Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

89 Điều Khác Biệt Giữa Người Thành Công và Kẻ Thất Bại - 1980 Books
Bạn có biết suy nghĩ và hành động của bạn sẽ quyết định bạn là người thành công hay kẻ thất bại?  Như tên gọi, 89 Điều Khác Biệt Giữa Người Thành Công Và Kẻ Thất Bại  là cuốn sách chỉ ra 89 điều khác biệt giữa người thành công và kẻ thất bại. Từ đó giúp các bạn trẻ xây dựng lối suy nghĩ đúng đắn của người thành công, đồng thời hình thành những thói quen tốt, từng bước, từng bước giúp các bạn chiến thắng chính bản thân mình, trở thành một người thành công! Nội dung của cuốn sách đước phân chia rõ ràng, 89 điều được trình bày ngắn gọn, súc tích nhưng sẽ khiến bạn phải “gật gù” tâm đắc!  Cuốn sách này hàm chứa những điều sâu sắc nhất về thành công thật sự. Nó mang đến cho chúng ta một định nghĩa uyên thâm và mới mẻ về ý nghĩa của thành công. Những người thông thái luôn tường minh một nhận thức rõ ràng: “Thành công không phải là đích đến, mà là cả một cuộc hành trình”, nó là tổng số của vô vàn những nhiệm vụ thất bại trong quá trình bạn hướng đến mục tiêu. Thành công không bao giờ có điểm kết, người thành công luôn duy trì một thói quen nhất định trong suốt quá trình hành động của mình. Họ không bao giờ có ý định dừng chân khi chưa đạt được kết quả, mục tiêu của những người thành công luôn là phát triển và phát triển hơn nữa. Những người thành công không bao giờ phấn đấu để trở nên hoàn hảo, họ cố gắng tích lũy kiến thức của bản thân và tiếp tục cải thiện kỹ năng của mình. Sự thông thái trong cuốn sách 89 điều khác biệt giữa người thành công và kẻ thất bại được diễn đạt theo cách thức dễ hiểu nhất để giúp bạn không chỉ đạt tới thành công về mặt tài chính mà còn thành công trong mọi khía cạnh khác của cuộc sống. 89 nguyên tắc được đề cập trong cuốn sách không chỉ giúp bạn thành công, mà còn giúp bạn đạt tới những điều vô cùng ý nghĩa. Đồng thời nó mang đến cho bạn những hiểu biết thực tế về những điều nên và không nên làm, cần và không cần làm khi muốn đạt tới thành công. Định nghĩa về sự thất bại trong cuốn sách cũng rất mới lạ, nó giúp bạn có một cái nhìn thấu đáo về khái niệm thất bại. Thất bại chỉ là một sự cá biệt, không phải là “căn bệnh” kinh niên. Thất bại cũng không phải là bản chất cá nhân. Nếu bạn muốn thành công, đừng để bất cứ sự cá biệt nào ảnh hưởng tới cách nhìn nhận chính mình. Nhưng rất nhiều người coi thất bại là nỗi ám ảnh quá lớn khiến họ không bao giờ dám đứng lên làm lại mọi thứ. Xét ở một góc độ nào đó, thất bại là con đường dẫn đến thành công. Cho dù lúc này bạn đang ở giai đoạn nào trong hành trình đi đến thành công thì 89 nguyên tắc trong cuốn sách này cũng sẽ định hướng, giúp bạn tập trung vào những điều thật sự quan trọng. Những nguyên tắc đó là vô giá, và nhờ chúng, bạn sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền bạc trong cuộc hành trình bước đến thành công. *** Tình yêu sẽ dẫn lối cho bạn đến với thành công trong cuộc sống. Người thật sự thành công thường có đời sống tâm linh đẹp đẽ, cảm xúc dồi dào, tinh thần, thể chất và tài chính sung mãn. Tình yêu với đấng tối cao mang lại cho bạn đời sống tâm linh hài hòa, tình yêu con người mang lại cho bạn sự giàu có về cảm xúc còn tình yêu đối với bản thân sẽ khiến bạn sung mãn cả về thể chất lẫn tinh thần. Và cuối cùng, nếu bạn yêu thích điều mình đang làm, tiền bạc tự nó sẽ tìm đến bạn. Rất nhiều người cảm thấy phải “vật lộn” mới qua hết được một ngày, họ không hề khát khao chờ đợi một ngày mới. Để tránh tình trạng đó, mỗi sáng thức dậy bạn nên suy nghĩ xem hôm nay mình sẽ sử dụng thời gian như thế nào và cho những việc gì. Những người thành công luôn biết lựa chọn những điều mình yêu thích để làm, thay vì ôm rơm nặng bụng mọi việc trên đời. Cuối mỗi ngày, họ nhìn lại những gì mình làm được với một thái độ hăng hái, nhiệt thành và rồi họ lại háo hức chờ đón ngày hôm sau để tiếp tục hoàn thành những công việc dang dở. ... Mời các bạn đón đọc 89 Điều Khác Biệt Giữa Người Thành Công và Kẻ Thất Bại được biên soạn bởi 1980 Books.
Khéo Ăn Nói Sẽ Có Được Thiên Hạ
Không phải ngẫu nhiên mà những người có tài ăn nói thường gặp thuận lợi hơn trong công việc, cuộc sống. Người biết ăn nói sẽ biết làm cách nào cho người nghe hiểu được ý của mình, nghe theo mình và tránh những xích mích không đáng có. Người biết ăn nói cũng biết đâu là thời điểm tốt nhất để trao đổi và với từng đối tượng sẽ có cách giao tiếp cũng khác nhau. Ngược lại, người thiếu tinh tế trong lời ăn tiếng nói thường gặp trở ngại khi giao tiếp, từ đó hay gặp thất bại hơn. Câu hỏi đặt ra ở đây là làm thế nào để nói năng trôi chảy? Làm thế nào để câu nói của mình đi vào lòng người, tạo ấn tượng tốt với đối phương? Khéo ăn nói sẽ có được thiên hạ là cuốn sách có thể ít nhiều giúp bạn đọc trả lời được những câu hỏi này. Cuốn sách chia sẻ cho bạn đọc những bí quyết tạo được thiện cảm của đối phương ngay từ lần gặp đầu tiên, mở ra nhiều cơ hội hơn trong cuộc sống. Dũng cảm mở lời Giống như cách học ngoại ngữ, bạn cần phải dũng cảm nói chuyện để kỹ năng đó trở nên thuần thục hơn. Muốn trở thành người giao tiếp tốt, bạn cần biết mở lời trước và tích luỹ kinh nghiệm qua từng cuộc nói chuyện với các đối tượng khác nhau. Không chỉ cần dũng cảm mở lời, bạn cũng cần phải thông minh trong giao tiếp. Bạn cần sử dụng giọng nói để tạo sự thu hút, cách diễn đạt, lập luận sao cho đối phương hiểu được. Đặc biệt cũng cần chú ý đến hoàn cảnh, địa vị của người mà mình đang nói chuyện. Biết lắng nghe Không phải cứ nói hay, nói đúng là sẽ tạo ấn tượng tốt cho người khác. Đôi khi một người biết lắng nghe đối phương lại là điều quyết định việc người đó có dành thiện cảm cho mình hay không. Lắng nghe sẽ khiến người khác cảm thấy được tôn trọng, muốn lắng nghe lại câu chuyện của họ. Vì thế, một người khéo ăn nói không chỉ cần nói hay mà còn biết lắng nghe khi giao tiếp. Đọc, đi nhiều, tích lũy kiến thức giao tiếp Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Anh, số từ được sử dụng nhiều nhất trong giao tiếp là xấp xỉ khoảng 3.000 từ. Vì thế, bạn cần đọc thật nhiều sách, báo, gặp gỡ nhiều người để trau dồi vốn từ cho riêng mình. Đó cũng là cách giúp chúng ta nói chuyện phong phú và trôi chảy hơn. Giao tiếp là quá trình học hỏi không bao giờ ngừng nghỉ, một câu nói mới, một cụm từ mới, một cách nói lóng phù hợp cũng có thể khiến cho cuộc đối thoại của bạn trở nên thu hút hơn. Khen nhiều chê ít Lời nói như gió thoảng qua tai nhưng trong nhiều trường hợp, nói không khéo sẽ khiến người khác bị tổn thương, thậm chí là làm hại đến chính bản thân mình. Vì vậy, bạn nên lựa cách khen người khác hơn là việc chỉ chê bai họ. Tuy nhiên, người thông minh trong giao tiếp là phải biết khen có chừng mực và khen đúng sẽ khiến họ cảm kích và tin tưởng bạn nhiều hơn. Chúng ta không nên khen một cách sáo rỗng hay khen cho có lệ, lấy lòng, không có gì cũng khen thì khiến đối tượng thấy phản cảm hơn là thiện cảm. Thêm chút hài hước Có thể nói, hài hước là khả năng mà mỗi người nên có và nên cố gắng rèn luyện. Bởi hài hước sẽ giúp bạn thân thiện hơn với nhiều đối tượng, tạo thiện cảm ngay cả với những ai không thích bạn. Nhưng bạn cũng cần hài hước có chừng mực và phải chú ý hoàn cảnh giao tiếp đang diễn ra sao cho phù hợp, không gây khó chịu hay tạo cảm giác nhạt nhẽo với người nghe. Anh Thư - zing.vn *** NẮM VỮNG KĨ NĂNG GIAO TIẾP SẼ CÓ ĐƯỢC CUỘC SỐNG TUYỆT VỜI Nhà hùng biện nổi tiếng, chuyên gia giáo dục Lí Yên Kiệt Trong xã hội thông tin hiện đại, sự im lặng không còn là vàng nữa, nếu không biết cách giao tiếp thì dù là vàng cũng sẽ bị chôn vùi. Trong cuộc đời một con người, từ xin việc đến thăng tiến, từ tình yêu đến hôn nhân, từ tiếp thị cho đến đàm phán, từ xã giao đến làm việc... không thể không cần đến kĩ năng và khả năng giao tiếp. Khéo ăn khéo nói thì đi đâu, làm gì cũng gặp thuận lợi. Không khéo ăn nói, bốn bề đều là trở ngại, khó khăn. Trong thời đại thông tin và liên lạc phát triển nhanh chóng, tin tức được cập nhật liên tục, các công cụ thông tin và kĩ thuật truyền thông được ứng dụng rộng rãi như ngày nay thì việc khéo ăn nói đã trở thành “cái tài số một thiên hạ”. Trong khoảng thời gian ngắn nhất, nếu ai có thể nêu bật được khả năng, thực lực của mình cho đối phương biết thì đó sẽ là người chiến thắng. Chính vì vậy mà câu nói “Khéo ăn nói sẽ có được thiên hạ” rất có ý nghĩa. Vậy, như thế nào mới gọi là biết cách ăn nói? Nói năng lưu loát, không ấp úng có được gọi là biết cách nói chuyện không? Nói ngắn gọn, nói ít nhưng ý nghĩa thâm sâu có được gọi là biết cách nói chuyện không? Hay nhất định phải nói nhiều mới là biết nói chuyện? Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thấy rằng: Biết cách nói chuyện không nhất định là phải nói nhiều, quan trọng là phải nói đúng trọng tâm, đúng nội dung. Và điều quan trọng là phải nắm được vấn đề mình đang nói đến. Chắc chắn rất nhiều người đã gặp phải tình huống như thế này: Có những nhân viên tiếp thị khi gặp khách hàng thì giống như một cái máy, nói không ngừng nghỉ, không để ý tới phản ứng và cảm nhận của khách hàng, không cần biết vị khách đó có đang nghe lời giới thiệu về sản phẩm hay không. Nếu làm việc như vậy thì người đó nắm chắc phần thất bại. Trong cuộc sống và trong công việc, chúng ta cũng rất hay gặp phải hiện tượng như sau: Nhiều người khi nói chuyện với người quen thì nói rất hay, không bị mất bình tĩnh hay ấp úng. Thế nhưng khi gặp người lạ hoặc phải nói chuyện trong một đám đông, thì người đó dường như bị mất sự chủ động với ngôn ngữ, có lúc còn không biết mình đã nói gì. Vậy làm thế nào để cải thiện và tránh gặp phải những tình huống như trên? Làm thế nào để ăn nói khéo léo? Có phương pháp và quy luật nào được áp dụng khi giao tiếp không? Có nguyên tắc và bí quyết nào cho các cuộc nói chuyện không? Trong những tình huống khác nhau, với những người khác nhau thì phải nói chuyện như thế nào, và làm sao để trình bày những điều khó nói? Cuốn sách “Khéo ăn nói sẽ có được thiên hạ” này sẽ giải đáp những câu hỏi đó. Cuốn sách với ngôn từ rõ ràng, gần gũi với cuộc sống sẽ mang đến những kĩ năng và phương pháp giao tiếp thực dụng, chắc chắn sẽ giúp ích cho quý độc giả. Nếu như những quy tắc và phương pháp chỉ giúp một số ít người nắm được và ứng dụng, thì giá trị của nĩ là có hạn. Chỉ cần những quy tắc và phương pháp cuốn sách đưa ra giúp được nhiều người, thì giá trị của nó là vơ hạn. Tác giả của “Khéo ăn nói sẽ có được thiên hạ” đã dốc hết tâm sức nghiên cứu về các kĩ năng và quy tắc giao tiếp, đây cũng chính là giá trị lớn nhất của cuốn sách. Một cuốn sách hay sẽ tự nói lên được giá trị của nó, và tự bản thân mỗi độc giả sẽ cảm nhận được điều đó. Quý độc giả sẽ tự nhiên yêu thích một cuốn sách có thể chạm đến trái tim và bổ ích cho mình. Còn với một cuốn sách không hay, độc giả sẽ không mua và cũng sẽ không để tâm đến. Sự hay dở của một cuốn sách do chính độc giả cảm nhận và xác định, thị trường sách cũng sẽ có đánh giá. Cuối cùng, nhắc lại về vấn đề giao tiếp, tôi có hai điều muốn nói với độc giả: Thứ nhất là nói chuyện phải chân thành. Chân thành chính là thứ ngôn ngữ hay nhất, nếu không chân thành thì cho dù nói nhiều bao nhiêu, nắm được nhiều kĩ năng và phương pháp giao tiếp đến thế nào, tất cả cũng chỉ là vô nghĩa. Điều thứ hai là phải lắng nghe bằng trái tim. Chỉ có lắng nghe bằng trái tim thì chúng ta mới biết phải nói gì, nói như thế nào. Những người không biết cách lắng nghe thì không phải là người biết cách nói chuyện. Người biết cách nói chuyện thì chắc chắn là người biết lắng nghe. Chúc quý độc giả đọc sách vui vẻ và có thể nâng cao được kĩ năng giao tiếp của mình. Biết cách nói chuyện khéo léo và luôn có được cuộc sống tuyệt vời.   Lí Yên Kiệt Mời các bạn đón đọc Khéo Ăn Nói Sẽ Có Được Thiên Hạ của tác giả Trác Nhã.
Để Kén Thành Bướm - Joan Z. Borysenko & Gordon F. Dveirin
Với nụ cười trên môi, chàng thanh niên sải những bước chân hạnh phúc trên đường, anh ta nghĩ về một viễn cảnh tương lai đầy hứa hẹn đang chờ đón mình. Nhưng ở góc đường gần đó là một con tê giác khổng lồ đang tiến rất nhanh đến ngã tư đường - nơi cả hai sẽ đâm sầm vào nhau trong tích tắc.          Đó là một cảnh trong phim “Người New York” mà nếu mỗi ai có dịp xem qua đều sẽ rất thích. Chàng thanh niên có thể thấy được tương lai phía trước, nhưng điều đó vẫn xa vời, còn thực tại sắp phải chạm trán với con tê giác thì dường như anh ta không thấy được. Đó là sự ngẫu nhiên nằm ngoài mọi dự đoán. Tuy nhiên, những sự ngẫu nhiên này lại luôn thường trực và có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cuộc đời mỗi chúng ta.           Ai cũng mong muốn tìm được ẩn số của cuộc đời mình, rồi từ đó an nhàn, tự tại sống một cuộc sống theo như số mệnh đã an bài. Thế nhưng mấy khi con người được thỏa nguyện, và cũng có mấy ai cam chịu số phận như thế. Cuộc đời vẫn không ngừng biến đổi, như vòng xe luân hồi chuyển động, trong đó mỗi đoạn đường ta đi đều chứa đựng những điều mới lạ. Thậm chí nó xảy ra rất nhanh, chỉ trong khoảnh khắc mà giây phút này ta đi trên đoạn đường này nhưng sau đó ta đã bước trên đoạn đường khác. Điều quan trọng là bạn có điều khiển được bánh xe đó không, hay là tự buông xuôi chấp nhận cho cuộc đời đưa đẩy. Có những điều bất ngờ ngẫu nhiên là may mắn, hạnh phúc nhưng cũng có khi nó lại là những trăn trở, khổ đau, phiền muộn hay những điều bất hạnh được xem như là vận mệnh không ai lường trước được. Đông Cung Thái tử Tất Đạt Đa rời bỏ cung điện tráng lệ của mình để trở thành một khất sĩ, miệt mài tìm kiếm chân lý, kiên nhẫn trì giới và nắm giữ được vận mệnh của mình dưới danh hiệu Đức Phật. Christopher Reeve bị ngã ngựa và phải ngồi xe lăn suốt đời, nhưng thay vì buồn nản, than thân trách phận, ông sẵn sàng thay đổi cách sống. Sự điềm tĩnh, lòng nhân ái, bao dung và mong ước giúp đỡ người khác đã biến ông trở thành Siêu Nhân thật sự, đúng như nhân vật Siêu Nhân ông từng thể hiện rất thành công trong bộ phim nổi tiếng cùng tên những ngày còn là diễn viên Hollywood.           Bánh xe của cuộc đời vẫn quay, mọi thứ vẫn không ngừng biến đổi, những thách thức và cơ hội không ngừng được mở ra. Bạn đã sẵn sàng chưa? Hãy biết gõ cánh cửa lòng mình để mở nó, một thế giới mới đang ẩn giấu trong những lớp vỏ xù xì, cũng như loài sâu bướm đang hoàn thiện mình dần lên trong lớp kén bao bọc để hướng đến cuộc sống bên ngoài cao rộng hơn. Hãy trở thành chính mình để vận hành bánh xe của quá trình chuyển hóa.           Hầu hết các chương trong quyển sách này đều nói về nhận thức đối với sự chuyển hóa - khoảnh khắc xảy ra sau khi mọi chuyện đã chấm dứt ở quá khứ nhưng chưa chuẩn bị cho sự kiện mới ra đời ở tương lai. Dấn thân vào vùng hoang sơ của sự thay đổi là một hành trình không có sẵn lối đi, bạn phải tìm kiếm con đường cho riêng mình. Những vấn đề mà chúng tôi đề cập đều có thể ứng dụng rộng rãi trong nhiều tình huống chuyển hóa, được sắp xếp theo mức độ từ những trăn trở, buồn rầu, đau khổ, mất mát, cho đến khi nhận thức, thấu hiểu, lấy lại nghị lực và lòng can đảm.           Các chương sách đều độc lập với nhau nên bạn có thể đọc bất kì chương nào mình thích. Với cách sắp xếp như thế, chúng tôi hy vọng quyển sách là kim chỉ nam giá trị mỗi khi cuộc sống của bạn có thay đổi hay rơi vào những tình thế cấp bách. Chúc các bạn nhận ra và hòa hợp cùng sức mạnh chuyển hóa diệu kỳ của sự thay đổi! *** Viết sách là một việc khó khăn. Đây là quyển thứ mười hai của tôi, và dường như quyển sau càng khó thực hiện hơn quyển trước. Nhưng lần này đã phát sinh nhiều tình huống đặc biệt, đó là việc tôi và anh Gordon - chồng tôi - cùng chung tay viết quyển sách này. Lúc đó, chúng tôi kết hôn với nhau mới được hai tuần, trong lòng đang tràn ngập hạnh phúc và hứng khởi, sẵn sàng cho sự trải nghiệm đồng sáng tác. Việc này có thể là không lớn lao lắm, nhưng niềm vui là chúng tôi được ở bên nhau, thậm chí còn hoạch định sẽ cùng nhau viết tiếp quyển thứ hai. Anh Gordon là chuyên viên tư vấn phát triển tổ chức, đôi khi anh còn được biết đến với tư cách là tác nhân tạo sự thay đổi. Anh thường được mời đến để "khuấy động tình thế" và làm cho các cuộc nói chuyện trở nên dễ dàng hơn những khi đối tác của hai phía bị lâm vào tình huống khó xử hay những lúc họ cần người đưa ra những góc nhìn mới. Hơn 20 năm qua, từ khi còn là sinh viên của trường Ridhwan, anh đã trở thành "viên kim cương quý cho các giải pháp tình thế" đối với quá trình tự nhận thức. Còn tôi, trái lại, là nhà tâm lý học, nhà khoa học về ngành y, một diễn giả và là một nhà văn, được mô tả như là chuyên gia miễn dịch thần kinh-tâm lý của người Mỹ bản xứ, người Do Thái, người theo đạo Phật, tín đồ Cơ đốc giáo, người theo đạo Hin-đu và cả đạo Hồi. Anh Gordon được đào tạo chuyên ngành về phê bình văn học, lịch sử tư tưởng, cũng như về cách phát triển tổ chức, nên có phong cách viết tinh tế và hơi trừu tượng. Khi đang viết, đã có lúc anh Gordon lo ngại quyển sách sẽ quá thiển cận, còn tôi thì lại sợ nó quá sâu sắc và khó hiểu. Nhưng niềm hy vọng chung của cả hai là quyển sách sẽ chân thực và đáng tin cậy. Trong lúc đọc, các bạn sẽ nhận thấy các chương sách được viết theo ba giọng điệu, ba phong cách khác nhau: nét đơn giản và thực tế của tôi, sự trừu tượng của anh Gordon và có khi lại là sự hòa điệu của cả hai. Việc viết chung một quyển sách quả là không dễ dàng chút nào, đặc biệt là tìm được sự hòa hợp trong nhau. Đã có lúc anh Gordon cảm thấy không hài lòng khi tôi cố biên tập lại những gì anh viết và thay chúng bằng giọng điệu của phái nữ, còn khoảnh khắc khó chịu nhất của tôi là khi cả hai không tìm được tiếng nói chung. Dù sao đi nữa, được viết chung quyển sách này là sự trải nghiệm có tính chất chuyển hóa cho cả hai chúng tôi. Bên cạnh đó là những câu chuyện riêng tư về gia đình của cả tôi và anh Gordon sẽ được sẻ chia cùng các bạn như một sự trải nghiệm thực tế nhất mà chúng tôi từng đi qua. Anh Gordon mất người mẹ thân yêu khi mới hai tuổi, còn tôi thì chìm trong đau khổ khi cha tự tử. Chúng tôi đều chịu những mất mát đau thương tạo nên những mảnh vỡ về tinh thần khi còn quá nhỏ, nhưng quan trọng là chúng tôi đã vượt qua. Trên hành trình của sự trải nghiệm, chúng tôi mong tìm được niềm vui khi góp phần giúp mọi người vượt qua những nghịch cảnh trong đời, cũng như những nỗi đau của riêng từng người. Các bạn sẽ tìm lại mình cho một cuộc sống năng nổ, tràn đầy sức sống, có một đời sống tinh thần tích cực và sự tăng tiến hướng đến tính toàn vẹn. Một cuộc sống như thế mời gọi sự hài hòa, cân đối giữa khối óc, trái tim và bàn tay cùng nhau làm việc để tạo ra thế giới tốt đẹp hơn cho những ai đang tìm kiếm sự dẫn dắt tâm linh, cũng như cho tất cả mọi người. Bằng hành động đơn giản là cầm quyển sách nhỏ này lên, cho dù bạn có rút ra được bài học gì hay dành thời gian để chiêm nghiệm thực tiễn, thì bạn cũng đã nói lên được những ngôn từ tốt đẹp và đầy ý nghĩa với cuộc sống của mình, hay cuộc sống của những người mà bạn hết mực yêu thương. ... Mời các bạn đón đọc Để Kén Thành Bướm của tác giả Joan Z. Borysenko & Gordon F. Dveirin.
Lụt Việc Phải Làm Sao - Kerry Gleeson
Phải làm sao để đối phó với áp lực, đồng thời góp phần gia tăng hiệu quả công việc và năng suất cá nhân? Bạn sẽ tìm được câu trả lời tốt nhất khi cầm trên tay cuốn sách “Lụt việc phải làm sao?”.  Cuốn sách trình bày những vấn đề liên quan đến chương trình Hiệu quả cá nhân (PEP - Personal Efficiency Programs), cách tổ chức công việc khoa học vừa tiết kiệm thời gian vừa tăng hiệu suất. Cuốn sách gồm 12 chương với nội dung xuyên suốt chia sẻ những kinh nghiệm được đúc kết nhiều năm về cách giải quyết áp lực, giảm căng thẳng trong công việc. Đặc biệt ở lần tái bản thứ 4 này, tác giả thêm chương “Tóm lược đắt giá” rút gọn quá trình cơ bản nhất giúp những độc giả không có nhiều thời gian nghiên cứu vẫn nắm được các bước khái quát của tiến trình. “Lụt việc, phải làm sao?” là sản phẩm của Kerry Gleeson, “cha đẻ” của chương trình Hiệu quả cá nhân. Cuốn sách đúc kết những kinh nghiệm thực tế từ bản thân tác giả và các chuyên gia tư vấn PEP, cùng nhiều chia sẻ từ bạn bè, khách hàng, cũng như đối tác kinh doanh của Kerry Glesson về cách làm việc nâng cao hiệu suất. Qua 15 năm tính từ lần xuất bản đầu tiên, cuốn sách “Lụt việc, phải làm sao?” đã được biên dịch ra 17 thứ tiếng và xuất bản hơn 1 triệu bản khắp nơi trên thế giới. *** Là một độc giả, có lẽ bạn chỉ muốn hiểu các bước để có thể tuần tự áp dụng những nguyên tắc mà bạn sẽ tìm thấy trong suốt cuốn sách này. Các khách hàng của chúng tôi luôn tìm cách để khiến các quy trình của họ trở nên vững mạnh hơn. Chương này tương đương với một bản khái quát cho bạn những gạch đầu dòng về cách giúp bạn có thể hấp thụ những nguyên tắc của Chương trình Hiệu quả cá nhân (PEP) và khiến nó làm việc cho bạn trong khoảng thời gian cần thiết tối thiểu. Để làm quen với Chương trình Hiệu quả cá nhân (PEP) mà không cần phải nghiên cứu chi tiết toàn bộ nội dung của cuốn sách bạn hãy đọc chương “mở đầu” này. Để hiểu được căn nguyên và triết lý ẩn sau những bước này, bạn có thể tìm hiểu ở các chương tiếp theo trong cuốn sách. Nếu bạn tuân theo những bước này, tôi đảm bảo công việc sẽ bớt bị “lụt”, bạn sẽ sớm giành được quyền kiểm soát mỗi ngày làm việc của mình, làm được nhiều việc hơn và cảm thấy thoải mái hơn về công việc. Có thể bạn cần phải điều chỉnh các bước để phù hợp với văn hóa hay công nghệ trong tổ chức của bạn, hoặc phù hợp với phong cách làm việc của cá nhân bạn. Đó là điều bình thường. Nhưng phải đảm bảo chắc chắn là bạn tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của mỗi một thủ thuật được gợi ý. Quá trình PEP bắt đầu với khái niệm quản lý bản thân. Bạn luôn phải thường trực những câu hỏi này trong đầu: “Mình làm điều mình làm như thế nào?” và “Mình có thể làm nó tốt hơn bằng cách nào?” Sai lầm thường thấy nhất trong công việc mà mọi người hay mắc phải là gạt những việc họ không thích làm sang một bên – nghĩa là trì hoãn, lần lữa. Hầu hết chúng ta không trì hoãn, lần lữa một cách có ý thức. Trì hoãn thường là một thói quen xấu. Một lượng lớn thời gian được sử dụng để giải quyết (về mặt tinh thần hoặc các mặt khác) tất cả những việc đáng ra phải hoàn thành rồi, thay vì hành động ngay từ ban đầu. Con người thường hành động khi đó là việc dễ thực hiện. Mục tiêu của tiến trình PEP là giúp bạn có thể dễ dàng hành động hơn hay nói cách khác là giúp bạn tổ chức, sắp xếp để có thể hành động sớm hơn. ... Mời các bạn đón đọc Lụt Việc Phải Làm Sao của tác giả Kerry Gleeson.