến nỗi có những đêm mơ thấy bầy cá mặt trăng bơi lội tung tăng trên mặt hồ đớp ánh sáng xanh mát, hoặc những cành dương dài như những cánh tay khẳng khiu vẫy vẫy, Ki đã khóc trong giấc ngủ. Hoặc đôi khi đang ngồi trong lớp học, Ki bỗng nghe thấy một âm thanh gì rì rào quen thuộc, Ki nôn nao cả người và chợt nhớ ra âm thanh đó giống tiếng sóng biển mà Ki đã nghe hoài huỷ hồi ở quê mẹ. Chúng ta thực tức cười phải không Ki, hồi đó chúng ta cứ tưởng Huế với Thuận An là hai miền xa cách như bây giờ Sài Gòn với Hà Nội vậy. Vừa biết Huế, gia đình ta ở An Cựu, cạnh nghẹo đường xay. Chúng ta có thể chạy lông bông, nhưng không còn được thong thả như hồi ở nhà quê nữa vì chúng ta phải canh chừng những chiếc xe nhà binh với những ông Tây to lớn, mặt luôn luôn đỏ kè như say rượu. Chúng ta thấy phía này có ruộng, phía kia có bờ sông, có cầu đúc nối sang bên chợ. Ki có còn nhớ cây bông búp cao mọc ở cạnh chân cầu đó chớ. Cây búp mà chúng ta thường ao ước nhặt những búp khô rụng, thổi phồng lên như đã từng thổi chiếc bong bóng lợn của dượng Tin cho hồi còn ở Thuận An. Thêm một hai tuổi gì đó, chúng ta rời An Cựu, được gửi học nơi nhà một ông giáo nhà ở tít dưới Mù U, Ki đã trốn học, đã khóc và bị ăn roi đến quắn đít vì bướng. Ki đi học đàng hoàng. Mùa nắng Ki mặc áo hoa, đi guốc. Mùa mưa, Ki còn nhớ không, chúng ta mang cái tơi bằng lá, tròng từ đầu xuống cổ, có sợi dây thừng nhỏ rút trước cổ, buộc chặt cho gió khỏi bay. Ngôi trường tiểu học ở thật xa tít giữa bãi hoang có nhiều đất sét. Xung quanh lại có nhiều mồ mả nữa. Những đứa trẻ tinh quái thường doạ có nhiều mả Tàu Ô lắm, rồi chúng ta được nghe nhiều chuyện kinh hoàng về giặc Tàu Ô. Nhà chúng ta ở nơi một con đường rất dốc. Dốc cao đến nỗi người lớn nói đứng trên đầu dốc có thể nhìn thấy cột cờ Phú Văn Lâu. Nhưng Ki nghểnh cổ, nhón chân, cũng chỉ nhìn thấy những đọt phượng mùa hè đầy bóng đỏ rực, mùa đông lủng lẳng những quả dài sắc cong như lưỡi mác. Phía trên đầu dốc kia là Đàn Nam Giao, nghe nói đường đi xa lắm, chân của Ki thì quá ngắn. Cho tới khi tôi đi được chiếc xe đạp, ngang qua con đường đất vòng quanh Đàn Nam Giao, tôi cười mãi về sự tưởng tượng của Ki hồi còn nhỏ, và nhớ Ki như một phần hồn, phần thơ ngây của mình đã mất vĩnh viễn. *** Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Tình Ca Cho Huế Đổ Nát của tác giả Nhã Ca.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam)
Những Câu Chuyện Cũ Về Một Vùng Đất MớiÐồng bằng sông Cửu Long là một vùng lương thực chủ yếu của miền Nam. Việc khai thác những tiềm năng phong phú của vùng đất mới này bắt buộc mọi người phải ra sức tìm hiểu nó một cách cặn kẽ. Càng đi sâu tìm hiểu những đặc điểm về lịch sử, về địa lý, về xã hội và đặc biệt là về con người miền Nam, người ta càng thấy việc tìm hiểu này không chỉ là cần thiết, không thể thiếu được mà còn bổ ích và đầy hứng thú đối với các nhà khoa học, các nhà văn hoá và nghệ thuật. Trong bước đầu tìm hiểu, không ít người đã tìm đọc lại Sơn Nam, đặc biệt là cuốn lịch sử khẩn hoang miền Nam và cuốn Ðồng bằng sông Cửu Long hay là Văn minh Miệt Vườn. Những cuốn sách và những bài báo của Sơn Nam đã giúp người ta đi trở lại những ngày đầu khai phá tìm hiểu những điều kiện thiên nhiên và xã hội của cuộc sống trong vùng, có khi cách nay nhiều thế kỷ, về cách thức làm ăn và sinh sống của con người những thời kỳ ấy. Sơn Nam kể"truyện đời xưa" nhưng không phải theo kiểu viết sử thông thường. Nói là Lịch sử... nhưng không viết theo niên biểu, anh viết đọc như thể anh có gì thì nói nấy, cần thì nói không cần thì thôi, không nhứt thiết phải đủ lễ bộ, chương hồi cho đầy đủ, cân đối. Ðối với người mới tìm hiểu, chưa có thì giờ vào thư viện lục tài liệu xưa, đọc sách Sơn Nam, thấy rất bổ ích. Thật vậy, sách anh viết, tài liệu vừa đủ để nêu được vấn đề, không nhiều quá làm người đọc phải mệt mà không cần thiết, mà cũng không ít quá để không nắm được gì, viết vui gọn, ngưòi đọc như được thưởng thức một bữa cơm bình dân, trông đạm bạc mà ngon miệng. Trong đống tài liệu cũ nằm bắt bụi trong những kho lưu trữ, anh tìm ra, chép lại không phải tất cả, mà gạn lọc lấy những cái cần thiết, những cái thiên hạ chưa biết hoặc ít biết, thành ra những cái vốn đã cũ mà vẫn thấy mới là vậy. Tìm mua: 26 Truyện Ngắn Sơn Nam TiKi Lazada Shopee Nhưng Sơn Nam không chỉ có những trang khảo luận mà còn có nhiều truyện ngắn, mà một tuyển tập được nhiều người biết đến, có cái tên khá tiêu biểu: Hương Rừng Cà Mau. Cà Mau vùng đất cuối cùng của Tổ Quốc, được kể lại vào cái thời kỳ mà phần lớn diện tích của nó còn là rừng với đủ thú dữ và hiểm nguy nhưng lại đầy hương sắc vì con người miền Nam đã tới đó sinh cơ lập nghiệp. Về người nông dân miền Nam, đặc biệt là miền Tây, từ Hà Tiên tới mũi Càm Mau, tức là miền đất được khai phá sau cùng. Vì đi tới đây sau cùng, những người khai phá này đã tới những vùng khỉ ho cò gáy nhứt, trước họ không ai thèm làm. Rừng sâu, nước độc, rắn rết hùm beo. Nhưng không thể lùi được vì không còn đất sống nữa người ta mới phải lang bạt tới đây. Muốn tồn tại, muốn sống sót được trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như vậy, con người phải có một sức mạnh tinh thần đáng kể. Không được sự giúp đỡ nào của chính quyền lúc bấy giờ mà còn bị áp bức bóc lột nặng nề, những người phải rời bỏ quê quán tới xứ này phải sớm biết đùm bọc lấy nhau. Sức mạnh tinh thần đó không bắt nguồn từ kinh sách của thánh hiền vì phần lớn những người đi khẩn hoang đều thất học. Ðó là những giá trị tinh thần của dân tộc mà người ta mang từ nơi chôn nhau cắt rún tới đây và được phát triển lên trong hoàn cảnh đấu tranh mới, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống lại thiên nhiên còn thù địch với con ngưòi và chống lại những thế lực áp bức bóc lột cũng thù địch với con người không kém. Giá trị tinh thần nổi bật trong cuộc đấu tranh này là tình nghĩa giai cấp của những người nghèo, bắt buộc phải xa xứ mà tới đây, cùng nhau lập quê hương mới, nơi ca dao còn ghi lại: Cà Mau khỉ khọt trên bưng, Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um. Hoặc: Tới đây xứ sở lạ lùng, Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê. Trong cảnh ngộ đó, con người sống bằng gì? Bằng cái Nghĩa! Ngày xưa, ở xứ này, thường nói! Sống phải điệu nghệ! Theo Sơn Nam, điệu nghê là đạo nghĩa, nói trại ra. Rừng của Sơn Nam có hương là vì vậy. Tình nghĩa giữa con người ở đây không có xuất xứ trong cái cộng đồng làng xã, cái"tâm lý làng" như có người gọi, mà nó rộng hơn, nó sinh sôi nẩy nở từ trong vùng đất mới, khẩn hoang lập ấp, trong đấu tranh khắc phục ngoại cảnh thù địch, chống áp bức bóc lột, nên nó vẫn giữ được cái chân chất thật thà của người lao động gần thiên nhiên mà lại không tủn mủn hẹp hòi. Ðây là một nét đặc biệt nữa mà ca dao còn ghi được: Dấn mình vô chốn chông gai, Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân. Lao xao sóng bủa dưới lùm, Thò tay vớt bạn chết chìm cũng ưng. Cái tình nghĩa bốn phương bè bạn này rất sâu đậm, nó thể hiện trong ca dao, trong các làn điệu dân ca và về sau, chúng được gặp lại nó trong Lục Vân Tiên, giữa Vân Tiên và các bạn, giữa Vân Tiên với Tiểu đồng... Cái tình bạn này đi lièn với cái nghĩa "giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha", mà chúng ta cũng thấy rõ trong truyện Vân Tiên. Từ trước tới nay, truyện ngắn của Sơn Nam được biết nhiều nhất là qua tập Hương Rừng Cà Mau. Sự thật, Sơn Nam còn viết rất nhiều truyện ngắn đăng rải rác trên các báo Sài Gòn trong một thời gian dài hàng chục năm chưa được sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Ðối với các bạn trẻ hôm nay, truyện"xưa" của Sơn Nam làm sống lại cảnh đời của cha ông đi khai phá thời trước, sống lại cái không khí hoang sơ mà hào hứng của buổi ban đầu lập nghiệp, theo dõi cách sống mộc mạc mà"điệu nghệ" của ông cha. Ðối với bạn đọc ở kháp các nơi, những trang khảo cứu và những truyện ngắn của Sơn Nam là những chìa khoá mở cửa vào tâm hồn của người Việt ở miền Nam. Trên tinh thần đó, chúng tôi chọn để giới thiệu với bạn đọc thêm 26 truyện ngắn của Sơn Nam, trước đây đăng rải rác trên các báo ở Sài Gòn. Những tên truyện được đưa vào tập này, tự nó đủ giới thiệu nội dung: Chuyện Rừng Tràm, Nhứt Phá Sơn Lâm, Con rắn ri voi, Cái ổ ong, Con sấu cuối cùng, Ðơn Hùng Tín chào đời... Như đã nói trên, truyện của Sơn Nam, cũ mà mới. Nói những chuyện cũ của một vùng đất mới, một vùng đất mà khó ai dám nói, kể cả những người sanh trưởng tại chỗ, là đã thật hiểu biết đầy đủ. Mong rằng những truyện ngắn này sẽ góp thêm hiểu biết về miền đất thân yêu của chúng ta.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Sơn Nam":Cá Tính Của Miền NamHồi Ký Sơn Nam Toàn TậpLịch Sử Khẩn Hoang Miền NamSài Gòn Xưa, Ấn Tượng 300 Năm Và Tiếp Cận Với Đồng Bằng Sông Cửu LongĐi Và Ghi NhớCon Sấu Cuối Cùng26 Truyện Ngắn Sơn NamBiển Cỏ Miền Tây Hình Bóng CũChuyện Xưa Tích CũTuyển Tập Truyện Ngắn Sơn NamLễ Hội Dân Gian Miền NamNgười Bạn Triệu PhúVạch Một Chân Trời, Chim Quyên Xuống ĐấtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 26 Truyện Ngắn Sơn Nam PDF của tác giả Sơn Nam nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
13 Lý Do Tại Sao (Jay Asher)
Từ trường trở về nhà, Clay Jesen phát hiện một bưu kiện kỳ lạ đề tên mình nằm trước hiên nhà. Bên trong cậu phát hiện những cuộn băng cassette ghi âm giọng nói của Hannah Baker - bạn học cùng lớp và là cô gái Clay thầm mến. Hannah đã tự sát hai tuần trước đó. Hannah giải thích rằng có mười ba lý do khiến cô ấy quyết định chấm dứt cuộc sống của mình. Clay là một trong những lý do đó. Nếu cậu ấy nghe những cuốn băng, cậu ấy sẽ hiểu vì sao. Clay đã trải qua cả một đêm đi khắp thị trấn theo chỉ dẫn của Hannah. Cậu trở thành người đầu tiên chứng kiến nỗi đau của Hannah và khám phá được một sự thật về bản thân mình - một sự thật mà cậu không bao giờ muốn đối diện…Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 13 Lý Do Tại Sao PDF của tác giả Jay Asher nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
12 Kỳ Án Trung Hoa (Huyền Cơ)
Với chiều dài lịch sử hơn 5000 năm, các triều đại phong kiến Trung Hoa xưa kia chắc chắn phải đối mặt với muôn vàn vụ án khó khăn, tế nhị và không ít vụ án phán đoán sai lệch, làm cho nhiều người khác bị hàm oan, bởi thiếu rất nhiều lý luận khoa học như ngày nay. Tuy nhiên, cũng không ít các phán quan công minh sáng suốt xuất hiện, giúp cho người dân giải được hàm oan. Nổi bật nhất trong các phán quan là Bao Chửng, được dân gian biết đến qua tên Bao Công ở đời Bắc Tống. Sau đó đến thời Nam Tống, một phán quan khác còn nhiều công lao hơn đó là Tống Từ, không những lấy việc giải oan cho người dân làm niềm đam mê mà còn có tinh thần rất tiến bộ, lấy pháp y học ra làm chứng cứ kết tội hoặc giải oan. Trong khi Tây phương mãi đến thập niên 17, 18 mới có hai nhà nghiên cứu pháp y học người Italia đứng ra phổ biến thì Tống Từ đã biết đến phương pháp khoa học từ hơn 450 năm trước. Sau khi Tống Từ qua đời vào 1247, tức là vào thập niên thứ 13, ông để lại cuốn "Tẩy oan lục" rất có giá trị, giúp những phán quan đời sau có thêm tư liệu để hoàn thiện phương pháp để xử án.. Trải qua mấy trăm năm nữa, hệ thống dùng Pháp Y học làm chứng cứ xét án đã được phát triển rất mạnh và lên tới tột đỉnh vào các đời nhà Minh, Thanh với rất nhiều phán quan sáng suốt chẳng kém Bao CôngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 12 Kỳ Án Trung Hoa PDF của tác giả Huyền Cơ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
12 Kỳ Án Trung Hoa (Huyền Cơ)
Với chiều dài lịch sử hơn 5000 năm, các triều đại phong kiến Trung Hoa xưa kia chắc chắn phải đối mặt với muôn vàn vụ án khó khăn, tế nhị và không ít vụ án phán đoán sai lệch, làm cho nhiều người khác bị hàm oan, bởi thiếu rất nhiều lý luận khoa học như ngày nay. Tuy nhiên, cũng không ít các phán quan công minh sáng suốt xuất hiện, giúp cho người dân giải được hàm oan. Nổi bật nhất trong các phán quan là Bao Chửng, được dân gian biết đến qua tên Bao Công ở đời Bắc Tống. Sau đó đến thời Nam Tống, một phán quan khác còn nhiều công lao hơn đó là Tống Từ, không những lấy việc giải oan cho người dân làm niềm đam mê mà còn có tinh thần rất tiến bộ, lấy pháp y học ra làm chứng cứ kết tội hoặc giải oan. Trong khi Tây phương mãi đến thập niên 17, 18 mới có hai nhà nghiên cứu pháp y học người Italia đứng ra phổ biến thì Tống Từ đã biết đến phương pháp khoa học từ hơn 450 năm trước. Sau khi Tống Từ qua đời vào 1247, tức là vào thập niên thứ 13, ông để lại cuốn "Tẩy oan lục" rất có giá trị, giúp những phán quan đời sau có thêm tư liệu để hoàn thiện phương pháp để xử án.. Trải qua mấy trăm năm nữa, hệ thống dùng Pháp Y học làm chứng cứ xét án đã được phát triển rất mạnh và lên tới tột đỉnh vào các đời nhà Minh, Thanh với rất nhiều phán quan sáng suốt chẳng kém Bao CôngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 12 Kỳ Án Trung Hoa PDF của tác giả Huyền Cơ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.