Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đói - Knut Hamsun

Harald Hjärne, Chủ tịch Uỷ ban Nobel Viện Hàn lâm Thụy Điển Căn cứ vào các qui chế của Quĩ Nobel, Viện Hàn lâm Thuỵ Điển đã trao giải Nobel văn chương năm 1920 cho nhà tiểu thuyết người Na Uy - Knut Hamsun, với tác phẩm Nhựa của đất (1917) (Markens grøde). Sẽ là thừa nếu đưa ra một tuờng trình chi tiết về quyển sách mà chỉ trong một thời gian ngắn đã được phổ biến rộng rãi khắp mọi nơi, cả bằng nguyên tác và bản dịch. Qua sự độc đáo về cốt truyện và phong cách, cuốn tiểu thuyết đã dấy nên sự quan tâm vô cùng sống động ở nhiều nước và được tiếp nhận nồng nhiệt bởi nhiều tầng lớp độc giả khác nhau. Mới đây, một nhà điểm sách hàng đầu và bảo thủ người Anh đã viết rằng quyển sách này chỉ mới xuất hiện ở Anh năm nay nhưng đã được dư luận ngợi khen là một kiệt tác. Lí do của thành công không thể phủ nhận này chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của giới phê bình văn học trong một thời gian dài, nhưng ngay từ bây giờ, với những ấn tượng đầu tiên, thiết tuởng cần chỉ ra những lí do ấy, ít nhất là những nét chính. Bất chấp những ý kiến hiện nay về thời đại chúng ta, những ai cho rằng trong văn học, cái cao hơn tất cả là sự tái hiện trung thành hiện thực thì sẽ thấy trong Nhựa của đất , sự tái hiện một cuộc sống là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của bất cứ xã hội nào nơi con người sinh sống và tạo dựng. Những miêu tả này không bị bóp méo bởi bất cứ hoài niệm nào về một quá khứ văn minh lâu dài. Hiệu quả tức thì ở chỗ khơi lên cuộc đấu tranh gay gắt ngay từ đầu giữa con người tích cực (dĩ nhiên trong những điều kiện bên ngoài khác nhau) bền bỉ chống lại một thiên nhiên bất phục và khắc nghiệt. Khó lòng hình dung sự đối lập nào choáng ngợp hơn giữa cuốn sách này với những tác phẩm thường được gọi là "cổ điển". Tuy nhiên, ta vẫn có thể gọi tác phẩm này một cách chính tắc là cổ điển, nhưng theo nghĩa sâu xa hơn, nếu ta dùng tính ngữ này thể hiện một điều gì đó khác hơn và nhiều hơn một lời ngợi khen mơ hồ. Cái cổ điển, trong nền văn hóa mà chúng ta thừa kế từ xa xưa, chỉ phần nào là cái hoàn thiện buộc ta bắt chước, còn phần nhiều là những gì có ý nghĩa, được rút ra trực tiếp từ đời sống và tái hiện dưới dạng một giá trị bền vững với cả các thời đại sau. Theo ý niệm này, những gì không có ý nghĩa, những gì tự chúng không quan trọng, chỉ có thể xem như cùng một loại với những gì được chính thức coi là tạm bợ hay khiếm khuyết. Nhưng ngoài ra, bất cứ điều gì quí giá trong cuộc sống con người, dù có vẻ bình thường, đều có thể xếp vào cùng một phạm trù với cái khác thường và cái sáng láng, với một ý nghĩa và dạng thức giá trị tương đương, chừng nào nó được hiển bày lần đầu tiên trong ánh sáng đích thực của nó. Với ý nghĩa này, không hề nói quá nếu cho rằng trong Nhựa của đất , Hamsun đã mang đến cho thời đại chúng ta cái cổ điển có thể so với cái đẹp nhất mà chúng ta từng có. Trong khía cạnh này, cái cổ xưa không có đặc quyền bất khả xâm phạm đối với các thế hệ sau, vì cuộc sống luôn luôn mới và phong phú vô tận, và có thể được tái hiện dưới những hình thức mới bởi những thiên tài mới. Tác phẩm của Hamsun là một bản hùng ca về lao động, trong đó tác giả nói về lao động bằng những áng thơ hoành tráng. Đây không phải là chuyện phân công lao động vốn chia rẽ những con người mà là chuyện lao động cần cù, tập trung, thứ lao động mà trong hình thức thuần khiết nhất của mình tạo nên toàn bộ con người, xoa dịu và mang lại gần nhau những tâm hồn chia cách, bảo vệ và gia tăng thành quả của mình trong một quá trình đều đặn và liên tục. Sức lao động của người tiên phong và người nông dân đầu tiên, với tất cả những khó khăn, dưới ngòi bút của nhà thơ, mang tính cách một cuộc đấu tranh anh hùng không hề thua kém chút nào so với cái vĩ đại của sự hi sinh lẫm liệt cho tổ quốc và chiến hữu. Cũng như nhà thơ nông dân Hesiod miêu tả lao động trên đồng ruộng, Hamsun đặt lên hàng đầu trong tác phẩm người lao động lí tưởng, người hiến trọn cuộc đời và sức lực mình cho việc vỡ đất và vượt qua những trở ngại mà con người và thiên nhiên dựng lên để chống lại anh. Nếu Hamsun đã vứt bỏ sau lưng mọi hoài niệm nặng nề về văn minh, thì tác phẩm của ông cống hiến một cách hiểu chính xác về nền văn hóa mới mà kỉ nguyên chúng ta đang chờ đợi sẽ nảy sinh từ tiến trình lao động chân tay như một sự tiếp nối nền văn minh cổ xưa. Hamsun không đưa ra cái gọi là "loại hình nhân vật" trên sân khấu của ông. Các nhân vật nam và nữ của ông đều sống động, ngay cả trong những tình huống khiêm nhường nhất. Vài người trong số họ, những người tốt nhất, có những mục tiêu và tư tưởng mà chúng ta không thể hình dung, ví dụ nổi bật là nhân vật chính, người nông dân trầm lặng và lao động không mệt mỏi. Những người khác thì buông xuôi phó mặc, bất an và thậm chí hoang mang bởi những khát vọng ích kỉ và ý nghĩ xuẩn ngốc. Tất cả họ đều mang dấu ấn của dòng máu Na Uy, tất cả đều bị nhào nặn bởi những "quả của đất". Một trong những đặc tính của các ngôn ngữ cùng gia đình Scandinavie chúng ta, đó là cùng một từ biểu thị những sắc thái ý nghĩa rất khác nhau thông qua những hình ảnh mà chúng gợi nên. Khi người Thụy Điển chúng ta nói "quả của đất", ta nghĩ ngay đến một thứ gì đó màu mỡ, dồi dào, ngon lành, nhất là ở một vùng nông nghiệp nào đó đã được canh tác lâu đời. Tư duy trong tác phẩm của Hamsun không đi theo chiều hướng này. "Đất" ở đây là một vùng đất hoang sơ hung hiểm, gồ ghề sỏi đá. Trái quả của nó không tự rơi xuống như là lộc của trời, trái quả của nó là tất cả những gì có thể nảy mầm và lớn lên trên một mảnh đất khô cằn, dù tốt hay dở, đẹp hay xấu, giữa con người hay động vật cũng như trong rừng hay trên đồng ruộng. Đây là những loại quả mà tác phẩm của Hamsun mang lại cho mùa gặt của chúng ta. Tuy nhiên, người Thuỵ Điển chúng ta, hay ít nhất là nhiều người Thuỵ Điển, không cảm thấy xa lạ về những phong tục, tập quán được miêu tả ở đây. Ta phát hiện nơi đây, bầu không khí miền Bắc với một phần hoàn cảnh tự nhiên và xã hội, với nhiều điểm tương đồng hai phía biên giới (giữa Na Uy và Thuỵ Điển, ND). Hơn nữa, Hamsun cũng miêu tả những người Thụy Điển bị lôi cuốn đến vùng đất mới khai phá và hầu hết bọn họ, không nghi ngờ gì nữa, đều bị hấp dẫn bởi ảo ảnh về thành công kinh tế, bởi những thành phố dọc theo bờ biển Na Uy xuất hiện nơi chân trời như cám dỗ về cuộc sống trần thế huy hoàng, nó quyến rũ những trái tim dễ xiêu lòng muốn thoát khỏi cảnh lao động nặng nhọc của vùng đất này. Những tái hiện tâm lí đó, cũng như nhiều tái hiện khác, đầy tính người, hoàn toàn không làm giảm mà càng củng cố thêm ấn tuợng nhờ nội dung mang tính cổ điển của câu chuyện. Chúng xua đi nỗi sợ có thể nảy sinh trong ta khi nhìn thấy ánh sáng chân lí với cái giá phải trả là sự thật. Chúng đảm bảo tính chân thực trong từng chi tiết, của hình ảnh và nhân vật. Tính toàn nhân loại của chúng không bỏ sót một ai. Bằng chứng là tác phẩm đã được đón nhận bởi những người có tính cách, ngôn ngữ và phong tục khác nhau. Hơn nữa, bằng nụ cười hài hước nhẹ nhàng khi tái hiện những sự việc đau buồn nhất, tác giả chứng tỏ lòng cảm thông đối với số phận con người và bản tính con người. Nhưng trong câu chuyện, ông không bao giờ xa rời sự trong sáng nghệ thuật toàn bích nhất. Phong cách của ông loại bỏ mọi trang trí màu mè, chỉ tập trung vào tính chân thực và sự rõ ràng, và người đọc có thể phát hiện trong đó, dưới một hình thức độc đáo và mạnh mẽ, tất cả sự phong phú về sắc thái trong ngôn ngữ mẹ đẻ của nhà văn. Thưa Ngài Knut Hamsun! Khi đương đầu với thời tiết khắc nghiệt cũng như nỗi mệt mỏi sau chuyến đi dài - mà trong thời gian này lại càng thêm bội phần cực nhọc - để đến nhận giải thuởng trao tặng cho Ngài, Ngài đã mang lại niềm vui lớn cho Viện Hàn lâm Thuỵ Điển, niềm vui nhất định sẽ được chia sẻ bởi tất cả mọi người có mặt trong buổi lễ trọng đại này. Thay mặt Viện Hàn lâm, trong khoảng thời gian ngắn ngủi cho phép, tôi đã cố gắng trình bày ít nhất những lí do chính tại sao chúng tôi đánh giá cao tác phẩm vừa được đăng quang của Ngài như vậy. Vì vậy, giờ đây, với tư cách cá nhân, tôi không muốn nhắc lại với Ngài những gì tôi đã nói. Tôi chỉ còn mỗi việc thay mặt Viện Hàn lâm chúc mừng Ngài và hi vọng Ngài sẽ giữ mãi những kỉ niệm về cuộc gặp gỡ của chúng ta, và đó sẽ là mối dây thắt chặt mối quan hệ giữa Ngài với chúng tôi trong tương lai. Trần Tiễn Cao Đăng và Tân Đôn dịch (Theo VietNamNet) *** Knut Hamsun tên thật là Rnud Pedersen, (04.8.1859 - 19.02.1952) nhà văn Na Uy đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Ông là nhà văn làm đổi mới văn xuôi Na Uy và là người luôn cố gắng thể hiện đời sống tâm hồn vô thức.   Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Một số tác phẩm: - Den Gaadefulde. En kjærlighedshistorie fra Nordland (Con người bí ẩn, dưới tên Knud Pedersen, 1877), tiểu thuyết - Bjørger (dưới tên Knud Pedersen Hamsund, 1878), tiểu thuyết  - Fra det moderne Amerikas Aandsliv (Cuộc sống tinh thần của xã hội Mỹ hiện đại, 1889), tiểu luận  - Sult (Đói, 1890), tiểu thuyết  - Fra det ubevidste sjaceleliv (Từ cuộc sống vô thức của tâm hồn, 1890), tiểu luận  - Mysterier (Những điều bí ẩn, 1892), tiểu thuyết  - Redaktør Linge (Biên tập viên Linge, 1893)  - Ny Jord (Đất mới, hoàn tất năm 1893)  - Pan (Quý ngài, 1894), tiểu thuyết  - Ved Rigets Port (Nơi cổng vương quốc, 1895), kịch  - Livets Spil (Trò đời, 1896)  - Aftenrøde. Slutningspil (Hoàng hôn, 1898), kịch  - Victoria. En kjærlighedshistorie (Victoria, 1898), tiểu thuyết  - Munken Vendt. Brigantines saga I (1902), kịch thơ  - Det vilde Kor (Bản hợp xướng hoang dã, 1904), thơ  - Under Høststjærnen. En Vandrers Fortælling (Dưới ngôi sao mùa thu, 1906), tiểu thuyết  - Benoni (1908), tiểu thuyết  - En Vandrer spiller med Sordin (Kẻ lang thang chơi đàn không dây, 1909), tiểu thuyết  - Den sidste Glæde (Niềm vui cuối cùng, 1912), tiểu thuyết  - Børn av Tiden (Những đứa con của thế kỉ, 1913), tiểu thuyết  - Segelfoss By (Thị trấn Segelfoss, 2 tập, 1915), tiểu thuyết  - Markens Grøde (Nhựa của đất, 2 tập, 1917), tiểu thuyết  - Konerne ved Vandposten (Những người đàn bà bên giếng, 2 tập, 1920), tiểu thuyết  - Siste Kapitel (Chương cuối, 2 tập, 1923), tiểu thuyết  - Landstrykere (Những kẻ lang thang, 2 tập, 1927), tiểu thuyết  - August (Tháng Tám, 2 tập, 1930), tiểu thuyết  - Ringen sluttet (Vòng vây đã khép, 1936), tiểu thuyết  - Paa gjengrodde Stier (Theo lối mòn hoang, 1949) *** Ha, ha, với lũ chó ấy thì phải thế mới được! Ðồ vô lương tâm! Ðó là cách dạy cho chúng kính trọng người khác, bắt chúng phải run sợ... Tôi rất hài lòng với mình và lại bắt đầu khe khẽ hát. Trong trạng thái bị kích thích mạnh, quên cả đau, thậm chí không cảm thấy khó chịu chút nào và với lòng lâng lâng, tôi đi hết quảng trường đến chợ, rẽ sang nhà thờ Ðấng cứu thế và ngồi xuống một chiếc ghế dài ở đó. Suy cho cùng thì trả lại mười curon kia hay không cũng đều thế cả. Người ta gửi cho tôi, có nghĩa chúng là của tôi, ai gửi hoàn toàn không quan trọng. Người đưa thư được lệnh đưa cho tôi, vậy thì tôi phải nhận. Chẳng nhẽ lại cho anh ta? Và quả là ngu ngốc nếu bây giờ tôi hoàn lại cho người gửi mười đồng curon khác chứ không phải mười đồng tôi đã nhận. Nếu vậy thì chẳng còn biết làm gì nữa. Tôi cố gắng tập trung nhìn quảng trường sôi động đầy những người là người và nghĩ về những việc không liên quan gì đến tôi, nhưng điều này không mang lại mấy kết quả - mười đồng curon kia vẫn chẳng chịu chui ra khỏi đầu. Cuối cùng tôi bừng bừng tức giận, bóp chặt nắm đấm. "Nếu ta trả lại số tiền đó, nàng sẽ cảm thấy bị xúc phạm, - tôi tự bảo mình. - Thế thì còn gì nữa phải suy nghĩ?" Bao giờ tôi cũng rất cao đạo, không chịu nhận quà cáp. Trong những trường hợp ấy, tôi chỉ kiêu hãnh lắc đầu và nói: "ồ không, cảm ơn, rất cảm ơn". Và kết quả là gì? Tôi lại lang thang ngoài phố. Tôi không ở lại căn phòng ấm cúng của mình, mặc dù tôi có đầy đủ khả năng làm điều ấy. Tôi là người tự trọng, nên chỉ cần nghe một câu nào đấy khiếm nhã, là không chịu nổi và sẽ quẳng ngay những đồng mười curon vào mặt người nói rồi bỏ đi hẳn... Tôi tự trừng phạt mình, tự rời bỏ căn phòng của mình và lại lần nữa rơi vào tình cảnh khó khăn này. Nhưng thôi, quỷ tha ma bắt chúng đi! Tôi không ngửa tay xin những đồng curon ấy, và chúng cũng chẳng ở trong tay tôi lâu. Liền sau đó tôi đưa chúng cho người khác, tôi trả tiền nhà cho những người xa lạ mà tôi sẽ chẳng bao giờ thấy lại. Tôi là người thế đấy, khi cần, có thể cho tới đồng xu cuối cùng. Nếu Ilaialy đúng là người như tôi tưởng, nàng sẽ không hối hận rằng đã gửi tiền cho tôi. Thế thì còn băn khoăn gì nữa? Ðiều ít nhất nàng có thể làm được là thỉnh thoảng gửi cho tôi mười curon. Vì cô gái tội nghiệp này yêu tôi mà, thậm chí yêu một cách tuyệt vọng. Hồi lâu tôi tự an ủi mình bằng ý nghĩ này. Không nghi ngờ gì nữa - nàng yêu tôi, tội nghiệp... Năm giờ. Cơn kích thích thần kinh đã lắng, đầu tôi lại bắt đầu trống rỗng, chỉ còn tiếng ù ù trong đó. Tôi nhìn vào khoảng không bằng đôi mắt đờ đẫn và không hiểu sao lại nhìn thấy một hiệu thuốc trước mặt. Cơn đói tiếp tục cấu xé, làm tôi vô cùng khổ sở. Tôi cứ ngồi như thế, trân trân nhìn phía trước. Dần dần tôi nhìn thấy một hình người. Hình người ấy cứ rõ dần và cuối cùng tôi nhận ra đó là người đàn bà bán bánh rán bên hiệu thuốc. Tôi hít thở thật sâu, ưỡn thẳng lưng trên ghế và bắt đầu nhớ lại. Vâng, tất nhiên đó chính là bà bán bánh rán lần trước, với cái bàn bánh ấy và vẫn ngồi ở chỗ ấy. Tôi huýt sáo mấy lần, bật ngón tay rồi đứng dậy khỏi ghế, đi về phía hiệu thuốc. Khi lại gần, tôi nhìn bà ta một chốc rồi ngồi xuống cạnh. Tôi mỉm cười, gật đầu với bà ta như người quen. ... Mời các bạn đón đọc Đói của tác giả Knut Hamsun.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đôi Môi Của Nước - Alberto Ruy Sanchez
Theo những đường nét thư pháp của Azizal-Ghazali, bậc thầy thư pháp của thành Modagor (nay là Essaouira, Maroc) và là tác giả của một khái luận tình yêu nay đã thất lạc có nhan đề Vòng xoáy của những cơn mơ, một người đàn ông đã hiến dâng cả đời mình cho nỗi khát khao yêu đương, làm hồi sinh thế giới huyền bí của những người Mộng du – những người được tình yêu biến đổi và chỉ có họ mới có thể mang lại hạnh phúc và khoái lạc trọn vẹn cho nhau. Chín chương sách được tạo điểm nhấn bởi chín giấc mơ trong khái luận của Aziz tạo nên một bài thơ vịnh về cơ thể người đàn bà, mang đậm chất thi ca và khiến ta chuếnh choáng. Tiếp theo Tên của khí trời, Đôi môi của nước là tiểu thuyết thứ hai trong bộ tiểu thuyết đề cập tới bốn nguyên tố cơ bản tạo nên thực tại theo quan niệm của người xưa (không khí, lửa, đất và nước). Trong khi Tên của khí trời dấn sâu vào dục vọng sâu kín của người phụ nữ, Đôi môi của nước là cuộc khám phá đầy khắc khoải về những giấc mơ tình ái của đàn ông. Cuốn sách tuyệt đẹp này, kết hợp văn xuôi đầy chất thơ với tuyến tự sự lôi cuốn, là ‘một bức thư tình dài viết bởi một người đàn ông đã đánh mất một người đàn bà và lên đường tìm kiếm nàng trên khắp thế gian’ (Lời của chính Ruy Sanchez), trong niềm mong mỏi nhận được hồi âm của người tình vắng mặt mà lại đồng thời hiện diện ở khắp nơi đó. *** Màn đêm em đang giữ trong bàn tay mình, màn đêm em đang vén ra để vuốt ve tôi trùm lên tôi như tấm áo choàng có những nếp gấp nơi tôi có thể ngụp lặn. Tôi chầm chậm tiến về phía em. Trong màn đêm, tia sáng mắt em dẫn bước tôi đi. Tôi thấy gương mặt em trong cơn mơ. Tôi thấy nụ cười em. Em nói với tôi điều gì đó mà tôi cũng chẳng hiểu. Em cười. Rồi em dùng đôi bàn tay chạm vào người tôi để giải thích. Em vẽ tên em trên bụng tôi, giống như hình xăm, với những chữ cái do em nghĩ ra, mà thực chất là những cái vuốt ve. Tôi đi lại phía em, với lòng kiên trì vô hạn - lòng kiên trì của hành trình vượt đại dương -, đi từ bến bờ thân tôi tới bờ bến thân em, và nụ cười nơi môi em là cơn gió lành cho thuyền tôi vượt sóng. Màn đêm trong lòng bàn tay em cùng cất lời ca với sóng biển dạt dào. Em phủ lên lưng tôi những vệt sóng lừng ào tới êm dịu rồi lại lùi xa cùng lúc quàng lên bãi cát sỏi. Em đi vào đôi tai tôi và vẽ lên đó những hình ốc, và tôi mang trong mình những cơn bão của em, những cơn lốc của em, những vực thẳm của em. Những âm thanh của em vang xuống tận cổ họng tôi. Em cũng ùa vào đôi mắt tôi, bằng cái nhìn đổi màu của nước, bằng bộ ngực em áp trên bộ ngực tôi khiến làn da tôi nơi đó run lên xúc động. Hông em cứ khoét mãi trên bãi cát sỏi nơi tận cùng bụng tôi thành rãnh sâu trong những cơn sóng cuồng nộ nhất. Em bao quanh những bãi biển của tôi, em vỗ sóng ập ào lên chúng và em nuốt chửng lấy chúng. Đám bọt biển của em và của tôi, làn môi của em và của tôi cùng hòa quyện. Làn da nước của em cất lời ca, giọng ca ấy cuốn tôi theo dòng nước. Trong bóng tối đôi bàn tay em, tôi tới thăm tất cả những cơn mơ của em. Hãy để tôi kể em nghe những giấc mơ của tôi bằng đôi tay mình. Từ chín năm nay, câu chuyện này khiến lưỡi tôi cháy bỏng. Tôi đã giữ kín nó hơn cả điều bí mật. Sáng nay, cơn mưa bất chợt xối xả đập mạnh vào cửa kính căn phòng tôi đang ngủ. Cứ như là dòng nước bị đôi bàn tay phù thủy của gió hung bạo quật vào những ô cửa kính vô cảm, biến chúng thành những tấm da trống, trên đó người ta đang gióng lên từng hồi để báo cho tôi biết có vị khách không đợi mà đến. Song những tiếng đập do dự của chúng đánh thức tôi dậy không thô bạo, bị lẫn với những hình ảnh cuối cùng trong cơn mơ của tôi. Tôi nghe thấy xa xa, qua tấm màn mưa, giọng nói êm dịu của Maêmoưna, rung rung sâu lắng, đang gọi tên tôi. Thế là tôi nhận ra tiếng nhạc trong như thủy tinh không phải do cơn mưa tạo ra mà do những móng tay nàng đang gõ háo hức vào cửa sổ phòng tôi. Đã bao năm nay tôi không gặp Maêmoưna: tôi sống xa nàng, ở một lục địa khác. Dẫu vậy, trong cơn mơ này, cơn mơ có vẻ thực hơn tất thảy những cơn mơ khác tôi từng trải qua, giọng nàng đang ve vuốt tên tôi. Nàng bảo tôi kể cho nàng nghe chuyện gì đã xảy đến với tôi ở Ma rốc, kể nàng hay xem tôi đã suýt cập bến bờ nào, lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. “Viết thư kể cho em chuyện đó nhé, nàng nói với tôi; khi nào anh viết thư thì chúng ta có thể sẽ gặp lại nhau,” cứ như thể khi viết ra câu chuyện này, tôi sẽ tạo nên những chiếc khóa vạn năng có sức quyến rũ kỳ lạ hay niệm những câu thần chú có quyền năng thay đổi cả cuộc đời tôi. Thế rồi nàng bỏ đi, đưa tôi trở lại với trống vắng - hẳn chính là cái trạng thái trống vắng mà giờ đây tôi đang cố lấp đầy bằng ngôn từ, bằng khao khát, bằng những hình ảnh tạo nên cái cốt của một câu chuyện, bằng những giấc mơ tôi đang dệt lên bề mặt ngày. ... Mời các bạn đón đọc Đôi Môi Của Nước của tác giả Alberto Ruy Sanchez.
Đời Callboy - Nguyễn Ngọc Thạch
Đời Callboy có những đoạn trần trụi khiến người ta hoài nghi về độ thật của nó và tự hỏi: “Xã hội thực sự là thế ư?”, nhưng nếu một lần tận mắt chứng kiến những gì đang xảy ra, mọi người sẽ hiểu rằng “Đời Callboy” của Nguyễn Ngọc Thạch đã đi đến được những góc khuất nhất của “nghề nghiệp” bị người đời coi khinh này. Callboy, những người thanh niên dùng thân xác đổi lấy đồng tiền, vẫn tồn tại trong thế giới bóng tối… Đồng tính – cũng không còn là một chủ đề mới của văn đàn, nhưng đa phần chỉ là những tác phẩm được chấp bút ghi lại theo lời kể của một nhân vật có thật. Tuy nhiên nếu một “người trong cuộc” tự viết về chính mình thì mọi việc sẽ khác hẳn. Hãy đọc “Đời Callboy” của Nguyễn Ngọc Thạch để hiểu hơn về thế giới những người đàn ông yêu nhau nhưng bị chi phối mãnh liệt bởi đồng tiền và tình dục. Và để hiểu hơn rằng, giới tính không phải là thứ quyết định nhân cách sống của bạn.  “Đôi khi tôi nghĩ, mình có duyên với “đĩ”. *** Người ta nói, “đừng nghe đĩ kể chuyện, đừng nghe nghiện trình bày”, nhưng tôi vẫn nghe và tôi ghi lại chúng với độ chân thật nhất mình có thể rồi giới thiệu đến mọi người, để các bạn đọc và tự đánh giá xem, câu chuyện của một thằng con trai làm callboy có thể làm bạn dừng lại và suy nghĩ về cuộc đời mà mình đang sống trong đó không.” (Lời tác giả) *** Tuổi thơ Nơi tôi sinh ra! Tôi sinh ra ở một làng quê nghèo của vùng duyên hải miền Trung. Tuổi thơ chỉ gói gọn trong hai chữ: “Nghèo” và “Khổ”. Nói nghe chua chát nhưng sự thật là vậy, không dễ dàng gì để người ta chấp nhận nó. Ở nơi đó, tôi đã lớn lên cùng với gió, cát, những cơn bão và cái nóng hỗn hào của quê hương. Tôi sinh ra ở một làng chài luôn mặn mùi biển, luôn tanh mùi cá sống. Tuổi thơ tôi ướp bằng tiếng sóng rì rào và những mảnh lưới giăng cá của những bà thím như mẹ tôi ngồi rạp bờ cát – Nơi họ vẫn ngày ngày ngồi đợi chồng, đợi con họ về. Cái nôi của tôi! Gia đình tôi làm nghề chài lưới nhỏ, mặc dù quanh năm cha luôn đầu tắt mặt tối với những chuyến ra khơi kéo dài hàng tuần lễ, có khi là cả hàng tháng trời nếu cha đồng ý theo thuyền lớn ra tận giữa khơi, nhưng cuộc sống vẫn rất bấp bênh, bữa no bữa đói. Mẹ tôi là một người phụ nữ mà trong vốn từ ít ỏi lúc này của mình, tôi chỉ có thể gọi theo kiểu là rất tuyệt vời. Bà yêu thương chồng con hết mực, sẵn sàng làm tất cả cho cha, cho chúng tôi. Bà chưa từng nề hà bất kỳ việc gì, lớn – nhỏ, nặng – nhẹ… chỉ miễn là anh em chúng tôi có đủ cái bỏ miệng mà no bụng. Nhưng rồi sau một cơn bạo bệnh, sức khỏe bà giảm sút và chỉ còn có thể làm những việc nhẹ trong nhà. Nhà tôi có bốn anh em. Anh hai hơn tôi bốn tuổi. Tôi bước chân vào lớp 10 – Cái ngưỡng mà cha, mẹ và anh hai luôn bảo tôi rằng, tôi phải bằng mọi cách đi qua cho bằng được. Sau tôi là hai đứa em nhỏ, một đứa học lớp 6 và một đứa chỉ mới sáu tuổi. Tuy gia đình không khá giả gì hay nói đúng hơn là nghèo đến thảm hại nhưng chúng tôi được cha giáo dục rất nghiêm khắc bằng tất cả khoảng thời gian hiếm hoi ông có mặt ở nhà sau những tháng ngày kiếm cơm cho anh em tôi. Với cha, có sáu chữ mà chúng tôi không bao giờ được quyền quên, “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”! Tuy nghèo, tôi vẫn có thể khẳng định rằng gia đình mình sống rất hạnh phúc bên nhau. Những ký ức quên – nhớ và không thể nào quên! ... Mời các bạn đón đọc Đời Callboy của tác giả Nguyễn Ngọc Thạch.
Đàn Bà Xấu Thì Không Có Quà - Y Ban
Một cô nàng tật nguyền nhưng được tạo hóa ban cho trí tuệ sáng lán. Nàng xấu đến nỗi khi một đồng nghiệp say rượu lột truồng ra, nhìn kỹ, tỉnh cả rượu, vái ba vái rồi bỏ đi. Xấu đến mức khi nàng nhìn người anh rể với ánh mắt khao khát, anh rể lại có cảm giác kinh tởm. Đàn bà xấu thì không có quà của nữ nhà văn Y Ban đã đem đến cho nhiều đọc giả một cách nhìn khác về những người phụ nữ “kém may mắn” – và về “Em”. Ai đó đã nói, làm phụ nữ có 2 cái khổ , một là “xấu” và hai là “nghèo”. Nấm- nhân vật chính của truyện là 1 cô gái không may bị dị tật. Nàng xấu đến nỗi khi một đồng nghiệp say rượu lột truồng ra, nhìn kỹ, tỉnh cả rượu, vái ba vái rồi bỏ đi. Xấu đến mức khi nàng nhìn người anh rể với ánh mắt khao khát, anh rể lại có cảm giác kinh tởm. Bù lại, nàng lại có một tâm hồn nhạy cảm đến tuyệt vời và một tài năng văn học. Một cô nàng tật nguyền nhưng được tạo hóa ban cho trí tuệ sáng láng. Cô luôn ôm bao khát vọng sẽ được một người đàn ông yêu thương, nhưng cô không ảo tưởng. Khi quen một người đàn ông qua mạng, chưa bao giờ nàng nghĩ rằng người đó sẽ yêu mình. Nàng chỉ mong được gặp anh một lần. Một cô gái thật đáng thương nhưng cũng rất đáng quý. Nấm chẳng bao giờ có quà, trong khi các cô gái bên cạnh được bao nhiêu người theo đuổi. Xen kẽ trong truyện là những tác phẩm đầy xúc động của Nấm và những nhìn nhận về cuộc sống rất khách quan và xác đáng của tác giả. Cuộc sống đang diễn ra với nhịp độ rất gấp gáp, mọi thứ trôi đi rất nhanh, cái đập vào mắt con người nhiều nhất vẫn là hình thức bên ngoài. Người ta không có thời gian ngồi tâm sự với nhau hàng giờ, không có thời gian để cho những vẻ đẹp nội tâm bộc lộ. Người ta bắt chước nhau nhanh lắm, để tìm được cô này khác với cô kia chỗ nào rất khó. Nhưng chắc chắn, cái gọi là bản sắc, cá tính, vẻ đẹp nội tâm vẫn luôn là hằng giá trị trong thế giới này. *** Y Ban là bút danh của một nhà văn, nhà báo nữ Việt Nam. Bà tên thật là Phạm Thị Xuân Ban, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961 tại Nam Định, trong một gia đình không có truyền thống văn chương. Năm 1978, bà lên Hà Nội theo học khoa Sinh học Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân năm 1982. Một số tài liệu lại ghi bà tốt nghiệp Trường Đại học Y Hà Nội. Bà hiện đang ngụ tại Hà Nội cùng với gia đình. Mặc dù là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1996, từng có nhiều tác phẩm xuất bản cũng như nhận được nhiều giải thưởng, bà chỉ thực sự được chú ý khi cho xuất bản cuốn I am đàn bà, một cuốn sách bày tỏ những khao khát về tình dục của phụ nữ và bị Cục Xuất bản thu hồi. Sau đó cộng thêm những phát biểu lạ tai như: Tôi đang viết "tiểu thuyết ba xu"!, tên tuổi của bà dần được biết đến hơn là những tác phẩm. Tác phẩm: - Người đàn bà có ma lực (tập truyện ngắn, 1993) - Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm (tập truyện ngắn, 1995) - Vùng sáng ký ức (tập truyện ngắn, 1996) - Truyện ngắn Y Ban (tập truyện ngắn, 1998) - Miếu hoang (tập truyện ngắn, 2000) - Cuộc phiêu lưu trên dòng nước lũ (truyện vừa viết cho trẻ em, 2000) - Cẩm Cù (tập truyện ngắn, 2002) - Cưới chợ (tập truyện ngắn, 2003) - Đàn bà xấu thì không có quà (tiểu thuyết, 2004) - Thần cây đa và tôi (truyện vừa, 2004) - I am đàn bà (truyện ngắn, 2006) - Xuân từ chiều (tiểu thuyết, 2008) - Hành trình tờ tiền giả (tập truyện ngắn, 2010) - Sống Ở Đời Biết Khi Nào Ta Khôn - Đàn Bà Xấu Thì Không Có Quà - Người đàn bà và những giấc mơ - Truyện ngắn Y Ban *** Nàng Nấm rất ghét những buổi trưa. Khi ăn cơm xong, chị em tản đi hết. Họ đi thực hiện những ước mơ ban đêm. Chỉ còn lại một mình nàng Nấm đối diện với thân phận mình trong cái ánh sáng ban ngày, khi không còn giấc mơ bao phủ nữa. Mười ba tuổi, nàng Nấm đã nhận chân được diện mạo của mình. Tạo hóa thật trớ trêu đã cho nàng là thân gái với nước da trắng nõn, khuôn mặt trái xoan. Thiên hạ kháo nhau: mặt trái xoan da trắng, mẹ mắng cũng mua. Nhưng ai dám mua nàng Nấm với đôi chân ngắn cũn chỉ bằng nửa mình trên. Bị chúng bạn cười nhạo, nàng Nấm bỏ học, mặc dù tạo hóa đã kèm thêm cho nàng một trí tuệ sáng láng. Chị gái thương em, mang về thành phố nuôi nấng. Để không phụ công chị, nàng Nấm đã chăm lo việc nhà cho chị. Sáng sáng, nàng Nấm dậy từ năm giờ, quét dọn sạch sẽ nhà cửa rồi đặt nước pha trà cho anh rể, nấu bữa sáng cho chị gái. Đến bảy giờ nàng Nấm gõ cửa căn phòng cuối cùng để đánh thức anh chị dậy đi làm cũng là để quét tước. Tám giờ sáng, nàng Nấm xách làn đi chợ. Ở chợ, người ta gọi nàng Nấm là con lùn khôn ngoan. Nấm đi dạo chợ một vòng để xem chợ sáng nay có món gì ngon nhất mà lại rẻ nhất. Các món ăn trong ngày sẽ được định trong lúc dạo chợ. Thế là các bữa ăn được dọn lên với những món ăn ngon miệng nhưng thường không đắt đỏ. Cuộc sống êm đẹp như vậy diễn ra được ba năm cho đến khi Nấm mười sáu tuổi. Và bắt đầu từ căn phòng cuối cùng đó. Nấm có thói quen gõ cửa căn phòng đó lúc bảy giờ sáng và quen thói nắm tay vào quả đấm cửa rồi mở ra luôn. Rất nhiều lần nàng Nấm nhìn thấy đầu chị gái mình vẫn gối trên tay chồng. Thì phải rồi, họ đang trong thời kỳ mãnh liệt của sức lực, lại được hỗ trợ bởi tình yêu. Trước vẫn hình ảnh đó nhưng không lưu giữ lại gì trong đầu óc Nấm. Nay nó cứ vấn vương trong đầu óc Nấm như một mạng nhện. Nó làm xao nhãng cả những tính toán của Nấm lúc dạo chợ. Đêm đến hình ảnh đó hiện lên trong đầu Nấm rất rõ ràng. Hình ảnh một người đàn ông. ... Mời các bạn đón đọc Đàn Bà Xấu Thì Không Có Quà của tác giả Y Ban.
Ai Và Ky Ở Xứ Sở Những Con Số Tàng Hình - Ngô Bảo Châu & Nguyễn Phương Văn
- Quái thế! Lại có tiểu thuyết toán hiệp ư? - Có đấy! - Hừm, làm thế nào để đường thẳng với compas với khai căn trở thành một câu chuyện? - Hơ, thế mới tài, mà lại không chỉ dành riêng cho tụi si toán, yêu toán, đần vì toán đâu nhé! - Để ta đoán nhé, anh Châu và anh Văn muốn làm một điều tương tự các cuốn nhập môn triết học triết toán triết lý như Sophie's World của Jostein Gaarder ấy... - Trúng phóc! - Nhưng dốt toán như ta có đọc được không? - Mi tốt nghiệp cấp 2 rồi nhỉ!? Mi cũng đâu đến nỗi dốt như con tốt!? Cố mà đọc: chẳng lẽ mi không muốn biết tới sự huyền bí của các con số, chiêm ngưỡng thế giới vô biên cương của tư duy và phương pháp và vẻ đẹp của... - Thôi! Ta can. Mỗi lần nghe mi nói năng cầu kỳ ta lại thấy rét... - Mà này, câu chuyện có hấp dẫn không, lãng mạn không, yy không? - Xời, mi tò mò đáng sợ! Có chớ: có con rồng phun lửa, có con dế thủy chung, có âm mưu và tình yêu, có cả Steve Jobs, rồi một lão vua tên là Ka Cơ nắm quyền khai căn tất cả mọi thần dân... - Stop! Mi dừng ở đó! Để tự ta đọc... *im lặng* - Này, bọn học toán sướng nhỉ! *cùng mơ màng* - Haizzz... Sau này ta có con, nhất định sẽ cho nó học toán. *** Lời khen tặng dành cho cuốn sách: "Cuốn sách là một câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp, với nắng vàng trên bãi cát, với bầu không khí trong vắt của trí tuệ và tình người, với những nghịch lý và âm mưu. Ta chợt nhận ra rằng, thế giới của những con số cũng huyền ảo, kỳ bí và lãng mạn như cuộc đời." - GS Hà Huy Khoái "Tôi đọc cuốn sách của hai tác giả trẻ mà đôi lúc lại cảm giác như đọc thi thoại của các bậc thâm niên." - Nhà thơ Vũ Quần Phương "Một thế giới trong vắt, không gợn những toan tính thiệt-hơn, thua-thắng sẽ còn ám ảnh người đọc Ai và Ky ở xứ sở những con số tàng hình mãi. Ai và Ky đã đem vô vàn số hữu tỉ bạn đọc đến một thế giới diệu kỳ, thế giới của tình yêu tri thức và toán học." - Nhà giáo Phạm Toàn "Cuốn sách giản dị đến mức ai đọc cũng được, kể cả những người không biết gì về toán như tôi. Và rồi, qua cuộc dạo chơi trong xứ sở những con số tàng hình, ta cũng dần hiểu được phần nào vẻ đẹp kỳ diệu của toán học." - Nhà thơ Trần Đăng Khoa *** Bên cạnh niềm vui được thưởng thức văn tài của một nhà toán học đã giành giải thưởng Field, về mặt kiến thức Ai và Ky ở xứ xở những con số tàng hình có phải một thách thức với với nhóm độc giả trẻ không phải dân chuyên toán? Cuốn Ai và Ky ở xứ sở của những con số tàng hình (Gs Ngô Bảo Châu, Nguyễn Phương Văn) sau 2 tuần ra mắt độc giả, hiện vẫn giữ vị trí best-seller số 1 trên thị trường sách. Tuy nhiên, hai tác giả Ngô Bảo Châu và Nguyễn Phương Văn cũng đưa ra một giới hạn rất cụ thể về đối tượng độc giả của cuốn sách, đó là học sinh, sinh viên từ cuối cấp 3 đến năm thứ hai đại học.   Hai tác giả Ngô Bảo Châu, Nguyễn Phương Văn ban đầu định viết Ai và Ky ở xứ sở của những con số tàng hình như một cuốn lịch sử toán học, sau đó phát triển thành một câu chuyện sinh động, đồng thời “phát minh” ra thể tài mới: “tiểu thuyết toán hiệp”. Anh Nguyễn Phương Văn bày tỏ: “Trong quá trình viết, nội dung đã chuyển hướng, song những gì chúng tôi mong muốn từ đầu vẫn không thay đổi. Ấy là cố gắng khơi gợi niềm vui tìm tòi tri thức, ít nhất là làm sao cho bạn đọc tò mò về các nhân vật, muốn biết họ là ai ngoài đời, họ đã sống thế nào và cống hiến những gì”. Đọc kỹ và có nhiều cảm nhận sắc sảo về cuốn sách, bạn Phạm Ngọc Hà (độc giả diễn đàn mạng tiki.vn) cho hay “rất thích không khí truyện, bởi chất chứa vẻ đẹp xa xưa và ấm cúng của một châu Âu cổ điển (biển cát với bầu trời đầy sao, giàn nho, bánh mì mật ong và sữa…). Nội dung toán học thì: Vừa đủ cơ bản và vừa đủ sự khó hiểu để người đọc bị cuốn hút.” Không ít triết lý về cuộc sống được lồng trong tư duy toán học, cho thấy toán học chính là cuộc đời. “Thích triết lý giản dị về sự từng bước. Sự từng bước là thận trọng, nhưng không bao chứa thái độ rụt rè nghi hoặc, mà đầy niềm tin. Cái gì cũng thế, cứ từng bước mà làm thì sẽ làm được hết”, Ngọc Hà cảm nhận.   Có thể khẳng định, cái tên Ngô Bảo Châu đang là một yếu tố thu hút khó lòng cưỡng nổi với độc giả, bởi danh tiếng của người Việt Nam đầu tiên đoạt Huy chương Field. Nhưng tìm đọc là một chuyện, đọc được hay không lại là một chuyện khác. Như lời bậc thầy trong cuốn sách đã dặn chú bé Ai: chân lý chỉ mở ra cho những ai sẵn sàng tìm hiểu, Ai và Ky ở xứ sở những con số tàng hình chắc hẳn không phải cuốn sách dễ dàng. Cái khó của nó, có thể khiến người ta phải trở lại một loạt kiến thức toán liên quan, khiến người ta phải tự mình tìm tòi thêm để lấp những chỗ trống trong tưởng tượng, lập luận của chính mình trong suốt quá trình đọc, để cảm nhận cho đầy đủ những vẻ đẹp của toán, vẻ đẹp của suy luận siêu hình, rồi ngộ ra những mối liên hệ phổ quát trong thế giới.  Có thể nói, những độc giả trẻ, với lời gợi ý từ sách, mà nỗ lực chạm tới được những điều đó, thì họ đã giành được những món quà không nhỏ! Mời các bạn đón đọc Ai Và Ky Ở Xứ Sở Những Con Số Tàng Hình của tác giả Ngô Bảo Châu & Nguyễn Phương Văn.