Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

DUY MA CẬT - SỞ THUYẾT KINH - ĐOÀN TRUNG CÒN

SỰ TÍCH CỦA CUỐN KINH “DUY-MA-CẬT”LÀ NHƯ VẦY:

(Lời của người trực tiếp viết Kinh cho “Bác” lúc bấy giờ)

Vào dịp giữa hè 1988, gia đình tôi đang sắp sửa để dùng bữa cơm trưa, bỗng nhiên thấy một người con dắt người 

cha mù hai mắt tới xin ăn. Tôi vội vàng chào hỏi hai cha con và bảo 

rằng: “Mời hai cha con vào nhà uống nước nghỉ ngơi, thế nào gia 

đình cũng có ít nhiều gì về gạo cho cha con”. 

Hai cha con cảm ơn rối rít, nhưng tâm trạng vẫn còn rụt rè. Tôi 

lại bảo: “Không việc gì cả, cứ tự nhiên, tôi cũng như ông, không có 

thì phải xin chớ sao?” 

Lúc đó, hai cha con đành mạnh dạn uống nước. Tôi bảo các con 

dọn cơm ra để ăn kẻo trưa. Hai cha con vội vã ra đi, nhưng tôi ngăn 

lại không cho và bảo: “Ở lại ít nhiều ăn với gia đình bữa cơm đạm 

bạc". 

Hai cha con thấy gia đình tôi mời niềm nở đành ở lại. Xong bữa c

ơm đạm bạc, tôi mời hai cha con nằm nghỉ kéo đi nắng quá.

Thế là tôi lên nhà Thờ Học Kinh Tẩy Tâm. Người cha ở dưới 

nhà nghe tôi đọc hay quá. Khi đọc xong, tôi quay lại học chuyện với 

hai cha con và để biết ở đâu đến.

Người cha nói với tôi là “Quê ở vùng Sơn cước cách xa lắm. 

Sao anh đọc sách gì mà nghe thật ý nghĩa?”.

Tôi bảo: “Tôi đọc sách “Tẩy Tâm' cho thuộc”.

Người ăn xin ấy lại hỏi tiếp tôi: “Như vậy anh theo Phật, 

Thánh”. 

Tôi bảo: “Tôi đang tập”.

Kẻ ăn xin lại nói với tôi rằng: “À, như vậy, nhà tôi từ đời cố 

đến đời ông còn dự một quyển, nghe nói là quyển Kinh, không biết 

Kinh gì bằng Hán Nôm. Hiện tại cố đã mất, cha của tôi không còn, tôi 

thì mù hai mắt làm sao xem được. Thôi, hôm nào tôi quay lại đây, tôi 

sẽ tặng lại cho anh, nhờ người xem mà giữ lấy nó.”

Nghe thấy nói là Kinh, tôi sẵn sàng.

Quả nhiên ba ngày sau, hai cha con người mù đó cũng đến đúng giờ 

đó và, đưa cho tôi quyến Kinh bằng chữ Hán Nôm và dặn tôi bảo vệ lấy 

cuốn sách đó. 

Tôi nhận lời, và hỏi: “Hai cha con tên gì?”

Người đó bảo: “Tôi tên là Tại”, con tôi tên là “Cư”.

Tôi bèn giật mình, thật hay giả? Rồi mời hai cha con ở lại ăn cơm 

trưa với gia đình. Hai cha con từ chối, ra đi một mạch. Thấy vậy, các con 

tôi xúc một bơ gạo, chạy theo hai cha con và đổ vào đạy.

Cách vài hôm, Bác (tên là "VƯƠNG ĐÌNH THỤ”. Mật danh “TÂM TUỆ HỌ 

VƯƠNG") đi Cửa Lò về, tôi liền kề đầu đuôi như vậy và dâng lên Bác cuốn 

sách Kinh bằng chữ Hán Nôm đó.

Bác xem đi, xem lại nhiều ngày. Lúc đầu, tôi không giám hỏi. Sau 

nhiều ngày, tôi mạnh dạn hỏi: “Thưa Bác cuốn Kinh là gì?”

Bác quay lại nói tôi rằng: “Chắc là Trời đã sai khiến cho Bác cháu 

ta có quyển Kinh này làm đèn sáng để dẫn dắt mọi người”.

Tôi lại hỏi: “Quan trọng như vậy, thưa Bác?”

Bác bảo: “Thật là quan trọng, những ai đã được đọc Kinh này thì ít 

nhiều cũng đã biết đúng nghĩa như thế nào là xuất gia? Tu ở nhà ra sao? 

Những lớp người này, ở thời hiện tại cũng có nhưng số lượng chăng được 

là bao”.

Thế rồi, một hôm sau, Bác bao tôi lấy bút giây, đồng thành sách, 

Bác dịch ra nghĩa từng câu và bảo tôi viết. Khi xong, Bác khảo duyệt lại, 

nơi nào đúng, nơi nào sai để chỉnh sửa. Khi được Bác chấp nhận, Bác bảo 

tôi chép ra cho nhiều để thiên hạ đọc. Từ đó, tôi đã không biết bao đêm 

tranh thủ chép ra nhiều quyển để Thiên hạ có dùng. Riêng tôi đành một quyển.

Đó, chính là sự tích của cuốn "DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH" này vậy. Xin Thiện nam, Tín nữ lưu giữ và bảo vệ nó!

Nguyễn Đắc Khôi

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

KHỔNG HỌC ĐĂNG - SÀO NAM PHAN BỘI CHÂU
1- Mục đích người làm bản sách này là cốt phù trì nhân đạo; nếu ai không để lòng vào nhân đạo thời xin chớ đọc. 1- Mục đích người làm bản sách này là cốt phù trì nhân đạo; nếu ai không để lòng vào nhân đạo thời xin chớ đọc.2- Lại cốt phát huy chân lí để duy trì nhân tâm; bởi vì nhân tâm còn xấu thời thế đạo chẳng bao giờ tốt. Vậy nếu ai đã mất hết nhân tâm thời chắc không muốn đọc bản sách này, mà tác giả cũng xin chớ đọc. 2- Lại cốt phát huy chân lí để duy trì nhân tâm; bởi vì nhân tâm còn xấu thời thế đạo chẳng bao giờ tốt. Vậy nếu ai đã mất hết nhân tâm thời chắc không muốn đọc bản sách này, mà tác giả cũng xin chớ đọc. 3- Tác giả lại muốn cho người ta biết học cũ vẫn không phải trần hủ, mà học mới vẫn không phải phù hoa. Nếu học cho tinh thần thời ví như làm nhà: học cũ là nền tảng, mà học mới tức là tài liệu; hai bên vẫn có thể giùm cho nhau làm nên một tòa nhà hoa mĩ. Chẳng bao giờ không tài liệu mà làm nên nhà; và cần thứ nhất là chẳng bao giờ không nền tảng mà dựng được nhà. Tác giả viết bản sách này là muốn điều hòa học cũ với học mới; hai bên tương thành cùng nhau, mà quyết không tương phản. Nếu ai chưa để mắt vào bản sách này mà trước đã có một ý kiến sẵn: hoặc bài bác học cũ, hoặc công kích học mới, hễ có ý kiến ấy thời xin chớ đọc. 4- Tác giả nói học cũ là nói chân triết lí của Á châu từ thuở xưa; nói học mới là chỉ nói khoa học tối tân thiệt có ích với nhân sinh của thế giới bây giờ. Cái danh từ học cũ chẳng phải là cái đồ để đánh cắp áo mũ cân dai đâu! Cái danh từ học mới chẳng phải là cái mồi để hót gạt mề đay kim khánh đâu! Vậy nên tác giả xin thề trước với ba hạng người: a - Hạng người chỉ tranh ngôi thứ xôi thịt trong đình làng; b - Hạng người muốn lòe loẹt khoe khoang, lấy om cơm túi bạc làm mồi hạnh phúc; c - Hạng người xu quyền phụ thế, lấy đồng bào chủng tộc làm mồi vinh thân. Ba hạng người ấy, tác giả xin chớ đọc đến quyển sách này; mà tác giả cũng chắc trước rằng họ nhất định không thèm đọc. Bởi vì họ nhận định một cái giá trị rất cao, là muông chim, là lục súc, là ma quỷ, yêu tinh, thời bản sách này nói nhân đạo họ đọc làm gì? 5- Hễ ai đọc bản sách này, trước phải lập định một cái chí khí tự nhiên rằng: “Ta là Khổng Tử, ta là Mạnh Tử, ta là Bá Lạp Đồ (Platon), ta là Khang Đức (.Emmanuel Kant), chẳng qua đời tuy có xưa nay, đất tuy có đông tây, mà tâm lí in như nhau, thánh hiền tức là ta, ta tức là thánh hiền; ta chỉ là người hậu tiến của cổ nhân mà thôi”. Có chí khí ấy thời đọc quyển sách này mới thích. Nếu ai chưa đọc quyển sách này mà trước đã có một ý kiến sẵn:  định làm nô lệ cho người đời xưa, hay định làm nô lệ cho người đời nay, thời xin chớ đọc. Huế, mùa xuân Kỉ Tị (1929) SÀO NAM PHAN BỘI CHÂU3- Tác giả lại muốn cho người ta biết học cũ vẫn không phải trần hủ, mà học mới vẫn không phải phù hoa. Nếu học cho tinh thần thời ví như làm nhà: học cũ là nền tảng, mà học mới tức là tài liệu; hai bên vẫn có thể giùm cho nhau làm nên một tòa nhà hoa mĩ. Chẳng bao giờ không tài liệu mà làm nên nhà; và cần thứ nhất là chẳng bao giờ không nền tảng mà dựng được nhà. Tác giả viết bản sách này là muốn điều hòa học cũ với học mới; hai bên tương thành cùng nhau, mà quyết không tương phản.Nếu ai chưa để mắt vào bản sách này mà trước đã có một ý kiến sẵn: hoặc bài bác học cũ, hoặc công kích học mới, hễ có ý kiến ấy thời xin chớ đọc.4- Tác giả nói học cũ là nói chân triết lí của Á châu từ thuở xưa; nói học mới là chỉ nói khoa học tối tân thiệt có ích với nhân sinh của thế giới bây giờ.Cái danh từ học cũ chẳng phải là cái đồ để đánh cắp áo mũ cân dai đâu! Cái danh từ học mới chẳng phải là cái mồi để hót gạt mề đay kim khánh đâu! Vậy nên tác giả xin thề trước với ba hạng người:a - Hạng người chỉ tranh ngôi thứ xôi thịt trong đình làng;b - Hạng người muốn lòe loẹt khoe khoang, lấy om cơm túi bạc làm mồi hạnh phúc;c - Hạng người xu quyền phụ thế, lấy đồng bào chủng tộc làm mồi vinh thân.Ba hạng người ấy, tác giả xin chớ đọc đến quyển sách này; mà tác giả cũng chắc trước rằng họ nhất định không thèm đọc. Bởi vì họ nhận định một cái giá trị rất cao, là muông chim, là lục súc, là ma quỷ, yêu tinh, thời bản sách này nói nhân đạo họ đọc làm gì?5- Hễ ai đọc bản sách này, trước phải lập định một cái chí khí tự nhiên rằng: “Ta là Khổng Tử, ta là Mạnh Tử, ta là Bá Lạp Đồ (Platon), ta là Khang Đức (.Emmanuel Kant), chẳng qua đời tuy có xưa nay, đất tuy có đông tây, mà tâm lí in như nhau, thánh hiền tức là ta, ta tức là thánh hiền; ta chỉ là người hậu tiến của cổ nhân mà thôi”. Có chí khí ấy thời đọc quyển sách này mới thích.Nếu ai chưa đọc quyển sách này mà trước đã có một ý kiến sẵn: