Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thánh Địa Tội Ác

Thánh địa tội ác (Sanctuary) là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Mỹ William Faulkner xuất bản lần đâu vào năm 1931, tác phẩm được coi là một trong những câu chuyện tâm lý bi kịch cổ điển của miền Nam nước Mỹ thời bấy giờ. William Faulkner đã miêu tả về tác phẩm này: “Đây là câu chuyện khủng khiếp nhất mà tôi có thể tưởng tượng ra được và viết nó trong chừng 3 tuần lễ.” Thánh địa tội ác kể về việc một người trinh nữ bị một tên bệnh hoạn mắc chứng bệnh bất lực - Popeye – cưỡng bức bằng một bắp ngô. Popeye là tên tội phạm nguy hiểm, hắn là tay sai của gã Goodwin buôn rượu lậu và sào huyệt của bọn chúng nằm trong một khu vực tối tăm của đầm lầy được gọi với cái tên Old Frenchman. Trong khi thực hiện âm mưu cưỡng hiếp Temple, Popeye đã ra tay sát hại đồng bọn của gã là Tommy khi tên này muốn bảo vệ cô gái. Sau khi thực hiện hành vi bẩn thỉu của mình, Popeye bỏ trốn khỏi căn nhà của Goodwin. Sáng hôm sau, Goodwin phát hiện ra cái chết của Tommy nhưng ông ta lại vô cùng sợ hãi Popeye nên không dám khai báo với cảnh sát vụ việc. Sau khi biết được vụ án mạng, cảnh sát bắt giữ Goodwin. Câu chuyện tiếp tục với cuộc chiến dai dẳng giữa Horace Benbow, một vị luật sư chính trực tìm mọi cách lôi Popeye ra chịu tội trước vành móng ngựa cho tội ác của hắn và để trả lại tự do cho Goodwin. Cuối cùng, Poyeye phải trả giá bằng một bản án treo cổ cho tội ác hắn không bao giờ muốn thừa nhận. *** Là một nhà văn nổi tiếng người Mỹ, ông được trao giải Nobel Văn học vào năm 1949. Sánh vai với Mark Twain, Robert Penn Warren, Flannery O’Connor, Truman Capote, Eudora Welty, Thomas Wolfe, Harper Lee và Tennessee Williams, ông trở thành một trong những nhà văn quan trọng nhất của nền văn văn học miền Nam nước Mỹ. William Faulkner, một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ XX, sinh ngày 25/09/1897 tại New Albany, Mississippi. Ông xuất bản cuốn sách đầu tiên, The Marble Faun vào năm 1924, một tuyển tập những bài thơ nhưng lại giống như biên niên sử văn học về cuộc sống ở các tiểu bang của miền Nam nước Mỹ, đặc biệt về địa danh hư cấu Yoknapatawpha, khung cảnh cho một số tiểu thuyết sau này của ông. Chẳng hạn như cuốn Sanctuary (1931), The Hamlet (1940), The Town (1957) và The Mansion (1959), ông miêu tả tỉ mỉ đời sống nội chiến ở miền Nam, chú trọng vào cuộc đời các nhân vật (đặc biệt là những thành viên trong gia đình Snopes) và sự thay đổi đạo đức trong một xã hội đang ngày càng suy đồi. Những tiểu thuyết khác của ông bao gồm The Sound and the Fury (1929), As I Lay Dying (1930), Light in August (1932), Absalom! Absalom! (1936), The Unvanquished (1938), Intruder in the Dust (1948), Requiem for a Nun (1951), A Fable (1954) và The Reivers (1962). Hai tác phẩm sau cùng đã đem lại cho ông giải thưởng Pulitzer cao quý. Đồng thời ông cũng là tác giả của nhiều tập truyện ngắn, thơ và tiểu luận. Bằng việc kết hợp chủ nghĩa tượng trưng với tiểu thuyết dòng ý thức, ông đã sáng tạo nên một phương pháp viết tiểu thuyết mới. Vào năm 1949, ông đã vinh dự nhận giải Nobel Văn học. William Faulkner mất tại Byhalia, Mississippi, ngày 06/07/1962. Thánh địa tội ác là một cuốn tiểu thuyết đi sâu vào nghiên cứu bản chất của tội ác, chứa đựng nhiều yếu tố ly kỳ, bí ẩn, dựa trên những truyền thuyết dân gian của địa phương và vụ bắt cóc có thật xảy ra với Temple Drake, thiếu nữ mười bảy tuổi, vô cùng trong sáng ngây thơ nhưng đã bị dẫn dắt vào thế giới ngầm tại Memphis - nơi cô bị những tên xã hội đen giam giữ. Nhắc tới ông, không thể không kể đến tứ đại kỳ thư nổi tiếng: -    Âm thanh và cuồng nộ (The Sound and the Fury -1924) -    Khi tôi nằm chết (As I lay Dying - 1930) -    Nắng tháng Tám (Light in August -1932) -    Absalom, Absalom! (1936) Một số tác phẩm khác đã được dịch và xuất bản tại Việt nam: Hoa Hồng Cho Emily Cọ Hoang Bọn Đạo Chích Thánh Địa Tội Ác ... *** "Tôi không thể in cuốn sách này. Hai chúng ta sẽ bị bỏ tù". Câu trả lời của Mr. Smith, biên tập viên của Faulkner tại NXB Noel Polk, người từng đỡ đầu trót lọt cuốn The sound and the fury (Âm thanh và cuồng nộ), khi nhận được bản thảo Sanctuary (*) lần đầu tiên vào tháng 1-1929, hàm ý mối e ngại trước sự khốc liệt đến mức động chạm tới ranh giới những điều cấm kỵ trong xã hội thời đó, của những hình ảnh văn chương và thông điệp nhân sinh mà W. Faulkner đưa ra trong cuốn sách. Câu chuyện vuột khỏi tầm người kể Qua hai lần trực tiếp sửa chữa, đánh máy lại trên bản thảo tác phẩm và ngay trên bộ vỗ sắp chữ của nhà in, Sanctuary được Faulkner công bố như hiện trạng, suốt từ năm 1931 cho tới nay. Cuốn sách với số phận kỳ lạ thêm một lần nữa chứng minh ý nghĩa không thể thay thế của thể loại văn chương lấy tiếng nói phản tỉnh xã hội và vượt thoát khỏi những "cấm kỵ" về đạo đức làm chủ đề trung tâm, đồng thời nó cũng tự tìm đến lối tổ chức nghệ thuật gây bất ngờ, độc đáo và sắc bén. Tương tự con đường đưa một số nhà văn sau này đến với giải thưởng Nobel văn chương: Günter Grass (1999), Elfriede Jelinek (2006)... Phần quan trọng trong "câu chuyện" của Faulkner không bao giờ được kể như những gì đang diễn ra, với sự chứng kiến tỉnh táo, đáng tin của bất kỳ ai. Tất cả những gì được tái hiện chỉ là cố gắng của nhiều nhân vật, lắng nghe, đeo bám, dò dẫm, phục hiện... nhưng rốt ráo chỉ là kẻ "tới trễ", lượm được mảnh rớt lại của những gì đã xảy ra, tựa như "thầy mù sờ voi". Luật sư Horace trên đường tới thị trấn, bị tên ma cô Popeye nghi ngờ và cưỡng chế về sào huyệt của chúng, nơi chuyên nấu whisky lậu, một ngôi nhà nát trong vùng rừng hoang sơ thuộc Mississippi. Anh được vợ chồng chủ lò rượu lậu, một cựu binh Thế chiến II tên Goodwin giúp đỡ. Sau này, Horace hết lòng bênh vực Goodwin, trong vụ án khủng khiếp giết người và cưỡng hiếp man rợ cô nữ sinh Temple Drake tại ngôi nhà nát khi Goodwin bị buộc tội, nhưng tất cả cố gắng của anh trở nên vô ích. Qua quan sát của Horace, Temple..., Goodwin là người duy nhất gắng sức để duy trì thứ trật tự sơ khai của tình thương và lòng tốt trong cộng đồng du thủ du thực, bao gồm cả những tay bệnh hoạn ma quỷ như Popeye. Câu chuyện về Goodwin, như một hình ảnh của lòng trắc ẩn và lương thiện lại được cố ý kể lại theo cách gián tiếp, rời rạc, thiếu chi tiết, chìm khuất dưới vô số biểu hiện của cái thực tại hỗn độn được mô tả qua sự mù mờ, ngây ngô, điếc lác, có khi vô trách nhiệm, thậm chí trong trạng thái hoảng loạn, hoặc bằng cái nhìn đầy thành kiến... của các nhân vật khác. Nghệ thuật của sự ngắt quãng và xa lạ Bằng diễn tiến melodrama quen thuộc, câu chuyện cho thấy từng bước cái thiện và ham muốn tốt lành của đời sống đã bị vùi dập, hủy hoại một cách tàn nhẫn và bất công ra sao, tương tự trường hợp To kill the mocking bird của Harper Lee. Nhưng nghệ thuật của riêng Faulkner lại là cách ông đã buộc chúng ta đối mặt với những điều kỳ lạ, u ám và man rợ trong chính mỗi người bình thường. Bạn đọc sẽ không thể quên phiên tòa mà từ nghi can cho tới nạn nhân, nhân chứng đều trở thành kẻ đồng lõa khi giấu giếm sự thật về kẻ thủ ác... Sự vận dụng quyết liệt và cạn kiệt thủ pháp "ngắt quãng" phá bỏ logic của sự kiện và tính cao trào thông thường, câu chuyện được dựng lại hết sức hình thức và máy móc, theo lối hình dung võ đoán, có khi thuần túy thị giác. Các nhân vật trở nên xa lạ, không thể đoán định so với con người khởi đầu của nó... Trong một thế giới bị "tung hỏa mù", không còn cột mốc thông thường để đánh dấu thiện - ác, chúng ta "bị ép" tẩy rửa định kiến, ghi lại những dấu mốc mới tinh trong việc xác định một thái độ đạo đức và sinh tồn. Faulkner đã "dành thời giờ suy nghĩ những gì mà một con người ở Mississippi tin tưởng là khuynh hướng (đời sống) căn bản hiện nay, cố gắng tìm ra câu trả lời xác đáng nhất, và hư cấu những câu chuyện khủng khiếp nhất mà bản thân tôi có thể tưởng tượng", tạo ra thứ động lực tinh thần mới trong một đời sống bị đe dọa hủy hoại tới tận cùng mọi biểu hiện. Cũng chính ông là người đưa ra thông điệp: không phải bản thân cái ác, mà nỗi khiếp nhược trước tội ác sẽ làm sụp đổ toàn bộ giá trị mà con người phải trả giá bằng hàng ngàn năm gây dựng, như luật pháp, công lý, nền văn minh. KHÁNH PHƯƠNG Review ___________ (*): Thánh địa tội ác(nguyên tác: The sanctuary), tác giả: William Faulkner, người dịch: Trần Nghi Hoàng, NXB Văn Học, tháng 7-2012. Mời các bạn đón đọc Thánh Địa Tội Ác của tác giả William Faulkner.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cơ May Thứ 2 - Virgil Gheorghiu
Tác phẩm còn được xuất bản bản dịch khác với tựa đề Lối Thoát Cuối Cùng. Chủ đề vẫn là cuộc đại chiến thứ hai, nhưng ở vào giai đoạn ác liệt nhất, giai đoạn điểm đỉnh chuẩn bị kết thúc. Một bức tranh toàn cảnh châu Âu với những cảnh tàn phá khủng khiếp, những nhà giam, những trại tập trung, những cái chết chóc, phân tán, chia ly, những nghi kỵ, âm mưu, những sự thủ tiêu, những sự phản bội... Đặc biệt nổi bật lên ở cuốn tiểu thuyết này là cái cảnh tầng tầng lớp lớp những người dân các nước có chiến tranh đi qua, phần lớn là những trí thức, bỏ cửa nhà, làng mạc quê hương ra đi, đi rất xa, sang những nước ở bên kia Đại Tây Dương: một cuộc di tản ở quy mô có lẽ lớn nhất trong lịch sử. *** Constant Virgil Gheorghiu sinh ngày 15- 9 - 1916 tại Lỗ Ma Mi, Constant Virgil Gheorghiu nghiên cứu triết học và thần học ở Gucarest và Heidelberg trước khi trở thành ký giả, rồi khâm sứ tại Bộ Ngoại giao Lỗ.   (Gheorghiu tên thật là Constantin Virgil Gheorghiu, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1916 tại Valea Albă, một làng trong cộng đồng Războieni, quận Neamţ, xứ Romania. Cha ông là một linh mục Chính thống giáo.)   Chống đối chế độ cọng sản, ông sang Pháp ở vào 1948. Cuốn tiểu thuyết đã làm thế giới tự do biết danh ông là "Giờ Thứ Hai Mươi Lăm "; ông lại càng nổi danh hơn nhờ một cuốn khác viết về cuộc tái chiếm đóng xứ Bessarabie. Ông sang Mỹ sống một thời gian, sau đó trở lại Pháp. Ông đã dùng ngòi bút để chống đối mãnh liệt cái thời đại phi nhân của chúng ta hiện nay trong hầu hết các tác phẩm của ông (La Seconde chance, La Cravache, Les Mendiants de miracles ...). Ngày 23- 5 - 1963 V. Gheorghiu được tấn phong linh mục Giáo hội chính thống.   Ngòi bút của Virgil Gheorghiu quả thật là chua chát và mỉa mai; bởi vì tác giả chống tất cả những chủ trương phi nhân. Các nhân vật của V. Gheorghiu sau những đày ải lần lượt chết đi dưới những vị kỷ khắc nghiệt được ngụy trang rất khéo léo bằng những chủ nghĩa hoa mỹ. Nhưng tất cả phải chết đi để cho ý thức nhân bản trong mỗi con người, mỗi xã hội được sống. Làm sao mà không chua chát và mỉa mai cho được khi mà hơn 20 năm sau, cuộc thế chiến hãi hùng, con người vẫn đang còn bơ vơ, lạc lõng, lo sợ trước những tranh chấp chủ nghĩa, trước những đe dọa đang đẩy họ vào những đường cùng không lối thoát. Và phải chăng V. Gheorghiu cũng đag viết về sự bế tắc của con người đau đớn trên xứ sở Việt Nam thân yêu. *** - Con người không thể sống trần truồng. Một con người có thể sống với những manh áo rách, đúng? Nhưng mà cậu, một manh áo rách cũng không có! Cậu chẳng có một thứ gì! Pierre Pillat nhìn bộ đồng phục kaki của Boris Bodnar. Anh nói tiếp: - Sau ba tháng, viên cảnh sát đầu tiên sẽ lột trần cậu ra, thu hồi những áo quần này gửi trả lại cho nhà trường. Cậu sẽ chẳng còn lấy một mảnh gì che thân nữa. Không còn lấy một chiếc sơmi, không còn lấy một đôi giày. Không một thứ gì cả! Cậu sẽ trần trụi hơn cả một tên Papua[3]. Cậu là người trần trụi nhất trần gian. Cậu muốn làm gì? Pierre Pillat tìm đôi mắt xanh của bạn. Đôi mắt xanh của Bodnar đang nhìn xuống đất. - Người ta đã trao tờ quyết định đuổi học của cậu chưa? - Pillat hỏi. Boris Bodnar tiếp tục nhìn xuống mặt đất phẳng lì của sân trường. Anh đưa tay lên túi áo để lấy tờ quyết định. Chiếc áo đồng phục có bốn túi, nhưng để làm nhục những học sinh bị đuổi người ta đã cắt cả bốn túi bỏ đi. Khi ngón tay Boris không sờ thấy túi áo ở chỗ ngày thường của nó, anh lại sờ lên cái túi thứ hai trên ngực. Nó cũng đã bị cắt. Hai túi dưới cũng vậy. Anh đỏ mặt. Boris Bodnar sáng nay, lúc sáu giờ, đã phải mặc quần áo của những người bị đuổi học. Từ khi anh khoác chiếc áo kia vào, anh đã sờ tay tìm túi một cách máy móc không biết bao nhiêu lần. Theo thói quen và không hề để ý, bàn tay anh cứ lần lượt tìm hết túi trên lại tìm túi dưới, cuối cùng nó đành buông thõng, cam lòng, như bây giờ đây: Những chiếc túi bị cắt, đó là nỗi sỉ nhục đầu tiên của Boris Bodnar. Đôi mắt xanh của anh nhìn một lúc vào vị trí thường ngày của nó trước kia. Anh nhận ra không chỉ thiếu túi mà cả cái mép viền màu vàng ở cổ áo cũng đã bị cắt mất. Người ta cũng đã cắt mất cái đường viền tay áo, đường viền dọc nẹp theo ống quần. Cả sáu chiếc khuy của chiếc áo dài cũng đã bị cắt nốt - những chiếc khuy mà anh lau đi lau lại mỗi buổi chiều, như tất cả các học sinh trường trung học hoàng gia, cho tới khi nó chói sáng lên như vàng thật mới thôi - nay cũng không còn. Sáu chiếc tất cả, không còn lấy một chiếc nào. Thay vào đó là sáu chiếc khuy sắt, bé xíu và han rỉ. Sáu cái lỗ khuyết trước đây cài kín sáu khuy vàng giờ đây quá rộng cho mấy cái khuy sắt cỏn con. Nó đã sờn mép và bẩn thỉu. Vắng những chiếc khuy vàng, bây giờ trông nó như những cái hốc mắt mất tròng. Không nhìn Pillat, Boris Bodnar lại sờ tay tìm túi quần. Mỗi học sinh có một quần kaki đồng phục bốn túi. Bốn túi ấy giờ đây đã bị khâu kín lại. Boris Bodnar trở nên cáu kỉnh. Mỗi cái túi mất đi làm cho anh thấy đau nhói trên mình như có ai cắt đi một mảnh con vào da thịt của anh chứ không phải vào bộ đồng phục. Anh nhớ ra rằng anh đã khâu thêm một cái túi con bên trong để cất tờ quyết định. - Anh muốn xem tờ quyết định đuổi học nó giống cái gì có phải không? - Boris hỏi, giọng mỉa mai. Anh đưa cho Pierre Pillat một mảnh giấy vàng gấp tư. Đó là một tờ giấy màu lá úa, một màu sắc hình như được chọn dùng riêng cho những trường hợp bị đuổi học, chết chóc hoặc tù đày. Pillat đọc: Chiếu theo sắc lệnh ban hành quy chế hoạt động của các trường trung học hoàng gia Rumani. Học sinh Boris Bodnar bị đuổi học và chỉ được mặc đồng phục hoàng gia trong thời hạn ba tháng kể từ ngày bị đuổi. Các nhân viên lực lượng cảnh sát có trách nhiệm thi hành quyết định này và giao nộp đồng phục lại cho Trường trung học hoàng gia Kichinev sau khi chấm dứt thời hạn ba tháng. ... Mời các bạn đón đọc Cơ May Thứ 2 của tác giả Virgil Gheorghiu.
Âu Châu Đại Chiến - Phạm Công Bình
Cuốn sách giới thiệu tình hình nước Đức trước và sau khi chiến tranh thế giới thứ lần thứ nhất xảy ra. Diễn biến một số trận chiến: Trận Marne, Verdun... Một so vũ khí sử dụng trong chiến tranh; vai trò của một số tướng lĩnh người Pháp và Tiếng Việt Nam: Guynemer, Đỗ Hữu Vị, Hà Văn Thanh, Dương Văn Ngọ... trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Mời các bạn đón đọc Âu Châu Đại Chiến của tác giả Phạm Công Bình.
Tiếng Nói Của Con Tim - Danielle Steel
“Nàng cảm thấy rất kỳ cục, khi đã có thai 5 tháng mà làm tình với người đàn ông không phải chồng mình. Nhưng nàng cứ làm thôi, vì nàng đã quá yêu chàng mà không biết bày tỏ tình yêu ấy như thế nào. ... - Anh muốn ghi tên anh trên giấy khai sinh của em bé – Bill cương quyết nói - Ghi Samuel William Thigpen được không? – Nàng nối đầy đủ họ tên, rồi cười e thẹn. Chàng nghiêng qua hôn nàng. - Sẽ ghi đầy đủ như thế - Chàng cười - sẽ ghi như thế - chàng kéo nàng sát vào người chàng, cảm thấy tim nàng đập mạnh bên tim mình, hai trái tim cùng hoà nhịp đập”. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Nói Của Con Tim của tác giả Danielle Steel.
Nhật Ký Kẻ Mị Tình - Soren Kierkegaard
Bước vào Nhật ký kẻ mị tình là bước vào một biển mơ, đắm đuối trong bầu không khí Tình, ngụp lặn trong Tình, tưởng chừng như con người sống chỉ có một mục đích duy nhất là tình, không có gì cưỡng lại nổi mối tình đang ngày một lớn lên ấy. Johannes vừa là kẻ mị tình, vừa là kẻ bị tình mị, là kẻ đi cám dỗ rồi để bản thân mình bị cám dỗ, lưu đày tâm trí trong cõi yêu đương. Ẩn sâu trong biển tình ấy, tài năng của Kierkegaard còn những kiến thức về văn hóa, triết học, lịch sử bằng một hệ thống ngôn ngữ văn chương thơ mộng. Đó cũng là mầm mống cho những phát triển tư tưởng triết học nghệ thuật của Kierkegaard sau này, và là điểm đặc biệt khiến Kierkegaard luôn được xem là một người làm nên nền triết học chủ quan và nặng tính thẩm mỹ. Kierkegaard được sinh ra tại Copenhagen, Đan Mạch trong một gia đình dòng dõi giàu có. Ông thừa hưởng tính khí u sầu từ cha mình và trải qua một tuổi trẻ bất hạnh. Cả cuộc đời ông chưa từng làm bất kỳ một công việc nào, chỉ tập trung vào sự nghiệp văn chương và triết học. Cả đời Kierkegaard mang trong mình mối si tình lãng mạn với Regine Olsen, nhưng khi đã hứa hôn, ông lại rơi vào trạng thái hoang mang và xin từ bỏ hôn ước, mặc dù cả hai thừa nhận vẫn còn yêu nhau tha thiết. Regine Olsen đi lấy chồng, và Kierkegaard mang trong mình nỗi sầu khổ vĩnh viễn về mối tình dang dở này. *** Soren Kierkegaard sinh ngày 05/05/1813 tại Copenhagen, Đan Mạch. Ông là con út trong một gia đình có 7 người con. Khi S. Kierkegaard ra đời thì cha đã 56 tuổi và mẹ đã 45 nên ông thường nhận mình là một đứa con nít trong một gia đình già.  1830 – 1841: Thời gian học Đại học Copenhagen vật vã kéo dài trong 11 năm, mãi đến năm thứ 10, Kier mới vượt qua được kỳ thi tốt nghiệp môn thần học. Trong thời gian này, lần lượt cha mẹ và 3 anh chị khác trong gia đình Kier qua đời.  1841 từ hôn Regine Olsen và cũng là năm hoàn thành luận văn “On the Concept of Irony with constant reference to Socrates” (Om Begrebet Ironi med stadigt Hensyn til Socrates). Hàng loạt các tác phẩm ra đời bắt đầu từ đây.  1843: Xuất bản “Cũng – Hoặc: Một quãng đời” (Either-Or: A Fragment of Life/Enten-Eller. Et Livs-Fragment).  Ý kiến Kierkegaard chính thức về đời thể hiện lần cuối qua “Khoảnh khắc” (The Instant/jeblikket) với 9 chương, chương thứ 10 đang sẵn sàng đem công bố thì Kierkegaard gục ngã trên đường phố. Ông được đưa đến bệnh viện và chết ngay sau đó trong tình trạng kiệt lực vì công việc. Hôm đó là ngày 11 tháng 11 năm 1855, Soren Kierkegaard hưởng dương 42 tuổi.  Lúc còn sống, không mấy ai biết về ông. Kierkegaard chỉ được nhìn nhận là “Socrate của Đan Mạch”, là thủ lĩnh Anti-Hégel sau khi đã qua đời. Toàn bộ sự nghiệp của Kierkegaard có gần 30 tác phẩm triết học, thần học, tâm lý học cùng khoảng 10 quyển truyện ngắn. Kierkegaard đã làm một cuộc cách mạng về lý luận chống cái “phổ biến”, ‘hệ thống” bằng một sự thể hiện đa dạng và phức tạp về những khao khát và cảm xúc cá nhân.  Tuy nhiên khi còn sống, những đóng góp của Kierkegaard về chính trị và xã hội chẳng được xem trọng. Kier là một nhà tư tưởng phi chính trị, những va chạm của Kier với các hệ thống quyền lực chưa đủ sức gây nên sóng gió trong xã hội như các hậu bối sau này của triết thuyết Hiện sinh. Những va chạm với hệ thống giáo quyền Tin lành Đan Mạch không hề ảnh hưởng đến việc một anh trai của Kier: P.C. Kier trở thành một giám mục.  *** Không, tôi không thể che giấu với chính mình nỗi lo âu khó bề kiềm chế đã bám riết lấy tôi vào giây phút này, khi tôi quyết định vì lợi ích của riêng mình mà viết lại lần nữa cho chính xác và dễ đọc cái bản sao ngày trước tôi có được nhờ chép lại một cách cực kỳ vội vàng và trong trạng thái hết sức bất an. Giờ thì cũng giống như trước đây, tôi vẫn cảm thấy không yên lòng chút nào và như bị ai đó chê trách. Trái với thói quen, anh ta đã không khóa tủ bàn giấy; nhờ vậy mà mọi thứ trong đó tôi có thể tùy nghi sử dụng. Nhưng có ích gì đâu khi muốn che đậy hành vi không mấy hay ho này của tôi bằng cách nhắc nhở trong đầu là tự mình đã không mở ra ngăn kéo nào cả. Một ngăn kéo đã mở sẵn đó mà: cả một đống giấy tờ rời rạc nhưng nằm bên trên là một quyển khổ bốn được đóng rất đẹp. Trang bìa được trang trí với một họa tiết màu trắng, trên đó chính tay anh ta đã viết: Commentarius perpetuus [13] số 4 . Thế nhưng, thật vô ích khi tôi cố gắng tự dối mình bằng cách nghĩ rằng, nếu bìa trước của nó không nằm ở trên, và nếu cái tựa đề nổi bật đó không cám dỗ tôi, thì tôi hẳn đã không sa ngã hay ít ra tôi đã chống chọi lại sự cám dỗ đó. Cái tựa đề tự nó đã là kỳ lạ, song lại còn kỳ lạ vì những thứ xung quanh nó hơn là chính nó. Chỉ cần liếc mắt nhìn vội qua các tờ giấy rời rạc đó tôi biết ngay là chúng bao gồm những ấn tượng đến từ các tình cảnh gợi dục, những lời lẽ gợi ý về mối quan hệ nào đó, những bức thư cùng một loại đặc biệt mới được thảo ra mà sau này tôi trở nên quen thuộc với phong cách của chúng, hờ hững, vô tình một cách có tính toán, và lại được viết có nghệ thuật nữa chứ. Vào giây phút này đây, sau khi thấy hết cái tâm địa ưa bày mưu tính kế của tên đàn ông bại hoại này, khi tôi nhớ lại cái hoàn cảnh đó, đôi mắt mở to cảnh giác với mọi ngón nghề xảo trá, ấy là nói như vậy, khi lại gần cái ngăn kéo đó, tôi có cảm giác giống như một người cảnh sát hẳn phải có khi ông ta vào phòng một tên làm giấy tờ giả, xem xét kỹ đồ này, thứ kia của hắn, và tìm ra trong ngăn kéo một đống giấy tờ rời rạc từng được dùng để viết nháp, vẽ nháp; trên tờ này thì có một hình vẽ trang trí nhỏ, trên tờ kia, hai chữ viết lồng nhau, và trên tờ thứ ba, một hàng chữ viết ngược. Tất cả các thứ này dễ dàng chỉ ra là ông ta đang theo đúng hướng tìm, và ông ta thì vừa thấy thích thú thực sự, vừa thấy thán phục mơ hồ trước những nỗ lực và sự cần cù hiển nhiên ở đây. Vì không quen với việc phát hiện các tội ác và không trang bị với phù hiệu cảnh sát, tôi hẳn sẽ phản ứng khác với ông ta. Cái cảm tưởng mình đang dấn vào một việc bất chính hẳn sẽ đè nặng lên lương tâm tôi. Vào lúc đó, tôi thấy mình thiếu hụt ý tưởng bao nhiêu thì cũng thấy mình thiếu hụt chữ nghĩa bấy nhiêu, thường thường là như vậy đó. Ta bỗng nhiên thấy kinh sợ khi có một cảm tưởng nào đó cho đến khi sự suy nghĩ trong đầu ta được khai thông thêm một lần nữa, và bằng những sự vận động đa dạng và khéo léo, nó trò chuyện, vỗ về người xa lạ không ai biết đó rồi nó len lỏi vào tâm trí người đó. Sự suy nghĩ này càng khai triển hơn thì nó tự trấn tĩnh càng nhanh chóng hơn; tương tự như một viên chức kiểm tra hộ chiếu khách nước ngoài ở cửa khẩu, sự suy nghĩ trở nên quen thuộc với những khuôn mặt hay tính cách lạ lùng nhất, khó tin nhất, đến mức không dễ gì làm cho nó bị ngỡ ngàng nữa. Mặc dù sự suy nghĩ của tôi, thực tình mà nói, là đã phát triển cao độ, thế mà ban đầu tôi cũng bị ngạc nhiên quá cỡ. Tôi nhớ rất rõ là mình đã tái mặt, gần như ngất xỉu, và bởi vậy, tôi đã lo sợ biết bao. Giả dụ là anh ta về nhà lúc này, thấy ra tôi nằm bất tỉnh dưới đất mà tay còn cầm cái ngăn kéo - a! một lương tâm bứt rứt, quả thật, thì có thể làm cho cuộc đời trở nên lý thú đó. ... Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Kẻ Mị Tình của tác giả Soren Kierkegaard.