Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Sau Cùng - Pearl S. Buck

Vào những ngày cuối đời, Pearl S. Buck sống với chồng thứ hai, Richard Walsh - cùng với 150 đứa trẻ đủ màu da; do chính bà đem về giáo dưỡng trong một trang trại ở Pennsylvania (Mỹ). Đó là thời kỳ đã giã từ chồng trước, bà dắt con trai ở lại nước Mỹ sau khi cuộc chiến ở Hoa Lục kết thúc. Cả hai từng vùng vẫy cố thoát khỏi nghịch cảnh thời thế nhưng vẫn chỉ là hư không. Song mối tình dị chủng phải chia lìa mà vẫn không làm tiêu tan ý chí đoàn tụ rất keo sơn, bất diệt của họ. Càng xa nhau bao nhiêu thì sợi dây vô hình càng thắt chặt bấy nhiêu cho đến khi nhận được hung tin từ vợ kế của chồng báo cho biết viên đạn đồng đã kết liễu đời chàng.  Sự đau đớn tột cùng thôi thúc tác giả viết nên một thiên tình sử não nuột về hôn nhân dị chủng của chính tác giả. Và Pearl S. Buck đã hóa thân qua nhân vật làm vợ mang tên Êly - thuật lại một đoạn sống của một người chồng nửa Á, Âu mang quốc tịch Trung Hoa có vợ là người Mỹ trăm phần trăm.  Tự sự kể về cuộc tình dị chủng ấy từng sống thật say đắm, tha thiết và nồng ấm. Bằng giọng văn lạnh lùng mà quyến rũ, ngọt ngào, thương cảm lạ lùng đã làm xúc động hàng triệu độc giả trên thế giới.  *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Giấc mơ đó không làm tôi sợ hãi chút nào, nhưng tôi cảm thấy nó có nỗi buồn vô tận. Tôi không thể sợ hãi Diên Tôn được, dù với hình thể nào chàng đến với tôi. Câu chuyện ma quỷ vẫn chỉ làm tôi mỉm cười. Sự xét đoán về tiềm thức của tôi luôn luôn làm cho tôi nhớ tới người thân yêu xa cách..tuy cố giữ không thổ lộ là tôi trông thấy Diên Tôn.  Bà Mạch quả quyết rằng trông thấy bà mẹ hiện lên, bà mẹ sống ở Ireland và chết ở đấy.  Bà giảng giải cho tôi nghe, vẻ long trọng:  - Đó là một buổi sáng đẹp trời vào dịp Phục sinh. Bữa trước tôi mới cãi nhau với Mạch và không muốn đi nhà thờ nữa. Tôi mặc quần áo cũ để lau sàn bếp. Mạch gào lên tôi phải cùng đi với hắn và các con đến nhà thờ - lúc này chúng tôi có sáu đứa. Nhưng tôi quyết từ chối và hắn đi một mình. yên tĩnh trở lại, tôi rửa mặt, mặc chiếc áo ngủ sạch và đi nằm để lấy lại sức. Giữa lúc này, mẹ tôi hiện về. Bà mặc toàn đồ trắng, như một bà tiên. Mớ tóc hoa râm kết thành giải theo thói quen của bà. Bà bảo tôi Con khốn nạn của mẹ, con chỉ là một người đàn bà thì đành phải an phận. Tôi trả lời và nhắm mắt ngủ ngay như trẻ thơ. Đúng thế mẹ yêu dấu của con. Khi tôi tỉnh giấc, Mạch đã trở về đang cho các con ăn. Tôi trở dậy người khoẻ mạnh như cũ.  Đó là một câu chuyện dựng đứng, nhưng bà Mạch tin là đã trông thấy.  Chiều nay, tôi đến thư viện thành phố gần nhất đấy và tìm thấy cả nửa tá sách nói về mộng mị và ảo tưởng. Tôi lấy làm hổ thẹn, đọc những sách này vì tôi không tin dị đoan. Nhưng lại tự nhủ nếu một thanh củi, một phần nguyên liệu, có thể biến thành nhiệt năng trước mắt tôi, thành lửa, thành tro và sức nóng, thì tại sao một hình hài sống động, một trí óc sáng suốt, một tâm hồn giàu tình cảm và lòng vị tha lại không thể hiện dưới mắt tôi với một hình thể khác. Cứ như vậy tôi đi sâu vào cuộc phiêu lưu, đi tìm người tôi yêu.  Diên Tôn chàng ơi, anh có còn sống thật không? ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Sau Cùng của tác giả Pearl S. Buck.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đừng Để Chim Sẻ Non Gục Ngã
Từ lúc 16 tuổi Mary Bridget đã bỏ nhà ra đi cùng với Jonah làm nghề sản xuất và bán thuốc phiện. Nhưng, cuộc sống luôn bị cảnh sát truy đuổi, không ổn định, lại thêm mặc cảm tội lỗi với bà ngoại, với mẹ đã khiến Bridget quyết định tìm cơ hội ra đi. Những tưởng cuộc sống của cô sẽ tốt đẹp hơn ở một xứ sở khác, nào ngờ số tiền lấy được của Jonah đã bị đánh cắp. Cô trở nên trắng tay. Sau đó, cô đón chuyến xe tới thành phố Alexandria. Cô xin vào làm ở một cửa hàng thực phẩm với vị trí thu ngân. Rồi mọi chuyện thay đổi, khi một lần đi lễ trong nhà thờ Knox Presbyterian, cô bắt gặp những mẩu giấy cầu nguyện đức Chúa trời một cách khẩn thiết của một cô bé có gương mặt sầu não, đáng thương. Cô bé ấy chính là Samantha, nhà ở gần nhà thờ Knox Presbyterian. Cô bé có 3 người cô - hai người thì hay cáu gắt, bảo thủ; người còn lại thì hiền hậu, nhân từ. Cả 3 người đều là khách hàng thân thiết ở cửa hàng Bridget bán. Và một người cha - Alasdair Mac Pherson - là một người thuyết giảng trong nhà thờ. Alasdair có một diễn biến tâm lý bất thường từ sau khi vợ ông chết để lại cho ông 3 đứa con dại. Vì lẽ đó mà Samantha bị ảnh hưởng những sự cố ấy. Sự có mặt của Bridget trong vai trò là một cô giữ trẻ nhưng đã dần dần làm gia đình Mac Pherson có nhiều thay đổi, từ cách trang trí nhà cửa, các món ăn nhất định từ trước đến cách nhìn và suy nghĩ của cả những con người, trong đó có Samantha và nhất là Alasdair. Ông đã tìm thấy ở cô gái này một sự chia sẻ, cảm thông. Để rồi chính Bridget cũng không ngờ, cuộc đời nàng giờ đây có nhiều niềm vui và hạnh phúc trong một gia đình ấm cúng... *** Bà Hattie không biết chính xác bà đang cầu nguyện cho cái gì hoặc cho ai. Bà chỉ biết có cái gì đó đánh thức bà dậy, nó tựa như một cơn đau quặn thắt trong lồng ngực. Nếu là trước đây, chắc có lẽ bà sẽ bỏ qua và đi ngủ tiếp. Bà sẽ nghĩ chắc mình ăn phải cái gì đó làm cho bụng lộn xộn, hoặc giả bà đã có kinh nghiệm hơn rồi. Sau hơn 80 năm lắng nghe lời phán truyền của Chúa Trời, cuối cùng bà cũng quen với cách thức Chúa Trời phán bảo: Bà thì thầm: - Lạy chúa, có ai đó đang gặp rắc rối. Ngài biết đó là ai mà, Ngài biết họ cần gì mà. Bà tiếp tục cầu nguyện mãi cho đến khi bà cảm thấy tâm hồn mình thanh thản hơn thì cũng là lúc những ánh nắng yếu ớt của mùa đông xuyên qua những khe cửa và nằm vắt ngang trên giường của bà. Bà nghe tiếng loảng xoảng ở hướng nhà bếp rồi có tiếng kẹt cửa mở và tiếng cánh cửa đóng lại. - Bà Hattie là cháu đây. - Xin chào Martha - Bà Hattie đáp lời. Bà nghe những tấm gỗ lát sàn kêu két kẹt và bà thầm dõi theo những cử động của Martha trong tâm trí. Bà nghe tiếng Martha treo áo khoác, rồi nghe tiếng kim loại va vào nhau, đó là tiếng mở nắp bếp ga, sau đó là tiếng mấy tờ báo theo gió bay loạt xoạt và tiếng nồi kim loại đặt lên bếp khi Martha vừa bật bếp xong. Rồi sau đó nhiều hình ảnh tưởng tượng nữa, khuôn mặt Martha tươi cười hiện ra. Gò má của Martha cao như được tạc từ một tảng đá màu sậm. Khóe môi cô cong lên trong một nụ cười rạng rỡ. Cô gái xinh tươi và thông minh đủ để kiếm được một vị trí xứng đáng trong thế giới rộng lớn ngoài kia, và rất có thể làm nên chuyện thay vì cứ phải chăm sóc một bà lão già yếu. Bà Hattie tự hỏi liệu Martha có hài lòng khi đến nhà bà làm nhiệm vụ chăm sóc người ốm. Bà không bao giờ hỏi cô vì bà sợ mình sẽ là kẻ vẽ đường cho hươu chạy, để rồi một buổi sáng nào đó, một cô hộ lý đúng nghĩa sẽ suất hiện ở cửa thay vì Martha một người bạn tâm tình. Martha giúp bà Hattie mặc quần áo, đỡ bà lên xe lăn và đẩy bà ra ngoài nhà bếp và để cho xe ngay ngắn ngay trước bàn ăn. Bà Hattie nhìn Martha đi lại trong nhà bếp chuẩn bị bữa điểm tâm cho cả hai người. Cô gái đang hát, cũng như mọi khi thôi, bài hát hôm nay có tên Chúa Trời Luôn Dõi Mắt Đến Những Sinh Linh Nhỏ Bé Nhất. Cô gái chiên xúc xích rồi xúc mấy lon bột mỳ bỏ vào cái tô chuẩn bị nhào bột. - Ngày hôm nay chúng ta sẽ ăn bánh bột ngô thay vì ăn bánh biscuit như mọi khi, bà Hattie ạ. Tất nhiên là nếu bà cũng thích món này. - Thế thì ngon lắm. Bà Hattie trả lời, nhưng chỉ có một nửa tâm trí của bà là nghĩ tới nên ăn món gì. Còn nửa kia bà nghĩ tới những linh cảm đã đánh thức bà trong đêm tối. Bà nhắm mắt lại, những lời cầu xin từ tận đáy lòng thốt ra theo làn môi của bà. - Thưa Đức Chúa cha, kẻ thù muốn tiêu diệt một trong những đứa con của Người. Sinh linh nhỏ bé và tội nghiệp ấy đang đau khổ. Không ai có thể cứu giúp nó ngoài sự giúp đỡ của người! Bà nghe tiếng vỏ trứng đập vào cạnh chảo rồi nghe tiếng xèo xèo của trứng chiên trong mỡ nóng. Đứng cạnh bếp ga, Martha cũng kêu lên: - Xin hãy cho chúng con thấy quyền năng thiêng liêng của Người. Xin hãy cứu sinh linh nhỏ bé đang gặp nạn của Người. Bà Hattie mở bừng mắt. Martha lật trứng bỏ vào đĩa, mở lò nướng và mang bánh bột ngô đặt ra bàn. Hai người phụ nữ ngồi vào bàn cùng với cà phê nóng và bữa điểm tâm trước mặt họ. Mời các bạn đón đọc Đừng Để Chim Sẻ Non Gục Ngã của tác giả Linda Nichols.
Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân
Nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh đã cho ấn hành một trong những tác phẩm nổi tiếng của Pearl Buck đã được trao giải Nobel Văn Chương năm 1938 với tựa đề: Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Đã qua nửa đêm... Lương phu nhân hạ bút và gấp sổ thu chi lại. Ngôi nhà hoàn toàn im vắng. Tại tầng dưới, trong nhà hàng chỉ còn thưa thớt một vài thực khách đang ngồi nán lại. Ba xô ghế đứng dậy, chiếc ghế bành lớn bằng gỗ gụ, cùng bộ với cái bàn viết kiểu Trung Hoa nặng nề mà bà đã thừa hưởng của thân phụ, và mang từ quê nhà, tại một tỉnh xa đến đây. Bà đến bên cửa sổ, nhưng không vén mơ cánh rèm xa tanh màu đỏ. Mặc dầu được sống yên ổn, với tư cách là chủ nhân một nhà hàng đẹp nhất trong các khu tân tiến ở thành phố Thượng Hải, bà cũng không dại gì để bóng dáng mình in lên khuôn kính một căn phòng sáng trưng ánh đèn. Nào ai biết được kẻ thù đang ẩn nấp nơi đâu. Thiếu gì kẻ thấy bà nổi tiếng rồi ghen ghét. Chẳng ai biết bà đã xoay sở cách nào, để hàng ngày vẫn cung cấp được những món ăn thật đặc biệt, cho khách hàng là các nhân vật quan trọng trong chính giới, các đại thương gia tỷ phú, và các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Hầu hết họ là bạn thân của bà. Bà ung dung đi đi lại lại trong nhà hàng, bề ngoài xem như chẳng quan tâm gì đến các sự lộn xộn chính trị. Chắc có nhiều kẻ ghen ghét, hậm hực với bà. Vì thế bà không vén rèm, mà chỉ luồn người ra ngoài để hé mở cửa sổ. Trong bầu không khí ấm áp của một buổi tối đầu hè, hương hoa nhài bay lên thoang thoảng. Ngôi nhà của bà trước kia là của một gia đình người Mỹ giàu có, bạn thân của bà. Sau khi có cuộc sung công các nghiệp vụ xuất nhập cảng tại Trung Hoa, gia đình này đã phải trở về nước. Lương phu nhân đã mua lại ngôi nhà này, cùng các khu vườn trong tô giới Anh cũ. Có rất nhiều người Mỹ cư ngụ trong tô giới Pháp và Anh, vì họ không có tô giới riêng. Trước khi Hồng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Lương phu nhân có nhiều bạn hữu trong đám người Mỹ này, vì vậy bà đã gởi ba ái nữ sang Hoa Kỳ du học. Giờ đây, dĩ nhiên là không còn một người Mỹ nào tại Trung quốc, nên cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa, lớn lên mà chẳng biết mặt một người Mỹ nào, cũng như chẳng được nghe đến một tiếng Anh nào. Họ chỉ được nghe tiếng nói của hận thù đối với một dân tộc, mà riêng bà lại thấy là ít đáng hận thù hơn các người Tây phương khác. Người Mỹ là những người da trắng duy nhất không tàn ác, không cướp đất của người Trung Hoa. Bà thở dài nghĩ đến cái gia đình đầm ấm xưa kia đã cư ngụ dưới mái nhà này: Ông bà Brandon và năm người con. Họ yêu quí nước Trung Hoa biết dường nào. Họ yêu quí nước này đến nỗi đồ đạc trong nhà hoàn toàn theo kiểu Trung Quốc, với những bức tranh thủy mặc treo trên tường. Họ đã phải hấp tấp lìa bỏ tất cả, và Lương phu nhân đã lén bước sang nhà họ để tiễn chào vĩnh biệt. Bà Brandon đã tựa vào vai bà, khóc nức nở: - Ba Lương ơi: Sau này họ có cho chúng tôi trở lại nữa không? Bà xiết chặt người đàn bà Mỹ trong vòng tay mà chẳng trả lời. Làm sao ba có thể trả lời được rằng: “Bà sẽ không bao giờ được trở lại nữa”. Bởi vậy, tốt hơn là bà lặng thinh, và năm tháng cứ trôi qua trong khi đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn hơn. Nhưng bà đã gởi mấy cô con gái của bà sang Hoa Kỳ sống với gia đình Brandon, và thỉnh thoảng... Mời các bạn đón đọc Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân của tác giả Pearl S. Buck.
Uyên Ương Gãy Cánh
"Với những trang sách chứa chan tình người, tràn ngập hình ảnh thơ mộng, sóng sánh chất thơ và bát ngát hương vị cảm xúc, Uyên Ương Gãy Cánh mang tình yêu xuống chiều sâu thẳm tận đáy hồn người với những lý luận ngọt ngào của trái tim, và nâng tình yêu lên độ cao nhất, bất diệt với thực tại siêu việt. Từ đó, người đang yêu đọc nó và mỗi sớm mai "được thức dậy lúc rạng đông với con tim chắp cánh, đưa lời cảm tạ vì có thêm một ngày yêu thương nữa." (Nguyễn Ước) *** Bản Việt ngữ này dịch từ cuốn The Broken Wings do Anthony R. Ferris dịch từ nguyên tác của Kahlil Gibran bằng tiếng Ả Rập sang Anh ngữ. Chúng tôi đã ngẫu cảm chuyển tựa đề Việt ngữ thành Uyên Ương Gẫy Cánh vì thấy nó rất phù hợp với những trang tình sử này. Người Đông phương đã đem vào huyền thoại loài chim Uyên ương sống từng đôi trống mái, mỗi con chỉ còn một cánh, phải chấp nhau mà bay cùng. Chúng ăn ở với nhau tình thâm nghĩa trọng đến nỗi nếu một trong đôi lứa có mệnh hệ nào thì con kia đành xếp cánh tuyệt vọng trước những từng trời thăm thẳm. Chim Uyên Kahlil Gibran đã nhỏ từng giọt máu trong tim chép lại chuyện tình của chính mình như một chúc thư cho những tình nhân mai sau. Mối tình đầu của con người tài hoa đa cảm đó cũng là mối tình không-thể-thay-thế của ông; sau khi bị quê hương hắt hủi lưu đày biệt xứ, tác giả suốt đời lang thang phiêu bạt và không bao giờ lập gia đình. Đủ thấy vết thương ở tim tác giả còn đau buốt mãi cho đến lúc vĩnh viễn nhắm mắt. Nhưng con chim Uyên cao thượng khác thường đó không phải chỉ biết cất tiếng hót sầu thảm để oán trách Trời Đất đã ghen với tài tử và hồng nhan. Cho nên người đời còn được đọc những tác phẩm hào sảng hùng tráng khác của Kahlil Gibran. Đó chính là nhờ ngọn lửa thiêng bất khả diệt trong tâm hồn tác giả. Và cũng nhờ sự hy sinh cao quý của chim Ương: tự mình cắt lìa chiếc cánh bị thương để chim Uyên có thể bay đi đem tiếng hót tặng cho đời... Người dịch mong mỏi rằng quý vị độc giả sẽ vì mủi lòng cho mối tình tan tác của hai tâm hồn u uất mà rộng lượng gạt đi những thành kiến, nhất là trong địa hạt tôn giáo, khi quý vị đọc bản chúc thư tình yêu này. Nghĩa cử đó sẽ muôn ngàn lần cao đẹp hơn là... nếu có dịp quý vị đặt những bó hoa lên mồ của những Uyên Ương gẫy cánh... Sau cùng, chúng tôi xin mạn phép tặng bản Việt dịch này cho một phụ nữ Việt Nam - chúng tôi không tiện nêu lên - đã can đảm sống theo một luân lý tự mình tìm ra, giữa một xã hội còn vương lại quá nhiều gông cùm của thành kiến và hủ bại. N. N. M.   *** Khalil Gibran (tên đầy đủ tiếng Ả Rập Khalil Gibran Gibran, đôi khi viết là Kahlil) (6/1/1883 - 10/4/1931) là một nghệ sĩ, nhà thơ và nhà văn Liban. Sinh ra tại thị trấn Bsharri ở phía bắc Liban ngày nay (lúc đó là một phần của Mount Lebanon Mutasarrifate, Đế quốc Ottoman), khi còn trẻ ông di cư cùng gia đình đến Hoa Kỳ, tại đó ông nghiên cứu nghệ thuật và bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình, viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Ả Rập. Trong thế giới Ả Rập, Gibran được coi là một kẻ nổi loạn trong văn học và chính trị. Phong cách lãng mạn của ông là tâm điểm của sự phục hưng trong văn học tiếng Ả Rập hiện đại, đặc biệt là thơ văn xuôi, tách ra từ trường phái cổ điển. Tại Lebanon, ông được coi như một thiên tài văn học. Ông chủ yếu được biết đến trong thế giới nói tiếng Anh vì cuốn sách The Prophet (tiên tri) năm 1923 của ông, một ví dụ đầu tiên của tiểu thuyết truyền cảm hứng bao gồm một loạt các bài tiểu luận triết học được viết bằng thơ văn xuôi tiếng Anh. Cuốn sách bán rất chạy mặc dù bị chỉ trích lúc đầu. Nó được phổ biến trong những năm 1930 và một lần nữa trong những năm 1960 với nền văn học chống văn minh xã hội. Gibran là nhà thơ có sách bán chạy nhất thứ ba của mọi thời đại, sau Shakespeare và Lão Tử. Tác phẩm: Uyên ương gãy cánh Đóa Hoa Khát Vọng Ngôn Sứ (Kẻ Tiên Tri) Trầm Tưởng Tiếng vô thanh và người tình vĩnh cửu Giêsu Con của Con người Hoài vọng phương Đông Mật khải Tình yêu tận hiến Mây trên đỉnh núi và kẻ mộng du Nhà Tiên Tri ... Mời các bạn đón đọc Uyên Ương Gãy Cánh của tác giả Kahlil Gibran.  
Người Đàn Ông Đào Hoa
Nguyên văn tiếng Anh: The Ginger Man Dịch giả: Nguyễn Bích Lan  Tác phẩm Người Đàn Ông Đào Hoa được xuất bản vào năm 1955. Cuốn tiểu thuyết này đã trở thành kiệt tác, khiến tên tuổi Donleavy nổi tiếng khắp thế giới.  Nhân vật chính - Sebastian Dangerfield là người đàn ông được mệnh danh là "người ngoài "cô đơn trong một xã hội đầy thù địch , một kẻ luôn bị rượu và gái dẫn dắt bởi sự tham lam và lòng đố kỵ. Tuy nhiên, đằng sau thói phóng túng và hoa đường đó vẫn ẩn chứa một trái tim dịu dàng và ước muốn có được mái ấm gia đình mà trước đó anh ta đã từ bỏ .... *** J. P. Donleavy sinh năm 1926 tại Brooklyn. New - York trong một gia đình người Ailen nhập cư. Ông tham gia hải quân Mỹ trong thế chiến thứ hai sau đó sang Ailen theo học tại trường đại học Trinity, ở Dublin.  James Patrick Donleavy là một tiểu thuyết gia và nhà viết kịch người Ireland / Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là cuốn tiểu thuyết The Ginger Man (Người Đàn Ông Đào Hoa), ban đầu bị cấm vì tục tĩu. *** Một ngày nắng hiếm hoi của mùa Xuân. Chiếc xe ngựa lóc cóc chạy trên đường Tara xuôi về khu bến cảng trong khi bọn nhóc mặt trắng đi chân đất đua nhau hò hét.  O'Keefe bước vào quán rượu, đặt mông lên một chiếc ghế cao. Lúc lắc chiếc ba lô trên lưng , anh ta đưa mắt nhìn Sebastian Dangerfield.  - Bồn tắm ở đó to đùng. Hai tháng tớ mới tắm. Càng ngày tớ càng giống người Ailen. Muốn vào tắm cậu phải đi qua một cái cửa quay, giống như đi tàu điện ngầm ở Mỹ vậy.  - Cậu đi hạng nhất hay hạng ba, Kenneth?  - Hạng nhất. Tớ đến vỡ mông vì phải ngồi vò đồ lót và trong những căn phòng ẩm ướt ở Trinity thì chẳng cái quái gì có thể khô được. Cuối cùng tớ phải mang khăn tắm ra hiệu giặt là. Ở Havard tớ có thể tắm thỏa thích dưới vòi sen và có thể thọc chân vào đồ lót sạch sẽ.  - Cậu sẽ được uống gì đây nhỉ, Kenneth?  - Ai trả tiền?  - Tôi vừa mới đem cái lò sưởi điện ra hiệu cầm đồ.  ​​​​​​​ Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Đào Hoa của tác giả J. P. Donleavy.