Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Lai Da Trắng

Là kết quả mối tình giữa một thiếu nữ Việt và một quân nhân người Pháp, lại bị cha đẻ bỏ rơi từ khi còn nằm trong bụng mẹ, cuộc đời của cô bé Kim trở thành một chuỗi những ngày tháng phiêu bạt không dứt từ vòng tay mẹ đến trại trẻ mồ côi đến trường nội trú, từ Bắc chí Nam... Trong bối cảnh Việt Nam vẫn còn nằm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thân phận vừa là con lai vừa là con hoang đã đặt trước Kim biết bao trở ngại, nhưng vẫn không thể khuất phục được ý chí cô vẫn nung nấu quyết tâm thay đổi vận mệnh mình, bằng con đường học vấn... Với lối viết dung dị mà lôi cuốn, cộng thêm sức thuyết phục từ nhiều tình tiết chân thực và cảm động, Cô gái lai da trắng đã nhận được sự đồng cảm của độc giả qua nhiều thế hệ. ***  Đôi nét về tác giả Kim Lefèvre chào đời ít lâu trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, cha người Pháp, mẹ người Việt Nam. Sống trọn thời thơ ấu tại Việt Nam, năm 1961 bà sang Pháp làm luận văn tiến sĩ và bắt đầu giảng dạy văn chương tại nhiều trường trung học tại Paris. Cuốn tự truyện Cô gái lai da trắng là tác phẩm đầu tay của bà, ra mắt năm 1982 với lượng tiêu thụ khá ấn tượng tại Pháp. Ngoài viết văn, Kim Lefèvre còn dịch một số tác phẩm của các tác giả Việt Nam, đặc biệt là Nguyễn Huy Thiệp. Bà cũng thể hiện tài năng diễn xuất trong lĩnh vực sân khấu. *** Hết thảy những câu văn trên đều đã vẽ ra được một góc cuộc sống của những người dân Việt Nam đương thời, từ việc chịu đựng sự bóc lột, sự phân biệt nặng nề đến việc chịu cảnh tha hương khắp chốn hay phải sống chung với những định kiến mang nặng tính cổ hủ đối với đàn bà phụ nữ… Từ đó mà ta có thể mường tượng ra được một số phận nhỏ bé, lầm lũi và đầy sự cay nghiệt của “lũ dân đen Annamite” xưa kia. Nếu ai đó nhắc đến chiến tranh, tôi liền nghĩ ngay đến những tháng ngày chết chóc đau thương, phải đi bôn ba khắp nơi để tìm một nơi để ngã lưng của những người dân, của những người lính và đặc biệt là của những đứa trẻ được sinh ra vào thời kì đó. Nhưng có lẽ, những đứa trẻ lai mới là những người thiệt thòi nhất. Còn gì đau khổ hơn khi biết mình là một con lai giữa Pháp và Việt ngay trong một bối cảnh chiến tranh chống Pháp còn đang dai dẳng tại Việt Nam, còn gì đau khổ hơn khi biết người cha Pháp của mình đã ruồng bỏ mình như ruồng bỏ một người xa lạ. Kim Lefèvre đã khắc họa được phần nào số phận và cuộc đời của những đứa con lai tại Việt Nam thông qua “Cô gái lai da trắng”, thông qua chính câu chuyện của cuộc đời bà. “Tôi được sinh ra, hình như ở Hà Nội, vào một ngày mùa xuân, ít lâu trước cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, kết quả của một cuộc hôn phối chốc lát giữa một cô gái An Nam và một người Pháp. Về chuyện này, tôi chẳng có bằng chứng gì xác thực, mà cũng chẳng ai làm giấy khai sinh cho mãi đến năm tôi mười lăm tuổi. […] Tôi nung nấu mối hận thù mãnh liệt với người cha không hề biết mặt ấy, dường như chỉ có những đứa con bị tổn thương đến cùng cực mới có thể hận thù được đến như vậy.” Ở những dòng đầu, Kim đã kể lại với người đọc nơi mình sinh ra đồng thời cũng nói đến gia cảnh của chính bản thân mình. Bà là một người con lai mang trong mình dòng máu giữa Pháp và Việt. Trong cuộc đời của chính mình, bà có nhiều cái tên và họ khác nhau, chúng gắn liền với những sự kiện, những biến động trong dòng chảy số phận của bà. Từ lúc sinh ra cho đến lúc sang Pháp du học, bà đã trải qua rất nhiều biến cố từ việc bị quấy rối tình dục bởi người anh họ của mình “thấy bàn tay to tướng mềm nhũn của ông anh họ nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của mình mà gí vào chỗ kín của anh ta” cho đến việc bị đưa vào trại trẻ mồ côi bởi chính người mẹ của mình, phải chạy trốn nay đây mai đó vì chiến tranh rồi đến việc bị bắt quả tang khi bà hò hẹn với người thầy giáo, tất cả đều lột tả được số phận bi thảm của bà. Tuy nhiên bà vẫn vượt qua những bi thương đau khổ ấy và rồi cuối cùng giành được học bổng sang Pháp. Song song với chuyện cuộc đời mình, Kim còn phần nào tái hiện được một góc xã hội Việt Nam thời bấy giờ thông qua những chi tiết như: “[…] mẹ tôi là dân Bắc Kỳ. Bà vẫn nói giọng Bắc, đầu chít khăn chứ không búi tóc, đấy là bấy nhiêu bất lợi trong bối cảnh những mâu thuẫn địa phương rất khốc liệt. Tại Nam Kỳ, tức là ở phía Nam, người ta cho rằng dân Bắc Kỳ là những kẻ hà tiện và chỉ sĩ diện vẻ ngoài.” hay “Người ta nhớ lại hình ảnh những phu xe đã sức cùng lực kiệt mà vẫn phải chở những tên thực dân to lớn gấp ba mình và chỉ nhận được những cú đá thay cho tiền công.” Hết thảy những câu văn trên đều đã vẽ ra được một góc cuộc sống của những người dân Việt Nam đương thời, từ việc chịu đựng sự bóc lột, sự phân biệt nặng nề đến việc chịu cảnh tha hương khắp chốn hay phải sống chung với những định kiến mang nặng tính cổ hủ đối với đàn bà phụ nữ… Từ đó mà ta có thể mường tượng ra được một số phận nhỏ bé, lầm lũi và đầy sự cay nghiệt của “lũ dân đen Annamite” xưa kia. Khác với giọng văn đầy chất thơ của những nhà văn Pháp khác, giọng văn của Kim Lefèvre mang một nét gần gũi và bình dị, gần giống với giọng văn của các nhà văn Việt Nam. Trong “Cô gái lai da trắng”, Kim đã kể lại cuộc đời bà một cách vô cùng thân thuộc, hệt như cái cách mà những người bạn quen thân tâm sự với nhau. Khi tôi đọc, dường như có một cái gì đó cuốn hút tôi vào từng câu chữ, từng chương truyện trong tác phẩm. Và theo như tôi nghĩ, phải chăng chính sự bi thương, sầu thảm của số phận bà đã hấp dẫn tôi, lôi kéo tôi vào trong những trang sách, để tôi chiêm ngưỡng được một phần nào số phận người phụ nữ Việt Nam trong thời chiến tranh loạn lạc? Ấn tượng nhất của tôi về “Cô gái lai da trắng” chính là nét độc đáo trong việc bà kể lại các biến cố trong cuộc đời mình, từ đó mà đưa ra những bài học để đời và những quan niệm nhân sinh rất đặc sắc. Ví dụ như từ việc bà hẹn hò với chính người thầy của mình, dù biết việc làm này là sai trái, đi ngược lại với những luân thường đạo lý, nhưng bà vẫn kiên trì theo đuổi những cuộc đụng chạm da thịt chớp nhoáng này để rồi về sau bị bắt quả tang, phải chịu cảnh bị coi thường, khinh rẻ, ta rút ra được một bài học là đừng bao giờ để tình cảm che mờ đi lý trí của mình… Ngoài ra còn rất nhiều những bài học khác mà tôi sẽ đề cập đến trong bài viết sắp tới. Nguyễn Du từng viết: “Đau đớn thay phận đàn bà Lời này bạc mệnh cũng là lời chung.” Chắc có lẽ như giữa bà và Nguyễn Du cũng có một nét tương đồng, đó chính là sự thông cảm và thương tiếc cho những phận đàn bà, phụ nữ Việt Nam ở cái thời “đời người con gái là con đường nhỏ hẹp dẫn từ trinh tiết đến hôn nhân”, ở cái thời mà “người ta sợ Việt Minh như sợ cọp trong rừng xưa kia” vì “nghĩ rằng Việt Minh không phải là người mình”… Hầu hết các tác phẩm văn chương thời chiến đều nói đến những người lính, những người dân hay nói đến bọn thực dân tàn ác mà ít đề cập đến số phận của những người con lai. Chính quyển sách này sẽ giúp mọi người hình dung rõ nét hơn về những con người mang danh phận con lai ở Việt Nam thời bấy giờ. Song song với nội dung đặc sắc trên, giọng văn và cách đề cập đến các vấn đề của bà cũng rất khéo léo, không gây gãy mạch truyện hay gây mất tự nhiên. Chính vì những điều trên, tôi nghĩ đây là quyển sách cần phải có trong tủ sách chiến tranh của mỗi người và tôi cũng rất khuyến khích các bạn nên đọc thử. Nội dung: Đào Phụng - Bila Team *** Tôi được sinh ra, hình như ở Hà Nội, vào một ngày mùa xuân, ít lâu trước cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, kết quả của cuộc hôn phối chốc lát giữa một cô gái An Nam và một người Pháp. Về chuyện này, tôi chẳng có bằng chứng gì xác thực, mà cũng chẳng ai làm giấy khai sinh cho mãi đến năm tôi mười lăm tuổi. Mà tôi cũng chẳng tìm hiểu làm gì. Điều đó có gì là quan trọng đối với tôi hay đối với ai khác. Chúng tôi sống trong một xã hội mà khái niệm thời gian định lượng không hề tồn tại. Cả đời người đàn bà chỉ cần chia làm mấy giai đoạn lớn: thời thơ ấu, rồi lúc thấy kinh - dấu hiệu có thể sinh con, và nghĩa là sắp lấy chồng được, rồi làm mẹ, mà nếu may mắn sinh được một đứa con trai thì sẽ làm mẹ chồng để có cái quyền áp chế một nàng dâu e lệ bước vào nhà mình… Cho nên có sớm muộn bốn hay năm năm cũng chẳng nghĩa lý gì. Tôi không biết cái ông sinh ra tôi trông giống ai. Mẹ tôi chẳng nhắc đến ông ta bao giờ. Trong những ngày buồn chán, tôi thích tưởng tượng, hình dung ông ta như một tay lính lê dương, không phải “chàng lê dương đẹp trai của em” như lời bài hát ở xứ Pháp này đâu, mà là một tay thực dân ngổ ngáo, đáng ghét, một kẻ thuộc phe kia. Tôi nung nấu mối hận thù mãnh liệt với người cha không hề biết mặt ấy, dường như chỉ những đứa con bị tổn thương đến cùng cực mới có thể hận thù được đến như vậy. Tôi đã mang nhiều họ nối tiếp nhau, chúng giống như những cái bản lề trong cuộc đời tôi. Đầu tiên là họ Trần của mẹ, khi bà một mình vò võ nuôi con. Nhưng rồi, hoảng hốt vì ngày càng chứng kiến thêm nhiều hậu quả do sự tồn tại của tôi đè nặng lên cuộc đời bà, bà liền giao tôi vào tay một bà vú trước khi trốn lủi vào tận Sài Gòn, mảnh đất lạ lẫm với bà nhưng lại chất chứa nhiều hy vọng cho bà xây dựng lại tương lai. Tiếp đến là cái họ Tiffon của người đàn ông sinh ra tôi, vào giai đoạn mà tất cả họ hàng nhất trí đòi mẹ tôi đưa tôi vào trại mồ côi để “quẳng lại cho dòng giống nhà nó”. Bởi vì, nói đúng ra, tôi đã trở thành một con quái vật giữa cái xã hội hết sức dân tộc chủ nghĩa. Ông cậu tôi tham gia Việt Minh từ năm 1941 và hội họp thường xuyên trong các khu rừng thuộc Tuyên Quang. Tất cả mọi cái trên người tôi đều tương phản với những người trong gia đình: từ hình hài đứa con lai đến tính khí thất thường khó hiểu, tóm lại là trong người tôi rất ít chất Việt Nam. Người ta chụp lên đầu tôi đủ thứ xấu xa chỉ vì dòng máu Pháp chảy trong huyết quản tôi. Điều đó ngăn cản mọi sự âu yếm dịu dàng dành cho tôi. Tôi thông cảm với họ. Tôi đồng tình với họ. Tôi cũng thế, cũng ghét cay ghét đắng cái thứ máu ấy trong người mình. Khi còn là một đứa con gái nhỏ, tôi đã khấn Trời khấn Phật xui khiến tôi gặp phải tai nạn gì đó cho cái thứ máu ấy, thứ máu đáng nguyền rủa ấy, chảy ra hết khỏi người tôi, để tôi được là đứa con gái Việt Nam thuần chủng, hòa hợp với những người xung quanh và ngay với chính bản thân mình. Vì tôi yêu đất nước này, yêu những cánh đồng lúa, những lũy tre xanh, những cái ao làng nơi tôi vẫn thường vùng vẫy với đám trẻ cùng lứa. Tôi không còn lưu giữ chút ký ức nào về những năm đầu của cuộc đời, ngoại trừ cái cảm giác rất sớm nhận ra rằng ở bất cứ chỗ nào mình cũng lạc lõng, xa lạ. Tôi rất đau lòng vì chuyện đó, không phải chỉ như chịu đựng một sự bất công, mà còn như phải mang trong mình một nét tật nguyền. Tuổi ấu thơ của tôi chỉ còn là bóng đêm trong ký ức. Đêm di cư. Tôi vẫn còn giữ từng mảnh ký ức về những cuộc dịch chuyển từ nơi này sang nơi khác, hệt như gói bưu kiện không người nhận. Bà vú già - từ lâu không được ai trả công, và cũng không còn nuôi nổi tôi nữa - cõng tôi trên lưng đi tìm một bà dì, ông cậu, hay bất cứ một người nào có dây mơ rễ má với tôi để trút sang họ cái gánh nặng này. Vào một đêm thu tại Hà Nội. Tôi nhớ tiết trời dịu mát vì trận mưa phùn - cái thứ mưa nhẹ hạt ở Bắc Kỳ - nhớ cảm giác dìu dịu trên tấm lưng trần của bà vú, da thịt vừa nhão vừa đàn hồi. Tôi bám vào thịt da bà như bám vào tấm võng ấm áp và mịn mượt, tôi nhấm nháp tận hưởng niềm thích thú trên con đường bất tận ấy. Phải chi cuộc hành trình vô định ấy kéo dài suốt cả đời tôi, và tôi cứ được bám lấy tấm lưng trần ấm áp của bà vú, còn da thịt mình thì phó mặc cho những hạt mưa phùn với lòng biết ơn, như vậy thì thích biết mấy. Trong ký ức xa xôi, tôi thấy Hồ Gươm hiện ra như một bức tranh Tàu mờ ảo trong sương. Vào năm nào? Tôi không thể nói chính xác. Bấy giờ các thiếu nữ đi dạo quanh bờ hồ, những mái tóc thề đen nhánh buông đến eo, và những tà áo mỏng phất phơ trước gió. Mấy đứa nhỏ chơi đùa trên bãi cỏ. Mấy bà hàng cốm bọc trong phiến lá sen những hạt cốm xanh rờn, mọng sữa, đượm hương lúa mới. Tôi thấy lại ngôi trường mẫu giáo, sáng sáng bầy trẻ nhỏ xếp hàng ngay ngắn trước ngọn cờ tam tài của Pháp, hét đến váng óc bài Maréchal, nous voila…* Người ta dạy lũ trẻ con chúng tôi sự ưu việt của trí tuệ so với bạo lực. Tôi còn nhớ bài hát kể chuyện Chú bé Tí Hon đã chiến thắng con quỷ ăn thịt người chỉ bằng mấy câu thế này: Hỡi con quỷ kia, hãy tránh lối ta đi! Bởi ta chẳng sợ gì mi Mi chẳng làm gì được ta Ta còn được học ở trường Chứ mi thì mãi là tên dốt đặc. Trí tuệ quả là thứ vũ khí kỳ diệu mà tôi mãi mãi tôn thờ. Hồi đó, tôi còn ở nhà bà cô của mẹ tôi. Bà đã có tuổi và tàn tật, nhưng nhan sắc thì tuyệt trần. Nghe nói bà bị ngã thang, giập xương hông, nên từ khi lâm nạn, bà phải ngồi lì trên chiếc ghế bành. Nhưng con mắt bà vẫn linh lợi, tâm trí bà vẫn hoạt bát cứ như một nữ thần vĩnh cửu và đáng sợ. Khi cuộc sống xô đẩy tôi trôi dạt đến nhà bà thì tuổi bà đã khoảng sáu lăm. Tuy nhiên, khuôn mặt trái xoan chưa lộ ra chút dấu hiệu nào của sự suy sụp, mà trái lại những nét đẹp của bà vẫn giữ được một sự trẻ trung lạ lùng. Bà kiêu kỳ với làn da mịn màng huyền diệu được tắm rửa bằng sữa. Bà bảo đó là bí quyết giữ gìn nhan sắc của bà. Khiếm khuyết duy nhất ở bà có lẽ là cái dáng vẻ èo uột, bệnh hoạn, bất thường như cái cây úa vàng vì cớm nắng. Bà không tỏ chút tình âu yếm nào đối với mẹ tôi cũng như đối với tôi. Bà gây cho tôi cảm giác kinh hãi, nên tôi thường phải núp vào một xó để ngắm nhìn bà mà tim vẫn đập loạn lên, chỉ lo bị bắt gặp. Trước khi bị nạn, bà cô của mẹ tôi sống phong lưu với một sĩ quan Pháp. Hai người sinh được một mụn con gái, tức là chị em con dì con già với mẹ tôi, hơn nhau vài tuổi. Dì Marcelle ở với bà cho đến khi có mang, sinh con trai xong là vội quẳng vào tay bà mẹ, tếch luôn sang Pháp. Dì đã sớm hiểu ra vận may của mình là không phải ở lại Việt Nam. Tôi ngờ ngợ rằng chính vào dạo ấy, mẹ tôi đã gặp cha tôi, nhưng không chắc lắm, vì không ai nói với tôi chuyện đó bao giờ. Bà cô mẹ tôi cưng cháu ngoại như ông thánh sống. Đó là một anh con trai bảnh bao khoảng mười lăm tuổi mà cả nhà phải gọi là “cậu Yves”. Được bà nuông chiều, anh càng làm vương làm tướng. Người béo bệu, da dẻ hồng hào nhưng nhẽo nhợt. Trong cái xã hội Á Đông chúng tôi, anh ta đại diện cho “bọn mũi lõ”, cách gọi dân dã để chỉ người Pháp thời bấy giờ. Cứ thấy anh ta ló mặt là chúng tôi đều phải cụp mắt xuống. Ra dáng cậu chủ, anh ta ngồi ăn bên bàn, còn chúng tôi thì ngồi trên manh chiếu trải dưới đất. Thỉnh thoảng anh ta quẳng xuống chiếu mấy miếng ăn thừa. Tôi rất hãi ông anh họ tôi, “cậu Yves”. Anh ta rất tai quái, xét nét từng li từng tí, chỉ rình xem tôi có sai sót gì là vin vào cớ đó mà bắt phạt. Tôi nhớ mãi những tiếng thét kinh hoàng của mình cái lần anh ta xốc tôi lên dứ dứ trên tổ kiến. Mà tội của tôi có đáng gì cho cam, chỉ là anh ta nghe người ta nói tôi không thật ngoan trên lớp. Dẫu gì thì anh ta cũng cứ muốn ra oai, thế là bắt tôi xắn quần qua đầu gối, quỳ ngay vào ổ kiến đang nháo nhác. Vì không bị trói nên tôi lẽ ra đã có thể trốn đi. Nhưng tôi vẫn cứ ở đó mà kêu la, gào khóc đến lạc giọng, như thể bị uy quyền của anh ta thôi miên vậy. Hai chục năm sau, tôi được mời đến gặp lại anh ta, khi đó đã là kỹ sư một công ty dầu lửa tại Sài Gòn. Còn tôi cũng đã là một cô giáo trẻ dạy Pháp văn tại một trường trung học Việt Nam trong thành phố. Đắn đo, do dự mãi, nhưng rồi tính hiếu kỳ đã át nỗi e ngại, tôi nhận lời. Xích lô đưa tôi đến trước cổng một ngôi biệt thự trong khu gia cư. Từ ngoài nhìn vào thấy thấp thoáng một lối đi giữa hai hàng me, một bãi cỏ điểm xuyết những bụi râm bụt. Tôi vội quay ngoắt. Những cánh cửa của quá khứ đời tôi, ẩn nấp đằng sau là các hung thần cho đến giờ vẫn tiếp tục gây khiếp đảm cho đứa con gái nhỏ khốn khổ ngày trước, đã khép lại như thế đó. Quan hệ giữa tôi với anh Yves hồi nhỏ là thứ quan hệ hết sức hỗn tạp. Ban ngày, tôi phải làm một phần việc của con sen con ở. Thế nhưng tối đến vẫn phải nằm cùng anh trên cái giường Tây cao lêu đêu. Với tôi, cái giường ấy luôn là giường lạ, không làm sao quen được. Leo lên cái giường ấy là leo vào một thế giới chất chồng sợ hãi và căm ghét. Thế mà tối nào tôi cũng phải nằm bên một con người suốt ngày hành hạ mình. Người tôi cứng đơ ra vì sợ hãi, hai mắt nhắm nghiền nhưng cứ phải nằm im thin thít, theo dõi nhất cử nhất động của ông anh họ, rình anh ta ngủ say rồi mới dám chợp mắt. Cả hai đứa rình lẫn nhau. Nhưng phần lớn thời gian, cái sợ của tôi tỉnh táo hơn cái ác của anh ta, nên anh ta luôn thiu thiu ngủ trước tôi. Bấy giờ tôi mới ngủ thiếp đi. Tôi căm ghét cái giường đôi ấy, và mỗi lần phải đòn là tôi lại thừa dịp vừa kêu gào khóc lóc vừa tè luôn một bãi ra tấm khăn trải giường trắng tinh. Tôi sung sướng đến phát dại khi thấy cái giường bị ố bẩn, còn ông anh họ tôi thì tức tối lồng lộn. Những chiến công hiếm hoi ấy đã trả hận cho tôi những nỗi kinh khiếp lúc đêm khuya giật mình thức giấc, thấy bàn tay to tướng mềm nhũn của ông anh họ nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của mình mà gí vào chỗ kín của anh ta. Tôi trùm kín tấm chăn như trùm vải liệm, vừa ngạt thở vừa tê liệt vì ghê tởm. Một cơn lạnh buốt thấu ruột gan, chỉ muốn chết cho rồi. Lúc ấy tôi mới chừng bốn, năm tuổi. Sáng ra mới thấy lại cái thú muốn sống. Mùi rau thơm, mùi gừng chín ngào ngạt từ dưới bếp đưa lên mùi phở, thứ xúp ăn sáng ở Hà Nội, thêm tiếng bát đũa, tiếng thìa chén lanh canh chuẩn bị bữa điểm tâm, cả một thế giới thân thuộc khiến ta yên dạ. Nhà bà cô của mẹ tôi gồm một gian chính trông ra sân, giữa sân có giếng nước, bên kia giếng là một dãy những phòng nhỏ y hệt nhau, dành cho các cô gái được gọi là “con nuôi” của bà thuê lại. Họ đều là gái mới lớn, từ đồng ruộng ra thẳng đây để được tuyển làm vợ bé cho các sĩ quan Pháp là khách quen của nhà này. Các cô rời bỏ quê nhà để bố mẹ khỏi phải nuôi thêm một miệng ăn. Ngoài tuổi trẻ và nhan sắc ra, họ chẳng có của nả gì khác. Còn gì giản đơn hơn việc bán mình? Dẫu thế, họ vẫn không phải là gái điếm. Các cô không có cả cái ưu lẫn cái khuyết của gái điếm. Với bản tính cả thẹn và sự trong trắng cả thể xác lẫn tâm hồn, các cô co rúm người lại như phải nuốt chén thuốc đắng khi hiến thân cho gã đàn ông không quen biết. Đó là cái thời điểm khó chịu nhất buộc phải trải qua. Các cô không ý thức được bao nhiêu về nhân cách để cảm thấy bị xúc phạm. Huống hồ, họ cho rằng đã là đàn bà thì người đoan chính nhất cũng không thoát được việc đó trong ngày cưới của mình kia mà. Chẳng qua thân phận đàn bà là thế. Còn việc yêu đương, các cô chẳng bao giờ nghĩ đến, hay ít nhất cũng không nghĩ đến việc yêu đương những gã đàn ông cao lớn, lông lá, đang làm chủ cái đất nước vốn đã đầy rẫy những nỗi e sợ chồng chất lên đầu họ. Các cô chỉ cố không để những gã đàn ông ấy phật lòng và xin ngoan ngoãn làm vợ bé nàng hầu, miễn là được giữ kín, không để lọt tai tiếng về làng. Trong số đó, tôi đặc biệt có cảm tình với một cô gái trẻ tuổi, mảnh mai, mái tóc óng ả trời ban mỗi lần ngồi xuống là quét tận mặt đất. Tình cảm âu yếm của cô đã bù đắp cho tôi. Tôi bắt chước dáng đi, dáng ngồi của cô, tôi cũng lấy khăn vấn tóc lên cho giống cô. Đôi khi tôi đi theo cô vào tận căn phòng nhỏ bề bộn những quần áo đàn ông. Một lần, cô bỗng chui xuống gầm giường lấy ra một cái tráp đựng mấy chiếc trâm cài đầu có hình chim đang bay, một chiếc mùi soa thêu, vài đồng tiền nhét trong ruột tượng. Số tiền chẳng là bao, nhưng cô vẫn phải trông vào nó phòng lúc ốm đau. Lo dành dụm kín đáo một ít tiền riêng là việc thường tình của người phụ nữ Á Đông đã hấp thụ nền giáo dục dựa trên đạo lý tam tòng. Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Người đàn bà nào cũng phải tuân theo đạo tam tòng ấy. Cô cũng vậy, cô thấy trước rằng khi bị xử tệ hay bị xua đuổi, sẽ chẳng ai che chở cho mình, số phận cô lúc này hoàn toàn nằm trong tay ông chủ nhất thời kia. Gặp được người tốt bụng thì cô tạ ơn Trời Phật, chẳng may gặp phải người xấu thì cô đem chỗ tiền dành dụm mua chút lễ vật cúng Trời Phật cầu được phù hộ độ trì. Tôi thường thấy mẹ tôi chôn giấu chút ít tiền bạc để đảm bảo cho mình khi gặp chuyện chẳng lành. Mẹ ơi, con đã từng được kề cận bên mẹ trong những đêm tối đen như mực ấy. Hai mẹ con mình rón rén bước chân với ngọn đèn dầu lạc che khuất dưới chiếc nón lá. Ánh đèn chỉ đủ rọi xuống bốn bàn chân trần và khoảng sáng hẹp bao quanh. Mẹ lo không tìm ra chỗ bờ bụi nơi chôn giấu kho báu của mẹ. Mấy con chão chuộc thấy động kêu toáng lên làm con giật bắn người. Thỉnh thoảng một con đom đóm xé màn đêm bằng ánh sáng lập lòe trốn chạy, tưởng như những bóng ma trơi đang than khóc bằng ánh lập lòe ấy. Con mong sao cho cái hũ tiền của mẹ được chôn nơi tận cùng thế giới để mẹ con ta đi đến đó mà tìm, từ bỏ mãi mãi những gì ở lại phía sau. Tôi sống ở Hà Nội với bà trẻ và anh họ tôi chỉ được một thời gian ngắn. Họ nhanh chóng chán ngán tôi. Từ lâu tôi cũng đã cảm thấy tự trong bản chất tôi có cái gì đó không những không gây thiện cảm mà còn gây ác cảm nữa, nó làm cho người có thiện ý nhất cũng dễ nản lòng, và làm cho sự vồ vập dành cho tôi không bao giờ biết đến ngày mai. Tôi không hề biết rằng mỗi lần người ta ngỏ ý muốn tống khứ tôi đi, chính là do mẹ tôi lần đó không gửi số tiền cần có để nuôi tôi. Bằng chứng là người ta lại tống tôi vào Sài Gòn với mẹ. Tôi không nhớ được là vào năm nào và tôi đã đi như thế nào tới thủ phủ của miền Nam Việt Nam. Có lẽ lúc ấy tôi mới lên bốn lên năm gì đó. Mẹ tôi sống với một ông chồng trong một ngôi nhà đâu đó tại vùng ngoại ô. Một mảnh sân nhỏ ngăn cách gian bếp với nhà trên là nơi có đặt bàn thờ tiên tổ. Đấy là nơi mẹ tôi mỗi khi có điều gì buồn bực lại chìm đắm vào việc đèn nhang khấn vái. Bà có mang và khấn vái suốt. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Lai Da Trắng của tác giả Kim Lefèvre.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ký Ức Phiên Lãng - Tô Hoài
Trong làng văn học Việt Nam rất hiếm có nhà văn nào nhận được sự yêu thương, mến mộ từ nhiều thế hệ độc giả khác nhau như nhà văn Tô Hoài. Nếu các bạn nhỏ biết đến ông như một người bạn dí dỏm, đáng yêu qua kiệt tác Dế mèn phiêu lưu ký và series truyện ngộ nghĩnh về loài vật, thì độc giả lớn tuổi biết đến ông như một cây đại thụ của làng văn với nhiều tác phẩm đã trở thành những tượng đài bất tử như Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu mường, Chuyện đầm sen đền Đồng Cổ… Tưởng nhớ một năm ngày Cụ trở về với cát bụi, Công ty Sách Phương Nam đã cho xuất bản và tái bản những tuyệt phẩm để đời của nhà văn, như một lời tri ân sâu sắc kính dâng lên Cụ. Ký Ức Phiên Lãng ghi lại những hồi ức đẹp về con người, về những vùng đất khác nhau trong ký ức của nhà văn Tô Hoài. Ông có dịp đi qua nhiều nước, được gặp gỡ nhiều người và bằng ngòi bút chân thực của mình ông đã ghi lại những con người vừa chân chất, vừa mền khách, vừa anh dũng không chịu khuất phục trước gông xiềng nô lệ. Đó là đất nước Lào với những con người hiền hòa mến khách, là một Campuchia vừa thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt đang từng bước xây dựng lại đất nước, là một Ê-ti-ô-pi-a dù đang đương đầu với chiến tranh nhưng vẫn luôn hiền hòa tràn đầy hi vọng... Với bút pháp miêu tả bậc thầy nhà văn Tô Hoài đã tái hiện lại mảng ký ức đẹp về con người và đất nước bạn. Giờ đây nó không chỉ là ký ức của riêng ông mà còn sống mãi trong lòng người đọc Việt. *** Tô Hoài (tên khai sinh: Nguyễn Sen; 27 tháng 9 năm 1920 – 6 tháng 7 năm 2014) là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.     Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc. Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi. *** HÀ NỘI - QUẢNG CHÂU, Air Việt Nam bay một tiếng ba mươi phút. Cất cánh bờ sông Hồng chân Tam Đảo, uống một lon bia thì trông thấy thành phố Quảng Châu bên sông Châu Giang với núi Bạch Vân mùa đông mù mịt. Trong các phương tiện đi lại ngày nay, con ngựa, con thuyền, tàu thủy, tàu hỏa, chiếc xe và đôi chân người thì cái tàu bay đã làm cho kẻ lữ hành nhãng mất cảm tưởng xa gần nơi đến nơi đi. Quảng Châu tôi chưa bao giờ được tới mà đã sẵn gần gũi rồi. Dẫu cho dọc đường dưới kia có nhọc nhằn ngày đi đêm nghỉ biết mấy thì phương trời này với tôi không phải từ hồng hoang. Khi mới biết mặt chữ, những trang vỡ lòng đã cho chúng tôi thuộc làu làu những Lĩnh Nam, những Ngũ Lĩnh, những Lĩnh Nam trích quái , những quân quan tuần thú phương nam trong sử sách mà bao nhiêu năm về sau còn cảm thấy trập trùng thiên sơn vạn thủy khi nghe bài hát Nhị Lang Sơn . Thành Phiên Ngung bây giờ là một thị trấn vệ tinh của Quảng Châu. Trên đại lộ giữa Quảng Châu hiện đại, năm 1983 mới phát hiện mộ Nam Việt Vương - mối tình bi thảm Mỵ Châu - Trọng Thủy xa gần nguồn gốc từ đây. Công viên đồi Hoàng Hoa, mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái (1904 - 1924), bia khắc năm ông hy sinh, tôi khi đó mới chập chững biết đi. Trước mặt, doi đất Sa Diện bờ Châu Giang, địa phận tô giới Pháp - Anh ngày trước, khách sạn Victoria vẫn như xưa. Phạm Hồng Thái ném bom định giết Mec-lanh toàn quyền Đông Dương rồi băng ra sông Châu - chỗ ấy ngã ba kênh đào, liệt sĩ đã bỏ mình giữa nơi sông nước mênh mang này. Đến đây, hôm nay mới thấy, nhưng chúng tôi đã nghe được kỳ tích anh hùng Phạm Hồng Thái từ tuổi thanh niên. Lịch sử thế nào, con người và thời gian thì vừa ngắn ngủi vừa lâu dài. Nơi Bác Hồ đã sáng lập và làm báo Việt Nam Thanh niên Cách mệnh Đồng chí Hội ở phố Văn Minh, một phố cũ như Hàng Đường, Hàng Giấy Hà Nội. Nhà ở và cửa hàng chen khít, một cổng ngách sâu vào nhà trong. Nghĩ về hang đá Pác Bó ở rừng Hà Quảng Cao Bằng hơn hai mươi năm sau. Thì đây đã là một hang Pác Bó giữa nơi phồn hoa, Người vì lý tưởng, sá gì ở chỗ nào, thế nào. ... Mời các bạn đón đọc Ký Ức Phiên Lãng của tác giả Tô Hoài.
Độc Thoại Hai Mươi - Mạc Thụy
“Giữa đời sống bộn bề và tấp nập, có khi nào bạn kịp nhận ra mình đang đi quá nhanh? Có khi nào bạn nghe được đời sống đang nghiêng nghiêng, thầm thì? Có khi nào bạn ngoái lại nhìn một điều gì trong nuối tiếc? Tôi nghĩ, đời sống có nhiều thứ diễm lệ và khí chất hơn việc chỉ khư khư sầu đau mỗi chuyện ái tình” Độc thoại hai mươi là cuốn sách ghi lại hành trình của những xê dịch. Xê dịch từ những miền đất chàng trai trẻ đó đã đi qua; xê dịch những cảm xúc trong tâm hồn giữa buồn, vui, hờ hững, nuối tiếc, cả những cảm xúc không gọi thành tên; xê dịch để cảm nhận và xê dịch để chiêm nghiệm. Đọc những con chữ của Mạc Thụy, người đọc như được buông mình giữa những hối hả của cuộc sống hàng ngày. Đôi khi người ta bắt gặp chính mình, nỗi niềm đó, cảm xúc đó, tâm trạng đó dưới những dòng ghi chép tản mạn của chàng trai trẻ. Những thứ vu vơ rất thật, những nỗi buồn chênh vênh của một thời tuổi trẻ, những hoài niệm về chuyện cũ đã qua, và cả những yêu thương ấm áp của mối tình đầu. Mạc Thụy đã rong ruổi ngồi sắp lại tất cả những điều đó trong 58 bài viết của cuốn sách này. *** Nhận định "Thằng Thụy sến, nhưng cái sến của nó mang cả một bầu trời của hoài niệm về những ngày xưa cũ. Văn thằng Thụy cũng như con người nó, đầy chất tự sự, đầy chất hoài niệm và đầy chất thơ. Thằng Thụy viết ngày hai mươi, nhưng đọc của nó, lại cứ thấy giống của một người ngoài năm mươi đang ngồi dẫm trà, nhớ về kỉ niệm xưa. Mà kỉ niệm, thì lúc nào chẳng đẹp, vì người ta không bao giờ tìm lại được cảm giác như kỉ niệm lần nào nữa trong đời. Vì vậy, đọc văn thằng Thụy cũng thấy cái vẻ đẹp phảng phất mùi kỉ niệm đó." (Nguyễn Ngọc Thạch) *** Trong dòng đời sống của mỗi con người, ai cũng có một thứ gắn liền với mảnh đất nơi họ từ đó bước ra đi, để nhớ nhung về, để thương yêu và thổn thức về. Với mảnh đất ấy, trong tôi là một con sông. Có những đêm Sài Gòn sương xuống trở lạnh, việc của đời, tôi tạm gác lại, và ngồi thở khó nhọc vì sự ngột ngạt của căn gác trọ. Những lúc ấy, tôi thường mở toang cửa sổ, mong tìm kiếm một cơn gió đi lạc vào chốn nhà len chặt nhà, mong tìm thấy một ánh trăng bàng bạc lọt qua khung trời dần kín mít những tầng là tầng cao. Những lúc vận may mỉm cười, tôi vẫn tìm được sự cứu rỗi trong phút chốc. Có đôi khi, tiếng rao lạc lõng giữa đêm hun hút, lại cồn cào trong tôi nỗi nhớ: về con sông quê hương. Về những đêm bên này bờ nhìn bên kia bờ dưới ánh đèn vàng vọt. Về những người xa và vài mảnh tình con con êm ái. Dân vùng gọi nó là Cà Ty. Tôi gọi nó là sông Mong. Mong chờ. Một điều lí thú là, có khá ít những con sông chảy băng ngang qua giữa trung tâm thành phố. Nhưng, hễ có con sông nào ngạo nghễ cắt thành phố ra đôi bờ bên này bên kia thì hẳn thể nào cũng nên thơ, nên văn. Có thể kể ra trên đầu ngón tay sơ sơ vài cái tên nổi tiếng, được vào thi ca. Bên Tây có dòng La Seine, đằm thắm dạo chơi qua Paris, êm ái và kiêu kì như một nàng tiểu thư đài các. Giữa những đêm huyền diệu bên dòng La Seine, nhạc sĩ tài danh Matthieu Chedid đã cảm tác nên bài La Seine làm rúng động con tim bao thế hệ. Bản này, nàng “chanteuse” Bạch Yến của Việt Nam cũng từng ca qua và nhận được nhiều sự yêu mến từ cả dân Paris lẫn dân Việt. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ của Việt Nam khi sang đây du học hoặc định cư đều không thoát khỏi vẻ đẹp mê đắm của dòng sông Seine, để rồi viết nên những lời thơ, ý nhạc trở thành bất hủ, như Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Anh Bằng, Lam Phương… Rồi nhiều nữa những dòng Thames của Anh Quốc sương mù vương vấn, hay dòng Danube với nhạc phẩm huyền thoại Le Beau Danube Bleu (tên tiếng Việt là Dòng sông Xanh gắn liền với tiếng hát của đại danh ca Thái Thanh). Ở ta thì không thể không nhắc đến dòng Hương Giang. Nàng Hương Giang sầu mộng đi vào không biết bao nhiêu lời văn, ý thơ, tứ nhạc của các tài danh xứ Việt. Biết bao cuộc tình thơ mộng và biến động thời cuộc bên dòng xanh thẳm này. Ấy vậy mà người ta vẫn nghêu ngao hoài: “Hát nữa đi Hương, hát điệu nhạc buồn, điệu nhạc quê hương…” (Hương ca vô tận - Trầm Tử Thiêng), rồi thì: “Dòng sông Hương vẫn mơ, thời gian trôi chưa xóa màu xanh mơ hồ…” (Trở về Huế - Văn Phụng), để rồi tự vấn hoài câu hỏi mãi chẳng có lời đáp: Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Dòng Cà Ty của Phan Thiết - dòng Mong Chờ của tôi - thì chẳng chảy dài trong từng áng thi văn như thế. Dòng Mong Chờ chỉ tuôn mãi trong hoài niệm và kí ức của những con người dung dị nơi phố biển này mà thôi, trong đó có cả tôi, qua những câu chuyện má kể, qua những sớm tối rong ruổi dưới ánh đèn màu… Dòng sông chảy dài qua Phan Thiết êm êm một màu phù sa từ thượng nguồn. Mạn đầu lúc mới vào thành phố, hai bên bờ len kín những nhà là nhà của bà con làng chài. Từng manh lưới, cái thúng đến nong khô cá được dân chài phơi phóng giữa ngày ngư nhàn tạo nên một bức tranh miền biển rộn rã, yên bình và mặn mòi. Nhà cửa hai bên bờ thường xây theo kiểu dã chiến, nửa nhà sàn vươn ra phía sông, hoặc ai khấm khá thì đôn nền thật cao để tránh khi nước lớn. Ở mạn cuối trước khi dòng sông đổ ra cửa biển, và cũng là trung tâm thành phố, hai bên bờ dần được cải tạo thành hành lang ven sông, khá tươm tất và đẹp mắt. Ðoạn gần cảng biển, tàu bè đậu nhiều lắm. Những con tàu đánh cá bằng gỗ ván, dày dạn sóng gió. ... Mời các bạn đón đọc Độc Thoại Hai Mươi của tác giả Mạc Thụy.
Ký Ức Lạc Loài
Ký ức lạc loài (nguyên tác tiếng Đức: Die Ausgewanderten) là tuyển tập bút ký của W.G. Sebald ấn hành năm 1992; từng được trao các giải thưởng văn chương danh giá: Berlin Literature Prize, the Literatur Nord Prize và Huy chương Johannes Bobrowski. Bản tiếng Việt do Đăng Thư dịch lại từ phiên bản tiếng Anh có nhan đề The Emigrants của Michael Hulse, in 1997. Cuốn sách là bốn câu chuyện đầy u uẩn của bốn nhân vật: Henry Selwyn, Paul Bereyter, Ambros Adelwarth và Max Aurach - những người Đức di cư đến Anh, Mỹ sau Thế chiến Thứ hai. Các nhân vật của Sebald đa phần thuộc thành phần trí thức: bác sĩ, giáo viên,… trở thành những người di dân và bị lưu đày trong vùng ký ức ngột ngạt. Trong buổi hoàng hôn của cuộc đời, họ không thể tìm thấy bình yên. Họ tự sát, tự đi vào nhà thương điên hay tìm cách trở về rồi biến mất… Lối viết tỉ mỉ, cùng hình ảnh tư liệu minh họa, các câu chuyện đan bện vào nhau như những thước phim tài liệu có màu sắc ảm đạm, chậm rãi và ẩn giấu nhiều sự thật tàn khốc, chạm vào tầng sâu kín nhất của tâm thức di dân. Đọc W. G. Sebald cũng có thể nhận ra tâm trí con người là thứ bị hủy hoại nặng nề và khó tái thiết nhất sau những dư chấn lịch sử. *** Giữa những trang sách như một mê cung của ký ức, chiến tranh âm thầm len lỏi, những thất vọng và đổ vỡ được chất chứa trong một hình thức bình thản đến kỳ lạ Có những nhà văn sinh ra để lưu giữ ký ức của một dân tộc, để không gì bị lãng quên. Đối với những người Đức nhập cư, W.G. Sebald là người trao truyền ký ức của họ. "Ký ức lạc loài" (Đăng Thư dịch, Phanbook và NXB Đà Nẵng ấn hành 2019) là tác phẩm ký thác những mảnh vụn đời sống của một thế hệ người nhập cư sau Đệ nhị Thế chiến. Thật khó để định dạng rõ ràng thể loại của tác phẩm này. Là một tiểu thuyết, nó đầy ắp tư liệu hình ảnh, những ngày tháng. Là một hồi ký, nó bàng bạc tính hư cấu và những liên tưởng văn chương. W.G. Sebald đưa người đọc vào thế giới của những thước phim tài liệu, như một biên niên ký ghi nhận 4 cuộc đời song hành cùng nhau, đau thương cùng nhau và hủy diệt cùng nhau. Lần lượt trải qua 4 nhân vật: bác sĩ Henry Selwyn, Paul Bereyter, Ambros Adelwarth và Max Aurach, nhà văn tái hiện bức chân dung của những con người tha hương lưu lạc nơi đất khách, từng người mang theo trong mình gánh nặng quá khứ. Đối với họ, đời sống ở nơi chốn mới không khác chi sự lưu đày, khi mà những thương tổn xa xưa vĩnh viễn in hằn trong trí nhớ. Ký ức đối với họ "là một thứ ngu ngốc. Nó làm đầu óc ta choáng váng, chẳng khác gì ta không nhìn ngược về phối cảnh đang lùi xa dần của thời gian mà là nhìn xuống mặt đất từ một độ cao chót vót, từ trên một tòa tháp nào đó mà đỉnh đã chìm khuất trong mây". Trên cái "độ cao chót vót" ấy, W.G. Sebald nhìn xuống quá khứ như nhìn xuống một vực thẳm, từ vực thẳm, những tiếng nói tưởng chừng bị chôn vùi bỗng vang vọng, sống động và chân xác như thể ở cái chốn thâm u của lịch sử ấy, những số phận lạc loài vẫn ngày ngày cất lên lời ai oán về những nỗi đau chiến tranh. Có thể xếp W.G. Sebald vào những nhà văn Đức hậu chiến, mặc cho ông bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn, dù rằng ông rời bỏ nước Đức khi tuổi đời còn rất trẻ và quyết định sống nốt phần đời còn lại ở nước ngoài. Dường như ông muốn giữ khoảng cách với quê hương, một khoảng cách vừa đủ để ông nhìn lại nó dưới thấu kính của mình. "Ký ức lạc loài" từ đầu đến cuối giữ một điểm nhìn trung lập, người kể chuyện giữ mối quan hệ nhất định với các nhân vật nhưng đồng thời lại có vẻ biết rất ít về những con người đã dần phai nhạt trên cuộc đời, thứ nhắc nhớ chỉ còn là những di vật từng thuộc về một ai đó đã tồn tại cứ khiến ta băn khoăn đến sự hiện hữu của họ. Trong tác phẩm của W.G. Sebald, chiến tranh hiện lên chớp nhoáng. Khác với những nhà văn khác, ông không miêu tả một xã hội Đức rệu rã, hỗn loạn, đánh mất niềm tin không chỉ vì nỗi nhục thua trận trong chiến tranh mà còn bởi những giá trị về con người và nhân phẩm bị rạn vỡ. Ông sinh vào giai đoạn Thế chiến thứ hai đã đến hồi tàn, ông không trực tiếp trải qua cuộc chiến, không đứng hẳn về phía những kẻ chiến bại, không phát điên về nó. Ông trưởng thành trong một thời đại không thấy anh hùng, cho nên không khắc họa sự thiếu vắng lý tưởng ở các nhân vật của thời đại. Ông đối thoại với quá khứ bằng số liệu, ông lạnh lùng nhìn lại thế hệ cha ông với đôi mắt tinh tường và một tinh thần phán xét. W.G. Sebald có người cha đi lính cho Đức quốc xã, trở thành tù binh chiến tranh, chỉ được thả vào năm 1947. Sinh năm 1944, ký ức chiến tranh hiện diện sâu sắc nhất trong đời ông chính là khi ở trường, ông được cho xem những bức ảnh về trại tập trung Holocaust. Từ đó Holocaust và nước Đức thời hậu chiến trở thành chủ đề lớn trong các tác phẩm của ông. W.G. Sebald làm công việc của một sử quan nhưng không mấy chú trọng vào toàn cảnh của lịch sử mà tập trung vào những nhân vật phụ, những tiểu cảnh lẩn khuất phía xa trong tổng thể của một bức tranh lớn. Với cái nhìn nhẹ bẫng, ông bày biện ra trước mắt người đọc những vật chứng, bức ảnh một người đàn ông bắt bướm, một nghĩa trang hoang lạnh, một tờ báo cũ, một sơ đồ... Gabriel García Márquez từng nói: "Trong báo chí, một dữ liệu sai phủ nhận toàn bộ công trình. Ngược lại, trong tiểu thuyết, một chi tiết thật cũng tạo được sự tin cậy cho toàn tác phẩm". Sự tin cậy mà W.G. Sebald tạo được không chỉ đến từ những "vật chứng" được ông bày ra khắp cuốn sách mà còn từ chỗ các nhân vật của ông từ một tiểu sử cá nhân đã phổ quát thành mẫu số chung của những thân phận lưu dân, được tác giả khéo léo đan cài trong những trang sách. Giữa những trang sách như một mê cung của ký ức ấy, chiến tranh âm thầm len lỏi như một bóng ma truy đuổi con người, những thất vọng và đổ vỡ, sự thiếu quê hương được chất chứa trong một hình thức bình thản đến kỳ lạ.  *** W. G. SEBALD (1944-2001): Là một trong những nhà văn, học giả người Đức quan trọng sau Thế chiến thứ hai. Các tác phẩm của ông xoay quanh chủ đề người Đức với ký ức, sự lãng quên và những thương tổn tinh thần trong thời hậu chiến. Ngoài ra, ông còn viết về sự hủy diệt, mất mát của các nền văn minh, của truyền thống và các biểu trưng lịch sử văn hóa thông qua những vật thể. Văn chương của ông được giới phê bình, học thuật đánh giá cao. Ông được nhiều nhà phê bình văn học xem là một trong những nhà văn lớn nhất ở thời đại. Tủ sách Danh tác của Phanbook sẽ lần lượt giới thiệu đến độc giả Việt Nam các tác phẩm lớn của W. G. Sebald: Ký ức lạc loài, Vành Thổ tinh, Vertigo và Austerlitz. Dù sống chủ yếu ở Anh, W.G. Sebald vẫn là nhà văn viết tiếng Đức, một thứ tiếng Đức mà các nhà phê bình nhận xét là cổ điển và cầu kỳ, nên nhà văn đã rất kỹ lưỡng theo dõi quá trình dịch tác phẩm của ông sang tiếng Anh. "Ký ức lạc loài" nằm trong bộ tứ: "Vertigo" (1990), "Ký ức lạc loài" (1992), "The Rings of Saturn" (1995) và "Austerlitz"(2001). Ông được nhiều nhà phê bình văn học ca ngợi là một trong những tác giả vĩ đại nhất lúc sinh thời, tuy nhiên, một tai nạn giao thông đã cướp đi sinh mạng nhà văn năm 2001. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2007, Horace Engdahl, cựu thư ký của Viện Hàn lâm Thụy Điển, đã nhắc đến W.G. Sebald, Ryszard Kapuściński và Jacques Derrida là 3 nhà văn vừa qua đời gần đây, những người đáng được nhận giải Nobel Văn chương.   Mời các bạn đón đọc Ký Ức Lạc Loài của tác giả W. G. Sebald.
Xứ Con Người - Antoine de Saint-Exupéry
Bản dịch khác của Xứ Con Người là Cõi Người Ta, dịch giả: Bùi Giáng. Xứ con người là tác phẩm thứ ba, được xuất bản của nhà văn người Pháp Antoine de Saint-Exupéry, sau Thư phương Nam và Bay đêm. Cuốn sách mang đậm tính tự truyện này trước hết là bản hùng ca dành tặng các phi công của hãng Không Bưu, đặc biệt là hai đồng nghiệp của tác giả, Jean Mermoz và Henri Guillaumet. Văn phong phóng khoáng và lãng mạn, Xứ con người không chỉ thuật lại những chuyến phiêu lưu trên máy bay của chính Saint-Exupéry và các đồng đội qua mọi miền thế giới, mà là nơi ông chiêm nghiệm những vấn đề khác như tình bạn, triết học, định mệnh, tiến bộ công nghệ, những mâu thuẫn của loài người.   Xứ con người đã đạt Giải Thưởng Lớn dành cho tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp, dù đây không phải là một cuốn tiểu thuyết. Tại Mỹ, dưới nhan đề Wind, Sand and Stars (Gió, cát và những vì sao), Xứ con người đã được Hiệp hội các nhà Sách nước này chào đón liệt nhiệt.    *** Nhận định   “Yêu thương tuyệt không phải là người này nhìn người kia, mà là cùng nhau nhìn về một hướng.” - Saint-Exupéry *** Ấy là năm 1926. Tôi vừa vào nhận việc, là người lái trẻ đường dài ở hãng Latécoère, hãng này bấy giờ đảm nhiệm chặng Toulouse-Dakar, trước hãng Aéropostale và hãng Air France. Tôi học nghề là ở đây. Như các bạn bè, tôi đến lượt trải qua thời kỳ tập sự mà những người trẻ phải trải qua trước khi được vinh dự lái chiếc bưu cơ. Bay tập thử các loại máy bay. Đi, về Toulouse và Perpignan. Những buổi học buồn tẻ về khí tượng tận cuối một nhà vòm giá lạnh. Chúng tôi sống trong mối e ngại về những ngọn núi ở Tây Ban Nha mà chúng tôi chưa được thấy, và với sự nể phục các bậc đàn anh. Các bậc đàn anh ấy, chúng tôi thấy họ trở về, thấy họ vào quán ăn, cau có, hơi cách biệt, rất kẻ cả ném cho chúng tôi những lời khuyên bảo. Và khi một người nào đó trong bọn họ, từ Alicante hay Casablanca mà về muộn, áo da sũng nước mưa, có trả lời ai trong bọn chúng tôi khi chúng tôi rụt rè hỏi về chuyến đi thì những câu trả lời ngắn ngủn của anh ta, vào những ngày bão tố, cũng dựng lên trong chúng tôi một thế giới y hệt trong thần thoại, đầy bẫy sập, đầy lưới bủa, đầy những ghềnh đá đột nhiên nhô ra, những xoáy nước có thể bứt vứt được những cây bách hương. Những con rồng đen canh gác lối ra vào các thung lũng, hàng bó chớp vây lấy các đỉnh núi như là vương miện. Các bậc đàn anh ấy biết nuôi giữ lòng kính trọng của chúng tôi. Nhưng lâu lâu lại có một người, trong bọn họ, trở thành thiên thu đáng kính trọng, không trở về. Như vậy đấy, tôi nhớ một chuyến trở về của Bury, sau này chết trong dãy Corbières. Người lái già ấy vừa ngồi xuống giữa bọn tôi, ăn uống mệt nhọc, chẳng nói năng gì, hai vai còn sễ vì đã dụng sức. Ấy là vào cuối một trong những ngày xấu mà từ đầu chí cuối đường bay, vòm trời úa vỡ, tất cả các đỉnh núi, trước mắt người lái, như vầy trong bùn ghét, giống các khẩu đại bạc cắn đứt được các dây chằng, cày nát sàn những chiếc thuyền buồm ngày trước. Tôi nhìn Bury và nuốt nước bọt trước khi đánh liều hỏi anh chuyến bay hôm nay có vất vả không. Không nghe thấy tôi hỏi, trán đầy nếp răn, Bury cúi gằm xuống đĩa. Trên những chiếc máy bay không mui, vào lúc trời xấu, phải nghiêng người ra ngoài kính chắn để thấy cho được rõ, những cái tát của gió còn rít mãi trong tai người lái. Một lúc lâu, anh mới ngẩng đầu, có vẽ đã nghe thấy, có vẻ nhớ lại và đột nhiên bật lên một tiếng cười khanh khách. Cái cười ấy khiến tôi kinh ngạc thán phục, vì Bury ít cười, và cái cười ngắn này làm cho nỗi mệt nhọc của anh như bừng sáng lên. Anh không giảng giải chút gì nữa về thắng lợi của mình, nghiêng đầu và tiếp tục yên lặng nhai. Nhưng trong không khí quán ăn mờ xám, giữa bọn công chức nhỏ không lấy gì làm mỏi mệt lắm đang ăn để lấy lại sức, người đồng nghiệp hai vai nặng trĩu kia bỗng nhiên đối với tôi có một vẻ cao quý khác thường: anh đã cho tôi thấy, qua cái vỏ ngoài cục mịch, vị thiên thần thắng được rồng tinh. ... Mời các bạn đón đọc Xứ Con Người của tác giả Antoine de Saint-Exupéry.