Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bạn Đỡ Ngu Ngơ Rồi Đấy

BẠN VẪN TƯỞNG: Bạn là một sinh vật của logic và lý trí. SỰ THẬT LÀ: Bạn là một sinh vật có lý trí và khả năng tư duy logic, nhưng lại thường xuyên thất bại trong việc sử dụng chúng theo những cách vô cùng dễ đoán. Đ ây là cuốn sách về sự tự ảo tưởng và cũng đồng thời là khúc ca khen ngợi nó. Bạn thấy đó, giống như ngón tay hay ngón chân vậy, và đó cũng chính là điều mà chúng ta sẽ khám phá tại đây. Sự tự ảo tưởng nhé, không phải là các loại ngón đâu. Bạn thường tự cho rằng mình thông minh, giỏi giang, là con người lý trí và đầy ắp những ý tưởng huy hoàng, với tổ tiên là những người đã sáng chế ra môn đại số và bánh quy gừng. Bạn được sinh ra với niềm kiêu hãnh có sẵn, và rồi, niềm kiêu hãnh ấy lớn dần lên thành sự tự cao tự đại. Nó là một điểm yếu, tồn tại dưới muôn hình vạn trạng ở loài người, mà đây là tôi đang giả định rằng bạn là con người. Nếu bạn là một chú chó siêu thông minh, sinh vật ngoài hành tinh hay một nhà sử học robot tới từ tương lai, thì tôi xin lỗi; mời bạn vui lòng nhảy thẳng sang Chương Một. Còn nếu không phải, hãy đọc tiếp để tiến tới sự giác ngộ nhé. Trí óc con người rõ ràng là lớn và mạnh mẽ hơn nhiều so với trí óc của bất kỳ loài vật nào khác, đó là điều mà toàn bộ giống loài của chúng ta đã nhận ra trong suốt chiều dài lịch sử. Chính bạn có lẽ cũng từng nghĩ tới điều này khi tới thăm sở thú hoặc khi chứng kiến một con chó tự đánh nhau với chân sau. Loài người dường như là đỉnh cao tuyệt đối của sự tiến hóa, hay trái ngon cuối cùng trong sự vận động của vũ trụ. Đây thực sự là một ý tưởng khá thú vị. Ngay từ khi chúng ta còn chưa có giày trượt patin và Salvador Dalí1, thì nhiều nhà tư tưởng vĩ đại đã đắm mình trong niềm tin đó rồi. Và đương nhiên là, ngay khi vừa mới chuẩn bị tận hưởng suy nghĩ ấy, bạn lại vô tình gửi cho sếp một email đáng ra phải gửi tới bác sĩ hậu môn hoặc đọc được tin về việc pizza nhồi xúc xích đã trở thành món ăn thịnh hành nhất hiện nay. Có một thực tế là cứ mỗi khi bạn chiêm nghiệm về loài người và bắt đầu cảm thấy tự hào, thì ngay sau đó, bạn sẽ phải đối mặt với hàng loạt những điều ngớ ngẩn có khả năng lập tức đập tan hoàn toàn cảm giác kiêu hãnh bạn vừa có. Sự thật là bộ não con người tạo ra một trí óc đầy thiếu sót. Có những việc bạn làm chẳng giỏi và sẽ chẳng bao giờ thành thạo được. Bằng chứng cho sự vụng về của bạn hiện hữu ở mọi nơi. Máy tính, giấy nhớ, danh sách việc cần làm, sổ ký quỹ, đồng hồ báo thức - có hàng trăm nghìn sáng chế và ứng dụng được tạo ra cùng hàng loạt các ngành nghiên cứu tồn tại để bù đắp cho những khiếm khuyết của não bộ. Cuộc bàn luận của chúng ta về những nghiên cứu khoa học với chủ đề tự ảo tưởng có lẽ nên được dẫn dắt bởi khái niệm về định kiến. Vậy hãy cùng bắt đầu bằng câu chuyện ngắn kể lại lần đối đầu thứ ba mươi mốt giữa Đại học Dartmouth và Đại học Princeton trên sân bóng bầu dục nhé. Trận đấu này đã là bệ phóng cho vô vàn cuộc thám hiểm trí óc con người, và bạn sẽ được tham khảo một số nghiên cứu ngay khi đoạn văn này kết thúc. Cùng được thành lập vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, Dartmouth và Princeton là hai trường thuộc Ivy League - tập hợp những trường đại học danh giá ở miền Đông Bắc Mỹ. Có lẽ bạn cũng đã nghe danh sáu ngôi trường còn lại rồi: Brown, Columbia, Cornell, Harvard và Yale. Đối với phần lớn người dân Mỹ thì Ivy League gần như đồng nghĩa với những con người “xịn sò”. Tên của những ngôi trường này luôn là thứ mà người ta mong muốn được viết vào sơ yếu lý lịch. Tuy vậy, Ivy League lại khởi nguồn từ thuật ngữ các phóng viên thể thao sử dụng để miêu tả tám ngôi trường ở khu vực New England vốn hay đối đầu nhau, chủ yếu là trong các môn thể thao, và hầu như trong tất cả các lĩnh vực khác. Vào năm 1951, Dartmouth và Princeton chạm trán trong trận bóng cuối cùng của mùa giải đối với cả hai trường. Princeton đã toàn thắng trong tất cả các trận tính tới thời điểm đó. Ngôi sao của đội, Dick Kazmaier, đã được đăng hình lên trang bìa của tạp chí Time và sau này trở thành cầu thủ cuối cùng từ Ivy League được nhận cúp Heisman. Đây là trận đấu quan trọng đối với cả hai đội, và đó là lý do mà Princeton gần như đã phát điên trong hiệp hai, sau khi một cầu thủ Dartmouth làm vỡ mũi Kazmaier. Trong hiệp bóng tiếp theo, một cầu thủ Princeton đã đạp gãy chân đối thủ từ Dartmouth. Trận đấu trở nên vô cùng khốc liệt, cả hai đội đã liên tục phạm lỗi cho tới khi Princeton chiến thắng với tỷ số chung cuộc 13-0. Hai nhà tâm lý học Albert Hastorf tại Dartmouth và Hadley Cantril tại Princeton sớm nhận ra một điều khác thường: Sau trận đấu, những bài tường thuật được in trên hai tờ báo trường dường như viết về hai phiên bản khác nhau của sự thật và chúng cạnh tranh với nhau để trở thành phiên bản chính thức. Một năm sau đó, hai nhà tâm lý học đã công bố một nghiên cứu mà hiện giờ được nhiều người coi là xuất phát điểm tuyệt vời để bàn về sự tự ảo tưởng. Hastorf và Cantril nhận ra rằng cách tờ báo trường và bản tin dành cho cựu sinh viên trường Princeton tường thuật lại trận đấu khiến Dartmouth trông như một đội bóng gồm toàn những kẻ đầu gấu chuyên chơi bẩn. Cùng lúc đó thì tờ báo trường Dartmouth lại có những bài viết vừa biện hộ cho những chấn thương của đối thủ do đội bóng trường mình gây ra, vừa đưa ra những bình phẩm về sự tệ hại trong chiến thuật của Princeton. Theo lời của các nhà nghiên cứu thì hai bên đã nhớ về hai phiên bản khác nhau của trận đấu. “Vậy điều gì sẽ xảy ra khi sinh viên từ hai trường được xem lại trận bóng?” Hai nhà nghiên cứu đặt câu hỏi. “Rõ ràng ký ức của họ là khác nhau, nhưng nếu ta phát lại trận đấu cho họ xem thì sao? Liệu cách nhìn của họ có khác nhau kể cả trong thời gian thực?” Để trả lời điều này, các nhà khoa học đã lấy một cuộn băng ghi hình toàn bộ trận đấu, chiếu cho sinh viên của cả hai trường, và yêu cầu những sinh viên này đánh dấu những thời điểm họ phát hiện ra cầu thủ phạm lỗi kèm theo độ nghiêm trọng của lỗi đó. Ngoài ra, các sinh viên cũng phải trả lời một bảng câu hỏi nữa. Vậy kết quả thế nào? Trong buổi xem lại, sinh viên trường Princeton tin rằng trận đấu mà họ đang xem đã diễn ra một cách thô bạo và kém văn minh, nguyên nhân chính, tất nhiên, là do đội Dartmouth. 90% sinh viên Princeton đã nhận định rằng Dartmouth là bên khơi mào cho những hành động phi thể thao. Họ cũng đánh dấu số vụ phạm lỗi của Dartmouth nhiều gấp đôi số lỗi từ các cầu thủ Princeton, đồng thời cho rằng lỗi do đội bóng trường mình gây ra nhẹ hơn nhiều so với lỗi của đối thủ. Thế nhưng, sinh viên của trường Dartmouth lại thấy những điều hoàn toàn khác. Họ không cho rằng trận đấu đã diễn ra một cách thô bạo quá mức, mà lại là “kịch tính và công bằng”. Đa số các đối tượng nghiên cứu từ Dartmouth nhận định cả hai đội bóng đều có lối chơi rắn, và sinh viên Princeton chỉ đơn giản là đang giận dữ vì ngôi sao bên đội họ bị chấn thương. Họ đã đánh dấu số lần phạm lỗi gần như đều nhau cho cả hai đội, và nhìn chung là tự chấm cho đội mình ít lỗi hơn khoảng một nửa so với con số do các sinh viên Princeton đưa ra. Các nhà khoa học giải thích hiện tượng này là do, mặc dù xem cùng một cuộn phim, nhưng mỗi người lại thấy một trận đấu khác nhau. Chúng ta mang theo mình những phiên bản khác nhau của thực tế, của sự thật, và đều bị ảnh hưởng bởi lòng trung thành. Bài học lớn từ trận đấu giữa Princeton và Dartmouth chính là: Chỉ cần một khác biệt nhỏ của các biến số là có thể thay đổi toàn bộ cục diện. Những sinh viên đã xem trận đấu, không quan trọng là họ có tới sân vận động hôm thi đấu thật hay không, đã trải nghiệm hai phiên bản khác nhau của thực tế, mặc dù về mặt lý thuyết, thì họ là những người gần như giống nhau: Những sinh viên tại trường nam sinh trong nhóm Ivy League giữa những năm 1950, về cơ bản, họ thuộc chung nhóm sắc tộc và có cùng địa vị xã hội. Vì là sinh viên, họ thuộc chung một nhóm tuổi. Đều là các công dân ở miền Đông Bắc Mỹ, họ có nhiều điểm chung trong các quan điểm văn hóa và tôn giáo. Điều khác biệt duy nhất là ngôi trường họ chọn để theo học. Kết quả nghiên cứu cho thấy nếu bạn có thể vặn ngược đồng hồ và đổi chỗ cho các sinh viên đó, thay đổi ngôi trường họ học, thì trải nghiệm về trận đấu của họ cũng sẽ thay đổi theo. Đây là lúc mà định kiến dẫn dắt bạn tới với chủ nghĩa hiện thực ngây thơ (naive realism) - một khái niệm rất cũ trong triết học vốn đã bị khoa học đập chết ăn thịt từ lâu. Câu hỏi đặt ra như sau: Liệu tôi có thấy thế giới như thực tế nó vốn vậy? Dựa theo chủ nghĩa hiện thực ngây thơ thì câu trả lời là có. Nếu nhìn vào lịch sử loài người thì mãi cho tới khá gần đây, lý thuyết bạn-thấy-sao-thì-thực-tế-là-vậy này vẫn được khá nhiều người bảo vệ. Thế nên, nếu ví dụ về trận đấu Princeton-Dartmouth chưa đủ sức thuyết phục bạn, thì tôi sẽ phải đập tan lý thuyết này trước khi tiếp tục chủ đề của chúng ta. Là một con người hiện đại, hẳn bạn cũng biết các bộ phim thực chất chỉ là những bức ảnh tĩnh thay đổi nhanh hơn so với tốc độ xử lý của não mà thôi. Khi nhìn một bông hoa, bạn nên hiểu rằng thứ bạn đang thấy đây không giống thứ mà một con bướm nhìn thấy. Nếu ta được nhìn qua đôi mắt của côn trùng, thì thế giới các loài hoa sẽ trở thành một vụ nổ điên rồ của các ảo giác. Căn phòng khách tắt đèn tối om vốn khiến bạn không thể đi lại được vào ban đêm lại là sân chơi bình thường với chú mèo cưng. Và nếu đã từng chiếu một chiếc đèn laser gần lũ mèo, thì hẳn bạn cũng nhận ra những gì diễn ra trong cái đầu nhỏ bé của chúng không giống với những điều diễn ra trong bộ óc của bạn. Bạn biết thế giới không hoàn toàn giống với những gì bạn thấy, và chỉ cần một trò lừa thị giác điêu luyện là có thể ngay lập tức chứng minh điều đó. Chủ nghĩa hiện thực ngây thơ vốn rất... ngây thơ. Như việc các ngôi sao lúc nào chẳng hiện diện trên bầu trời, nhưng ánh sáng mạnh từ Mặt Trời tràn qua bầu khí quyển khiến chúng bị lu mờ vào ban ngày. Giả như bạn ném một hòn đá xuống mặt hồ, tiếng động sẽ làm cho con cóc và con cáo phải ngoái đầu nhìn, nhưng những gì chúng thấy không phải những gì bạn nhìn được. Mỗi sinh vật sẽ được trải nghiệm một phiên bản độc đáo của thực tế dành riêng cho hệ thần kinh của nó. Con cóc, con cáo và con người đều cùng trải nghiệm một thứ có thật, nhưng phản ứng thì lại khác nhau bởi hình ảnh hiện tượng ấy trong tâm trí mỗi loài đã được thay đổi. Sự nhận thức của bạn không phải là duy nhất, và nguồn thông tin đầu vào hoàn toàn có thể bị làm cho sai lệch, bởi vậy, hình ảnh trong đầu bạn không phải thứ đáng tin. Đó là một khái niệm khá đơn giản, và có lẽ bạn cũng đã từng suy ngẫm về nó. Nhưng như nghiên cứu về trận bóng ở trên đã chỉ ra, chủ nghĩa hiện thực ngây thơ còn tồn tại ở một mức độ khác khó chấp nhận hơn nhiều. Giống như hầu hết mọi người, bạn thường không đặt câu hỏi về nó, và nó cứ thế tồn tại trong hầu hết tất cả những cái đầu trên địa cầu này. Nhìn quanh một chút rồi đọc tiếp nhé. Những thứ bạn vừa thấy trong tâm trí mình không được tạo ra bởi các vật thể ngoài đời thực. Chúng không phải là kết quả đơn thuần của ánh sáng được thu vào mắt. Tất cả những gì bạn thấy, nhớ lại và cảm nhận, 100% đều được tạo ra bởi những phản ứng hoá học trong hộp sọ, nghĩa là chúng có thể bị ý thức ảnh hưởng, sửa đổi, lược bỏ, hay biến tấu theo bất kỳ cách nào trong quá trình xây dựng lại thực tế từ các thông tin thu nhận được từ bên ngoài và có sẵn bên trong. Theo lời của nhà tâm lý học Daniel Gilbert, thì ký ức, nhận thức và trí tưởng tượng đều chỉ là những biểu trưng chứ không phải là bản sao của thực tế. Ký ức kém chính xác nhất khi được ngẫm nghĩ nhiều, và ít chính xác nhất khi bị động vào. Hai sự thật này khiến lời khai nhân chứng trở thành thứ, về cơ bản, là vô nghĩa. Thế nhưng đó không phải điều nhiều người có thể chấp nhận. Hai nhà tâm lý học Dan Simons và Christopher Chabris đã công bố một nghiên cứu vào năm 2011 cho thấy 63% những người được hỏi tại Mỹ tin rằng ký ức hoạt động như một cuộn phim, và 48% cho rằng ký ức là vĩnh cửu. Khoảng 37% cho rằng lời khai nhân chứng đủ để làm bằng chứng cần thiết duy nhất cho việc kết tội. Những phát hiện đó đã khiến các nhà tâm lý học và thần kinh học bàng hoàng, bởi vì không điều nào đúng cả. Bạn không có khả năng ghi nhận mọi thứ bạn thấy, thậm chí bạn còn không có khả năng nhận thức được hết tất cả các thông tin đi vào não bộ. Chỉ những thứ bạn chú ý mới được thu nhận qua tai và mắt. Ký ức cũng không phải là cuộn phim. Khoảnh khắc mà nụ hôn đầu đời của bạn kết thúc, ký ức về nó bắt đầu nhạt phai. Mỗi lần bạn nhớ về sự kiện đó, nó sẽ được tái tạo trong trí óc theo những cách khác nhau, chịu ảnh hưởng bởi tình trạng hiện tại và tất cả những trải nghiệm khác mà bạn đã nhận được kể từ thời điểm đó, cộng với những chi tiết sai lầm bạn có thể thêm thắt vào. Ngày nay, ngành tâm lý học đã biết được rằng bạn thường xuyên đưa ra những dự đoán và quyết định dựa trên những hình mẫu tâm lý và ký ức có sẵn. Hơn nữa, bạn còn tự cho rằng những hình mẫu và ký ức đó là chính xác. Cứ mỗi một nghiên cứu mới ra đời, sự thật lại càng rõ ràng: Hình mẫu tâm lý và ký ức của bạn có lỗ hổng, không hoàn hảo và dễ bị xuyên tạc. Từ đó có thể suy ra, những dự báo và quyết định của bạn cũng đầy sai lầm. Bạn luôn đánh giá quá thấp khả năng tự đánh lừa bản thân của mình, và nhận thức của bạn có thể bị thay đổi hoàn toàn bởi những nhân tố nội tại. Cuốn sách này sẽ cho bạn thấy mình không những không hề thu nhận và xử lý thông tin về thực tại một cách thụ động, mà còn chủ động tham gia vào việc tạo nên vũ trụ của riêng mình. Những nghiên cứu trong một thế kỉ gần đây đã cho thấy bạn và tất cả mọi người vẫn tin vào một dạng của chủ nghĩa hiện thực ngây thơ. Bạn vẫn nghĩ rằng mặc dù các thông tin mà bạn tiếp nhận có thể không hoàn hảo, nhưng những suy nghĩ và cảm nhận cá nhân của bạn thì đáng tin cậy và dễ đoán. Chúng ta đã biết: Bạn không bao giờ cảm nhận được một thực tế “khách quan”, và bạn cũng sẽ không bao giờ biết được bao nhiêu phần trong thực tế chủ quan của mình là giả, đơn giản bởi vì bạn không có bất kỳ trải nghiệm nào khác ngoài những sản phẩm do trí óc của chính mình tạo ra. Mọi chuyện từng xảy ra với bạn đều diễn ra bên trong hộp sọ. Ngay cả cảm giác về cánh tay cũng được tạo ra bởi bộ não. Bạn có thể cảm thấy và nhìn thấy tay mình đang ở trước mặt, nhưng đó có thể cũng chỉ là ảo giác. Cánh tay, thực chất, nằm trong đầu bạn. Mỗi bộ não tạo ra phiên bản về thực tế riêng của mình, về cơ bản là giống nhau, nhưng cũng vô cùng khác biệt và có không ít những chi tiết sai sót. Trong bài nghiên cứu của mình, Hastorf và Cantril còn nói rằng nếu đi sâu phân tích hơn nữa, thì trận đấu đó thậm chí còn không tồn tại. Giống như đĩa salad, về bản chất, chỉ là một đống rau củ hổ lốn được cắt nhỏ, trận đấu nói trên cũng chỉ là một chuỗi các sự kiện diễn ra trong khoảng thời gian giữa hai lần bấm của một chiếc đồng hồ đếm ngược. Dĩ nhiên là các vận động viên đã thực hiện hàng loạt hành động, và khán giả thì nhận biết được một vài trong số những điều đang xảy ra, nhưng nói cho cùng, trận đấu cũng chỉ là một ý tưởng, một khái niệm xã hội mà thôi. Trong hàng tỷ những sự kiện đã xảy ra ngày hôm đó, Cổ động viên của hai đội đã đặt nặng ý nghĩa của một nhóm sự kiện xảy ra tại một địa điểm và gọi tên là trận đấu bóng. Ý nghĩa được định hình bởi xã hội đó giúp những người quan sát định nghĩa trải nghiệm của mình. Khác với hầu hết mọi thứ trên đời, các môn thể thao sở hữu những hàng rào đẹp đẽ của luật lệ và ranh giới, chúng diễn ra trong một không gian xác định với các hành động đã được phân công rõ ràng. Nhờ vậy, chúng ta dễ dàng đồng thuận với nhau về những điều xảy ra trong khoảng thời gian được quy định. Ấy thế mà người ta vẫn thường xuyên cãi vã, dù rằng mọi thứ đã được thu hình và chiếu lại đúng y như những gì đã diễn ra. Thực tế không đơn thuần chỉ là thứ đi vào đôi mắt và nảy lung tung trong đầu bạn. Bạn tự thay đổi nhận thức của mình một cách vô thức, thậm chí ngay cả khi nó đang xảy ra. Đây là một thông tin vô cùng hữu ích khi được áp dụng vào chiến tranh, chính trị, các xu thế xã hội, kinh tế và tất cả những thứ vĩ mô khác có ảnh hưởng tới đời sống, mà không được lịch sử ghi chép lại một cách hoàn hảo. Bạn thấy đó, thông minh là một trạng thái phức tạp và dễ bị hiểu sai hơn nhiều so với những gì bạn nghĩ. Trong phần lớn các trường hợp, bạn hầu như không thể hiểu rõ đầu cua tai nheo của sự việc. Nếu coi đó là việc kiếm cơm hàng ngày thì hắn là bạn đã chết đói từ lâu rồi. Bạn tưởng mình là một con người có lý trí, bình tĩnh cân nhắc mọi mặt của cuộc sống trước khi đưa ra các quyết định và lựa chọn, và mặc dù đôi khi có vấp váp, về cơ bản, bạn vẫn làm tốt bổn phận này của mình, nhưng thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Bạn tồn tại trong trạng thái thận trọng giả tạo. Bạn cực tệ trong việc tự giải thích bản thân, và bạn cũng không nhận thức được mức độ nghiêm trọng của điểm yếu này. Nói cho chính xác, bạn thậm chí còn cảm thấy ngược lại. Bạn luôn tự tin một cách vô lý về nhận thức của bản thân, kể cả khi những giới hạn của bạn đã bị hé lộ. Chính tại nút giao của sự ngạo mạn và yếu đuối, nơi kết hợp đẹp đẽ của tính quả quyết và sự bất toàn này, chúng ta sẽ bỏ chút thời gian thảo luận với nhau. Đây sẽ là cuộc thám hiểm một số ảo giác thú vị nhất đã được khoa học xác định và đo đạc, những thứ cần phải có trong cuốn “hướng dẫn sử dụng cơ thể người” – cũng giống như những thông tin về chất béo chuyển hóa và chất gluten2 vừa được giới khoa học bổ sung vậy. Trong cuốn sách này, bạn sẽ được giới thiệu về một vài khiếm khuyết trong tâm trí con người, cách mà bộ não vẫn nói dối bạn, cách mà nó ăn gian, biến đổi và bẻ cong thực tế, và lý do tại sao bạn vẫn luôn cho chân vào những cái bẫy đó hết lần này tới lần khác. Vậy rốt cuộc, chúng ta sẽ tìm hiểu những gì đây? Chà, thường thì bạn không nắm rõ nguồn gốc của cảm xúc, suy nghĩ, hành vi và ký ức của mình. Nhưng thay vì hoảng loạn và sợ hãi, bạn lại sở hữu một bộ đồ nghề khổng lồ gồm vô số mẹo vặt và kỹ năng; nhờ chúng, bạn sáng tạo ra những bối cảnh giúp cuộc sống dễ hiểu hơn, và rồi, bạn tin luôn vào những bối cảnh mình vừa phát minh ra. Từ năm này qua năm khác, đống bùi nhùi đó dần trở thành câu chuyện cuộc đời bạn. Một trong những dụng cụ này là sự tự nghiệm. Để sống sót, tổ tiên chúng ta đã phải suy nghĩ và phản ứng nhanh trước các tình huống. Sự tự nghiệm là công cụ biến những ý tưởng lớn và phức tạp thành những ý nhỏ, dễ xử lý hơn. Nó giải thích những điều xảy ra trong thế giới xung quanh theo cách đơn giản nhất, cho phép bạn tiếp tục cuộc sống mà không bị phân tâm quá nhiều. Khi cần giải quyết vấn đề và ra quyết định, bạn có nhiều công cụ tự nghiệm khác nhau để biến những thứ phức tạp trở thành vô cùng đơn giản. Ví dụ, bạn sử dụng sự tự nghiệm cảm xúc để đưa ra các quyết định xoay quanh việc một người, một vấn đề hay tình huống mang tới cho bạn cảm xúc tiêu cực hay tích cực. Tay ứng cử viên cho chức thị trưởng làm bạn cảm thấy ghê sợ? Thôi, đừng bỏ phiếu cho hắn. Bà bác sĩ kia đã chọn màu xanh nước mũi để sơn tường phòng khám ư? Bạn sẽ không bao giờ tới đó nữa. Sự tự nghiệm xuất hiện ở những lúc bạn không ngờ nhất, như khi bạn cân nhắc xem có nên ủng hộ tiền cho những người làm quảng cáo về lũ chó mèo bị ngược đãi và bỏ rơi không. Khi suy nghĩ về việc ký séc, bạn không đặt câu hỏi về tính chính thống của tổ chức này, về khả năng những con vật có thể phục hồi, hay về lịch sử tài chính của họ. Thay vào đó, bạn chỉ để ý tới việc hình ảnh những con vật bị hành hạ kia có khiến bạn buồn hay không. Câu hỏi đó dễ trả lời hơn rất nhiều, và từ đó, bạn tự cho rằng mình cũng đã giải quyết xong những câu hỏi phức tạp hơn ở trên. Thuật giả kim cho tâm trí này được áp dụng lên mọi mặt trong cuộc sống, từ việc cân nhắc xem có nên bỏ việc hay không cho tới việc lựa chọn ứng cử viên sáng giá cho chức Tổng thống. Những câu hỏi rắc rối phức tạp thường biến hình thành những bài thử cảm xúc, và cảm xúc lại vốn là thứ chẳng đáng tin bao giờ. Khi sử dụng sự tự nghiệm, bạn có xu hướng cho rằng mình đang cân nhắc một cách logic, nhưng thực ra là bạn đã đi đường tắt mà chẳng thèm ngoái đầu nhìn lại. Một chướng ngại vật khổng lồ khác trong trí óc bạn là tập hợp những khuôn mẫu suy nghĩ vô cùng dễ đoán mang tên thiên kiến nhận thức. Thiên kiến là xu hướng suy nghĩ theo một chiều nhất định dù rằng có tồn tại những phương án khác tốt tương tự hay thậm chí là tốt hơn. Lấy ví dụ nhé, bạn có xu hướng rẽ phải mỗi khi bước vào tiệm tạp hóa mặc dù rẽ trái cũng không khác gì cả, như vậy là bạn có thiên kiến rẽ phải trong hành vi của mình. Hầu hết mọi người đều có chung thiên kiến này, và bởi vậy, các cửa hàng lớn đều tận dụng triệt để điều này trong việc thiết kế và trưng bày sản phẩm. Hầu hết tất cả các thiên kiến nhận thức đều có sẵn một cách tự nhiên, nên dù bạn có được sinh ra ở Ai Cập hay Alabama, vào năm 1902 hay năm 2002 đi chăng nữa, thì bạn vẫn mang trong mình một bộ sưu tập những thiên kiến nhận thức như tất cả mọi người. Các nhà khoa học cho rằng hầu hết các thiên kiến đều là cơ chế thích nghi, nghĩa là qua hàng triệu năm tiến hóa, chúng là chốn ẩn nấp đáng tin cậy khi bạn không chắc về cảm xúc của mình hay không biết cần phải hành động ra sao. Một ví dụ nữa là thiên kiến nhận thức muộn: Nó khiến bạn tin mình luôn đoán đúng về tương lai, bởi vì bạn tưởng bở rằng mình đã làm được điều đó cả đời rồi. Sự thật phũ phàng là bạn rất tệ trong việc tiên đoán tương lai, nhưng lại cực giỏi trong việc viết lại các ký ức của bản thân sao cho chúng có vẻ như là bạn đã đúng ngay từ đầu. Ngoài ra, bạn còn sở hữu thiên kiến xác nhận, thứ khiến bạn luôn tìm kiếm các thông tin củng cố cho thế giới quan của bản thân, trong khi tránh xa hoặc bỏ lỡ những thông tin đối nghịch. Qua thời gian, bạn tạo nên một cái bong bóng, mà mọi thứ trong đó có vẻ hoàn toàn phù hợp với những niềm tin có sẵn của bạn. Sự tự nghiệm cho phép bạn suy nghĩ và hành động nhanh hơn, còn thiên kiến lại khiến bạn hành xử theo những cách vốn vẫn giúp các loài linh trưởng tồn tại. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại, sự tự nghiệm và thiên kiến nhận thức luôn phải đứng trước những thử thách, và đó là lúc bạn lôi các loại ngụy biện ra. Ngụy biện xuất hiện trong các cuộc tranh cãi. Bạn thường vào cuộc với một kết luận đã có sẵn trong đầu, rồi cố gắng chứng minh rằng kết luận đó không hề ngu ngốc. Cách bạn biện luận cho điều này thường phụ thuộc vào khả năng bẻ cong logic để làm mọi thứ khớp với nhau. Ta cùng xem một ví dụ cụ thể nhé: Có thể bạn cho rằng bánh mì kẹp xúc xích là thứ đồ ăn chế biến công nghiệp đáng kinh tởm, và bạn không thể tin nổi là em họ của mình đang cho con ăn cái món đó, vì không ai được phép bắt trẻ con ăn thực phẩm mất vệ sinh hết. Vậy là bạn vừa mới đưa ra một lập luận đầy ngụy biện, bởi giả định của bạn nằm ngay trong câu đầu tiên: Bánh mì kẹp xúc xích là thứ kinh tởm. Luận điểm của bạn chẳng chứng minh được gì cả. Nó thậm chí còn chẳng hề nói gì đến độ ghê tởm của thứ thịt nghiền lẫn mỡ bọc trong lớp màng ăn được. Bạn mới chỉ nói lên một niềm tin của bản thân, và cho biết nó là nguyên nhân cho một suy nghĩ nhất định. Bạn có thể nhìn rõ chân tướng của phép ngụy biện này bằng cách sắp xếp câu như sau: “Không ai được ép trẻ con phải ăn thứ thực phẩm mà tôi cho là kinh tởm”. Bạn thường xuyên bị lẫn lộn trong đám logic của bản thân, và cuối cùng thì nhất nhất bẻ cong từ ngữ để làm thế giới khớp với những định kiến của riêng mình. Những ngụy biện thiếu logic, sự tự nghiệm rối rắm và các thiên kiến nhận thức đầy sai lầm cùng hợp lực với một loạt những hiện tượng kỳ lạ khác tạo nên cách tiếp cận vấn đề tệ hại mà bạn vẫn dùng để làm rõ mọi việc trong cuộc sống. Bạn chỉ có khả năng tập trung chú ý vào rất ít thứ một lúc, vậy mà bạn lại cảm thấy mình có thể nhìn được hết mọi thứ xuất hiện trước mắt hay nghe được mọi tiếng động gần tai. Ngay cả khi bạn có chú ý, thì những giác quan này cũng vẫn có rất nhiều hạn chế và không hề hoàn hảo. Rồi bạn dùng những thông tin thu thập được qua các giác quan đó, thêm thắt những thứ vốn không có thật và loại bỏ những thứ bạn không muốn chấp nhận, để xây dựng nên “thực tế”. Thêm vào phương trình này sự phức tạp, rộng lớn của hệ thống cảm xúc và trực giác, bạn có thể thấy được độ lệch lạc trong cái nhìn của mình về thực tế và sự thay đổi theo từng phút giây của nó. Độ lệch lạc đó được chuyển thành những ký ức kém chính xác và không hoàn thiện, lại còn xuống cấp dần sau mỗi lần xem lại. Chất hồ dính – bản năng kể chuyện nằm sâu trong mỗi con người - giữ cho mớ thông tin sai lệch hỗn độn này gắn kết với nhau. Chính khả năng này giữ cho bạn tỉnh táo và cân bằng, dù rằng những câu chuyện bạn tự kể cho bản thân có thể khác xa sự thật. Mặc dù bạn rất dễ phạm sai lầm, mắc phải định kiến, dễ bị lừa, cũng như thường xuyên đi lừa người khác, và hình ảnh bản thân trong tâm trí bạn không thực sự khớp với thực tế, nhưng bạn vẫn sống tốt. Ít nhất là trong phần lớn các trường hợp. Nhưng như vậy cũng tạo ra một vấn đề nghiêm trọng, nhất là khi các chính trị gia, các vị giám đốc điều hành và những người có quyền lực thay đổi cách thế giới vận hành bắt đầu lợi dụng điều này. Họ ném ra những luận điểm ủng hộ hay phản đối một thứ gì đó dựa trên những ảo tưởng tạo ra bởi sự bất toàn trong tâm trí và giác quan của bạn. Trong các ngành khoa học thần kinh, tâm lý và kinh tế, những khiếm khuyết lớn trong tâm trí con người đã được biết tới từ khoảng năm mươi năm nay. Nỗ lực nghiên cứu trong các ngành đó vẫn đang tiếp tục được xúc tiến, nhưng về cơ bản thì hầu hết những gì khoa học đã tìm ra về vấn đề này vẫn nằm dưới cái mũ học thuật. Bạn rất may mắn khi được sống trong thời kỳ mà các kiến thức vốn bị coi là cao siêu bắt đầu len lỏi vào những cuộc hội thoại thường ngày. Và đó chính là mục đích của cuốn sách bạn đang cầm trên tay đây: tiết lộ phần nào kiến thức về những khuyết điểm của bạn để chúng có thể được sử dụng một cách tốt nhất. Trong những điều chúng ta sắp nói tới đây, một số sẽ liên quan tới cấu tạo của não bộ, số khác liên quan tới những ảnh hưởng văn hóa, và có cả những thứ dính dáng tới các thói quen đã có từ xa xưa. Bộ não trong hộp sọ của bạn được tạo nên qua quá trình tiến hóa, và thế giới của tổ tiên bạn chứa đầy những tình huống mà ngày nay bạn không cần phải đối mặt nữa. Tuy vậy, não bộ của bạn vẫn không ngừng đề phòng. Nếu bạn đang ngủ và bị ai đó ném sợi dây thừng vào người, thì cũng chẳng mất gì mà không hốt hoảng, la hét và giãy dụa (tất nhiên là vẫn cố gắng giữ cho quần không bị ướt). Nếu đó là một con rắn độc, thì phản ứng như vậy rất có ích. Thử nghĩ mà xem, sẽ nguy hiểm làm sao nếu lần nào bị đánh thức bởi vật giống con rắn, bạn cũng chỉ ngáp ruồi và nhẹ nhàng gạt nó qua một bên. Qua quá trình tiến hóa hàng triệu năm, những sinh vật không hoảng hốt trước sự xuất hiện của các vật thể giống-rắn đã không sống sót được đủ lâu và đẻ được nhiều con cái như những con người có phản ứng này, và bởi vậy, bạn thừa hưởng sự sợ hãi đó, cùng với nỗi sợ những thứ nhiều chân bò loằng ngoằng đáng ghê tởm, độ cao, những nơi tăm tối và người lạ. Bạn được lập trình để biết sợ những kẻ khủng bố hơn sợ đồ nội thất, mặc dù nếu nói về mặt thống kê thì mỗi năm, số người mất mạng vì bị ghế sofa và TV đổ đè lên người còn nhiều hơn là vì khủng bố. Khi bạn nhận thức được rằng thế giới đã nhào nặn nên tâm trí bạn chính là thế giới mà bạn đủ kỹ năng đương đầu nhất, thì cũng dễ hiểu tại sao những thứ như động cơ xe hơi, chế độ giảm cân hay công thức làm bánh soufflé lại khó nắm bắt tới vậy, và đó là còn chưa kể tới các loại thuốc nội soi và vật lý lượng tử đấy. Đây không phải là cuốn sách về những hiện tượng tâm lý bất thường. Nó nói về những thứ bình thường trong tâm lý, những thứ thông thường, mặc định được cài sẵn trong bộ não của mỗi con người, từ các nhà khoa học chế tạo tên lửa, các nguyên thủ quốc gia đến các bà cô ở văn phòng, người dùng lịch in hình mèo cho những công việc cá nhân và lịch in hình các chàng lính cứu hỏa cho những buổi họp công chuyện. Bạn nghĩ thấy tận mắt thì sẽ đáng tin, rằng những suy nghĩ của bạn luôn dựa trên những bản năng đáng tin cậy và những phân tích hợp lý, và dù đôi khi cũng mắc sai lầm, về cơ bản, bạn vẫn là người điều khiển đầy thông minh và luôn tập trung cao độ của hệ thần kinh phức tạp nhất Trái Đất. Bạn tin khả năng của mình rất tốt, trí nhớ của mình rất tuyệt hảo, suy nghĩ của mình rất hợp lý và luôn mang tính ý thức cao, câu chuyện của đời của mình là thành thật và chính xác, tính cách của mình thì vững vàng không đổi và không chê vào đâu được. Nhưng sự thật phũ phàng là bộ não luôn nói dối bạn. Bên trong hộp sọ là một âm mưu to lớn và sâu rộng với mục đích giữ cho bạn không thể lật mở những sự thật về bản thân cũng như về khả năng thực của mình. Chính sự tự tin không đáng có mà bạn sở hữu đã thay đổi cách bạn hành xử, tạo nên cánh cửa sau cực lớn và dễ mở, chào đón những tên lừa đảo, các nhà ảo thuật, nhân viên quan hệ công chúng, các nhà quảng cáo, những tên giả khoa học, những kẻ buôn bùa chú và vô số những người khác nữa. Bạn có thể học được rất nhiều về bản thân khi nhìn từ góc độ của những người có khả năng nhìn thấu hành động và biết cách thao túng tính khờ dại của bạn: Hãy học từ chính những khiếm khuyết và thất bại của bản thân. Nhờ vào một cách tiếp cận mới trong bộ môn tâm lý học, các nhà khoa học đã bắt đầu vẽ được bức tranh toàn cảnh về những lỗi lầm và khiếm khuyết trong mỗi con người. Cuốn sách này là bộ sưu tập gồm một số ảo tưởng thú vị nhất được phát hiện từ trước tới nay. Tôi hy vọng rằng khi đọc, bạn cũng sẽ được giác ngộ như tôi khi phát hiện ra chúng. Hãy coi đây là chiến dịch gây sốc và tạo sự kinh ngạc được thiết kế để giúp bạn cảm thấy kết nối hơn với cộng đồng loài người. Chúng ta cùng hội cùng thuyền cả thôi, và đây là những chướng ngại tâm lý chung mà ai cũng sở hữu. Hãy sử dụng những thứ bạn học được trong cuốn sách này để mở lòng hơn với người khác và để thành thực hơn với bản thân. Bạn không thông minh lắm đâu, nhưng có những cách tưởng chừng như vô lý, nhưng lại hiệu quả và thú vị vô cùng sẽ giúp bạn đỡ ngu ngơ hơn đấy. Cùng bắt đầu nào. Mời các bạn đón đọc Bạn Đỡ Ngu Ngơ Rồi Đấy của tác giả David McRaney.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thương Lượng Không Nhân Nhượng
Cho dù thích hay không, bạn vẫn là một nhà đàm phán. Đàm phán là thực tế của cuộc sống. Bạn đàm phán việc tăng lương với sếp. Bạn cố gắng thỏa thuận với một người về giá cả ngôi nhà của anh ấy. Hai vị luật sư đã nỗ lực giải quyết vụ án phát sinh từ vụ tai nạn ô tô. Một nhóm các công ty dầu lửa lên kế hoạch thành lập công ty liên doanh khai thác dầu ngoài khơi. Một quan chức thành phố họp với lãnh đạo nghiệp đoàn để ngăn chặn cuộc bãi công. Ngoại trưởng Hoa Kỳ cùng ngồi với người đồng cấp Liên Xô để tìm cách thỏa thuận về hạn chế vũ khí hạt nhân. Tất cả những việc này đều là đàm phán. Hằng ngày, ai cũng đàm phán điều gì đó. Cũng giống như ngài Jourdain của Molière, người sung sướng nhận ra mình đã nói văn xuôi suốt cả cuộc đời, mọi người đàm phán ngay cả khi họ không nghĩ là mình đang làm vậy. Bạn đàm phán với vợ/chồng về việc đi đâu để ăn tối và thỏa thuận với con cái lúc nào thì tắt đèn đi ngủ. Đàm phán là phương tiện cơ bản để đạt được điều bạn muốn từ người khác. Đây là quá trình trao đổi qua lại nhằm tiến tới thỏa thuận khi bạn và đối phương có cùng lợi ích hay mâu thuẫn quyền lợi với nhau. Ngày càng có nhiều trường hợp đòi hỏi phải tiến hành đàm phán và tránh được xung đột là một kỹ nghệ phát triển. Mọi người đều muốn tham gia vào những quyết định có ảnh hưởng đến họ; chẳng mấy ai chịu chấp nhận quyết định do người khác đưa ra. Không ai giống ai và con người dùng đàm phán để giải quyết sự bất đồng. Dù trong doanh nghiệp, chính phủ hay gia đình thì hầu hết mọi người đều ra quyết định thông qua đàm phán. Ngay cả khi ở tòa án, gần như người ta luôn đàm phán cách giải quyết trước khi xét xử. Mặc dù đàm phán diễn ra hằng ngày, nhưng để làm tốt việc này thì lại thật không dễ. Các chiến lược đàm phán thường khiến mọi người thấy không hài lòng, kiệt sức, bị xa lánh – hoặc thường xuyên có cả ba cảm giác này. Con người thường thấy bản thân rơi vào những tình thế khó xử. Họ có hai cách để đàm phán: Mềm dẻo hoặc cứng rắn. Những nhà đàm phán mềm dẻo thường muốn tránh xung đột cá nhân, vì vậy, họ sẵn sàng nhân nhượng để đạt được thỏa thuận. Những người này muốn tiến tới hòa giải; tuy vậy, rốt cuộc họ thường bị lợi dụng nên cảm thấy rất cay đắng. Những nhà đàm phán cứng rắn lại cho rằng mọi tình huống là sự thử thách ý chí, ở đó, bên nào có lập trường cực đoan hơn và giữ miếng lâu hơn sẽ có chiếm ưu thế. Họ muốn giành thắng lợi; tuy vậy, họ thường kết thúc cuộc đàm phán bằng việc tạo ra sự phản ứng không kém phần cứng rắn, gây cạn kiệt sức lực và phương hại tới mối quan hệ với phía bên kia. Các chiến lược đàm phán phổ biến khác nằm giữa loại chiến lược mềm dẻo và loại cứng rắn, nhưng mỗi chiến lược này thường hướng tới sự thỏa hiệp giữa việc đạt được điều bạn muốn và giữ hòa khí với mọi người. Cách đàm phán thứ ba, không thiên về cứng rắn hay mềm dẻo, mà là vừa cứng rắn vừa mềm dẻo. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc được xây dựng trong Dự án Kỹ năng đàm phán của Harvard nhằm giải quyết vấn đề trên cơ sở giá trị chứ không thông qua việc tập trung vào những gì mỗi bên nói sẽ làm hay không làm. Phương pháp này khuyên bạn nên tìm kiếm lợi ích chung bất cứ lúc nào có thể và khi có xung đột về lợi ích thì bạn nên yêu cầu kết quả phải dựa trên cơ sở một số tiêu chuẩn bình đẳng nhất định độc lập với ý chí của hai bên. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cứng rắn về giá trị nhưng mềm dẻo về vấn đề con người. Phương pháp này không dùng thủ đoạn và điệu bộ. Nó cho bạn biết cách đạt được điều bạn đáng được hưởng mà vẫn tỏ ra lịch thiệp. Nó cho phép bạn cư xử công bằng và bảo vệ bạn chống lại những kẻ nhăm nhe lợi dụng sự ngay thẳng của bạn. Cuốn sách này bàn về phương pháp đàm phán trên nguyên tắc. Chương thứ nhất mô tả những vấn đề phát sinh trong việc áp dụng các chiến lược tiêu chuẩn của kiểu đàm phán quan điểm lập trường. Bốn chương tiếp theo trình bày bốn nguyên tắc của phương pháp đàm phán theo nguyên tắc. Ba chương cuối giải đáp những câu hỏi thường được nêu lên: Điều gì sẽ xảy ra nếu phía bên kia mạnh hơn? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ không tuân thủ luật chơi? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ gian dối. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được nhà ngoại giao Hoa Kỳ sử dụng ở trong các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí với Liên Xô, khi các luật sư Phố Wall đại diện cho 500 công ty trên Tạp chí Fortune tranh tụng trong các vụ kiện chống độc quyền; và được các cặp vợ chồng dùng để quyết định mọi việc, từ việc đi nghỉ ở đâu cho đến phân chia tài sản như thế nào nếu họ ly dị. Bất cứ ai cũng có thể sử dụng phương pháp này. Không có cuộc đàm phán nào giống nhau, nhưng những yếu tố cơ bản của nó thì không thay đổi. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được sử dụng để giải quyết một hay nhiều vấn đề; có hai hay nhiều bên tham gia; dù có trình tự được quy định như trường hợp đàm phán tập thể hay không được chuẩn bị trước trong đàm phán với không tặc. Phương pháp này được áp dụng cho dù phía bên kia có nhiều kinh nghiệm hơn hay ngược lại, dù họ là kẻ không khoan nhượng hay là người ôn hòa. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc là một chiến lược áp dụng được cho mọi mục đích. Không giống với phần lớn các chiến lược khác, nếu phía bên kia cũng lĩnh hội được phương pháp này, nó sẽ trở nên dễ sử dụng hơn. Và nếu họ cũng đọc cuốn sách này thì tất cả đều có lợi. *** Đừng bàn cãi về quan điểm Dù là cuộc đàm phán về hợp đồng, cuộc tranh cãi trong gia đình hay thỏa thuận hòa bình giữa các quốc gia, thông thường người ta vẫn hay bàn cãi về vấn đề quan điểm. Mỗi bên đều có lập trường riêng, lập luận để bảo vệ nó và nhân nhượng nhằm đạt được thỏa hiệp. Ví dụ cổ điển về kiểu đàm phán này là cuộc mặc cả diễn ra giữa khách hàng và chủ cửa hàng đồ cũ: Và cuộc mặc cả cứ thế tiếp tục. Có thể họ sẽ đạt được thỏa thuận nhưng cũng có thể không. Mọi phương pháp đàm phán đều có thể được đánh giá công bằng qua ba tiêu chí: Phương pháp này phải mang lại thỏa thuận khôn ngoan nếu có thể, nó phải hiệu quả và cải thiện được hay chí ít thì cũng không làm phương hại đến mối quan hệ giữa hai bên. (Thỏa thuận khôn ngoan được định nghĩa là thỏa thuận đáp ứng quyền lợi hợp pháp của mỗi bên tới mức có thể, giải quyết được xung đột lợi ích hợp lý, lâu bền và có cân nhắc đến lợi ích cộng đồng.) Hình thức đàm phán phổ biến nhất được minh họa bằng ví dụ trên, phụ thuộc vào việc thay phiên nhau đưa ra các lập trường – và sau đó lại từ bỏ các lập trường này. Việc đưa ra các quan điểm, như người khách và chủ cửa hiệu trên, có tác dụng phục vụ cho một số mục đích hữu ích nhất định trong đàm phán. Nó cho phía bên kia biết bạn muốn gì; tạo ra điểm bấu víu trong tình huống không chắc chắn và căng thẳng; và cuối cùng đi đến các điều khoản trong một thỏa thuận có thể chấp nhận được. Nhưng có nhiều cách khác để đạt được. Việc mặc cả về lập trường không thỏa mãn các tiêu chí cơ bản để mang lại thỏa thuận khôn ngoan, hiệu quả và thân thiện. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM CHỈ MANG LẠI NHỮNG THỎA THUẬN THIẾU KHÔN NGOAN Khi các nhà đàm phán mặc cả về quan điểm, họ thường tự giam mình trong những quan điểm này. Bạn càng làm rõ quan điểm của mình và bảo vệ nó khỏi bị tấn công thì bạn càng dính chặt vào nó. Bạn càng cố gắng thuyết phục phía bên kia rằng quan điểm ban đầu của bạn không thể thay đổi thì việc này càng khó có thể thực hiện được. Cái tôi của bạn trở nên đồng nhất với quan điểm của bạn. Bạn hiện có mối quan tâm mới về việc “giữ thể diện” – trong việc thống nhất giữa hành động ở tương lai với lập trường trong quá khứ – khiến khả năng đạt được thỏa thuận nào đó hòa hợp với lợi ích ban đầu của các bên một cách khôn ngoan ngày càng khó thực hiện. Nguy cơ tranh cãi về vấn đề lập trường sẽ cản trở tiến trình đàm phán. Ví dụ điển hình là sự đổ vỡ cuộc đàm phán về việc cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện dưới thời Tổng thống John F. Kennedy. Vấn đề then chốt nảy sinh: Liên Xô và Hoa Kỳ nên được phép thực hiện bao nhiêu cuộc thanh tra tại hiện trường mỗi năm trên phạm vi lãnh thổ nước kia để điều tra những sự kiện chấn động đáng ngờ? Cuối cùng, Liên Xô đồng ý tiến hành ba cuộc điều tra. Hoa Kỳ lại khăng khăng yêu cầu không dưới mười cuộc. Do vậy, các cuộc đàm phán này đã thất bại – do tranh cãi về quan điểm – mặc dù không bên nào hiểu liệu một “cuộc điều tra” sẽ chỉ gồm có một người đi xem xét lòng vòng trong một ngày hay có một trăm người soi mói bừa bãi trong một tháng. Các bên hầu như không nỗ lực xây dựng quy trình điều tra có thể dung hòa được sự quan tâm thẩm tra của Hoa Kỳ với mong muốn của cả hai bên về sự xâm phạm tối thiểu. Khi càng chú ý nhiều đến quan điểm thì người ta lại càng ít quan tâm đến việc đáp ứng những lo ngại cơ bản của các bên. Vì vậy, khó có thể tiến tới thỏa thuận dễ dàng. Các thỏa thuận đạt được lúc này chỉ phản ánh sự phân chia máy móc khoảng chênh lệch giữa những lập trường cuối cùng được đưa ra, chứ chưa phải là giải pháp được tính toán kỹ càng nhằm đáp ứng lợi ích hợp pháp của các bên. Kết quả đạt được thường là thỏa thuận ở mức thấp hơn so với mong muốn của hai bên. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀ KHÔNG HIỆU QUẢ Phương pháp đàm phán thông thường có thể mang lại thỏa thuận, như với trường hợp trả giá cho chiếc đĩa bằng đồng thau hoặc đi đến thất bại, như với trường hợp thống nhất số lượng cuộc điều tra tại hiện trường. Trong cả hai trường hợp, quá trình này đều mất nhiều thời gian. Thương thuyết theo lập trường tạo ra động cơ trì hoãn giải quyết vấn đề. Trong khi tranh cãi về vấn đề quan điểm, bạn cố gắng cải thiện cơ hội đạt được thỏa thuận nào đó có lợi cho mình bằng việc bắt đầu đàm phán với lập trường cực đoan, giữ khư khư quan điểm này, lừa gạt đối phương rằng đó chính là quan điểm thực sự của bạn và chỉ nhân bộ chút ít để giữ cuộc đàm phán tiếp tục diễn ra. Và đối phương cũng làm điều tương tự. Mỗi yếu tố này đều có xu hướng cản trở việc nhanh chóng đạt được cách giải quyết. Các quan điểm ban đầu càng cực đoan và sự nhân nhượng càng ít đi thì mất càng nhiều thời gian và công sức để nhận ra thỏa thuận có thể đạt được hay không. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cũng đòi hỏi phải có rất nhiều các quyết định riêng lẻ của từng cá nhân vì mỗi nhà thương thuyết quyết định đề nghị gì, bác bỏ gì và có thể nhân nhượng đến mức nào. Việc ra quyết định rất khó khăn và mất thời gian. Khi một quyết định không chỉ là việc phải nhượng bộ đối phương mà còn là sức ép buộc phải nhân nhượng hơn nữa, thì nhà thương thuyết hầu như không có động cơ để tiến nhanh hơn. Chậm chạp lề mề, đe dọa bỏ ra ngoài, cản trở và những chiến thuật khác tương tự đã trở nên cũ rích. Tất cả những chiến thuật này chỉ làm mất thêm thời gian và tiền bạc để tiến tới thỏa thuận cũng như tăng nguy cơ không đạt được thỏa thuận nào cả. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀM HỎNG MỐI QUAN HỆ ĐANG TỐT ĐẸP Việc tranh cãi về quan điểm sẽ trở thành cuộc đấu trí. Mỗi nhà thương thuyết xác nhận những gì anh ta sẽ làm và sẽ không làm. Nhiệm vụ cùng xây dựng giải pháp chung có xu hướng trở thành trận chiến. Mỗi bên đều cố gắng qua sức mạnh ý chí tuyệt đối để gây sức ép buộc phía bên kia phải thay đổi lập trường. “Tôi sẽ không chịu nhượng bộ đâu. Nếu anh muốn đi xem phim với tôi, thì đó phải là phim The Maltese Falcon (tạm dịch: Chim ưng Malta) hoặc chúng ta không xem gì hết.” Hậu quả thường là sự giận dữ và bực tức vì mỗi bên thấy mình phải thuận theo ý muốn cứng nhắc của đối phương trong khi mối quan tâm thích đáng của mình lại bị bỏ qua. Do vậy, việc tranh cãi về quan điểm gây căng thẳng và có khi còn làm tan vỡ mối quan hệ giữa các bên. Các doanh nghiệp thương mại đã từng làm việc với nhau trong nhiều năm có thể cắt đứt quan hệ. Hàng xóm láng giềng có thể không qua lại với nhau. Cảm giác cay đắng từ sự việc này gây ra có thể kéo dài cả đời người. TRONG ĐÀM PHÁN ĐA PHƯƠNG, TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM ĐEM LẠI KẾT QUẢ XẤU Nếu xét một cuộc đàm phán chỉ có hai bên, chỉ có bạn và “phía bên kia”, thì dễ thảo luận hơn, nhưng thực tế, hầu hết mọi cuộc đàm phán đều liên quan đến nhiều bên. Các bên có thể cùng ngồi vào bàn, hoặc mỗi bên ủy quyền cho một người như chóp bu, ban giám đốc hay các ủy ban liên quan. Càng đông người tham gia vào đàm phán, những trở lực do thương thuyết theo lập trường lại càng nghiêm trọng. Nếu khoảng 150 quốc gia cùng đàm phán trong các hội nghị của Liên Hiệp Quốc, thương thuyết theo lập trường gần như không thể thực hiện được. Kiểu thương thuyết có thể làm cho tất cả đều nói “đồng ý”, nhưng chỉ một bên nói “không” thì sự nhượng bộ có đi có lại khó có thể thực hiện: Bạn nhượng bộ ai? Kể cả hàng nghìn cuộc đàm phán song phương cũng không phức tạp bằng một thỏa thuận đa phương. Trong những tình huống như vậy, thương thuyết theo lập trường thường dẫn tới việc hình thành liên minh giữa các bên mà lợi ích chung của họ mang tính tượng trưng hơn là thực chất. Tại Liên Hiệp Quốc, những liên minh này thường tạo ra các cuộc đàm phán giữa “Bắc” và “Nam” hay giữa “Đông” và “Tây”. Do có nhiều thành viên trong một nhóm nên việc xây dựng quan điểm chung lại càng trở nên khó khăn hơn. Tồi tệ hơn, khi họ đã vất vả thiết lập và nhất trí một lập trường thì việc thay đổi lập trường đó lại càng trở nên gian nan hơn nhiều. Việc thay đổi một quan điểm cũng không dễ dàng gì khi các thành viên mới tham gia có quyền hạn cao hơn. Ngay cả khi họ không có mặt tại bàn đàm phán thì những người khác vẫn cần phải có sự chấp thuận của họ.   Mời các bạn đón đọc Thương Lượng Không Nhân Nhượng của tác giả William Ury.
Những Điều Sếp Nói Và Không Nói Với Bạn
LỜI MỞ ĐẦU Chắc hẳn có rất nhiều bạn đã từng trải qua cảm giác không biết phải làm gì, phải hiểu như thế nào mới đúng khi nghe cấp trên bảo rằng “Tôi rất kỳ vọng ở bạn.” Sẽ rất khó để có thể hiểu được rằng liệu đây là lời động viên, tạo áp lực, hay cấp trên yêu cầu ở mình điều gì. Vậy nên có rất nhiều khó khăn trong việc hiểu được ý nghĩa thực sự ẩn sâu trong lời nói của cấp trên. Phần lớn vấn đề nằm ở chỗ nội dung bên ngoài (tatemae) của lời nói được truyền đạt, nhưng sâu bên trong đó lại tồn tại suy nghĩ thực sự (honne) của cấp trên, đó cũng chính là những điều khiến hầu hết các bạn nhân viên lo lắng. Vậy tại sao cấp trên lại phải bỏ công cho những lời nói “ngoài mặt” như thế? Có 2 lý do sau đây. Thứ nhất là có những vị thích cách nói vòng vo hơn là kiểu nói thắng thắn. Bên cạnh đó, cũng có những vị vì vốn từ vựng không đủ nên chỉ có thể diễn đạt những câu nói cơ bản thông thường. Dù là lý do nào đi chăng nữa thì sự khác biệt giữa nội dung bên ngoài lời nói và chủ ý thực sự muốn truyền đạt của cấp trên cũng gây ảnh hưởng ít nhiều đến cấp dưới. Nhân viên nếu không hiểu được suy nghĩ thật sự của sếp từ nội dung bên ngoài của câu nói thì sẽ không nắm bắt được ý định cấp trên muốn truyền tải thực sự là gì. Nếu không hiểu được chủ ý của sếp ta sẽ không thể làm đúng ý, cũng như sẽ dẫn đến những hành động không theo như kỳ vọng của họ, từ đó ta sẽ bị cấp trên đánh giá thấp. Đó là lý do vì sao tatemae và honne của cấp trên lại gây ảnh hưởng tiêu cực đến cấp dưới như vậy. Trên thực tế, theo điều tra cho thấy số người cảm thấy bất công về chuyện này lên đến 82% (Theo tạp chí “Tuần san SPA!”). Nhưng dù cho chúng ta có thấy khó chịu với những người sếp không nói rõ xem mình muốn cấp dưới làm gì thì thực trạng đó vẫn sẽ không thay đổi. Do vậy, làm những việc trong khả năng của mình chính là biện pháp tốt nhất. Những việc nên làm ở đây là những việc tuy đơn giản nhưng ắt hẳn các bạn sẽ không ngờ đến. Đó chính là hiểu được một cách chính xác ý nghĩa thực sự muốn truyền tải của cấp trên trong những cuộc đối thoại hằng ngày. Và đó cũng là nội dung của cuốn sách này. Tôi đang là diễn giả cho những buổi hội thảo về chủ đề giao tiếp trong kinh doanh. Tính đến thời điểm hiện tại, sau khi làm việc cùng với 5.000 nhà điều hành cấp cao và 15.000 nhân viên, tôi đã tìm ra được sự thống nhất trong ý nghĩ của cấp trên và cấp dưới. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ có khoảng 3% trường hợp nhân viên có thể hiểu một cách chính xác những điều mà cấp trên đang kỳ vọng. Tôi biết được là 97% những người nhân viên còn lại mặc dù vẫn tiếp tục công việc nhưng không thể nắm bắt được suy nghĩ, nguyện vọng của cấp trên. Chủ ý của cấp trên chính là những điều tuy không truyền đạt với nhân viên, nhưng tự bản thân nhân viên cần phải suy nghĩ ra. Bản thân tôi trước khi trở thành diễn giả, đã có 15 năm làm nhân viên công ty, và phân nửa thời gian đó tôi làm việc trong ban quản lý. Thời điểm làm trong ban quản lý, tôi cũng rất hay có suy nghĩ là sẽ không truyền đạt hết ý định thật sự của mình với nhân viên. Ví dụ, có một lần tôi nói với nhân viên của mình rằng “Thật đáng tiếc cho anh/chị.” Chủ ý của tôi là nói một câu nhận xét mang tính tiêu cực, tuy nhiên người nhân viên này khi nghe câu đó thì lại cảm thấy vui mừng. Vì những tình huống như thế thường hay xảy ra nên cấp trên luôn muốn cấp dưới phải nghe rõ câu nói của mình, và hiểu xem câu đó được nói với ý nghĩa như thế nào. Đối với những nhà quản lý khi đến tham dự buổi hội thảo của tôi, ắt hẳn ai cũng sẽ hiểu rất rõ những chuyện rất thường xảy ra này. Vì vậy, tôi đã dần hiểu ra rằng cho dù là bất kỳ ai, ở những công ty khác nhau, thì thông thường, suy nghĩ ẩn bên trong những câu nói mà các nhà quản lý sử dụng là như nhau. Chẳng phải sẽ rất tốt nếu đưa ra được những câu nói mà các nhà quản lý hay sử dụng, và truyền tải đến tất cả các nhân viên cấp dưới để họ biết được ý muốn thực sự ẩn sâu trong những câu nói ấy là gì hay sao. Nói một cách đơn giản, tôi nghĩ rằng sẽ thật tuyệt vời nếu tôi có thể dịch nghĩa những câu nói ẩn ý của cấp trên khi họ đối thoại với nhân viên của mình. Ngoài ra, cuốn sách này không chỉ truyền đạt những suy nghĩ của cấp trên mà còn gợi ý cho các bạn nhân viên biết rằng mình nên làm gì để đáp ứng được ý muốn, suy nghĩ của sếp. Khi những suy nghĩ của cấp trên được truyền đạt đến nhân viên, nhân viên sẽ thực hiện đúng theo ý đồ ấy, qua đó khiến việc đánh giá trở nên tốt đẹp hơn như các bạn có thể thấy. Mục đích của cuốn sách này là giúp tất cả mọi người, cả cấp trên và cấp dưới, có thể cảm thấy vui vẻ. Đầu tiên, bạn hãy thử tìm xem câu nói nào trong cuốn sách này mà cấp trên của bạn hay dùng. Sau đó hãy đọc thử xem câu nói ấy hàm ý những suy nghĩ, ước muốn gì của cấp trên nhé. Khi đã hiểu được điều đó rồi, chắc chắn ngày mai bạn sẽ thay đổi hành động của mình. Tháng 6 năm 2015 Hidehiko Hamada *** LỜI CUỐI Thật sự vô cùng cảm ơn các bạn đọc giả đã theo dõi cuốn sách đến chương cuối cùng này, cảm ơn các bạn rất nhiều. Vào lúc bắt đầu viết cuốn sách này, tôi đã nhờ những người cấp trên và cả những người nhân viên cấp dưới đọc qua bản thảo của cuốn sách. Tôi đã được nghe những ý kiến khác nhau từ cả hai đối tượng cấp trên lẫn cấp dưới. Từ ý kiến tích cực của những cấp trên như “Đúng rồi, đúng rồi, ý tôi chính là như vậy đó” đến những ý kiến tiêu cực như “Nhiều khi tôi nói vậy vì muốn bày tỏ những suy nghĩ thật sự chứ không phải mang hàm ý nào khác, và tôi muốn nhân viên hiểu đúng những gì tôi nói nên nếu họ mà cứ nghĩ rằng trong câu nói của tôi luôn ẩn ý gì khác thì sẽ phiền lắm đây.” Ngược lại, những cấp dưới cũng đưa ra một số ý kiến tích cực như “Giờ thì dù có bị nói tôi cũng có thể hiểu được ý của sếp” và những ý kiến tiêu cực như “Sau này chắc lúc nào tôi cũng sẽ nghi ngờ câu nói này ý nọ ý kia quá.” Cho dù là ý kiến nào đi chăng nữa thì đều là những ý kiến vô cùng hợp lý. Tôi không phủ định rằng việc quan sát và đoán ý nghĩa đằng sau ngụ ý thật sự của cấp trên vừa có mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực của nó. Tuy vậy, tôi nghĩ rằng việc quan sát và đoán ý nghĩa thật sự ẩn sau ngụ ý của cấp trên là một việc vô cùng bổ ích. Không chỉ trong công việc, mà việc ta quan sát và đoán ý nghĩa thật sự ẩn sau lời nói của đối phương đều mang những ý nghĩa riêng. Tôi nghĩ rằng có lẽ trong cuộc sống hằng ngày, để không làm tổn thương đến đối phương bởi những lời nói thẳng thắn, các độc giả cũng đã từng thay đổi cách nói của mình đúng không nào? Vào những lúc như vậy, tùy theo đối tượng mà có lúc sẽ xảy ra trường hợp đối phương chỉ hiểu theo bề nổi của câu nói và kết quả là không thể hiểu được ý nghĩa thật sự mình muốn nói. Ngược lại, cũng có những người rất tuyệt vời, họ không chỉ hiểu được ý nghĩa thật sự ẩn trong lời nói mà còn hiểu và cảm thông cho những lo lắng của đối phương nữa. Vì vậy, việc quan sát và đoán những ý nghĩa ẩn sâu trong lời nói của người khác chính là để bản thân có thể trở thành một người tuyệt vời như vậy đó. Tuy nhiên, sự thật thì người nói ra những lời này như tôi đây cũng đã phải vất vả rèn luyện rất nhiều mỗi ngày. Khi ở nhà cũng thường xảy ra việc tôi đoán sai ý nghĩa thật sự trong lời nói của vợ tôi khiến cho bầu không khí trong nhà trở nên căng thẳng và ngượng ngùng. Hoặc nhiều lúc tôi không thể nào thấu hiểu được ẩn ý thực sự trong lời nói của con gái tôi mà phải đợi khi nghe vợ giải thích “Ý của con nó là như vậy đó.” Tôi cũng hiểu rất rõ rằng việc đoán ra ý nghĩa thật sự là một điều không hề dễ dàng. Vì vậy tôi nghĩ việc nỗ lực là vô cùng cần thiết. Lần này, tôi chủ yếu đi sâu vào chủ đề cấp dưới nên đoán ra được những ý nghĩa ẩn sâu trong ngụ ý thật sự của cấp trên nhưng nếu sau này có cơ hội, tôi nghĩ rằng mình sẽ cố gắng đi sâu vào chủ đề cấp trên nên đoán ra được những ý nghĩa ẩn sâu trong lời nói của cấp dưới. Bởi vì nếu cấp trên và cấp dưới có thể hiểu rõ lẫn nhau thì công việc lẫn nơi làm việc cũng sẽ trở nên tốt hơn rất nhiều. Mời các bạn đón đọc Những Điều Sếp Nói Và Không Nói Với Bạn của tác giả Hamada Hidehiko.
Người Chọn Nghề Hay Nghề Chọn Người
Người chọn nghề hay nghề chọn nghề là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Marden, nằm trong số những tác phẩm hay nhất về hướng nghiệp từng được viết. Cuốn sách này nên là tài liệu thiết yếu cho mọi bạn trẻ khi lựa chọn sự nghiệp, bởi vì, như tác giả nói, nhiều khi thứ bạn thực sự lựa chọn chính là lối sống. Hầu hết mọi người đều đưa ra lựa chọn căn bản này mà không có sự chuẩn bị, thậm chí không suy nghĩ gì về hệ quả xa dài từ lựa chọn của họ. Marden nhấn mạnh về bi kịch của “kẻ lạc loài”, về những lựa chọn nghề nghiệp sai lầm, về việc chọn một công việc, sự nghiệp chỉ vì nó “dễ” hay việc làm điều gì đó chỉ để nối bước cha ông. Marden nói, bạn phải tự hào về công việc của mình. Công việc của bạn nên làm tăng giá trị cho bạn – chứ không bao giờ được làm bạn giảm giá trị. Bạn phải hòa nhịp với công việc, sự nghiệp của mình, làm nó với kỷ luật và nỗ lực. Bạn không bao giờ nên cảm thấy mình giống một con cá bị rời khỏi nước. Marden nói, hãy nhớ công việc không phải là “kiếm sống”, mà là “kiếm tìm ý nghĩa cuộc đời”. Cuộc đời của chính bạn. "Có hàng triệu người sống cả đời mà không hề nhận ra con người tuyệt nhất trong mình, họ luôn bất mãn, không vui, thậm chí là những kẻ thất bại, chỉ vì họ ở nhầm chỗ." – O. W. Train *** Orison Swett Marden sinh ra tại Anh năm 1850, Marden trải qua thời thơ ấu khó khăn khi mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc ông còn rất nhỏ. Bị đẩy từ tay người giám hộ này sang người giám hộ khác, ông phải đi làm thuê để kiếm tiền. Lấy cảm hứng từ một cuốn sách phát triển bản thân thời kỳ đầu của tác giả người Scotland là Samuel Smiles, ông bắt tay vào cải thiện bản thân và hoàn cảnh sống của mình. Ông tốt nghiệp trường Đại học Boston năm 1871, và đã từng học tại Chủng viện Thần học Andover. Vào năm 1881 ông nhận được bằng Dược và năm 1882 là bằng Luật, cả hai đều từ trường Harvard. Sau đó ông theo học Trường Hùng biện Boston. Suốt thời đại học, ông làm phục vụ và quản lý khách sạn, ông làm tốt tới mức dành dụm được số vốn 20.000 đô-la (tương đương khoảng 50.000 đô-la ngày nay) khi hoàn thành các chương trình học chính thức của mình. Ông mua bất động sản trên Đảo Rhode rồi phát triển thành một khu nghỉ dưỡng. Những năm suy thoái kinh tế 1890, sau khi để mất khách sạn của mình, ông chuyển tới Chicago và làm quản lý khách sạn trong suốt thời gian diễn ra Hội chợ thế giới (World’s Fair) năm 1893. Sau đó ông trở về Boston và bắt đầu lại sự nghiệp. Ông không bao giờ chấp nhận bị đánh bại. Trái lại, những thời điểm khó khăn càng tạo cảm hứng cho ông kết nối các ý tưởng – đặc biệt gắn với niềm lạc quan – trong cuốn sách đầu tiên, Pushing to the front (tạm dịch: Vươn tới phía trước), xuất bản vào năm 1894, chỉ hai năm sau khi ông mất hết mọi thứ. Cuốn sách nhanh chóng thành công, một tác phẩm bán chạy đích thực thời đó, với số bản in bán ra cao vượt. Ông tiếp nối thành công đó với hơn 60 cuốn sách, hầu hết về các chủ đề thành công, nuôi dưỡng ý chí, tư duy tích cực; nhưng bên cạnh đó ông cũng viết về sức khỏe, rèn luyện thân thể, đối phó với tuổi già, giáo dục giới tính và bình đẳng cho phụ nữ. Ngoài Samuel Smiles, tư duy của Marden còn chịu ảnh hưởng từ các tác phẩm của Oliver Wendell Holmes và Ralph Waldo Emerson, những người tạo tiền đề cho Phong trào Tư duy Mới những năm 1890. Năm 1897, ông sáng lập Tạp chí Thành công (Success Magazine), sau đó trở thành một người đóng góp thường xuyên cho tạp chí đi theo phong trào Tư duy Mới (New Thought) của Elizabeth Towne là Nautilus trong suốt hai thập niên đầu của thế kỷ XX. Marden, cũng như các tác giả đương thời khác của Tư duy Mới (William Walker Atkinson, Wallace Wattles, Elizabeth và William Towne), tin rằng tư duy của chúng ta ảnh hưởng đến cuộc sống và hoàn cảnh sống của chúng ta. Họ tin rằng “tư duy là vật chất”, và vì Luật Hấp dẫn (những thứ giống nhau sẽ hút lấy nhau), chúng ta phải rất cẩn thận với điều mình nghĩ và cách mình tư duy. Ông nói: “Chúng ta tạo nên thế giới quanh mình và định hình môi trường của chính mình bằng những tư duy của chúng ta.” Thế nhưng dù được biết đến nhiều nhất bởi những cuốn sách về thành công tài chính, ông luôn luôn nhấn mạnh rằng điều đó sẽ xảy ra nhờ việc nuôi dưỡng phẩm chất cá nhân: “Cơ hội vàng mà bạn đang tìm kiếm nằm trong chính con người bạn. Nó không nằm ở môi trường quanh bạn, không nằm ở may mắn, cơ hội, hay sự giúp đỡ của những người khác. Nó chỉ nằm trong chính bản thân bạn.” Những tựa sách của ông đã nhấn mạnh một cách hùng hồn góc nhìn đầy lạc quan, hào hứng và tự tin này. Trung bình ông ra hai cuốn sách mỗi năm, từ Pushing to the front năm 1894 tới cuốn cuối cùng năm 1924, năm đó ông mất ở tuổi 74. Ông vẫn còn số bản thảo khoảng hai triệu từ chưa được xuất bản. Mặc dù đã hàng trăm tuổi, nhưng những cuốn sách của ông mang tính hiện đại tới mức chúng dường như được viết cho chính thời đại của chúng ta ngày nay. Ở thời đại này, hơn bao giờ hết, chúng ta cần sự cân bằng, niềm tin và kiên trì; chúng ta cần hạnh phúc, sẻ chia và sự thật; trên hết, chúng cần HÒA BÌNH và TÌNH YÊU... Kiến thức uyên thâm của Marden từ lịch sử, triết học, thần học và nhiều mảng khác, cùng khả năng cô đọng, truyền tải kiến thức một cách rõ ràng đến kinh ngạc theo cách thức rất thú vị và thu hút đã khiến cho những tác phẩm này trở thành thiết yếu đối với bất cứ ai đang tìm kiếm thành công cho cuộc sống của mình, hay đơn giản chỉ là tìm kiếm những câu trả lời cho cuộc đời này. Hơn 50 cuốn sách của ông đã được xuất bản trong loạt sách Timeless Wisdom. Bạn có thể đọc thông tin tham khảo về ông và các tác giả khác ở cuối sách. *** CHỘP LẤY NGAY CÔNG VIỆC ĐẦU TIÊN ĐƯỢC MỜI "Cần tuyển nam.” – Tấm biển này trông hết sức cuốn hút đối với nhiều chàng trai trẻ mới bắt đầu vào đời kiếm sống. Nó trông như một cánh cửa cơ hội, và với số đông các chàng trai thì đúng là như vậy. Nhưng hãy nghĩ tới vô số thất bại trong đời, tới những kẻ ngồi nhầm chỗ, những thành công nửa vời, những kẻ bị dụ dỗ tới chỗ tầm thường bởi chính tấm biển đó! Công việc đầu tiên của một cậu trai trẻ là yếu tố có tính then chốt trong đời cậu ta. Nó có thể hoàn toàn không phù hợp với bản chất trí tuệ của cậu ta; hơn thế, nó có thể dẫn cậu ta tới một lựa chọn sai lầm khác, bởi vì đám trai trẻ rất háo hức được làm mọi thứ, và tự hào về những công cụ cùng kỹ năng mình học được. Nếu chúng không biết những lợi thế của bất cứ công việc nào khác, chúng có thể tiếp tục làm điều mà tự nhiên đã cấm đoán trong chính cấu trúc não bộ của chúng. Nhưng thường thì một chàng trai trẻ ít nhận ra điều có thể ảnh hưởng tới tương lai của cậu ta khi nhận lấy công việc đầu tiên. Khi tìm kiếm một việc làm, cậu ta nên cân nhắc thật cẩn thận rằng liệu nó có xu hướng tách cậu ta khỏi mọi thứ khác mà mình khao khát không, liệu nó có giúp cậu ta tiến lên trên con đường sự nghiệp thực sự của mình không, hay liệu cậu ta đang chôn chân ở một vị trí thấp kém, nơi có thể chẳng liên quan gì đến lựa chọn sống một cuộc đời tuyệt vời của cậu ta. Một cậu trai trẻ bình thường khi nhận được một công việc sẽ cứ thế làm tới hết đời, và thường thì lựa chọn công việc này được đưa ra một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Rất có thể, cậu ta ứng tuyển vào một vị trí chỉ với suy nghĩ muốn có một công việc để làm, mà không hề nghĩ rằng liệu mình có thực sự phù hợp với nó không, liệu mình có phải là cái vung sắp úp nhầm nồi hay không; nhưng sự thật là “gã đàn ông” về sau sẽ ở nguyên vị trí mà “thằng bé” lúc trước đã đặt ông ta vào. Tất nhiên, cũng có nhiều người thay đổi, nhưng có lẽ phần lớn mọi người vẫn sống với công việc mà mình bắt đầu từ thời trai trẻ. Không có thời điểm nào mà một người cần đến sự dẫn dắt khôn ngoan nhiều như thời điểm đưa ra lựa chọn liên quan đến cả cuộc đời này. Nó là lựa chọn quan trọng nhất, vì nó ảnh hưởng đến vận mệnh của một người. Toàn bộ tương lai của người đó thường đã được vẽ ra và quyết định từ trước khi người đó thực sự có cơ hội lựa chọn. Trước khi trở thành người đàn ông thì gã trai trẻ đã bị cuốn vào công việc đến mức chẳng muốn mất nó nữa. Cậu ta biết rằng những kinh nghiệm này giúp tích lũy sức mạnh và tạo đà tiến cực tốt nếu có thể duy trì, và dù cậu ta thường không cảm thấy lựa chọn lúc đầu là sáng suốt, nhưng nhiều khả năng cậu ta sẽ chẳng bao giờ thay đổi, và sẽ cứ bám chặt lấy nó. " Mối hấp dẫn nhận lấy công việc mà mình không phù hợp chỉ vì được trả lương cao hơn một chút so với việc khác lúc ban đầu, trên hết, chính là nguyên cớ gây ra nhiều kết hợp không vững chắc nhất" Để một cậu trai bước ra đời chỉ với mục đích đơn giản là kiếm một công việc là một vấn đề nghiêm trọng. Dù cậu ta có thể hoàn toàn không phù hợp, nhưng tham vọng của cậu ta sẽ có ảnh hưởng và thị trường có thể cho phép cậu ta có được một khởi đầu tốt đẹp vốn rất dối trá, đặc biệt nếu mức lương tương đối tốt. Ngay cả khi cậu ta cảm nhận được rằng mình bị đặt sai chỗ thì phụ huynh của cậu ta có thể vẫn nói với cậu ta rằng việc nỗ lực biết bao lâu rồi lại vứt hết kinh nghiệm quý báu đi là rất ngu ngốc. Sau đó cậu ta có thể gắng gượng làm công việc tầm thường đó, công việc không hề phù hợp với khả năng của mình, khi mà cậu ta vốn đã có thể làm nên danh tiếng trong một mảng khác phù hợp với khả năng hơn. Thế giới đầy những kết hợp nồi tròn vung méo, những người đàn ông nhờ vào quá trình huấn luyện khắc nghiệt, ngành nghề vất vả, đã gò mình được một cách cực kỳ tốt, thế nhưng nỗi cực nhọc và ý nghĩ không thể làm điều mình được sinh ra để làm lại hoàn toàn phá hỏng cảm giác thỏa mãn của người đó, khiến anh ta cảm thấy ngay cả khi mình kiếm được kha khá để sống thì đời mình vẫn chẳng thích thú gì, và rằng khía cạnh củi-gạo-mắm-muối đó của công việc là khía cạnh nhỏ bé nhất, kém quan trọng nhất. Mối hấp dẫn nhận lấy công việc mà mình không phù hợp chỉ vì được trả lương cao hơn một chút so với việc khác lúc ban đầu, trên hết, chính là nguyên cớ gây ra nhiều kết hợp không vững chắc nhất. Một khi bạn đã vững chỗ thì sẽ rất khó đánh đổi nó để tìm công việc lớn lao hơn, rất khó để quyết định bắt đầu lại từ nấc thang dưới cùng và sẽ mất thêm nhiều năm học tập, rèn luyện. Nếu có thể hòa nhập với công việc chỉ sau ít ngày, hoặc ít tuần, bạn sẽ chẳng giữ được nó dài lâu đâu, bạn chẳng bao giờ biết được khi nào thì có người khác thế chân mình. Nhưng nếu phải mất đến vài năm chuẩn bị cho thứ gì đó cao xa hơn – cho thứ gì đó mà chỉ riêng bạn mới thực sự tương thích, và giữ mình không bị lầm lối, sẵn lòng trả giá cho quãng đường xa thì mối nguy bị thế chỗ của bạn sẽ nhỏ hơn nhiều. Gần đây thành phố New York thực hiện một cuộc điều tra về các cậu bé, cô bé rời khỏi trường học ở độ tuổi hợp pháp nhỏ nhất: 14 tuổi. Trong số 25.000 trường hợp được điều tra, có 23.000 làm những công việc không đòi hỏi nhiều kỹ năng. Báo cáo cho biết: “Chúng tôi khám phá ra trong các công việc mà 10.857 cậu bé và 11.924 cô bé đã rời khỏi nhà trường ở độ tuổi hợp pháp nhỏ nhất đó được thuê làm, hơn chín phần mười là các công việc không đòi hỏi kỹ năng, chẳng hạn như chạy việc vặt, làm việc nhà, thư ký phụ trách các việc lặt vặt, thợ máy, tạp vụ, phụ việc, đóng gói, giao thư, bán báo, v.v..” Các con số của chúng tôi cho thấy cơ hội việc làm duy nhất của những người trẻ rời khỏi trường học trong tình trạng thiếu kiến thức chính là những ngành nghề không đòi hỏi kỹ năng. Tình trạng này thực sự tác động trở lại xã hội, bởi chính những chàng trai, cô gái này rồi sẽ trở thành tầng lớp ăn không ngồi rồi. Đừng bị che mắt bởi số tiền mà người ta kiếm được khi làm những công việc này. Hãy nhớ rằng sự nghiệp của bạn ảnh hưởng tới bạn nhiều hơn bất cứ thứ gì khác, và bạn sẽ không gánh nổi hệ quả của việc đi theo một con đường sự nghiệp vốn không thể giúp bạn phát triển và lớn mạnh. Hãy xem những con người đã lựa chọn kiểu sự nghiệp như thế. Hãy xem những gì mà công việc đem đến cho họ. Vị trí của họ trong xã hội so với những người làm các công việc khác là gì? Họ có được kính trọng, tôn vinh không? Liệu đó có phải là công việc mà anh ta có thể tự hào, điều mà con cái của anh/cô ta sẽ tự hào khi lớn lên? Rất nhiều người trẻ cố tình bó buộc và làm hỏng sự nghiệp của mình, và gần như tự giết mình trong suốt nhiều năm đời họ bằng việc làm các công việc vốn sẽ bức bách và bóp nghẹt đời họ. Điều kiện làm việc của nhiều công việc rất nguy hại cho sức khỏe và việc phát triển bản thân. Sức khỏe tốt, môi trường và điều kiện sống lành mạnh quan trọng với bạn hơn tiền bạc, bạn không nên dấn thân vào việc gây nguy hại cho tinh thần của mình hay tổn hại tới phẩm cách, tác động xấu đến vị thế của bạn. Công việc của bạn không nên là một chướng ngại. Nó nên là nguồn kích thích không ngừng, là sự khích lệ, là động lực hướng tới cuộc sống rộng lớn, vĩ đại mà vì nó bạn được sinh ra. Mời các bạn đón đọc Người Chọn Nghề Hay Nghề Chọn Người của tác giả Orison Swett Marden.
Hướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0
Trong cơn bão công nghệ, dường như mọi phụ huynh đều mong muốn con em mình theo đuổi các ngành học “hái ra tiền” như khoa học máy tính, công nghệ thông tin, lập trình, cơ khí chế tạo... Nhưng liệu các khóa học chuẩn chuyên ngành công nghệ có là con đường thành công duy nhất? Liệu có khả thi khi cho rằng hệ thống giáo dục khai phóng (liberal arts), với phong cách cung cấp tri thức tự do, tổng quát và tập trung vào những kiến thức xã hội vẫn có thể tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cho kỷ nguyên 4.0? Trong tác phẩm “Hướng nghiệp trong thời đại 4.0”, Randall Stross cung cấp cho độc giả một hướng tư duy mới lạ trong việc lựa chọn phong cách học tập và phát triển. Từ trước đến nay, các chuyên ngành giáo dục khai phóng thường bị đánh giá là “thiếu thực tế”, “thiếu kỹ năng”, không cung cấp đủ tri thức để học viên theo đuổi một nghề nghiệp cụ thể. Nhưng định kiến này không chính xác. Khác với kiểu giáo dục định hướng nghề nghiệp cụ thể, nền giáo dục khai phóng hướng tới trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng thỏa mãn mọi ngành nghề. Thực tế đã cho thấy nền giáo dục khai phóng đem tới lợi ích cho các sinh viên theo đuổi chuyên ngành phi công nghệ, cho những bậc phụ huynh lo lắng, và cho cả những nhà tuyển dụng hàng đầu. “Hướng nghiệp trong thời đại 4.0” chứng minh rằng mọi sinh viên đều có thể phát triển tối đa tiềm năng và phát triển mạnh mẽ nếu được trao cơ hội, bất kể họ có theo đuổi một chuyên ngành “cao cấp” hay không. Qua những trải nghiệm thực tế của các sinh viên ngành nhân văn, nhất là công cuộc tìm kiếm việc làm và kinh nghiệm làm việc những ngày đầu của họ, cuốn sách đem tới những minh chứng sống động về sự đa tài của sinh viên được đào tạo theo giáo dục khai phóng. Giữa cuộc cách mạng về việc làm và nhân sự, với sự ra đời của hàng loạt phương pháp hướng nghiệp, làm thế nào để trang bị cho sinh viên kiến thức và kỹ năng đầy đủ nhất để họ bước vào tương lai một cách chuyên nghiệp và bản lĩnh? Tác phẩm độc đáo của Randall Stross sẽ trả lời câu hỏi này, và truyền cảm hứng để bạn có thể tối ưu hóa những tháng năm đại học hết sức ý nghĩa của mình. *** Review Nguyễn Phú Hoàng Nam: Sau nhiều năm học tập, thì nghề nghiệp là kết luận quan trọng nhất trả lời cho câu hỏi bạn đã học được gì. Việc làm không chỉ để nuôi sống bạn mà còn mang đến cho bạn cuộc sống chủ động với các mối quan hệ thân thiện xung quanh. Mặc dù “biết phải làm gì” nhưng không phải ai trong chúng ta cũng “biết làm thế nào”. Nếu đang mông lung trong suy nghĩ ấy, mời bạn tham khảo cuốn sách Hướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0 (A Practical Education: Why Liberal Arts Majors Make Great Empoyees – Hoàng Thiện dịch) của tác giả Randall Stross. Lưu ý trước khi đọc sách Sinh viên Đại học Stanford là nhóm người may mắn nhất. Họ được nhận vào trường đại học có tỷ lệ chọi cao nhất cả nước và tọa lạc ngay trong khuôn viên Edenic, không nơi nào gần với Thung lũng Silicon hơn được nữa. Sinh viên Stanford có vẻ luôn xác định được rõ ràng công việc của mình sau khi tốt nghiệp, mà không cần lo lắng về chuyện tương lai. Những sinh viên được săn tìm nhiều nhất đến từ các chuyên ngành kỹ thuật – những ngành thăng hạng đáng kể trong nhiều thập kỷ vừa qua. Nhưng cuốn sách này đề cập đến những sinh viên không chọn ngành kỹ thuật, mà chọn những ngành không dẫn tới nghề nghiệp cố định khác chỉ vì niềm đam mê học tập. Tôi nhận thấy mình nên có trách nhiệm trích dẫn lại nội dung đầu tiên này trong cuốn sách, bởi nó sẽ giúp độc giả tìm hiểu được thông điệp thực sự trong sách là gì (do phần lớn dung lượng sách đề cập đến các giai đoạn lịch sử hình thành khác nhau của trường đại học Stanford và các câu chuyện sau khi tốt nghiệp của sinh viên nơi đây). Tuy không trực tiếp nói đến “Hướng nghiệp”, và tên của cuốn sách theo nguyên tác tiếng anh thực sự cũng không bàn đến vấn đề hướng nghiệp nhưng hành trình tìm kiếm việc làm theo nguyện vọng bản thân của các sinh viên Stanford, với đủ cả cay đắng lẫn ngọt ngào, cũng có ý nghĩa nhất định trong việc giúp bạn đọc tự khám phá định hướng tương lai nghề nghiệp của chính mình. Ở một khía cạnh khác trong sách, thuật ngữ “Giáo dục khai phóng” cũng được sử dụng thường xuyên tuy nhiên lại không kèm theo giải thích rõ ràng, để sử dụng sách tốt hơn, bạn nên dành thêm thời gian để tham khảo từ các nguồn thông tin khác về hoạt động giáo dục khai phóng.   Ước mơ trên nền ước mơ Chức năng của trường đại học không chỉ là dạy cách kiếm sống. Trên tất cả, đại học là cơ quan điều chỉnh cuộc sống thực và kiến thức sống đang ngày càng tăng, một sự điều chỉnh hình thành nên bí mật của nền văn minh. Trường đại học thực sự sẽ có một mục tiêu muôn đời: Không phải để kiếm miếng ăn, mà để biết kết thúc và mục tiêu của cuộc sống mà miếng ăn đó nuôi dưỡng là gì. Một ngôi trường thật hoành tráng là khởi đầu hoàn hảo cho tương lai hoàn hảo. Không có gì sai khi bạn đưa ra lựa chọn như vậy, bạn bè và cha mẹ của bạn cũng nghĩ như vậy. Sau khi học xong (hoặc trong lúc đang học) một công việc xuất hiện rồi mọi thứ được sắp xếp đâu vào đó. Coi như hoàn thành sự nghiệp, cuộc sống giờ là tháng ngày ổn định thênh thang. Mọi thứ đều đúng và đủ. Chỉ duy nhất có bạn là thừa. Vì rõ ràng nếu không thể biết được lý do tại sao mình theo đuổi một chuyên ngành nào đó hay tại sao mình lại lựa chọn công việc này thay vì công việc khác thì bạn đâu có liên quan đến thứ bạn đang học cũng như bạn đang làm ? Bạn không thực sự tồn tại trong quy trình ấy, vậy nên dù có nghề nghiệp thì bạn vẫn không có sự nghiệp. Chúng ta có thể dễ dàng tưởng tượng tâm thế một người bị buộc phải làm công việc anh ta không thích. Đó là lý do tại sao cần hướng nghiệp. Hướng nghiệp cần được thực hiện từ ngày bạn bắt đầu đến trường (đơn giản có thể bằng cách phát huy sở thích, thế mạnh cá nhân). Thế nhưng hướng nghiệp lại xuất hiện khá muộn, vào đúng lúc bạn quá bận rộn với các kì thi, áp lực kiếm sống và bị so sánh với bạn học. Mọi quyết định nghề nghiệp đến nhanh rồi ra đi chóng vánh. Chưa kể quang thời gian đằng đẵng mơ hồ về công việc của bản thân mình.   Hãy bắt đầu từ lựa chọn đúng công việc bạn muốn làm hoặc đi theo lĩnh vực có hứng thú- thay vì chọn ngành học nào đó chỉ vì tên của nó có liên quan đến mức thu nhập, để đến khi tốt nghiệp mới bắt đầu ngắm bức ảnh kỷ yếu rồi tự hỏi “Tiếp theo là gì đây ?”. Việc chọn ngôi trường phù hợp là yếu tố rất quan trọng khi bạn hướng nghiệp. Cụ thể là ngành học bạn mong muốn có chất lượng đào tạo ra sao, cùng đội ngũ tham gia giảng dạy là những giáo viên thế nào. Đừng chú ý đến “có việc làm hay không”, ngay ở giai đoạn này bạn cần kịp thời nhận ra thứ bạn học được không chỉ nằm ở trong tấm bằng, điểm số mà còn ở cả biểu hiện của bạn-  lý do khiến nhà tuyển dụng chọn bạn. Thường thì bề dày thành tích, lịch sử đào tạo và tên gọi của một cơ sở hoành tráng đôi khi sẽ khiến bạn lạc hướng. Nếu đã từng nghe câu nói: “Đừng đánh giá cuốn sách qua bìa của nó” thì bạn sẽ hiểu thấu việc chọn trường cũng tương tự. Những thứ tưởng chừng rất đẹp đẽ ở bề nổi ấy sẽ chẳng liên quan gì đến lựa chọn về tương lai nghề nghiệp của bạn sau khi bạn học xong- dù cho có thể đem đến cho bạn vài lợi thế về hồ sơ trước nhà tuyển dụng cho đến lúc họ trực tiếp gặp gỡ bạn. Một trường học phù hợp với bạn chính xác mới là khởi đầu đúng đắn, thay vì một trường học danh tiếng. Nơi mà bạn có cơ hội phát huy thế mạnh của bản thân, theo đuổi đam mê và rồi cuối cùng lựa chọn công việc hoàn toàn do bạn quyết định mà không chịu bất kì ảnh hưởng nào bên ngoài. Thực ra, sự trì hoãn của con người rất mạnh, chỉ đến lúc được làm việc mình thích thì bản thân mới thực sự nỗ lực học hỏi và những nỗ lực học hỏi (chấp nhận đối mặt với sai lầm) ấy khởi động những dự định tốt đẹp hơn cùng với định hình con người bạn. Nguyên tắc trong định hướng nghề nghiệp là phải có bản lĩnh, dám thất bại, dám học hỏi và lại tiếp tục cho đến khi tìm thấy điều bạn muốn gắn bó lâu dài. Công chúng cần nhận ra một điều quan trọng rằng, giáo viên, chứ không phải tòa nhà, mới là yếu tố tạo nên một đại học tuyệt vời. Khi mà ước mơ của bạn được xây dựng dựa trên nền ước mơ của một ai đó khác thì bạn vẫn là kẻ mộng du: Làm việc trong tình trạng không cảm xúc, không ý thức và không khát vọng.  Ranh giới kì lạ Vào những năm 1890 và đầu những năm 1900, sinh viên Stanford chọn chuyên ngành Tiếng Anh, lịch sử, triết học, ngôn ngữ và các lĩnh vực khoa học nhân văn khác đã bị coi là không được chuẩn bị tốt cho thế kỷ 20. Sự khác biệt giữa quá khứ và hiện nay chính là, sự sụt giảm lòng tin vào nghệ thuật khai phóng, đặc biệt là khoa học nhân văn, thứ đã bị bào mòn bởi sự trỗi dậy mạnh mẽ của khoa học máy tính Câu chuyện trên không còn là của riêng đại học Stanford nữa mà đang xảy ra ngay lúc này xung quanh chúng ta. Hãy thử nhớ lại thời mà bạn lựa chọn thi khối A và khối C khi vào Đại học thì các bậc phụ huynh và người thân xung quanh bạn đã có biểu hiện ra sao. Khối A thường được hiểu là thứ gì đó thiết thực, mang đến thu nhập lấp lánh còn khối C được coi như khối gì đó rất mơ mộng và thu nhập thì le lói. Cách nghĩ ấy tạo ra nhiều sinh viên thuộc khối khoa học kỹ thuật hơn là khoa học nhân văn. Sự phân biệt hai ngành học này dẫn đến phân biệt về nghề nghiệp và tương lai. Theo kiểu một bên thì tốt và một bên thì không tốt, nghề này có thu nhập cao còn nghề kia không, tương lai này thì sáng sủa còn tương lai kia thì không sáng sủa. Hệ quả là chẳng ai còn thực sự quan tâm đến hướng nghiệp nữa mà thay vào đó chạy theo số đông ào ạt. Về hình thức, đó là hướng nghiệp theo cơ chế thị trường nhưng về bản chất, đó không phải là hướng nghiệp thực sự (vì chẳng thị trường nào cam đoan nó sẽ ổn định vĩnh viễn với các nhu cầu bất biến). Đơn giản nó chỉ là ảo ảnh về ốc đảo giữa sa mạc đối với người khách bộ hành mất phương hướng. Khoa học kỹ thuật chú trọng đến việc tạo ra các giá trị cụ thể còn khoa học nhân văn thì chú trọng đến việc tạo ra một con người tử tế. Và con người tử tế thì có thể học được bất cứ điều gì (họ có cơ hội được dạy bảo nhiều hơn). Như vậy, ngành nhân văn tạo ra những con người có thể thích ứng và học hỏi. Trên thực tế, phẩm chất ứng viên mới chính là điều mà các nhà tuyển dụng luôn cần đến. Nếu ai đó đột nhiên nói rằng: “Vớ vẩn ! tôi khẳng định với tấm bằng tốt nghiệp loại ưu ở một trường danh tiếng, tôi sẽ ung dung đi làm ngay mà không cần học thêm gì cả” thì tôi sẽ cười cho qua chuyện (bạn thấy đấy, phản ứng đó là lý do khiến họ mất đi cơ hội học hỏi). Tính chính xác tuyệt đối trong kỹ thuật tạo nên tư duy luôn đúng và thích kiểm soát nhiều hơn. Họ sẽ phát huy rất tốt nếu được làm các công việc thuộc đúng chuyên môn của mình, thế nhưng để nhận được công việc đó, họ cần phải học cách để được tuyển dụng và chấp nhận sẽ được đào tạo lại, nếu cần thiết. Nhìn chung hướng nghiệp sẽ trở nên vô nghĩa nếu bị chi phối bởi suy nghĩ liên quan đến thu nhập từ quá sớm. Tương tự, việc đặt ra ranh giới khác biệt giữa các ngành khoa học kỹ thuật và khoa học nhân văn, hoặc đề cao bên nào quá mức cũng là một lý do khiến việc hướng nghiệp trở nên rối rắm hơn. Trong khi người trực tiếp có trách nhiệm hướng nghiệp là chính bản thân các bạn sinh viên tỏ ra hờ hững hoặc chỉ đến lúc tốt nghiệp mới quan tâm xem mình sẽ làm gì, thì hàng ngày, hàng giờ có vô số thông tin khích lệ các bạn đi theo việc này hoặc việc kia. Mong các bạn lưu ý, chọn nghề nghiệp không giống với mua hàng trên mạng: mua thứ gì đó chỉ vì tần suất quảng cáo, giá thành và sự thuận tiện. Hãy chấp nhận thử thách, luôn sẵn sàng học hỏi và đừng phớt lờ nghề nghiệp bản thân mình muốn gắn bó, dù cho mọi khởi đầu luôn rất khó khăn.  Joshua Landy, giáo sư tiếng Pháp và văn chương so sánh trong bài giảng đã nói” “ Tôi muốn gửi tới các bạn một lời khuyên từ tận đáy lòng: Đừng theo chuyên ngành kinh tế. Hãy theo chuyên ngành kinh tế nếu bạn yêu kinh tế. Nhưng đừng học chuyên ngành kinh tế nếu đó là bởi cha mẹ bạn bảo bạn như vậy hay bạn nghĩ mình sẽ không thể có được công việc tốt nếu thiếu nó. Do đó tôi đề nghị rằng, các bạn hãy học ngành mà các bạn thực sự quan tâm, bao gồm cả kinh tế. Nếu bạn theo chuyên ngành khoa học nhân văn, thì có một câu mà mọi người luôn hỏi bạn, Bạn sẽ làm gì với nó ? Và ý họ muốn hỏi là, bạn sẽ kiếm tiền bằng cách nào ?” Landy thừa nhận rằng đây là “một câu hỏi khá sâu sắc”. Nhưng ông nói rằng, ông muốn hỏi những sinh viên không theo chuyên ngành khoa học nhân văn một câu: “Khi bạn kiếm được tiền, bạn sẽ làm gì với nó ?...Bạn sẽ tiêu nó thế nào ? Đâu sẽ là cách tốt nhất để làm cho bản thân bạn hạnh phúc và viên mãn ?”    Những cuộc phiêu lưu không định trước của những sinh viên đến từ Stanford như Michael Crandell (học chuyên ngành tôn giáo, gây dựng sự nghiệp trong ngành công nghiệp phần mềm); Stephen Hayes (chuyên ngành lịch sử, gây dựng sự nghiệp trong lĩnh vực nhân sự); Jennife Ockelmann (chuyên ngành lịch sử, gây dựng sự nghiệp trong lĩnh vực marketing) v.v…là ví dụ tham khảo hữu ích cho thấy việc bạn làm gì không quan trọng bằng việc bạn có thực sự muốn làm nó hay không. Thay cho lời kết Hướng nghiệp là một sự nghiệp cao cả. Khi bạn hiểu biết chính xác bản thân muốn gì và có đủ can đảm theo đuổi nó thì bạn xứng đáng trở thành người hướng nghiệp tốt nhất cho chính mình. Thử thách bản thân ở nhiều lĩnh vực khác nhau là phương pháp hữu hiệu để giúp bạn tìm ra một vị trí phù hợp cho cả hiện tại và tương lai. Sự nỗ lực học hỏi luôn là điều kiện tiên quyết để có thể khám phá ra thế mạnh của bản thân và không ai đưa đến ngay cho bạn công việc thực sự phù hợp nếu bạn không chủ động lên đường tìm kiếm nó. Bài học về hướng nghiệp khiến tôi nhớ đến tác phẩm Ông già và biển cả của tiểu thuyết gia Ernest Hermingway. Năm đó, chính vào những tháng hè oi ả của kì thi, cô giáo dạy văn cấp 3 đã nhắc đi nhắc lại câu nói nổi tiếng: “Hãy cố thêm lần nữa” trích trong tác phẩm, để khích lệ chúng tôi. Đến bây giờ,  dù bạn đang còn đang đi học, chuẩn bị tốt nghiệp hoặc đã tốt nghiệp mà vẫn chưa có việc làm, tôi mong muốn được dành tặng lại bạn sự khích lệ ấy. Sách Hướng nghiệp trong thời đại 4.0 là tập hợp những mẩu chuyện có tính nhân văn và nên được đọc trước khi bạn quyết định đưa ra lựa chọn về nghề nghiệp trong tương lai. Mời các bạn đón đọcHướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0 của tác giả Randall Stross.