Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn

Như Jamie Holmes chỉ ra trong cuốn sách này, sự mơ hồ và bí ẩn, sự nhập nhằng,… khiến chúng ta không thoải mái, do đó chúng ta có xu hướng trốn tránh nó và thường bám riết lấy phương án giải quyết an toàn (nhưng không phải lúc nào cũng là tốt nhất), đặc biệt là trong những tình huống nguy hiểm. Nhưng cũng chính vì thế, chúng ta tước đi của chính mình cơ hội quan trọng để tìm hiểu cách giải quyết vấn đề theo hướng mới hoặc quan sát thế giới từ một góc độ khác. Bằng những hiểu biết về tâm lý học xã hội và khoa học nhận thức của tác giả và thông qua những câu chuyện thú vị - từ trò chơi gián điệp và các giáo phái ngày tận thế cho chiến dịch quảng cáo của Absolut Vodka hay sự sáng tạo của Mad Libs – cuốn sách của Jamie Holmes hứa hẹn sẽ làm thay đổi cách chúng ta tiến hành kinh doanh, giáo dục và đưa ra quyết định. Mọi khía cạnh tích cực của “sự mơ hồ và bí ẩn” và cách tận dụng nó đều nằm trong cuốn sách này! ***   N ăm 1996, Đại học City & Islington ở London tổ chức một khóa học tiếng Pháp cấp tốc cho những người mới học và sinh viên dưới trung bình. Paula, một cô bé thiếu niên nghiêm chỉnh đeo một cặp kính gọng mảnh, chưa bao giờ nói được một từ tiếng Pháp nào. Darminder, người có một bộ râu dê và đeo khuyên tai, không chỉ mới học tiếng Pháp mà còn thất bại trong kỳ thi chứng chỉ tiếng Tây Ban Nha tổng quát của bậc giáo dục trung học (GCSE). Abdul đã rớt kỳ thi GCSE tiếng Đức. Satvinder và Maria đều rớt kỳ thi GCSE tiếng Pháp và giáo viên tiếng Pháp của Emily khuyên cô nên bỏ ý định học thứ tiếng này. Tuy nhiên, thay vì từ bỏ tất cả hy vọng, những học viên này đã đăng ký tham gia một khóa học độc nhất vô nhị. Trong năm ngày học toàn thời gian, họ sẽ áp dụng phương pháp kỳ lạ của một nhà ngôn ngữ học tên là Michel Thomas. Trong chiếc áo khoác màu xanh và với mái tóc muối tiêu, trông Thomas toát lên vẻ nhã nhặn. Ông nói với những học viên mới rằng: “Tôi rất mong chờ buổi dạy ngày hôm nay nhưng dưới những điều kiện tốt hơn, vì tôi không nghĩ rằng các em đang ngồi thoải mái. Tôi muốn các em cảm thấy thoải mái, do đó chúng ta sẽ sắp xếp lại mọi thứ.” Trong một chiếc xe tải ở bên ngoài, Thomas đã chuẩn bị sẵn một số vật dụng thay thế không ai ngờ tới cho một lớp học tiêu chuẩn: ghế bành, gối, bàn cà phê, cây cối, thảm, một cái quạt và thậm chí là những tấm đệm gấp làm bằng liễu gai. Chỉ với chút ít thời gian và công sức, các học viên đã hoàn tất việc thay đổi căn phòng. Những chiếc ghế bành lưng cao bọc vải nhung xếp thành một nửa hình ô van, những chiếc rèm xanh được kéo lại, chỉ để lọt ánh sáng mờ trong căn phòng, và những tấm đệm liễu gai bao quanh những chiếc ghế bành mang lại một cảm giác ấm áp và thân mật hơn. Không có những bàn học, bảng đen, giấy, bút hay chì. Thomas không muốn các học viên viết hay đọc bất kỳ thứ gì. Ông không muốn họ nhớ bất cứ điều gì được học, kể cả việc xem lại chúng vào cuối ngày. Nếu trong thời gian học, các sinh viên không nhớ được điều gì đó, ông nói rằng đó không phải vấn đề của họ. Đó là vấn đề của ông. Emily tỏ vẻ hoài nghi. Darminder và Abdul thậm chí còn không giấu được nụ cười tinh quái. Nhưng không ai trong số những sinh viên này có thể ngăn nổi sự tò mò thực sự về người đàn ông đứng tuổi đang đứng trước mặt mình. Ông ta có nghiêm túc không? Không cố gắng nhớ những gì được dạy trên lớp ư? “Tôi muốn các em thoải mái.” Cảnh tượng này, phương pháp của Thomas và các kết quả sau năm ngày học xuất hiện trong một bộ phim phóng sự của đài BBC mang tên Chuyên gia Ngôn ngữ. Margaret Thompson, Trưởng khoa tiếng Pháp của trường được giao nhiệm vụ đánh giá kết quả của Thomas. Vào cuối tuần, bà theo dõi các sinh viên – trong đó rất nhiều người chưa từng nói được một từ tiếng Pháp nào trước đây – đã dịch được những câu hoàn chỉnh sử dụng các dạng ngữ pháp nâng cao. Emily đã có thể dịch được một cụm từ vốn thường mất nhiều tháng để giải quyết: “Tôi muốn biết liệu anh có muốn đến gặp tôi tối nay hay không?” Paula ca ngợi cách Thomas nhấn mạnh sự bình tĩnh và kiên nhẫn. Các sinh viên nói rằng họ cảm thấy như thể đã học được năm năm tiếng Pháp chỉ trong năm ngày. Khá kinh ngạc với kết quả, Thompson rụt rè chấp nhận đánh giá của những học viên này. Michel Thomas biết rằng việc khám phá một ngôn ngữ mới quả thực rất đáng sợ. Các học viên phải đối mặt với cách phát âm mới cho những từ ngữ quen thuộc, các từ vựng mang ý nghĩa kỳ lạ, những phần thiếu của lời nói hay những cấu trúc ngữ pháp lạ lẫm. Đó là lý do vì sao những sinh viên của Đại học City & Islington dù được học trong một môi trường thoải mái vẫn thể hiện sự bối rối: cười lớn căng thẳng, cười nhẹ ngượng ngùng, xin lỗi thầm, nói lắp, lưỡng lự và những cái liếc mắt lúng túng. Học một ngôn ngữ mới đòi hỏi bạn phải đi vào một vùng đất xa lạ. Thomas mô tả ngôn ngữ mới “là thứ xa lạ nhất” mà một người có thể học. Để bảo vệ bản thân trước sự xâm lấn “xa lạ” này, tâm trí sẽ dựng lên những rào cản theo bản năng, vì vậy thách thức đầu tiên và cũng là khó khăn nhất với giáo viên là giúp các học viên kéo đổ những rào cản này. Thomas đã thay đổi môi trường giảng dạy ở Đại học City & Islington từ đáng sợ, đầy căng thẳng thành tò mò, đầy bình tĩnh. Bằng cách nào đó, ông đã khiến tâm trí của các học viên cởi mở hơn. Các học viên vốn có thói quen gạt bỏ những gì chưa hiểu đột nhiên sẵn sàng dấn thân vào những lãnh thổ xa lạ hơn. Vào thời điểm BBC quay phóng sự này (sau đó được phát sóng năm 1997), Thomas đã là một huyền thoại. Ông thành thạo 11 ngôn ngữ, mở ra những trung tâm gia sư ở Los Angeles, New York và xây dựng một thứ gì đó như một “tôn giáo” nhờ vào một danh sách khách hàng bao gồm Grace Kelly, Bob Dylan, Alfred Hitchcock, Coca-Cola, Procter & Gamble và American Express. Nigel Levy, người đã tham gia lớp học của Thomas trước khi sản xuất ra bộ phim phóng sự của BBC, mô tả những bài học của ông là rất “đáng kinh ngạc”. Emma Thompson mô tả thời gian làm việc với ông là “một trải nghiệm học tập đặc biệt nhất trong đời”. Cựu đại sứ Israel ở Liên Hợp Quốc gọi ông là “người lao động thần kỳ”. Và Herbert Morris, cựu Trưởng khoa Nhân văn của UCLA, tiết lộ rằng ông đã học được cả năm tiếng Tây Ban Nha chỉ trong vài ngày học cùng Thomas và vẫn còn nhớ những kiến thức đó mãi tới chín tháng sau. Thomas cho rằng “điều quan trọng nhất là loại bỏ mọi căng thẳng và áp lực”. Ông đặc biệt quan tâm đến trạng thái tâm lý, thậm chí quan tâm đến cực độ. Ví dụ, ông thường bắt đầu dạy tiếng Pháp bằng cách nói với các học viên rằng tiếng Pháp và tiếng Anh có chung hàng nghìn từ vựng, chỉ là chúng nghe có hơi khác nhau một chút. Ông từng nói đùa: “Tiếng Anh chính là tiếng Pháp được phát âm sai.” Ông giải thích rằng những từ ngữ kết thúc với -ible như possible và -able như table đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp. Nhờ việc biến những điều xa lạ thành thân quen, ngay từ đầu Thomas đã trao cho các sinh viên những nền tảng vững chắc. Các sinh viên ghép kiến thức mới vào kiến thức hiện hữu từng chút một, thể hiện tư duy riêng và không bao giờ lặp lại những cụm từ theo lối học vẹt. Thomas dạy họ cách tự học và hiếm khi phải uốn nắn các học viên một cách trực tiếp. Đến năm 2004, những đĩa CD, băng dạy tiếng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha của Thomas – ghi lại quá trình Thomas dạy từng loại ngôn ngữ cho các nhóm hai học viên – là những khóa học bán chạy nhất ở Anh. Nhưng Michel Thomas không đơn thuần là một nhà ngôn ngữ học. Ông cũng là một anh hùng thời chiến. Cùng năm đó, ông được vinh danh ở Lễ Tưởng niệm Thế chiến II tại Washington D.C, nơi ông nhận được Huy chương Sao Bạc. Ông mất năm 2005 ở New York, là một công dân Hoa Kỳ nhưng sinh ra ở thành phố công nghiệp Lodz, Ba Lan với tên gọi Moniek Kroskof. Ông sống sót qua những trại tập trung, trở thành chỉ huy quân đội, điệp viên và chuyên gia thẩm vấn của phe Đồng Minh. Sau cuộc chiến, ông đã bắt hơn 2.000 tội phạm chiến tranh Đảng Quốc Xã. “Michel Thomas” là nhân dạng giả thứ năm và cũng là bí danh của ông. Kinh nghiệm tuyên truyền chuyên chế và sự nghiệp nằm vùng sau chiến tranh không phải là những điểm đáng chú ý trong lý lịch của Thomas. Những khám phá của ông về cách tâm trí đóng sập cánh cửa hay mở khóa trước sự mơ hồ – trọng tâm chính của cuốn sách này – xuất phát từ những trải nghiệm của ông ở Đức. Ông đã chứng kiến việc Đảng Quốc Xã đã nuôi dưỡng một cách tiếp cận thô bạo, thậm chí khinh bỉ trước sự bất định và phức tạp về đạo đức trong những đảng viên nồng nhiệt nhất như thế nào. Và sau đó ông dành ra nhiều thập kỷ phát triển các phương pháp để nuôi dưỡng một thái độ đối lập tuyệt đối ở những người học ngôn ngữ. Trên thực tế, 50 năm trước khi bộ phim phóng sự của BBC được ghi hình, Thomas đã kiểm tra các ý tưởng đầu tiên của mình trong một phiên bản hoàn toàn đối lập với buổi trình diễn sư phạm của mình ở Đại học City & Islington. *** Năm 1946, Rudolf Schelkmann, cựu thiếu tá đơn vị tình báo SS của Hitler đang lẩn trốn tại Ulm, Đức, đã phối hợp với một mạng lưới những kẻ trung thành với âm mưu tái thiết sự thống trị của Đảng Quốc Xã. Tháng 11 năm đó, Schelkmann cùng ba cựu sĩ quan SS đã bị dẫn dụ vào cuộc gặp với một chỉ huy của lực lượng phản kháng Đảng Tân Quốc Xã hoạt động ngầm và quyền lực hơn. Thực tế, họ sẽ gặp Moniek Kroskof, chính là Michel Thomas, một đặc vụ chìm của Cơ quan Phản gián (CIC) của quân đội Hoa Kỳ. Với nhiệm vụ đem những tên tội phạm chiến tranh này ra trước công lý, Thomas đảm nhận sứ mệnh phát hiện, lần theo dấu vết và phá hủy mạng lưới của Schelkmann. Một nhân viên CIC khác sử dụng cái tên Hans Meyer cũng đã cẩn thận xây dựng quan hệ với những thành viên của mạng lưới, nhưng Schelkmann vẫn rất kiệm lời. Cựu nhân viên SS đã đồng ý chia sẻ các thông tin liên lạc và chi tiết hoạt động, nhưng chỉ sau khi được gặp mặt trực tiếp chỉ huy của Meyer. Thomas phải tránh để Schelkmann và nhóm người của hắn đánh hơi thấy điều gì đó khác thường. Để đạt mục đích này, ông đã tỉ mỉ sắp xếp để đám sĩ quan SS trải nghiệm một chuyến đi quanh co nhiều giờ liền trước khi đến buổi gặp quan trọng. Buổi tối hôm đó, những sĩ quan SS theo lệnh Meyer đã chờ sẵn trong một “ngôi nhà an toàn” ở phía tây nam Ulm. Không được thông báo trước, những chiếc xe mô tô đến đón họ đi. Thomas đã cẩn thận chờ trời đổ mưa; khi đám sĩ quan SS ngồi ở yên sau của những chiếc xe và gió mạnh thổi vào những bộ quần áo thấm đầy nước mưa của họ. Được thả xuống một con đường trống, nhóm sĩ quan bị bịt mắt và bị đẩy vào hai chiếc ô tô. Trong bóng đêm, họ nghe thấy tiếng người trao đổi mật khẩu khi đi qua nhiều trạm kiểm tra an ninh. Họ được kéo ra khỏi xe, dẫn đi qua một con đường đầy bùn lầy và những vũng nước sâu giá lạnh trong trạng thái bị bịt mắt. Chúng phải chờ dưới một hành lang lạnh lẽo và không được nói chuyện. Vẫn bị bịt mắt, chúng lắng nghe những mệnh lệnh ngắn gọn, những bước chân, những tiếng cửa đóng mở vội vã. Khi Schelkmann và nhóm của hắn được dẫn tới một căn phòng lớn bằng gỗ và được cởi bịt mắt, lúc đó đã qua nửa đêm. Thomas – hay Frundsberg với những sĩ quan SS – ngồi sau một chiếc bàn lớn, đối mặt với những kẻ âm mưu. Mặc quần áo thường dân, ngoại trừ chiếc áo sơ mi nâu theo phong cách quân đội, Frundsberg được giới thiệu với nhóm người trung thành với Đảng Quốc Xã là cựu sĩ quan cao cấp của RSHA, một nhóm điệp viên từng nằm dưới quyền giám sát của Himmler. Căn lều đi săn của Frundsberg là trụ sở của tổ chức phản kháng ngầm, được trang trí rất nghệ thuật với tranh chân dung của Hitler và những nhân vật quan trọng của Đảng Quốc Xã, kèm với những quả lựu đạn, súng máy, súng ngắn, súng phun lửa và cả bộc phá. Những xấp tiền mặt nằm trong một chiếc két sắt mở toang. Thomas gật đầu, ngồi xuống và những người đàn ông khác cũng ngồi xuống. Ông im lặng nghiên cứu một tập hồ sơ không rõ nội dung, sau đó nói rõ quan điểm của mình với Schelkmann: ông sẽ không chấp nhận bất kỳ nhóm phản kháng nhỏ lẻ nào. Những hành động quân sự thực hiện ngoài mệnh lệnh của ông sẽ được coi là hành động phản bội, đơn giản và rõ ràng. Với những cử chỉ dường như rất thoải mái, Thomas xem thường Schelkmann và nhóm nhỏ của hắn, và thường nhận những cú điện thoại để nhấn mạnh sự lãnh đạm với nhóm người này. Các cấp dưới của ông đến và đi với những thông cáo rõ ràng rất khẩn cấp. Trong cơn bối rối, vị thiếu tá Đảng Quốc Xã nói ra các chi tiết mà Thomas đang mong chờ: lý lịch của hắn và lý lịch của những sĩ quan SS khác trong phòng, tên của mạng lưới, điều lệ, phương thức, cấu trúc cũng như cách các thành viên được tuyển mộ. Những hoạt động của CIC đêm đó không phải hoàn hảo. Buổi diễn tưởng tượng và tỉ mỉ của Thomas cần khoảng 30 người tham gia đóng kịch, mỗi người đều có một kịch bản được phân công. Các sai lầm và sự thiếu sót nhỏ trong màn trình diễn là điều không tránh khỏi. Thành công của hoạt động phản gián thường nhờ vào việc phát giác ra các chi tiết vụn vặt như vậy, dù những khoảnh khắc lưỡng lự bất thường, phản ứng quái lạ hay những cái giật mình vô tình được hiểu là ác ý hay ôn hòa. Như nhà nhân loại học Margaret Mead từng nói, đó là lý do một số điệp viên Xô Viết thường dùng tẩu. Hành động đó giúp họ duy trì biểu cảm trên khuôn mặt. Những cái nút với khuyết áo đan chéo (chứ không may song song) có thể tiết lộ quốc tịch của điệp viên và làm hỏng cả một chiến dịch khai thác thông tin mật hoàn hảo. Ở Ai Cập, một điệp viên nước ngoài từng bị phát hiện vì tư thế đứng tiểu nơi công cộng. Thomas biết rằng trong hoạt động tình báo, tất cả các chi tiết đều quan trọng và Schelkmann có lý lịch rất đáng gờm trong ngành. Schelkmann có hai cơ hội lật mặt nạ buổi diễn tối hôm đó. Đầu tiên là khi hắn yêu cầu được bổ nhiệm làm giám đốc bộ phận tình báo của Thomas. Thomas sau đó nói với người viết hồi ký của mình, Christopher Robbins, “Tôi không lường trước được điều này. Tôi không thể đáp ứng yêu cầu đó của hắn nếu không tuyển mộ hắn vào tổ chức, một điều tất nhiên là hoàn toàn bất khả thi. Tôi đã chỉ ra các điểm yếu trong hoạt động của hắn, dù trong thực tế đó là điều tôi buộc phải thán phục hắn.” Theo kế hoạch, Thomas không chỉ phải bịa ra một âm mưu phản kháng giả mà còn phải tỏ ra khinh thường một mạng lưới tình báo được quản lý tốt. Schelkmann không phát hiện ra và không phản kháng. Khoảnh khắc thành bại thứ hai của tối hôm đó – theo Thomas là khoảnh khắc nguy hiểm nhất – là khi Schelkmann bất ngờ hỏi xin mệnh lệnh. “Und was befehlen Sie uns jetzt zu tun?” Và giờ ngài ra lệnh cho chúng tôi làm gì? Như Robbins nhớ lại, Thomas sợ rằng mặt nạ của ông bị lộ ra và ông đã bước ra khỏi vai diễn. Nhưng một lần nữa, những sĩ quan SS không để ý thấy điều đó. Thomas trấn tĩnh, ra lệnh cho những người Đức dừng bất kỳ hoạt động đang trì hoãn nào và chuẩn bị cho một cuộc kiểm tra. Màn trình diễn của ông đã sơ suất hai lần, nhưng Schelkmann cũng đã bỏ lỡ cả hai. Đây là lợi ích của những hành động bịt mắt, đổi xe, đi qua bùn đất, quần áo đẫm nước mưa và màn đối xử khinh miệt mà nhóm những kẻ âm mưu bị buộc phải chịu đựng: bỏ qua những manh mối, xem nhẹ các dấu hiệu. Thành công của hoạt động đêm hôm đó không dựa vào sự hoàn hảo trong triển khai. Ngược lại, Thomas biết rằng sẽ xuất hiện những sơ suất có thể làm hỏng buổi diễn và buộc ông phải bắt nhóm đảng viên Quốc Xã ngay lập tức. Tài năng của ông nằm ở khả năng thao túng tâm trạng và làm giảm đi nhu cầu kiểm soát mà nhờ đó, những người này sẽ ít lưu ý đến những sai lầm mang tính khoảnh khắc đó. Vài tháng sau, khi Thomas rời công việc với CIC ở Đức để về Mỹ, một điệp viên mới nhận nhiệm vụ giăng bẫy nhóm đảng viên Quốc Xã liều lĩnh này. Đóng vai phó của Frundsberg, điệp viên thay thế này sắp xếp một cuộc họp với Schelkmann và nhóm người của hắn ở một quán bia địa phương. Vợ và bạn gái được phép tham gia. Lần này, một khoảnh khắc căng thẳng ập đến và điệp viên ngầm này tỏ ra bối rối, khiến nhóm sĩ quan SS cảm thấy có gì đó không đúng. Chúng quyết liệt thẩm vấn anh ta. Điệp viên CIC này hoảng loạn rút ra một khẩu súng ngắn, và các sĩ quan CIC ngầm nấp trong quán bia chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc xông đến bắt đám người này, tóm được ít kẻ âm mưu hơn so với kỳ vọng. Schelkmann ngồi tù 12 năm. Ban đầu khi bị buộc tội, hắn và các đồng sự kịch liệt phủ nhận tuyên bố dường như khó hiểu của bên truy tố rằng Frundsberg cũng làm việc cho những người Mỹ. Cũng giống như những học viên của Thomas, những sĩ quan SS đã đóng tư duy của họ lại. *** Cuốn sách này nghiên cứu cách con người diễn giải thế giới. Nó viết về những gì xảy ra khi chúng ta bối rối và mọi thứ có vẻ không rõ ràng. Tất nhiên, hầu hết thách thức trong cuộc sống thường cực kỳ rõ ràng. Khi trời đổ tuyết, chúng ta biết mặc áo khoác trước khi ra ngoài. Khi điện thoại kêu, chúng ta nhấc điện thoại lên. Đèn đỏ có nghĩa là chúng ta phải dừng lại. Ở chiều ngược lại, nhiều phạm vi kiến thức hoàn toàn khiến chúng ta bối rối. Nếu giống tôi, bạn sẽ chẳng hiểu gì khi đọc chữ Ba Tư hay nghe một cuộc tranh luận của các chuyên gia vật lý hạt nhân. Chúng ta sẽ không thể bối rối nếu có ít nhiều hiểu biết nào đó trong đầu. Thay vì cảm thấy khó chịu vì chỉ hiểu một phần vấn đề, chúng ta nên cảm thấy bình tĩnh trước sự ngu ngơ của bản thân, giống như cách chúng ta an tâm tuân theo những trình tự thường nhật. Cuốn sách này nghiên cứu vùng đất chếnh choáng nằm giữa hai cực, khi chúng ta có vẻ đang thiếu những thông tin cần thiết để thấu hiểu một trải nghiệm hay những thông tin nào đó quá phức tạp. Sự mơ hồ sẽ xuất hiện trong những tình huống không hoàn toàn rõ nghĩa này. Trạng thái tâm trí bối rối vì sự mơ hồ được gọi là trạng thái bất định, và nó là một trạng thái khuếch đại cảm xúc. Nó khiến sự căng thẳng trở nên đau đớn hơn, và cảm giác thích thú trở nên thú vị hơn. Ví dụ, cảm giác thích thú với trò chơi ô chữ đến từ quá trình suy nghĩ và giải quyết các manh mối không rõ ràng. Những câu chuyện trinh thám tạo ra sự hồi hộp bằng cách duy trì trạng thái bất định về những manh mối và kẻ thủ ác. Nghệ thuật hiện đại đi theo hướng bẻ cong tư duy, tính đa dạng của thơ ca, những câu đố của Lewis Carroll, chủ nghĩa hiện thực thần kỳ của Marquez, văn châm biến hiện thực của Kafka – sự mơ hồ thấm đẫm tất cả những hình thái và tác phẩm nghệ thuật của loài người, hàm ý một bản chất cảm xúc sâu sắc. Goethe từng nói rằng: “Sự đồng thuận khiến chúng ta trở nên thụ động, nhưng mâu thuẫn sẽ khiến chúng ta trở nên hiệu quả hơn.” Sự mơ hồ cũng vậy. Những chuyến du lịch, các bảo tàng khoa học và những câu đố trí tuệ xác nhận tiềm năng tuyệt vời của sự mơ hồ trong vai trò quyến rũ trí tưởng tượng của chúng ta. Nhưng chúng cũng cho thấy mối quan hệ giữa chúng ta và sự thiếu trật tự mang tính nhận thức có thể biến đổi thế nào. Chúng ta thích sự bất định được đưa vào nề nếp cẩn thận như một buổi trưng bày nghệ thuật hiện đại. Chúng ta chỉ thích cảm giác mơ hồ trong những bối cảnh không mang tính đe dọa, như khi âm nhạc chơi đùa với những âm thanh chói tai hay một bộ phim kinh dị chơi đùa với sự điên khùng. Khi đối mặt với những trải nghiệm không rõ ràng vượt ra khỏi giới hạn này, chúng ta hiếm khi cảm thấy an toàn. Các tình huống bất định trong đời thực thể hiện ở những sự kiện không thể lý giải, các dự định không rõ ràng, hay những thông tin tài chính, y tế không mang tính kết luận. Có thể vợ hoặc chồng bạn không có được một công việc mà cô ấy/anh ấy hoàn toàn đủ năng lực. Hay bạn cảm thấy không khỏe nhưng các chẩn đoán của bác sĩ không thể lý giải được mọi triệu chứng của bạn. Có lẽ bạn đang thương lượng một vụ làm ăn với ai đó mà bạn không thực sự tin tưởng. Hay có thể bạn đang cố gắng viết một kế hoạch kinh doanh trong một thị trường thay đổi nhanh chóng và rất cạnh tranh. Những lần đưa ra quyết định quan trọng trong cuộc sống của chúng ta – từ chọn trường đại học đến quyết định nơi sinh sống – luôn liên quan đến hoạt động xử lý các thông tin mập mờ trong những tình huống đầy rủi ro. Tuy nhiên, ngày nay thế giới đang trở nên quá tải thông tin và hỗn độn hơn bao giờ hết. Nghịch lý của cuộc sống hiện đại là dù công nghệ phát triển – trong ngành giao thông, truyền thông và sản xuất – có thể mang lại nhiều thời gian hơn cho con người, nhưng các phát minh đó lại làm gia tăng số lượng các lựa chọn theo cấp số nhân. Thư điện tử nhanh hơn thư bưu điện rất nhiều và Internet cũng mang lại cả Twitter, YouTube, v.v... Như nhà xã hội học người Đức Hartmut Rosa mô tả: “Dù có gia tăng ‘tốc độ cuộc sống’ nhanh thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể bắt kịp trận đại hồng thủy các thông tin và lựa chọn.” Kết quả là “phần thế giới mà chúng ta tiếp cận” có vẻ như ngày càng nhỏ lại, thậm chí khi chúng ta tiếp cận nó một cách hiệu quả hơn. Ước tính rằng có 90% dữ liệu trên thế giới đã được tạo ra chỉ trong 5 năm gần đây. Tất cả chúng ta đều đang chết chìm trong cơn lũ thông tin, một thực tế khiến những quyết định đơn giản nhất – ăn ở đâu, đăng ký chương trình chăm sóc sức khỏe gì, mua cà phê từ nhà sản xuất nào – trở nên đầy rủi ro. Trong khi đó, chúng ta đối mặt với những căng thẳng xã hội đến từ sự bất bình đẳng gia tăng và một tương lai kinh tế bất định khi máy móc bắt đầu thay thế con người trong nhiều ngành công nghiệp. Quản lý trạng thái bất định ngày càng trở thành một kỹ năng thiết yếu. Nhà kinh tế học Noreena Hertz gần đây tranh luận rằng một trong những thách thức căn bản của thế giới hôm nay là “sự thiếu trật tự – một sự kết hợp của sự sụp đổ những trật tự cũ, vững chãi và bản chất cực kỳ bất định của thời đại chúng ta.” Tự động hóa và thuê ngoài sẽ đòi hỏi những người lao động trong tương lai phải cách tân và sáng tạo hơn. Như chuyên gia kinh tế Lawrence Katz đã nói, thành công hay thất bại sẽ chỉ dựa trên một câu hỏi: “Bạn giải quyết những vấn đề không cấu trúc như thế nào, và bạn xử lý những tình huống tốt ra sao?” Những công việc mà có thể “được biến thành một thuật toán”, theo cách gọi của ông, sẽ không quay trở lại. Katz nói với tôi: “Kỹ năng sẽ được coi trọng trong tương lai là năng lực học các kỹ năng mới mà vẫn thích nghi với môi trường và năng lực khám phá ra những giải pháp sáng tạo vượt ra khỏi những cách làm tiêu chuẩn.” Cũng như những người lao động ngày nay phải học cách thích nghi với những gì xa lạ, lực lượng lao động ngày mai phải chuẩn bị cho điều đó. Miguel Escotet, một nhà khoa học xã hội đã đưa ra một lập luận rất hay. Các trường học nên “giảng dạy kỹ năng xử lý sự bất định, đơn giản vì với rất nhiều sinh viên, hầu như họ không thể biết chuyện gì sẽ xảy ra vào thời điểm bước chân vào thị trường lao động”. Với Escotet, giảng dạy kỹ năng quản lý sự bất định nghĩa là giúp sinh viên trở nên linh hoạt, tự biện, tò mò và chấp nhận rủi ro – những năng lực có xu hướng biến mất khi sự căng thẳng chiếm lĩnh tâm trí chúng ta. Tương tự, các doanh nhân không thể cách tân nếu không có khả năng đi thong dong vào những vùng lãnh thổ xa lạ khác nhau. Năng lực xử lý sự mơ hồ và trạng thái bất định không phải là một chức năng của sự thông minh. Trên thực tế, khả năng này chẳng liên quan gì đến chỉ số IQ. Tuy nhiên, nó là một thách thức cảm xúc – một câu hỏi về tư duy – và là thứ mà tất cả chúng ta cần phải thành thạo. Vấn đề ngày nay là tìm ra cái phải làm – trong công việc, quan hệ và cuộc sống hằng ngày – khi chúng ta không biết phải làm gì. Sự quan tâm của giới khoa học đối với sự mơ hồ đã bùng nổ trong hơn một thập kỷ qua. Hầu hết đều tập trung vào việc tìm hiểu về một khái niệm mang tên nhu cầu kết thúc vấn đề. Được phát triển bởi nhà tâm lý học lỗi lạc Arie Kruglanski, nhu cầu kết thúc vấn đề của một người được đo lường bởi “một khao khát cụ thể nhằm tìm ra đáp án xác định cho chủ đề nào đó, miễn sao đáp án đó không rối rắm và mập mờ”. Cũng như phương pháp giảng dạy ngược đời của Michel Thomas, khái niệm của Kruglanski – và thực tế là một nghiên cứu tâm lý hiện đại về chủ đề sự mơ hồ – có thể truy ngược để thấu hiểu Chủ nghĩa Quốc Xã. Năm 1938, nhà tâm lý học nghiên cứu Chủ nghĩa Quốc Xã tên là Erich Jaensch đã xuất bản cuốn sách Der Gegentypus (tạm dịch: Vật tượng trưng), một cuốn sách đáng ghê tởm trong đó ông mô tả sự chắc chắn là dấu hiệu đáng ngại của sức khỏe tâm thần. Với Jaensch, hành động chịu đựng sự nghi ngờ là bằng chứng của bệnh tâm thần. Sau cuộc chiến, Else Frenkel-Brunswik, một nhà tâm lý học ở Đại học California, đã giới thiệu khái niệm không khoan dung sự mơ hồ. Trong một thí nghiệm, bà cho các đối tượng nghiên cứu xem một chuỗi các hình ảnh, bắt đầu bằng bản phác thảo hình một con chó. Các hình ảnh dần thay đổi hình dạng thành hình một con mèo. Các đối tượng không khoan dung sự mơ hồ – những người có xu hướng nhìn nhận thế giới theo các phạm trù cứng nhắc – khăng khăng một cách cố chấp rằng hình ảnh đó vẫn là con chó. Phát biểu ngược hoàn toàn với Jaensch, Frenkel-Brunswik cho rằng hành động không thể chịu đựng được những thông tin không rõ ràng cho thấy một trạng thái tâm thần không lành mạnh. Kruglanski đưa ra một luận điểm khiêm tốn và có phần nhiễu loạn hơn Frenkel-Brunswik. Ông hiểu rằng con người có nhu cầu giải quyết trạng thái bất định và diễn giải những gì vô nghĩa. Ông lý luận rằng con người sẽ mất đi tính thích nghi nếu chúng ta không có cơ chế thúc đẩy bản thân giải quyết những sự thiếu nhất quán và ra quyết định. Khi không có động lực giải quyết vấn đề, chúng ta sẽ chẳng bao giờ làm xong việc gì. Đó là nhu cầu kết thúc vấn đề. Nhưng Kruglanski cũng nghi ngờ rằng xu hướng bài xích sự bất định của chúng ta không bất động. Ông tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu khao khát tìm kiếm các đáp án rõ ràng của chúng ta trở nên quá mạnh? Chuyện gì xảy ra nếu Chủ nghĩa Quốc Xã một phần được châm ngòi bởi sự kết hợp nguy hiểm giữa một lý tưởng đầy căm hờn đi kèm với xu hướng ghét bỏ sự mơ hồ bị thổi phồng của những người ủng hộ? Thực tế, đó là điều mà Kruglanski và những nhà nghiên cứu khác đã khám phá ra. Như chúng ta sẽ thấy, nhu cầu “giải quyết những vấn đề còn dang dở” đóng vai trò thiết yếu đối với năng lực hành động của chúng ta ở thế giới này. Nhưng cũng giống như bất kỳ đặc điểm tâm lý nào khác, nhu cầu này có thể bị cường điệu hóa ở vài người và leo thang trong những tình huống nhất định. Như Kruglanski đã nói với tôi: “Tình huống, văn hóa, môi trường xã hội – nếu thay đổi bất kỳ yếu tố nào trong số đó, bạn sẽ thay đổi nhu cầu kết thúc vấn đề của ai đó.” Tâm lý e sợ sự bất định có thể mang tính lây truyền khi những người xung quanh chúng ta bị lây lan một cách vô thức. Trong các tình huống căng thẳng, chúng ta thường tin tưởng những cá nhân trong nhóm xã hội của chúng ta nhiều hơn và tin tưởng những người ngoài ít hơn. Sự mệt mỏi làm chúng ta ưu ái sự trật tự hơn. Áp lực thời gian cũng vậy. Khi nhu cầu kết thúc vấn đề tăng cao, chúng ta có xu hướng quay về những công thức có sẵn, nhảy thẳng đến các kết luận và từ chối những mâu thuẫn. Chúng ta có thể khăng khăng một cách cứng đầu như Rudolf Schelkmann, rằng con chó vẫn là con chó chứ không phải con mèo. Michel Thomas hiểu rõ sức mạnh của bối cảnh đối với việc mở hoặc đóng tư duy. Ông biết cách dùng sự mơ hồ để thao túng các đòn bẩy tình huống vốn kiểm soát sự thoải mái của chúng ta. Hãy suy nghĩ về việc bối cảnh của CIC ở Ulm đã biến đổi thành những bài học của Thomas ở City & Islington hoàn hảo như thế nào. Muốn khiến các sĩ quan SS chịu áp lực thời gian, ông trả lời nhiều cú điện thoại trong thời gian diễn ra cuộc gặp và bảo đảm rằng sẽ có những “trợ lý” luôn ngắt lời ông. Muốn đe dọa họ, ông trưng đầy vũ khí và các xấp tiền trong căn chòi đi săn. Để khiến các sĩ quan SS rơi vào trạng thái phòng thủ, ông nhốt họ vào một căn nhà an toàn xa lạ. Để khiến họ mệt mỏi và cảm thấy không thoải mái, ông bắt họ đi xe dưới trời mưa, đợi trong cái lạnh và đi qua những vũng nước băng giá. Ngược lại, ở London, Thomas khuyến khích các sinh viên kiên nhẫn. Để các sinh viên được thoải mái, ông nói với họ rằng nhiệm vụ của họ không phải là cố gắng ghi nhớ. Ông thậm chí còn yêu cầu họ khiêng những chiếc bàn học ra khỏi phòng và thay chúng bằng nội thất phòng khách cùng với những tấm rèm bằng liễu gai. Các sinh viên tự sắp xếp không gian học riêng. Để giúp họ kiểm soát bản thân tốt hơn, ông trấn an rằng họ đã quá quen với hàng nghìn từ tiếng Pháp. Thomas đã sử dụng những công cụ trấn áp cảm giác nghi ngờ của các đảng viên Quốc Xã để chống lại họ và sau đó áp dụng cách tiếp cận đối lập để giúp các học viên học tập hiệu quả. Sự đe dọa, cảm giác khó chịu, áp lực thời gian – những đồng minh của Thomas – cũng chính là kẻ thù của ông trong vai trò một giáo viên. Thomas biết cách gia tăng khả năng khiến Schelkmann và các sĩ quan của hắn bỏ qua những mâu thuẫn tiềm năng, ông cũng biết cách gia tăng sự thân thuộc giữa các học viên với một ngôn ngữ xa lạ. Thomas hiểu rằng nhu cầu kết thúc vấn đề không phải lúc nào cũng liên hệ trực tiếp đến một trường hợp mơ hồ cụ thể. Những chiếc ghế thoải mái chẳng liên quan gì đến đại từ tiếng Pháp, cũng như những vũng nước lạnh giá chẳng liên quan gì đến việc liệu có nên tin ai đó không. Ông thấy rằng phản ứng của chúng ta trước sự bất định (thậm chí với cả những căng thẳng không liên quan) là cực kì nhạy cảm. Như Kruglanski đã chỉ ra, chúng ta thường không nhận ra một tình huống làm gia tăng hay giảm bớt nhu cầu kết thúc vấn đề, hay việc này ảnh hưởng ra sao đến phản ứng của chúng ta trước sự mơ hồ. Đó là điều khiến phương pháp của Thomas trở nên quá ấn tượng. Chúng ta thường không nghĩ rằng việc đóng mở tư duy bị ảnh hưởng lớn bởi những tình huống xung quanh. Dù có thể nhận ra ai đó ít nhiều cảm thấy thoải mái với sự bất định, nhưng chúng ta có xu hướng xem đây là một đặc điểm bất biến. Tuy vậy, chúng ta không phụ thuộc vào yếu tố di truyền nhiều như chúng ta nghĩ. Cuốn sách này lập luận rằng chúng ta thường yếu kém trong việc quản lý sự mơ hồ và có thể làm tốt hơn. Vài năm trở lại đây, những khám phá mới trong ngành tâm lý xã hội và khoa học nhận thức đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về cách con người phản ứng trước sự mơ hồ theo hướng mà các nhà nghiên cứu của những năm 1950 không thể đo lường được. Những nghiên cứu đột phá tạo ra các cách tiếp cận mới và thông minh hơn để giải quyết sự mơ hồ trong công việc và các mối quan hệ trong gia đình. Những khám phá này sẽ chỉ ra con đường để sự mơ hồ giúp chúng ta học được những thứ mới mẻ, giải quyết một vấn đề khó khăn hay nhìn thế giới từ một góc nhìn khác. Phần I sẽ trình bày các vấn đề nền tảng liên quan đến sự mơ hồ. Chúng ta sẽ khám phá các lựa chọn tự nhiên trong cơ chế tâm lý của chúng ta và gặp một nhà tâm lý học trẻ tuổi ở Hà Lan, người đang lãnh đạo phong trào hướng đến một lý thuyết mới, thống nhất về cách chúng ta diễn giải thế giới. Phần II tập trung vào các rủi ro của việc chối bỏ sự mơ hồ. Chúng ta sẽ nhìn nhận sự khác biệt giữa “phản ứng thông minh” và “phản ứng vội vã” trước những sự kiện bất định, theo dõi một đàm phán viên lão luyện của FBI đối thoại với một nhà lãnh đạo giáo phái lưỡng lự, và quan sát một tình huống mà trong đó cảm giác thoải mái của một bệnh nhân ung thư đã giúp thay đổi cách đưa ra các quyết định y học. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu cách một doanh nghiệp chuẩn bị cho tương lai bằng việc nhận ra sự vô ích của hoạt động dự báo. Phần III nhấn mạnh vào lợi ích của sự mơ hồ trong những bối cảnh mang tính thách thức như: cách tân, học tập hay nghệ thuật. Sự bất định có những công dụng gì? Làm sao để giáo viên có thể chuẩn bị tốt hơn cho sinh viên trước các thách thức bất định? Liệu hành động ôm ấp sự bất định có giúp chúng ta phát minh hoặc tìm thấy đáp án trong những vùng đất mới, hoặc thậm chí là gia tăng sự cảm thông không? Tại phần này, chúng ta sẽ thấy cách phản ứng của một nhà sản xuất xe mô tô Grand Prix trước một mùa giải thất bại, sau đó chúng ta sẽ làm quen với một nhà sáng chế ở Massachussetts, người đã vượt qua những giới hạn ẩn giấu đằng sau ngôn ngữ. Ngoài ra, chúng ta sẽ xem xét lợi ích của việc sử dụng song ngữ và gặp một nhà sản xuất phim táo bạo ở Jerusalem. Bên cạnh đó, tôi cũng hy vọng rằng bạn sẽ tin vào một tuyên bố đơn giản: trong một thế giới ngày càng phức tạp, bất định, điều quan trọng nhất không phải là IQ, sức mạnh tâm trí hay sự tự tin vào những gì chúng ta biết, mà là cách chúng ta xử lý những gì chúng ta không biết. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn của tác giả Jamie Holmes.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc
Cuốn sách này tất tần tật là về bạn. Nó viết về các cảm nhận của bạn, thái độ của bạn và về việc bạn giữ một cái nhìn tích cực trong cuộc sống. Bạn có muốn cuộc sống của mình cân bằng hơn với một tinh thần tự tin hơn, hạnh phúc hơn và thú vị hơn? Bạn có muốn có nhiều nghị lực và sự nhiệt tình hơn mà vẫn giữ được sự bình an bên trong? Nếu bạn muốn mạnh mẽ hơn và chủ động hơn để có thể làm được tốt hơn ở bất kỳ khía cạnh nào mà bạn chọn trong cuộc sống của mình, không vướng phải các cảm xúc tiêu cực… cuốn sách này là dành cho bạn. Nếu bạn thật sự muốn thay đổi, bạn hoàn toàn có thể! Bằng cách phát triển khả năng kiểm soát cảm xúc tốt hơn và thoát khỏi những cảm xúc không lành mạnh trói buộc bạn, bạn có thể học cách tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ đến nỗi nó có thể thay đổi cuộc đời bạn trở nên tốt đẹp hơn theo nghĩa đen. Bằng cách trở nên lành mạnh hơn về cảm xúc bạn sẽ hạnh phúc hơn, hài lòng hơn, và có thể vun đắp những mối quan hệ lành mạnh lâu dài được tốt hơn. Cảm xúc khống chế tất cả! Bất kể bạn đang làm gì, nếu bạn rơi vào một cơn hoảng loạn, tức giận không kiềm chế được hay chìm vào hố sâu trầm cảm – thì các cảm xúc của bạn sẽ thắng – các cảm xúc của bạn sẽ thống trị. Nếu bạn tự hỏi điều gì là quan trọng hơn, điều bạn biết hay điều bạn cảm thấy – bạn hiểu rằng điều bạn biết sẽ không còn quan trọng nữa nếu bạn cảm thấy tệ. Cũng như với sức khỏe thể chất, nếu bạn không có một cảm xúc tích cực mạnh mẽ và ổn định, thì chất lượng cuộc sống của bạn sẽ giảm đáng kể. *** Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc chỉ rõ “bẫy cảm xúc” sẽ được hình thành do 3 tư duy cơ bản khiến bạn đau khổ: Nài ép, Phóng đại tiêu cực, Định giá giá trị bản thân Từ đó sẽ sinh ra 3 loại cảm xúc tiêu cực – bẫy cảm xúc, sinh ra vô số những bẫy cảm xúc khác: Trầm cảm, Lo âu/Lo lắng, Tức giận Và tác giả cũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của cảm xúc là gì? Cảm xúc hình thành như thế nào? Và mỗi người có thể làm gì để cân bằng cảm xúc của chính mình? Bản chất của cảm xúc là gì? Bẫy cảm xúc khiến chúng ta mặc định những cảm xúc tiêu cực như: Lo âu, tức giận, trầm cảm. giống như một thói quen mặc nhiên của bản thân. Dần dần chúng ta chấp nhận nó và để nó trở thành bạn đồng hành trong cuộc đời. Đó là một cái bẫy mà nếu biết cách bạn có thể tự thoát được. Cảm xúc hình thành như thế nào? “Tôn trọng bản thân khác với sự ích kỷ ở chỗ, sự tôn trọng bản thân thể hiện những gì bạn nghĩ, cảm nhận và cư xử theo những cách giúp bạn thực hiện được mục tiêu của mình mà không nhất thiết gây trở ngại cho người khác.” Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc chỉ ra rằng chỉ có “yêu thương bản thân vô điều kiện”. Đó mới là nguồn cội của một trạng thái tinh thần lành mạnh trong bất cứ ai. Ba giai đoạn hình thành cảm xúc: Giai đoạn 1: Sự kiện châm ngòi Giai đoạn 2: Hệ thống niềm tin, gồm có cả ý nghĩ tích cực và tiêu cực Giai đoạn 3: Hiệu ứng cảm xúc, tra lại hệ thống niềm tin. Nếu ý nghĩ của bạn logic và hợp lý sẽ hình thành cảm xúc tích cực. Và khi ý nghĩ của bạn trở nên phi lý, sẽ hình thành cảm xúc tiêu cực trong bạn. Các bước kiểm soát cảm xúc quan trọng – Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc Kiểm soát cảm xúc dù là tích cực hay tiêu cực sẽ giúp cuộc sống của bạn trở nên thú vị hơn rất nhiều. Vậy thì hãy tập luyện những bước dưới đây đều đặn mỗi ngày để chứng kiến kết quả kỳ diệu nhé! Bước 1: Ý thức hơn về suy nghĩ của bản thân bạn. Khi bạn để ý chúng thật kỹ, bạn sẽ tìm thấy một số chỗ phi lý, và đó chính xác là nguyên nhân khiến bạn đau khổ. Bước 2: Tìm hiểu xem những ý nghĩ nào khiến bạn đau khổ. Bước 3: Tranh luận và từ chối tin theo các suy luận phí lý. Bước 4: Làm theo các niềm tin lành mạnh, có lý trí và thực tế hơn. Bước 5: Hành xử theo những niềm tin mới có lý trí này. Bước 6: Dành thời gian thực hành theo cường độ và tần suất nhất định. Phần đặc biệt – Làm thế nào để bớt đi những cảm xúc tiêu cực? Sau tất cả những chuẩn bị bên trên, tác giả Daniel Rutley sẽ bắt đầu phân tích, chỉ dẫn cụ thể. Đó là những giải pháp để khống chế, hạn chế, loại trừ cảm xúc tiêu cực. Một thứ cảm xúc tệ hại, độc hại đang chiếm ngự trong tấm trí của hàng triệu người. Daniel Rutley Psy.D. là một nhà tâm lý trị liệu lâm sàng trong thực hành tư nhân ở Mississippi. Ông cũng là tác giả bán chạy nhất của cuốn sách Thoát khỏi bẫy cảm xúc và nhiều cuốn sách khác. “Học cách kiểm soát cảm xúc của bạn để có thể chọn một chuỗi đầy đủ những cảm xúc lành mạnh. Bạn có thể chọn sôi nổi hay trầm ngâm, ngây ngất và hào hứng hay bình tĩnh và thanh thản. Đúng vậy, bạn thật sự có thể lựa chọn các cảm nhận của mình.” *** “CUỐN SÁCH NÀY LÀ VỀ BẠN!” Cuốn sách này tất tần tật là về bạn. Nó viết về các cảm nhận của bạn, thái độ của bạn và về việc bạn giữ một cái nhìn tích cực trong cuộc sống. Bạn có muốn cuộc sống của mình cân bằng hơn với một tinh thần tự tin hơn, hạnh phúc hơn và thú vị hơn? Bạn có muốn có nhiều nghị lực và sự nhiệt tình hơn mà vẫn giữ được sự bình an bên trong? Nếu bạn muốn mạnh mẽ hơn và chủ động hơn để có thể làm được tốt hơn ở bất kỳ khía cạnh nào mà bạn chọn trong cuộc sống của mình, không vướng phải các cảm xúc tiêu cực... cuốn sách này là dành cho bạn. Nếu bạn thật sự muốn thay đổi, bạn hoàn toàn có thể! Bằng cách phát triển khả năng kiểm soát cảm xúc tốt hơn và thoát khỏi những cảm xúc không lành mạnh trói buộc bạn, bạn có thể học cách tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ đến nỗi nó có thể thay đổi cuộc đời bạn trở nên tốt đẹp hơn theo nghĩa đen. Bằng cách trở nên lành mạnh hơn về cảm xúc bạn sẽ hạnh phúc hơn, hài lòng hơn, và có thể vun đắp những mối quan hệ lành mạnh lâu dài được tốt hơn. Cảm xúc khống chế tất cả! Bất kể bạn đang làm gì, nếu bạn rơi vào một cơn hoảng loạn, tức giận không kiềm chế được hay chìm vào hố sâu trầm cảm - thì các cảm xúc của bạn sẽ thắng - các cảm xúc của bạn sẽ thống trị. Nếu bạn tự hỏi điều gì là quan trọng hơn, điều bạn biết hay điều bạn cảm thấy bạn hiểu rằng điều bạn biết sẽ không còn quan trọng nữa nếu bạn cảm thấy tệ. Cũng như với sức khỏe thể chất, nếu bạn không có một cảm xúc tích cực mạnh mẽ và ổn định, thì chất lượng cuộc sống của bạn sẽ giảm đáng kể. *** Kiểm soát cảm xúc và lời khuyên thiết THực Ắt hẳn bạn đã từng nghe rất nhiều lời khuyên từ các nhà trị liệu, nhà tư vấn và những người bạn tốt về phát triển đức tin của bạn, tầm quan trọng của việc dựa vào trực giác, nâng cao các kỹ năng nuôi dạy con cái hay cải thiện các mối quan hệ. Dù những lời khuyên này có giá trị và mang dụng ý tốt đến thế nào, thì hiếm khi bạn làm theo nếu khi đó tinh thần bạn đang tụt dốc. Một người bình thường thấy rằng thật khó kiểm soát cảm xúc khi họ đang lo lắng về các hóa đơn chưa thanh toán. Con người có một khả năng gần như vô hạn là tự thuyết phục mình tin vào bất cứ điều gì, vì thế một sự quá tin vào trực giác có thể gây mơ hồ nếu bạn thiếu tự tin. Những lời khuyên tốt nhất về định hướng trẻ nhỏ và mối quan hệ sẽ bay vèo qua cửa sổ nếu người kiểm soát cảm xúc kém dễ cáu giận, lo âu hay ghen tức. Khi đang đau buồn, lời khuyên thực tế nghe có lý trong các cuốn sách self-help, trên tivi và từ các nguồn đáng tin cây sẽ bị phớt lờ. Bạn đã bao giờ cho một người bạn một lời khuyên tuyệt vời chỉ để anh ta hay cô ta lờ nó đi chưa? Vấn đề với nhiều người là họ không nhận ra rằng cảm xúc của họ có tác động mạnh mẽ lên cuộc sống của họ đến thế nào. Các quyết định mà người ta đưa ra là dựa vào các trạng thái cảm xúc của mình hơn là vào bất kỳ một yếu tố đơn lẻ nào khác. Người ta thường nghĩ, “Đó là một quyết định logic” và đó là lý do vì sao họ đưa ra nó. Nhưng nếu một lựa chọn cảm giác không đúng lắm, thì đa số mọi người sẽ không chọn nó dù có hợp lý đến đâu. Lựa chọn mà hầu hết mọi người đưa ra là lựa chọn mà họ cảm thấy đúng - dù logic hay không. Đó là lý do chúng ta thường thấy nhiều người đưa ra các quyết định mà rõ ràng là không có chút logic nào và dường như hoàn toàn ngớ ngẩn. Sự khác nhau này là do chúng tanhưng các lựa chọn và quyết định của họ dưới một ánh sáng không bị chi phối bởi cảm xúc. Cảm xúc dẫn dắt và tô màu cho quá trình đưa ra quyết định của chúng ta. Điều này xảy ra một cách vô thức. Theo tiềm thức. Nằm ở lớp bên dưới mức nhận thức của chúng ta.   Mời các bạn đón đọc Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc của tác giả Daniel Rutley & Tạ Thanh Hải (dịch).
50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học
Cuốn sách 50 việc cần làm trong khi học đại học: là những lời khuyên đến từ những trải nghiệm thực tiễn của một sinh viên ngành điện ảnh Nhật Bản. Tuy nề nếp sinh hoạt, phong tục tập quán của xã hội Nhật có những đặc thù khác với xã hội Việt Nam chúng ta, nhưng vẫn có cái rất chung: Đã là sinh viên ai cũng muốn thực hiện khát vọng, ước mơ của mình, đạt nhiều thành quả trong học tập để mai này khi bước vào đời gặt hái được nhiều thành công. Vì một ngày mai tốt đẹp hơn, chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc, nhất là các bạn đọc trẻ tập sách nhiều suy tư và kinh nghiệm thực tiễn quý báu, thú vị này. *** 50 việc cần làm là bộ sách kỹ năng bán chạy ở rất nhiều nước trên thế giới. Sách tập hợp lời khuyên của tiên sinh Akihiro Ankatani về những chủ đề mà các bạn trẻ quan tâm: rèn luyện bản thân, tạo dựng sự nghiệp, kinh doanh, kết hôn. Mỗi chủ đề tác giả đưa ra đúng 50 lời khuyên, trình bày vô cùng đơn giản, khúc chiết nhưng ý tứ sâu xa. 50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20 - Akihiro Ankatani Cái gọi là môn học bắt buộc ở tuổi 20 có nghĩa là những việc mà chỉ ở tuổi 20 mới có thể làm được. Chỉ những ai ở tuổi ấy cứ bôn ba qua lại một cách uổng công vô ích đến một lúc nào đó mới mới thấm thía rằng: tuổi hai mươi là giai đoạn huy hoàng nhất trong cuộc đời mỗi người. 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học Trên đời này chỉ có 2 loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng - mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Những sinh viên có hoài bão phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy cơ hội khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Vì vậy, quãng đường đại học cũng chính là khoảng thời gian để bạn học cách vượt qua những thử thách đầu đời. 50 Việc Cần Làm Trước Khi Kết Hôn - Akihiro Nakatani Thượng đế sở dĩ chưa để cho bạn kết hôn, là vì trước khi kết hôn, bạn còn rất nhiều việc phải làm. Sau khi kết hôn, người ta mới ân hận: sớm biết thế này, thì những việc cần làm trước khi kết hôn, mình đã thực hiện chu đáo cả rồi. Tiếc rằng trước khi kết hôn, người ta thường không hiểu giá trị của thời gian sống độc thân nên đã đem phung phí khoảng thời gian quý báu đó. 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng Đầu bếp của tiệm ăn Shousi làm gì vào khoảng thời gian giữa cao điểm ban ngày và ban đêm? Nhân viên Akimasi đã tận dụng khoảng thời gian rỗi ấy để học tiếng Anh. Mặc dù cửa hàng không tăng lương và cũng không có bất kỳ khoản phí hỗ trợ nào cho việc này, nhưng anh vẫn kiên trì học tiếng. Bởi vì Akimasi muốn kể tỉ mỉ cho thực khách nước ngoài biết cách thưởng thức món ăn như thế nào, cách nấu món ấy ra sao... Đôi khi chỉ những cố gắng nhỏ từ bản thân bạn nhưng sẽ mang đến những lợi ích không ngờ trong kinh doanh. *** Akihiro Nakatani Akihiro Nakatani sinh năm 1959. Ông là một nhà văn, diễn viên và một nhà sản xuất tài năng và nổi tiếng ở Nhật Bản. Ông bắt đầu sự nghiệp với vai trò là một DJ vào năm 1973. Năm 1976, ông được trao giải thưởng của Hiệp hội Các nhà thơ của Asahi Tanka. Năm 1982, ông đã là một nhà văn được nhiều người biết tên. Năm 1984, sau khi tốt nghiệp khóa kịch nghệ tại trường đại học Waseda, ông làm giám đốc kinh doanh tại công ty Hakuhodo - công ty đứng thứ hai Nhật Bản về quảng cáo. Ông đã nhận được giải thưởng ACC bốn năm liên tiếp, kể từ năm 1987. Năm 1990, ông viết quyển "Mensetsu No Tatsujin (Masters for interviews)", về cách để thành công trong phỏng vấn xin việc. Quyển sách gây được tiếng vang lớn và bán được hơn 2,5 triệu bản. Năm 1991, ông thành lập văn phòng của riêng mình. Ông đã xuất bản hơn 370 quyển sách về các chủ đề như kinh doanh, cuộc sống và tình yêu; và đã bán được 2,5 triệu bản một năm ở Nhật Bản, 1 triệu bản tại Hàn Quốc và 4 triệu bản trên toàn thế giới. Hiện nay, sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và được phát hành ở nhiều quốc gia. Tác phẩm tiêu biểu 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học 50 Việc Cần Làm Đối Với Khách Hàng  50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20  50 việc cần làm trước khi kết hôn 50 việc cần làm ở tuổi 30… *** hế giới chỉ có hai loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng, mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Các sinh viên thực hiện khát vọng, mơ ước của mình phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy những cơ hội gặp được trong khi học đại học. Tôi cũng là một trong số những sinh viên đó. Nhìn lại cả quãng đường thời đại học, tôi đã phát hiện ra một điểm chung: gặp gỡ với con người cũng là gặp gỡ với sách vở. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 1: Giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 2: Khi cảm thấy “Điều này là không thể!” tiềm năng sẽ xuất hiện một cách mạnh mẽ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 3: Nghe những buổi diễn thuyết làm chấn động lòng người. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 4: Đi nghe giảng không chỉ để lấy được tín chỉ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 5: Một ngày ở đại học dài bằng một năm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 6: Vấn đề tự học. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 7: Mở sách sau khi về đến nhà, cho dù là đã rất khuya. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 8: Lập kế hoạch học tập như đang ôn thi. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 9: Hãy làm quen với những người làm cho bạn căng thẳng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 10: Học tập chăm chỉ hơn cả trong thời gian thi cử. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 11: Đừng học tập một cách miễn cưỡng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 12: Bình tĩnh suy nghĩ xem bản thân mình có thực sự thích học hay không. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 13: Học tập không chỉ ở trong tháp ngà. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 14: Nên có một quyển bài tập không có đáp án.   Vì ngày mai hãy làm việc thứ 15: Soạn một quyển từ điển cho riêng mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 16: Biết không thể làm mà vẫn làm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 17: Có công mài sắt có ngày nên kim. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 18: Cho dù đã thôi học cũng vẫn có việc có thể làm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 19: Đừng quên học bài, làm bài tập. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 20: Cần thực tiễn nhưng cũng cần lý luận. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 21: Bám sát thực tế, tuần tự tiến dần lên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 22: Hãy kết bạn với những lưu học sinh chịu khó học hành. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 23: Hãy học tập những tác phẩm cổ điển. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 24: Phải nhớ kỹ đây là chuyên môn của bạn, chứ không phải chỉ là hứng thú. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 25: Tìm một chốn cho riêng mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 26: Sống ở trong trường. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 27: Phải biết rõ chỗ nào có thể tìm được tư liệu cần thiết. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 28: Giúp thầy làm một số việc. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 29: Hãy sưu tập thật nhiều. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 30: Sáng tạo cái gì đó như một bộ phim hay chẳng hạn. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 31: Phương pháp tăng cường thể lực. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 32: Có từ hai quyển sổ ghi chép trở lên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 33: Chưa tận mắt chứng kiến, không nên tùy tiện khen chê. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 34: Hãy vứt bỏ thành kiến. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 35: Đừng đi làm thêm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 36: Lập kế hoạch tác chiến để có sinh hoạt phí. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 37: Mua một quyển sách trị giá hơn ba vạn yên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 38: Chỉnh lý các album ảnh từ hồi bé. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 39: Hãy cân nhắc kỹ khi thực hiện ước mơ của mình, nếu ước mơ ấy ngược với kỳ vọng của cha mẹ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 40: Đêm khuya đi dạo trở về, vẫn dành thời gian viết nhật ký.   Vì ngày mai hãy làm việc thứ 41: Nhận ra sự vô tri ban đầu, tức là đã tiếp cận ước mơ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 42: Xem một quyển sách làm cho mình được một cú hích. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 43: Mỗi ngày viết một trang, viết cái gì cũng được. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 44: Tập cho mình có thể vừa nghe giảng vừa xem sách. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 45: Luyện cách đọc nhanh. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 46: Giữ những quan điểm không giống với người khác. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 47: Chơi với một người bạn thân. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 48: Có một nơi ẩn mình bí mật. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 49: Mỗi tuần lễ dành ra một ngày chỉ để nói chuyện với chính mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 50: Đi du lịch trong nước một mình. ĐỌC THỬ GIAO TIẾP VỚI NHÂN VẬT ĐƯỢC MỌI NGƯỜI CHO LÀ NGƯỜI ƯU TÚ SẼ LÀM XUẤT HIỆN CÁI TÔI THỨ HAI NƠI BẠN Thời đại học, việc không thể không làm là gì? Đó chính là khởi động, làm xuất hiện, làm hiển lộ cái tôi thứ hai. Có lẽ bạn vẫn chưa ý thức được về cái tôi thứ hai đó. Mục đích của thời đại học chính là phải làm xuất hiện cái tôi thứ hai. Nhưng mà, làm sao để có thể làm xuất hiện cái tôi thứ hai? Thời đại học xem có vẻ như là dài bất tận. Chợt nhìn lại mới thấy thời đại học thực ra chỉ là ngắn ngủi tạm thời. Đối với không ít người, việc lớn – những việc cần và đáng làm, chưa thành một mảy may đã đành phải đi qua thời đại học mà không để lại được một dấu ấn gì. Những người việc lớn chưa thành ấy không phải bởi vì họ không nỗ lực, mà bởi họ không biết việc lớn là việc gì. Chỉ cần biết bản chất cũng như tầm quan trọng của những việc cần và đáng làm thì sẽ không sống hoài khoảng thời gian quý báu ở trường đại học của mình. Nói cho cùng, chỉ có một việc bạn nhất định phải làm trong thời đại học. Đương nhiên, ngoài việc này ra, vẫn còn rất nhiều việc khác có thể làm, nhưng chỉ cần làm tốt việc này thì mọi việc còn lại đều sẽ thuận lợi, nắm chắc phần thắng trong tay. Đó chính là giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. Bất kể đó là một vị tướng hay một nô lệ. Nói chung, người đó có thể là một ông thầy. Cũng có thể là sinh viên xuất sắc. Cũng có thể là người quen gặp ở nơi xin việc. Cũng có thể là người xa lạ không hẹn mà gặp trên đường đi du lịch. Cũng có thể là người lớn tuổi. Cũng có thể là người cùng tuổi với bạn. Cũng có thể là người ít tuổi hơn bạn. Nếu nhân vật được mọi người cho là rất ưu tú trẻ hơn bạn, điều đó cho thấy bạn cũng là một người có tài Tại sao? Bởi vì sự có mặt của thiên tài trẻ tuổi trong thế giới thiên tài là một chuyện vô cùng bình thường. Tóm lại, trong thời đại học nếu có thể giao tiếp với nhân vật được mọi người coi là rất ưu tú, thì mọi vấn đề còn lại sẽ được giải quyết ổn thỏa. Vì ngày mai hãy làm việc thứ nhất Giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. KHI CẢM THẤY “KHÔNG THỂ NHƯ THẾ!” TIỀM NĂNG SẼ XUẤT HIỆN MẠNH MẼ Tôi có may mắn được quen biết với một người được công nhận là rất ưu tú. Đó chính là giáo sư Văn hóa nhân loại học Tây Giang Nhã Chi. Đương nhiên ngoài giáo sư Tây Giang ra, tôi còn nhận được sự giúp đỡ của nhiều vị giáo sư khác. Nhưng những gì tôi học được từ giáo sư Tây Giang có hơi khác với những vị khác. Lúc đó, giáo sư Tây Giang từ nước ngoài trở về Nhật Bản, bắt đầu giảng dạy môn Nhân loại học ở khoa Văn học, còn tôi thì đang học ngành kịch nghệ thuộc khoa Văn học trường đại học Tảo Đạo Điền. Đúng vào lúc đó, tôi đã may mắn được gặp giáo sư. Tuy nhiên, cho dù không có lần gặp gỡ không hẹn mà được ấy, cũng không thể oán trách số mệnh không công bằng. Những cuộc gặp gỡ không hẹn trước, không phải chính là ngẫu nhiên hay sao? Không có gì quý giá cho bằng những cuộc gặp gỡ không hẹn mà được. Cho nên, hôm nay nếu bạn đã bỏ lỡ cơ hội thì có khả năng bạn cũng sẽ là người bỏ lỡ cơ hội suốt đời. Tôi chưa từng gặp giáo sư trước khi nghe ông giảng bài. Một lần nghe giáo sư giảng, lòng tôi trào dâng một niềm xúc động mạnh mẽ. Đối với một kẻ vừa bước chân vào trường đại học như tôi, sự cảm nhận, tiếp thu nơi tôi hầu như không thể thích ứng nổi với lượng kiến thức khổng lồ cũng như khả năng điều động tư duy siêu việt của giáo sư trong khi lên lớp. Đã may mắn chọn đúng cùng một chuyên ngành như giáo sư, tôi ước sớm muộn trở thành một người tài giỏi như ngài.   Lúc đó tôi nghĩ, về sau cho dù những công việc tôi làm không có liên quan đến ngành học đi chăng nữa, nhưng nếu cũng có một tư duy mẫn tiệp như giáo sư thì hay lắm. Ôi, biết đến ngày nào tôi mới được như giáo sư! Khả năng thu thập thông tin mới nhất của giáo sư thật là có một không hai, khó ai có thể vượt qua. Tôi càng lúc càng cảm thấy lực bất tòng tâm, thấy vô vọng và thất bại. Trong đầu tôi bỗng bật ra một câu nói: “Không thể như thế được!” Cảm nhận một nguy cơ như thế này chính là điểm then chốt của vấn đề. Một trong những việc bạn phải làm thời đại học là cảm nhận một điều gì đó là không thể được. Khi giao tiếp với một nhân vật được mọi người cho là rất ưu tú, cảm nhận về những điều “không thể được” sẽ xuất hiện nơi bạn. Và khi đó những năng lực tiềm tàng bên trong con người bạn sẽ được dịp cuồn cuộn trào dâng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 2 Khi cảm thấy “Điều này là không thể!” tiềm năng sẽ xuất hiện một cách mạnh mẽ. NGHE CÁC BÀI GIẢNG CỦA NHỮNG NGƯỜI THỰC SỰ TÀI NĂNG, SẼ CÓ ĐƯỢC NHỮNG CHẤN ĐỘNG MẠNH MẼ Ấn tượng sâu sắc còn đọng lại nơi tôi không chỉ là nội dung bài giảng của giáo sư Tây Giang. Nội dung của bài giảng tự nó đã trở nên không còn là quan trọng nhất, mà cái quan trọng chính là những rung động, chấn động tôi cảm nhận được từ giáo sư khi lên lớp. Khi nói chuyện với người khác, tôi đã từng chú ý đến những điều mình truyền đạt ngoài nội dung của cuộc nói chuyện. Điều quan trọng là tạo được một sự chấn động, thu hút sự chú ý nơi người khác. Đối tượng giao tiếp không chỉ giới hạn trong giới sinh viên. Không cần biết là bạn đang nói cái gì, quan trọng là chỉ cần bạn tạo được một sự chú ý nơi người khác. Ngược lại, bất luận là truyền đạt, chuyển tải bao nhiêu nội dung, nếu như đối phương không cảm nhận được một chút chấn động, không nảy sinh một sự chú ý nào thì tôi nghĩ đây chính là một cuộc trò chuyện thất bại. Bài nói chuyện hay cuộc nói chuyện nên phong phú về ý nghĩa và sinh động, có sức sống. Cùng một nội dung sẽ không có hai lần trình bày giống nhau, bởi số người tham dự và trạng thái tinh thần của diễn giả có thay đổi. Mỗi lần diễn thuyết không luôn hoàn toàn giống nhau, cũng như những lần diễn kịch. Mà đã là kịch thì chắc chắn không thể nào làm ra vẻ xuất sắc để lấy lòng người khác. Những buổi lên lớp của giáo sư Tây Giang đối với tôi thật giống như những buổi biểu diễn nghệ thuật xiếc hay những trận quyết đấu về việc vận dụng trí óc. Lâu nay có lẽ bạn vẫn từng cho rằng các vị giáo sư ở đại học thì có gì đâu, chẳng qua cứ nói đi nói lại mãi một môn học, một đề tài suốt năm này qua năm khác không có gì thay đổi. Một khi đã nghĩ như vậy thì hẳn nhiên bạn sẽ không cảm thấy thú vị gì trước bài giảng của các vị giáo sư. Nhưng mà, bạn lầm rồi. Đương nhiên một cộng một chỉ có thể là hai, không thể nào có thể là ba. Tuy nhiên, để giải thích tại sao một cộng một là hai thì có nhiều phương pháp. Giả như nói về việc dạy học, có lúc bạn cảm thấy mình dạy rất hay, nhưng có lúc bạn lại cảm thấy mình thất bại. Chỉ điều này thôi đủ thấy chẳng có buổi diễn giảng nào hoàn toàn giống nhau. Những buổi diễn giảng mang lại cho người nghe cảm giác mới mẻ là kết quả của sự động não nhằm tìm tòi những phương pháp diễn đạt càng lúc hay hơn, tinh xảo hơn, thuyết phục hơn. Và những buổi diễn giảng làm xúc động lòng người, gây cảm giác phấn khích, cho dù là cùng một vấn đề nhưng nghe lại vẫn không thấy nhàm chán. Giáo sư đứng trước bảng đen, như đang bước vào một cuộc đọ sức sinh tử. Xin bạn cũng hãy nghe giảng với tinh thần và thái độ nghiêm túc chăm chỉ như giáo sư! Hồi trung học tôi có tham gia vào đội cờ tướng của trường. Phương pháp đánh cờ thì tôi đã rõ, nhưng khi xem thuyết minh của người hướng dẫn môn đánh cờ trên tivi tôi thường có một cảm giác mờ mịt. Người hướng dẫn như thể đang chìm đắm trong thế giới riêng của anh ta. “Đi như thế này, rồi lại đi như thế này, à, không được, đây không phải là nước đi tốt.” Anh ta cứ ngồi thì thầm một mình như vậy, không cần biết người xem khó chịu như thế nào. Tuy không biết những chỉ dẫn cụ thể của người hướng dẫn, nhưng tôi vẫn ngầm cảm thấy ván cờ này đã đi đến chỗ xuất sắc tinh xảo nhất. Đối với những tay mê cờ, đây là điều khó chấp nhận nhất. Giải thích cách đánh cờ, ngoài việc giải thích, hướng dẫn còn thường mang lại cho người ta một cảm giác sợ sệt khó gọi thành tên. Ví như trong một cuộc cờ, người đi trước ra một nước. Người đi sau phát hiện tình hình bất lợi, cầm chắc thua cuộc, bèn nói lời đầu hàng: “ Ôi, tôi thua rồi.” Sức cuốn hút kỳ lạ của môn đánh cờ chính là ở chỗ nó thực giống như một cuộc giao chiến thực thụ. Một bài diễn giảng cũng giống như một ván cờ đầy khí thế sục sôi. Người nghe trong khi nghe cũng cảm nhận được cái khí thế ấy. Hãy cảm nhận sự chấn động, xúc động từ những buổi diễn giảng đầy khí thế của những con người thực sự tài năng! Việc đó vô cùng có ích đối với bạn! Vì ngày mai hãy làm việc thứ 3 Nghe những buổi diễn thuyết làm chấn động lòng người. Mời các bạn đón đọc 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng của tác giả Akihiro Nakatani.  
50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng
50 việc cần làm là bộ sách kỹ năng bán chạy ở rất nhiều nước trên thế giới. Sách tập hợp lời khuyên của tiên sinh Akihiro Ankatani về những chủ đề mà các bạn trẻ quan tâm: rèn luyện bản thân, tạo dựng sự nghiệp, kinh doanh, kết hôn. Mỗi chủ đề tác giả đưa ra đúng 50 lời khuyên, trình bày vô cùng đơn giản, khúc chiết nhưng ý tứ sâu xa. 50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20 - Akihiro Ankatani Cái gọi là môn học bắt buộc ở tuổi 20 có nghĩa là những việc mà chỉ ở tuổi 20 mới có thể làm được. Chỉ những ai ở tuổi ấy cứ bôn ba qua lại một cách uổng công vô ích đến một lúc nào đó mới mới thấm thía rằng: tuổi hai mươi là giai đoạn huy hoàng nhất trong cuộc đời mỗi người. 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học Trên đời này chỉ có 2 loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng - mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Những sinh viên có hoài bão phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy cơ hội khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Vì vậy, quãng đường đại học cũng chính là khoảng thời gian để bạn học cách vượt qua những thử thách đầu đời. 50 Việc Cần Làm Trước Khi Kết Hôn - Akihiro Nakatani Thượng đế sở dĩ chưa để cho bạn kết hôn, là vì trước khi kết hôn, bạn còn rất nhiều việc phải làm. Sau khi kết hôn, người ta mới ân hận: sớm biết thế này, thì những việc cần làm trước khi kết hôn, mình đã thực hiện chu đáo cả rồi. Tiếc rằng trước khi kết hôn, người ta thường không hiểu giá trị của thời gian sống độc thân nên đã đem phung phí khoảng thời gian quý báu đó. 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng Đầu bếp của tiệm ăn Shousi làm gì vào khoảng thời gian giữa cao điểm ban ngày và ban đêm? Nhân viên Akimasi đã tận dụng khoảng thời gian rỗi ấy để học tiếng Anh. Mặc dù cửa hàng không tăng lương và cũng không có bất kỳ khoản phí hỗ trợ nào cho việc này, nhưng anh vẫn kiên trì học tiếng. Bởi vì Akimasi muốn kể tỉ mỉ cho thực khách nước ngoài biết cách thưởng thức món ăn như thế nào, cách nấu món ấy ra sao... Đôi khi chỉ những cố gắng nhỏ từ bản thân bạn nhưng sẽ mang đến những lợi ích không ngờ trong kinh doanh. *** Akihiro Nakatani Akihiro Nakatani sinh năm 1959. Ông là một nhà văn, diễn viên và một nhà sản xuất tài năng và nổi tiếng ở Nhật Bản. Ông bắt đầu sự nghiệp với vai trò là một DJ vào năm 1973. Năm 1976, ông được trao giải thưởng của Hiệp hội Các nhà thơ của Asahi Tanka. Năm 1982, ông đã là một nhà văn được nhiều người biết tên. Năm 1984, sau khi tốt nghiệp khóa kịch nghệ tại trường đại học Waseda, ông làm giám đốc kinh doanh tại công ty Hakuhodo - công ty đứng thứ hai Nhật Bản về quảng cáo. Ông đã nhận được giải thưởng ACC bốn năm liên tiếp, kể từ năm 1987. Năm 1990, ông viết quyển "Mensetsu No Tatsujin (Masters for interviews)", về cách để thành công trong phỏng vấn xin việc. Quyển sách gây được tiếng vang lớn và bán được hơn 2,5 triệu bản. Năm 1991, ông thành lập văn phòng của riêng mình. Ông đã xuất bản hơn 370 quyển sách về các chủ đề như kinh doanh, cuộc sống và tình yêu; và đã bán được 2,5 triệu bản một năm ở Nhật Bản, 1 triệu bản tại Hàn Quốc và 4 triệu bản trên toàn thế giới. Hiện nay, sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và được phát hành ở nhiều quốc gia. Tác phẩm tiêu biểu 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học 50 Việc Cần Làm Đối Với Khách Hàng  50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20  50 việc cần làm trước khi kết hôn 50 việc cần làm ở tuổi 30… *** Rõ ràng là bạn sẽ không thể có cách thuyết phục khách hàng nếu như không biết được họ là ai và họ muốn gì. Thử tưởng tượng trong một cuộc giao tiếp mà bạn chỉ thao thao bất tuyệt, tôi là A, tôi muốn B, bạn nên làm C, bạn đừng làm D… sẽ chẳng có một khách hàng nào đủ kiên nhẫn để nghe hết từ A đến Z cả! Và càng tệ hơn nữa là trong khi bạn có thể nói “tất tần tật” về bản thân thì lại “quên” đi khách hàng của bạn là ai, thậm chỉ gọi nhầm tên, địa chỉ của họ. Nếu cuộc giao tiếp thật sự “rơi” vào tình huống này thì kết quả có lẽ bạn đã thấy trước… Vậy nên, kỹ năng thuyết phục khách hàng trước hết nên là kỹ năng ghi nhớ, ghi nhớ tất cả những thông tin của khách hàng, càng nhiều càng tốt! (tất nhiên chỉ là những thông tin cần thiết liên quan đến quá trình thương thảo) Tiếp theo, điều quan trọng hơn nữa là sau khi bạn biết họ là ai, bạn phải biết khách hàng của bạn muốn gì. Kinh doanh hiện đại đã chỉ ra rằng muốn thành công bạn phải “bán cái khách hàng cần chứ không phải cái bạn sản xuất”. Và vì vậy, biết khách hàng muốn gì là điều kiện tiên quyết để có thể “đánh đúng tâm lí” và thuyết phục họ. Biết được khách hàng muốn gì thì kỹ năng tiếp theo bạn nên có đó là biết cách hướng cuộc hội thoại về kết quả: lợi ích cuối cùng thuộc về khách hàng. Trong một quyển sách nghiên cứu về văn hóa kinh doanh của các nước trên thế giới, tác giả Richard R. Gesteland đã nhấn mạnh rằng ở Nhật Bản (một trong những nước có nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới), khái niệm “Customer is King” (khách hàng là vua) đang dần được thay thế bằng khái niệm “Customer is God” (khách hàng là thượng đế) để nói lên tầm quan trọng của khách hàng trong đời sống kinh doanh. Vậy nên, trong tổng hòa cuộc giao tiếp, hãy để khách hàng “hiểu” rằng sử dụng dịch vụ hay sản phẩm của bạn sẽ mang lại lợi ích cao nhất cho họ, sẽ không thể có nơi thứ 2 có dịch vụ hoặc giá tốt hơn. Tóm lại, khách hàng phải cảm nhận được “lợi ích tuyệt đối” trong suốt cuộc thương thảo. Sẽ không quá khi nói rằng kỹ năng giao tiếp sẽ quyết định việc thuyết phục khách hàng của bạn. Các “thủ thuật” về ánh mắt, cách chào hỏi, cách bắt tay, cách mỉm cười, cách nói chuyện… sẽ “ghi dấu” hình ảnh của bạn trong mắt khách hàng. Một ánh mắt thân thiện, một nụ cười “vừa phải” sẽ làm bạn đẹp hơn rất nhiều trong mắt người đối diện. Dáng điệu của bạn cũng nên để lại sự tự tin cần thiết để khách hàng có đủ niềm tin vào những điều bạn nói. Ngoài ra, những kỹ năng giao tiếp khác cũng cần được chú trọng, bởi vì bạn không nên (và không được phép) để lại bất kì một sai sót nào trong quá trình tiếp xúc. Bởi lẽ, một khi những “ấn tượng ban đầu” này tốt đẹp thì xem như bạn đã thành công một nửa, còn ngược lại, có lẽ sẽ rất khó khăn cho cuộc thương thảo của bạn. Thật đáng tiếc, điều này có thể khiến các nhân viên bán hàng dành những quãng thời gian quý báu của họ vào việc nỗ lực xác định và giải thích bản thân nội dung thông điệp mà không diễn tả được giá trị kinh doanh tới các khách hàng. Thay vào đó, bạn cần phải kể một câu chuyện khai phá các thách thức kinh doanh và phương pháp của công ty bạn để giải quyết những vấn đề đó. Khi nó bắt đầu trở nên thích hợp trong cuộc thảo luận, bạn sẽ phác họa nó trong các cụm từ viết tắt và kết nối nó giữa những bức tranh và các giải pháp. Tiếp theo, hãy biểu lộ rằng: “Tại công ty XYZ, chúng tôi gọi đó là….”   Mời các bạn đón đọc 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng của tác giả Akihiro Nakatani.
Con Mắt Biên Tập
Tác giả cuốn sách là những nhà báo và chuyên gia tên tuổi trong giới truyền thông Mỹ. Bà Jane T. Harrigan là giáo sư khoa báo chí ở Đại học New Hampshire kiêm cố vấn cho nhiều ấn phẩm đa dạng. Bà Jane đã có 23 năm giảng dạy nghiệp vụ biên tập. Còn Karen Brown Dunlap là giám đốc Viện Báo chí Poynter ở Florida và đã hai lần tham gia ban giám khảo giải thưởng báo chí Pulitzer. "Con mắt biên tập" là cuốn sách nghiệp vụ báo chí đầu tiên trong tủ sách "Nghề báo" do công ty Sài Gòn truyền thông thực hiện. Nhà báo Trần Trọng Thức, người có nhiều đóng góp với các tờ Tin Sáng, Tuổi Trẻ, Lao Động, Thời báo Kinh tế Sài Gòn... và hiện nay là tờ Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần đã viết lời giới thiệu cuốn sách. Tuần Việt Nam xin trân trọng giới thiệu tới quí vị độc giả: Bài báo đến với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫn hơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng". L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nổi tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên đã cho rằng, một Ban Biên Tập thật giỏi với những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xĩnh. Một Ban Biên Tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một Ban Biên Tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập". Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biên tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoài nghi. Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày trang báo... Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết. Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết. Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ. Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi. Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nên tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc. Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với độc giả. Báo chí là một sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí. Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thì "Con mắt biên tập" (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Sài Gòn Media và báo Sài Gòn Tiếp Thị giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh được những vấp ngã mà còn giúp những ai muốn đi xa hơn trong nghề viết hệ thống lại kỹ năng cơ bản. Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới đang phát triển không ngừng. Không quá đáng khi nói rằng, "Con mắt biên tập" là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh phong cách viết báo hiện đại mà chúng ta đang hướng đến. *** LỜI GIỚI THIỆU           Để một bài báo đến được với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫn hơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, những người thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng".     L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nối tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên, đã cho rằng, một ban biên tập thật giỏi với -những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xỉnh. Một ban biên tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một ban biên tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập".     Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biến tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoàn nghi.     Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày tang báo…     Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết.     Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết.     Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ.     Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi.     Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nền tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc.     Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với dộc giả.     Báo chí là một sản phẩm của sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí.     Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thí CON MẮT BIÊN TẬP (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Công ty Sài Gòn truyền thông giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh đuợc những vấp ngã mà còn giúp những ai muôn đi xa hơn irên con đường viết lách hệ thống lại kỹ năng cơ bản.     Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới dang phát triển không ngừng.     Không quá dáng khi nói rằng, CON MẮT BIÊN TẬP là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh nhông cách viết báo hiện đại mà chúng ta dang hướng đến.     TRẦN TRỌNG THỨC     NHÀ BÁO Mời các bạn đón đọc Con Mắt Biên Tập của tác giả Jane T. Harrigan & Karen Brown Dunlap.