Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bão

Trong Bão, có một hòn đảo, biển và gió, cơ thể những người đàn bà, một đứa trẻ cô đơn không bố, một người đàn ông bị quá khứ gặm nhấm và cơn bão rửa sạch tất cả. Trong Bão, còn có cả Phi châu, Paris và một đứa trẻ lạc lối khác đi tìm danh tính của mình. Hai câu chuyện đầy chất thơ ấy được thổi đến bằng cơn bão của thế giới của tâm hồn. Trong Bão, những số phận kì lạ gặp đầy trắc trở của Le Clezio vẫn tìm thấy phép màu, tim thấy điều níu giữ họ lại với cuộc sống, bởi "kí ức không quan trọng,không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Trong Bão, độc giả vẫn tìm thấy chất thơ lãng mạn từ những câu văn giản dị nhưng đầy sức nặng của tác giả từng được nhận giải Nobel Văn chương 2008. Cuốn sách kể chuyện bằng cách đưa ra các hình ảnh, những gợi mở, niềm hy vọng ở phép màu và những điều hão huyển, và phải nhìn nó qua một tấm màn thi vị hóa. Từ đầu tới cuối, tính nhạc trong từng câu chữ giữ chân người đọc. *** Bão là tập truyện mới nhất của Le Clézio - nhà văn đoạt giải Nobel năm 2008. Tác phẩm được xuất bản tại Pháp năm 2014, vừa phát hành ở Việt Nam. Có thể ví hai truyện vừa Bão và Người đàn bà không danh tính trong cuốn sách như một file nén. Với dung lượng trang sách, số con chữ không lớn nhưng nén trong đó những câu chuyện đầy sức nặng và nhiều tầng cảm xúc, triết lý. Và bởi thế, mỗi độc giả có "mã giải nén" của riêng mình. Là hai câu chuyện độc lập song bằng những chủ đề chung, tác giả đã tạo cho nó một mạch ngầm kết nối: từ cô gái June sống ở một hòn đảo hẻo lánh của Nhật Bản đến Rachel của một vùng đất thuộc địa cũ của châu Phi, từ vùng trời nước hoang sơ đến những thành thị ngột ngạt, và từ một bé gái không cha đến một thiếu nữ không mẹ đi tìm nguồn cội của mình.  Câu chuyện của Bão đưa người đọc đến những vùng đất xa xôi, những xã hội như nằm bên kia nền văn minh, nơi con người đắm mình vào thiên nhiên hoang dã, sống trong nó và chết trong nó. Ở đó, những con người còn rất trẻ đang bước qua lằn ranh mỏng manh giữa ấu thơ và trưởng thành, tâm hồn còn trong sáng vô ngần, nhạy cảm vô ngần, hồ như căng mình ra trước mọi sóng gió cuộc đời, không có khả năng tự bảo vệ khỏi những nỗi đau. Thậm chí họ dấn mình vào nỗi đau: đi tìm nguồn cội, đi tìm danh tính. Trên hết, những cô gái luôn vươn mình tới một thứ tình yêu nguyên sơ, thánh thiện, bất chấp sự già cỗi của những thứ ranh giới, khoảng cách thường tình. Đó là thứ tình yêu từ cội nguồn sự sống có trong mỗi con người mà cô bé June cảm nhận được. Tình yêu ấy đôi khi làm thương tổn chính các cô gái. Bởi nó mạnh mẽ như bão, hủy diệt như bão, và cũng tái sinh sau bão. Hai cô gái trẻ của Bão mang trong mình một tâm hồn có thể bật lên, tự tái tạo, tự giải thoát mình khỏi nỗi đau và nỗi tuyệt vọng. Cũng nhờ sức sống tươi mới tiềm tàng ấy, Kyo - người đàn ông toan đến hòn đảo hoang vắng để kết thúc cuộc đời - được giải thoát khỏi "nhà tù" của quá khứ, khỏi sự ám ảnh của ký ức và những vết thương. Bão đã rửa sạch tất cả - "ký ức không quan trọng, không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Bão tiếp tục những chủ đề ưa thích của Le Clézio: những thế giới, vùng đất, con người bị bỏ quên, dường như sống bên lề thế giới và nền văn minh. Ông luôn dành một sự ưu ái, trìu mến cho người trẻ và phụ nữ. Có thể thấy trong câu chuyện của ông, họ là những đối tượng dễ dàng bị thế giới nuốt chửng hay làm tổn thương. Nhưng đó cũng chính là những tâm hồn tiềm tàng khả năng tái sinh mạnh mẽ, khơi dậy niềm thiết tha sống ở những con người khác. Bên cạnh đó, chủ đề đi tìm danh tính dường như chưa bao giờ là câu chuyện cũ trong sáng tác của Clézio, nhất là khi con người đang ngày càng đánh mất mình giữa sắt thép, bê tông, phương tiện hiện đại và những thành phố xa hoa, đồ sộ. Những câu chuyện không có những tình huống gay cấn, tình tiết hấp dẫn hay chi tiết mùi mẫn của Clézio dường như thách thức sự kiên nhẫn của độc giả. Thay vào đó, ông theo sát và xoáy sâu vào những biến động tâm lý bất ngờ của nhân vật: June (Bão) đã mạnh mẽ và quyết liệt ra sao trong niềm tin của riêng mình; Rachel (Người đàn bà không danh tính) đã để mình trôi dạt, lạc lối thế nào trong nỗi cô đơn của mình, trong những ngóc ngách thành phố. Mỗi câu chuyện đều mang đến một niềm xúc động sâu xa bằng lối văn phong giản dị, trong trẻo mà đa thanh. Những câu ngắn đầy chất thơ, chất nhạc. Và những mệnh đề, câu chữ, hình ảnh trở đi trở lại như một giai điệu ám ảnh. Song, giống như hành trình tự nhiên của một cơn bão, cấu tứ câu chuyện của Clézio nương theo đó đi về phía chân trời hừng sáng sau cơn biến động của đất trời. Ở phía đó, có sự đổi thay, sự tái sinh và có niềm tin không bao giờ lụi tắt. Đó cũng là chất thơ lãng mạn chảy len lách giữa khoảng trắng của những con chữ - là chất thơ của thiên nhiên vĩnh hằng và của từng khoảnh khắc sống. Clézio được ví như một "nhà văn đi bộ" với lối bút pháp "lãng du". Mỗi câu chuyện ông kể giống như cất lên một bản du ca u buồn, sâu lắng nhưng đẹp đẽ dành cho những nơi ông từng đi qua, những con người từng gặp gỡ. Đó còn là những lời an ủi dịu dàng, thiết tha dành cho bao tâm hồn cô độc và lạc lõng. *** Đêm buông trên đảo. Đêm lấp đầy những chỗ trũng, len lỏi giữa ruộng đồng, một đợt thủy triều bóng tối dần bao phủ vạn vật. Cũng vào thời khắc đó, đảo vắng bóng người. Sáng nào du khách cũng tới trên chuyến phà lúc tám giờ, họ làm đông đúc những không gian trống, họ lấp đầy những bãi biển, họ trôi như một thứ nước bẩn dọc theo cả những con lộ lớn lẫn những nẻo đường đất. Rồi khi đêm tới, họ lại rời khỏi những vũng vịnh, họ lùi ra xa, họ mất tăm. Những con tàu mang họ đi. Và đêm tới. Tôi tới đảo lần đầu cách đây đã ba mươi năm. Thời gian đã biến đổi mọi thứ. Tôi chỉ loáng thoáng nhận ra những nơi chốn, những ngọn đồi, những bãi biển, và dáng hình của miệng núi lửa sạt lở phía Đông. Tôi quay lại vì lẽ gì nhỉ? Phải chăng không còn nơi nào khác cho một nhà văn đang kiếm tìm lối viết? Một chốn nương náu khác, xa sự ồn ào của thế gian, đỡ om sòm hơn, đỡ ngạo ngược hơn, một chốn khác để ngồi vào bàn làm việc và gõ lên máy những dòng chữ, đối diện với bức tường chăng? Tôi đã muốn thăm lại hòn đảo này, nơi tận cùng thế giới này, nơi không lịch sử, không ký ức này, một mỏm đá bị dập vùi bởi sóng gió đại dương, rã rời vì du khách. Ba mươi năm, tuổi đời của một con bò. Tôi từng đến vì gió, vì biển, vì lũ ngựa bán hoang dã lang thang kéo theo dây buộc, vì lũ bò cái ban đêm giữa những nẻo đường, tiếng rống thê thiết của chúng nghe như tiếng tù và báo sương mù, vì những tiếng sủa ăng ẳng của lũ chó bị xích. Cách đây ba mươi năm trên đảo không có khách sạn, chỉ có các phòng ngủ cho thuê theo tuần gần đê chắn sóng, và những lán gỗ bán đồ ăn bên bờ biển. Chúng tôi đã thuê một ngôi nhà gỗ nhỏ trên đồi, không tiện nghi, ẩm ướt và lạnh giá, nhưng vậy là lý tưởng rồi. Mary Song hơn tôi một giáp, mái tóc tuyệt đẹp đen nhánh gần như ngả biếc, đôi mắt màu lá thu, nàng hát những tình khúc buồn trong một khách sạn dành cho du khách giàu có tại Bangkok. Cớ gì nàng lại muốn cùng tôi tới hòn đảo hoang vu này? Tôi chắc đây không phải ý tưởng của mình, chính nàng đã bàn đến chuyện này trước. Hoặc nàng đã nghe ai đó nhắc đến một đảo đá hoang sơ, mỗi khi có bão là hết đường tới. “Em cần tĩnh lặng.” Hoặc giả đó là ý của tôi, chính tôi đã nghĩ tới sự tĩnh lặng. Để viết, để lại bắt đầu viết sau nhiều năm uổng phí. Sự tĩnh lặng, khoảng cách. Sự tĩnh lặng, trong gió và biển. Những đêm lạnh, những đám sao. Giờ thì toàn bộ chuyện này chỉ còn là một kỷ niệm. Ký ức không quan trọng, không hậu quả. Duy có hiện tại là đáng kể. Tôi đã học được điều ấy qua những kinh nghiệm xương máu của mình. Gió là bạn tôi. Gió thổi không ngừng trên các mỏm đá, gió đến từ chân trời phía Đông rồi vấp phải bức vách gãy vỡ của núi lửa, ập xuống những ngọn đồi rồi luồn lách giữa những bức tường nham thạch thấp, lướt trên cát san hô và vỏ sò vỏ ốc vỡ. Ban đêm, trong phòng khách sạn nơi tôi ở (Happy Day*, làm cách nào cái tên này tới được tận đây, một cái tên không trọn vẹn trên chiếc thùng gỗ mắc cạn), gió lùa qua khe cửa sổ và cửa ra vào, xuyên qua căn phòng trống nơi chiếc giường sắt han gỉ cũng y hệt một mảnh tàu đắm. Không có lý do nào khác cho chuyến biệt xứ của tôi, cho nỗi cô đơn của tôi, duy có sắc xám của trời và biển, và tiếng gọi ám ảnh của những người đàn bà mò bào ngư, tiếng kêu của họ, tiếng huýt của họ, một dạng ngôn ngữ cổ, xa lạ, ngôn ngữ của những động vật biển đã từng lui tới thế giới rất lâu trước con người... Aouah, iya, ahi, ahi!... Những thiếu nữ làng chài đã ở đó khi Mary dẫn tôi đi thăm đảo. Bấy giờ mọi chuyện khác hẳn. Những thiếu nữ mò ốc tuổi chừng đôi mươi, họ lặn không trang phục, thắt lưng buộc đá, đeo những mặt nạ dưỡng khí lấy từ xác lính Nhật. Các cô không có bao tay cũng chẳng có giày. Giờ đây họ đã già đi, họ mặc bộ đồ lặn liền thân bằng cao su đen, họ đeo bao tay dệt bằng sợi hóa học, đi giày nhựa màu sắc sặc sỡ. Kết thúc ngày làm việc, họ bước đi dọc con đường ven biển, đẩy xe nôi chở những thứ thu hoạch được. Đôi khi họ có xe máy điện, xe ba bánh chạy xăng. Họ có dao inox giắt ở thắt lưng. Họ cởi bộ đồ lặn giữa những mỏm đá, gần một túp lều gạch nén xây riêng cho họ, họ giội rửa ở vòi nước lộ thiên rồi trở về nhà bước thấp bước cao, tiều tụy vì chứng thấp khớp. Gió đã cuốn theo những năm tháng của họ, những năm tháng của tôi cũng vậy. Bầu trời xám xịt, màu của hối hận. Biển động, nổi sóng lừng, biển xô vào đá ngầm, vào những chỏm nham thạch, biển quay cuồng và vỗ bập bềnh trong những vũng lớn, nơi lối vào những vịnh hẹp. Không có những phụ nữ ngày ngày mò hải sản này, biển có lẽ sẽ thù địch, khó gần. Mỗi sáng tôi lắng nghe tiếng kêu của những người đàn bà của biển, âm thanh rè rè từ hơi thở của họ khi họ ngoi đầu khỏi mặt nước, ahouiii, iya,tôi hình dung khoảng thời gian đã qua, tôi hình dung ra Mary, đã mất tích, tôi nghĩ đến giọng hát tình ca của nàng, đến tuổi thanh xuân của nàng, đến thời trai trẻ của tôi. Chiến tranh đã xóa đi tất cả, chiến tranh đã phá tan tất cả. Thời đó tôi thấy chiến tranh đẹp, tôi muốn viết về nó, trải nghiệm nó và rồi viết về nó. Chiến tranh là một cô gái đẹp với thân hình trong mộng, mái tóc dài đen nhánh, đôi mắt sáng, giọng nói mê hoặc, rồi nàng biến thành mụ già tóc tai bù xù và nanh nọc, thành ác phụ báo oán, bất nhân, tàn nhẫn. Đây là những hình ảnh trở lại trong tâm trí tôi, chúng dâng lên từ nơi sâu thẳm nhất. Những thân thể trật trẹo, những cái đầu bị cắt rời, rải khắp các đường phố bẩn thỉu, những vũng xăng, những vũng máu. Một vị hắc trong miệng, một thứ mồ hôi nặng mùi. Trong một căn nhà không cửa sổ, chỉ có một bóng đèn điện không chao duy nhất, bốn gã đàn ông giữ chặt một người đàn bà. Hai gã ngồi lên chân cô, một gã đã trói hai cổ tay cô bằng một dây đai, gã thứ tư mải miết với một vụ cưỡng hiếp bất tận. Không có tiếng động, như trong những cơn mơ. Ngoại trừ tiếng thở khàn khàn, tiếng thở của kẻ cưỡng hiếp, và một hơi thở khác, nhanh, dữ dội, của người phụ nữ, nghẹt lại vì sợ, có lẽ thoạt đầu cô đã kêu bởi dấu vết một cú đánh vẫn còn lưu trên môi dưới của cô, nó đã rách toạc, và máu chảy tạo thành một vết loang hình sao trên cằm. Hơi thở của kẻ cưỡng hiếp dần gấp gáp, một dạng thở khò khè sâu, nghẹt lại, một âm thanh trầm và giật cục của máy móc, một âm thanh gấp gáp và dường như sẽ không bao giờ ngưng. Mary là lâu sau đó, Mary uống rượu nhiều quá mức, và biển đã mang nàng đi. “Em có thể làm điều đó,” nàng đã nói khi chúng tôi băng qua eo biển ngăn cách đảo với đất liền. Nàng đi vào lòng biển lúc hoàng hôn. Thủy triều đã làm láng mượt những con sóng, những vòng tròn chậm rãi tiến lên, màu rượu vang. Những người đã nhìn thấy nàng đi vào lòng biển đều nói rằng nàng điềm tĩnh, rằng nàng mỉm cười. Nàng đã mặc đồ bơi, một bộ liền màu lam không tay, rồi nàng luồn lách giữa những mỏm đá đen, nàng bắt đầu bơi cho đến khi những con sóng, hoặc ánh mặt trời lặn che khuất nàng khỏi tầm mắt những người chứng kiến. Tôi đã không biết gì, không thấy gì, không dự đoán gì. Trong phòng ngủ ở căn lều của chúng tôi, quần áo của nàng được gấp và xếp sắp như thể nàng đi du lịch, thế thôi. Những chai rượu gạo rỗng không, những bao thuốc lá bóc dở. Một túi xách đựng vài vật dụng thân thuộc, lược và bàn chải tóc, nhíp, gương, phấn, son môi, khăn mùi soa, chìa khóa, ít tiền Mỹ và tiền Nhật, mọi thứ như thể hai tiếng nữa nàng sẽ quay lại. Viên cảnh sát duy nhất trên đảo này - một người đàn ông trẻ tuổi, tóc húi cua, trông như một thiếu niên - đã kiểm kê. Nhưng anh ta đã để lại cho tôi mọi thứ, như thể tôi là một người họ hàng, một người bạn. Tôi là người được yêu cầu tùy tâm xử lý những di vật, nếu họ tìm thấy, hỏa thiêu chúng, quăng chúng xuống biển. Nhưng không bao giờ có gì khác ngoài những đồ dùng không quan trọng kia. Bà chủ nhà trọ đã chọn trong đám quần áo, bà ta giữ lại đôi giày màu lam xinh xắn, chiếc mũ rơm, đôi tất dài, cặp kính râm, chiếc túi xách. Tôi đã mang các giấy tờ ra sân đốt. Những chiếc chìa khóa, những đồ vật riêng tư, tôi đã quăng chúng xuống biển, từ boong con tàu đưa tôi trở lại đất liền. Một ánh vàng rực lấp lánh giữa hai làn nước, tôi nghĩ một chú cá phàm ăn, một chú cá tráp hồng, một chú cá đối đã nuốt chửng chúng. Thi thể chưa bao giờ được tìm thấy. Mary, với làn da mềm mại, óng vàng sắc hổ phách, đôi chân chắc lẳn của vũ nữ, của vận động viên bơi lội, mái tóc đen dài. “Nhưng vì lý do gì?” viên cảnh sát đã hỏi. Đó là tất cả những gì anh ta đã nói. Như thể một ngày nào đó tôi có thể có câu trả lời. Như thể tôi có chìa khóa giải mã ẩn ngữ. Giờ đây khi bão nổi, khi gió thổi liên hồi từ chân trời phía Đông, Mary trở lại. Không phải tôi gặp ảo giác, cũng không phải chớm điên (nhưng tay bác sĩ của nhà tù, khi thảo báo cáo, hắn đã viết lên đầu hồ sơ của tôi chữ Y nguy hại), ngược lại là khác, mọi giác quan của tôi thành sắc bén, cảnh giác, nhạy cảm đến cực độ để thu nhận thứ mà biển và gió mang lại. Chẳng có gì rõ rệt, tuy nhiên đó là một cảm giác sống chứ không phải chết, nó tỏa vầng hào quang quanh da tôi, điều này đánh thức ký ức về những trò yêu đương của chúng tôi, của Mary và tôi, những mơn trớn dài từ dưới lên trên, trong bóng tối phòng ngủ, hơi thở, vị đôi môi, những nụ hôn sâu khiến tôi rùng mình, cho đến tận con sóng tình chậm rãi, cơ thể hai chúng tôi hòa quyện, bụng áp bụng, toàn bộ những chuyện này tôi đã bị cấm đoán từ lâu, là tôi tự cấm đoán, bởi tôi đang ở chốn ngục tù cho phần đời còn lại. Trong bão tôi nghe thấy giọng nàng, tôi cảm thấy trái tim nàng, tôi cảm thấy hơi thở nàng. Gió rít qua các khe của vách kính lớn, lùa vào qua phía mặt hẹp han gỉ, xuyên qua căn phòng và khiến cánh cửa đập đập. Bấy giờ trên đảo mọi thứ ngưng lại. Những con phà không băng qua lạch nữa, những chiếc xe máy và ô tô ngừng vũ điệu của chúng, ngày giống như đêm, âm u, có những tia chớp không kèm tiếng sấm xuyên qua. Mary đã ra đi vào một buổi chiều tĩnh mịch, trong mặt biển phẳng lặng như một tấm gương. Nàng trở về trong cơn bão, từng mảnh nhỏ li ti bị biển thẳm tống xuất. Ban đầu, tôi không muốn tin vào điều đó. Tôi từng ghê sợ, từng ép chặt thái dương giữa hai bàn tay để dập tắt những hình ảnh này. Giờ đây tôi nhớ đến một người chết đuối. Không phải một phụ nữ mà là một đứa trẻ lên bảy, một tối nọ thằng bé mất tích, Mary và tôi đã cùng dân làng tìm bé nhiều giờ trong đêm. Chúng tôi men dọc bờ biển, tay cầm đèn pin, chúng tôi gọi bé nhưng không biết tên nó, Mary hét gọi: “Này cưng ơi!” Nàng thảng thốt, nước mắt giàn giụa trên má. Bấy giờ có chính cơn gió này, những đợt sóng này, thứ mùi đáng nguyền rủa này của vực biển sâu thẳm. Rạng sáng có tin báo đã tìm thấy xác thằng bé. Trên một bãi cát lẫn sỏi giữa các mỏm đá, chúng tôi lại gần, nhờ một tiếng thở than giống như tiếng gió dẫn đường, nhưng đó là mẹ thằng bé. Chị ngồi trên cát đen, thằng bé đặt trong lòng. Thằng bé trần truồng, áo quần biển đã lột sạch, trừ chiếc áo phông bẩn tạo thành một chuỗi vòng xoắn vặn quanh thân trên. Gương mặt bé trắng bệch, nhưng điều tôi tức khắc nhìn thấy, đó là lũ cua và cá đã bắt đầu rỉa xác bé, gặm chớp mũi và cu của bé. Mary không muốn lại gần, nàng run lên vì sợ và vì lạnh, và tôi đã ôm nàng sát gần mình, chúng tôi ở lại trong phòng, nằm quấn lấy nhau trên giường, không vuốt ve nhau, chỉ miệng kề miệng thở. Giờ đây hình ảnh ấy ám ảnh tôi, thân thể người đàn bà ấy nằm dang chữ thập trong khi tụi lính hành sự, và dưới khuôn miệng bầm giập máu đã khô thành hình ngôi sao đen. Và đôi mắt cô đang nhìn tôi, trong khi tôi lùi lại gần cửa, đôi mắt cô nhìn thấy xuyên qua tôi, nhìn thấy cái chết. Tôi chưa bao giờ nói gì với Mary, vậy mà chính vì cảnh tượng tàn bạo ấy nàng đã ngụp xuống biển để không bao giờ trở lại. Biển rửa cái chết, biển gặm nhấm, phá hủy và không trả lại gì, hoặc trả một cái xác trẻ em đã bị róc rỉa. Thoạt đầu, tôi đã nghĩ rằng cả mình cũng trở lại hòn đảo này để chết. Tìm lại được dấu vết của Mary, đi vào lòng biển một tối rồi biến mất. Giờ đây trong cơn bão, nàng tới phòng tôi. Đó là một giấc mơ tỉnh thức. Tôi bị mùi thân thể nàng quyện với mùi biển thẳm đánh thức. Một mùi hương nồng và hắc, chua, gắt, u uất, xộc lên. Tôi ngửi thấy mùi rêu tảo trong tóc nàng. Tôi cảm thấy làn da nàng hết sức mịn màng, nhẵn mượt nhờ sóng bào mòn, lóng lánh ánh xà cừ vì muối. Thân hình nàng bồng bềnh trong ánh sáng lờ mờ buổi hoàng hôn, luồn vào trong chăn, và bộ phận sinh dục cương cứng của tôi đi vào nàng, tới rùng mình, quấn siết tôi trong niềm mê đắm lạnh băng của nàng, thân nàng trườn sát thân tôi, môi nàng kề trên dương vật tôi, tôi hoàn toàn quyện vào nàng, nàng quyện vào tôi, cho tới cơn cực khoái. Mary, chết từ ba mươi năm nay, chưa bao giờ tìm thấy xác. Mary trở về từ đáy đại dương, đang nói vào tai tôi bằng chất giọng hơi khàn, trở về để hát cho tôi nghe những ca khúc bị lãng quên, những ca khúc về những ngôi sao trời, mà nàng đã hát tôi nghe ở quán bar khách sạn Phương Đông, lần đầu tôi gặp nàng. Không hẳn là quán bar dành cho lính tráng, và nàng không hẳn là ca sĩ quán bar. Khi nhìn thấy nàng tôi đã không hình dung ra nàng là ai, con một lính Mỹ được một gia đình nhà quê vùng Arkansas nhận nuôi, sinh ra từ một vụ cưỡng hiếp, bị bỏ rơi và trở về để chiến thắng kẻ thù truyền kiếp của mình, để hoàn thành một cuộc báo oán, hay đơn giản chỉ do sự lại giống vốn hay xua loài người đi theo vết cũ cội nguồn một cách tất yếu. Nhưng tôi, tôi đâu phải một tên lính, nàng hiểu vậy, và chắc hẳn đó là lý do nàng chọn tôi, cái gã mặc đồ lao động và mái tóc húi cua, bám theo đám lính trong những cuộc hành quân, tay cầm máy ảnh để tường thuật mọi cuộc chiến tranh. Tôi còn nhớ lần đầu chúng tôi trò chuyện, sau lượt trình diễn của nàng, vào lúc đêm muộn, hoặc sáng sớm, trên khoảnh sân hiên nhô ra trên dòng Menam Chao Phraya, nàng đã cúi xuống để nhìn thứ gì đó trên mặt đất, một con bướm đêm màu đen đang đập cánh hấp hối, và qua phần cổ khoét của chiếc váy đỏ nàng mặc, tôi đã nhìn thấy bầu ngực nàng buông lơi, hết sức mịn màng, khêu gợi. Nàng không biết gì về tôi và tôi cũng không biết gì về nàng. Bấy giờ tôi đã mang vết thương nham nhở của tội ác, tôi cứ ngỡ chuyện đó sẽ qua đi. Tôi từng quên đi quá khứ, việc xử vụ khiếu kiện bốn tên lính đã cưỡng hiếp một phụ nữ ở Huế. Cái gã giữ tay cô gái quặt ra sau đã thụi vào môi cô để bắt cô im miệng, còn gã kia xâm nhập cô chẳng ngại ngần, thậm chí không cởi quần, và tôi nhìn, không nói gì, không làm gì hoặc gần như thế, chỉ chớm cương cứng, nhưng nhìn và làm thinh, đó là hành động. Có lẽ tôi sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì để khi ấy đã ở nơi nào khác, để không từng chứng kiến. Trước tòa, tôi đã không tự biện hộ. Thiếu phụ có mặt tại đó, ngồi hàng ghế đầu. Tôi đã liếc trộm và không nhận ra cô. Cô có vẻ trẻ hơn, gần như một đứa trẻ. Cô ngồi trên ghế băng, bất động, gương mặt được ống đèn nê ông của phòng xử án chiếu sáng. Khuôn miệng nhỏ, mím chặt, da mặt kéo căng ra vì búi tóc đen. Ai đó đã đọc lời chứng của cô bằng tiếng Anh, còn cô vẫn không nhúc nhích. Bốn gã nhà binh ngồi trên một ghế băng khác, cách cô vài mét, và chúng cũng không nhúc nhích. Chúng không nhìn ai, chỉ nhìn bức tường đối diện, cái bục nơi thẩm phán ngồi. Chúng thì ngược lại, tôi thấy chúng già hơn, đã phị ra vì mỡ, với nước da nhợt nhạt của những kẻ tù phạm. Tôi chưa từng kể chuyện này với Mary. Khi tôi gặp nàng tại khách sạn Phương Đông ấy, nàng hỏi tôi đã làm gì lúc rời quân ngũ. Tôi trả lời: “Không làm gì hết... Anh đi đây đi đó, vậy thôi.” Nàng không căn vặn, vả chăng tôi có lẽ chẳng bao giờ đủ can đảm để nói với nàng sự thật: “Anh đã bị kết án tù vì đã chứng kiến một tội ác, và đã không làm gì để ngăn cản tội ác đó.” Tôi muốn sống cùng Mary, đi đây đi đó cùng nàng, nghe nàng hát, san sẻ tấm thân nàng và cuộc đời nàng. Nếu tôi kể với nàng toàn bộ chuyện kia, hẳn là nàng sẽ xua đuổi tôi. Tôi đã sống cùng nàng một năm, cho tới khi đến hòn đảo này. Rồi một ngày nọ nàng đã quyết định đi vào lòng biển. Tôi chưa bao giờ hiểu được. Chúng tôi ẩn mình. Không ai quen biết chúng tôi, không ai có thể kể cho nàng nghe. Có lẽ nàng điên, chỉ vậy thôi, có lẽ chẳng có lời giải thích nào cho hành động của nàng. Nàng đã tự để sóng cuốn đi. Nàng vốn là tay bơi giỏi khác thường. Ngày còn ở Mỹ, năm mười sáu tuổi, nàng được chọn đi dự Olympic Melbourne. Nàng mang họ Farrell, Mary Song Farrell. Song bởi nàng được bố mẹ nuôi nhận về dưới cái tên này. Mẹ đẻ nàng tên là Song cũng nên. Hoặc giả bà ấy hay hát*, tôi không biết nữa. Có lẽ chính tôi về sau này đã suy diễn ra toàn bộ câu chuyện đó. Tôi không suy diễn cho những người khác, họ không khiến tôi bận tâm. Tôi không phải kiểu người kể chuyện đời mình trong những quán bar. Tôi không quen những người gốc Arkansas này, những người nhà Farrell này. Những chủ trang trại. Mary học cách chăm sóc gia súc, cách sửa xe máy, cách lái máy kéo tại nhà họ. Rồi một ngày nọ, năm mười tám tuổi, nàng bay đi để tới nơi khác sống, để hát. Đó là thiên hướng của nàng. Nàng đã có một cuộc sống khác, nàng chưa bao giờ trở lại trang trại. Khi nàng mất tích trên biển, tôi đã cố gắng liên lạc với bố mẹ nàng, tôi đã viết vài lá thư gửi đến quận, để biết địa chỉ của họ. Tuyệt không thấy hồi âm. Khi tôi quen Mary, nàng gần bốn mươi, nhưng có vẻ trẻ hơn tuổi nhiều. Bấy giờ tôi hai mươi tám. Tôi vừa mãn hạn tù. Bão truyền sang tôi cơn thịnh nộ. Tôi cần những tiếng ó biển của bão, những ống bễ lò rèn của bão. Chính vì bão mà tôi quay trở lại hòn đảo này. Bấy giờ, mọi thứ khép kín, mọi người mất hút trong nhà của họ, họ đóng cửa chớp và chặn cửa ra vào, họ thu lu trong vỏ ốc, trong lớp mai của mình. Họ cũng đã biến mất, những du khách mặt bự phấn, những kiểu tạo dáng, những điệu bộ, những trò õng ẹo của họ. Những cô gái mặc quần soóc cực ngắn đạp xe, những cậu trai cưỡi mô tô địa hình, những cặp kính Polaroid, những ba lô, máy ảnh, họ đã quay về thành phố, về những tòa chung cư, về xứ sở không bao giờ có bão của họ. Người dân đảo này đã tự chôn mình. Họ chơi bài, họ ngồi bệt trong những căn hầm với cửa kính mờ hơi nước mà uống bia. Ánh điện chập chờn, chẳng mấy chốc sẽ cắt điện trên diện rộng. Tủ cấp đông của các cửa hàng sẽ rỉ thứ nước vàng như nước tiểu, những con cá ướp muối sẽ chảy nước và long mắt, những thanh sô cô la đông lạnh sẽ mềm nhũn trong bao bì. Chính vì bão mà tôi quay trở lại. Tôi lại cảm thấy mình đang trong thời chiến, trong rủi may, theo cuộc bỏ chạy tán loạn của các đoàn quân, nghe những chiếc loa thét lác những mệnh lệnh khó hiểu. Tôi ngược dòng thời gian, dựng lại đời mình. Tôi những muốn quay trở lại ngưỡng cửa ngôi nhà ở Huế, nhìn, và cái nhìn của tôi sẽ ngưng thời gian lại, sẽ gieo mơ hồ lẫn lộn, sẽ giải thoát người đàn bà khỏi những kẻ hành hạ cô. Nhưng trong những điều tôi biết sẽ không có điều gì nhạt nhòa đi. Hòn đảo là sự đoan chắc về nỗi vô phương cứu chuộc. Bằng chứng của sự bất lực. Hòn đảo là ụ nổi cuối cùng, bến đỗ cuối cùng trước hư không. Chính vì điều này mà tôi trở lại. Không phải để tìm lại quá khứ, không phải để đánh hơi tìm lối như một con chó. Mà để chắc chắn rằng mình sẽ không nhận ra điều gì. Để bão xóa đi tất cả, vĩnh viễn, bởi biển là chân lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Bão của tác giả J. M. G. Le Clézio.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mai Mối Cho Tối Nếu Em Có Thể - Susan Elizabeth Phillips
Cuộc sống với Annabelle gói gọn trong hai tiếng THẢM HỌA: từ công việc, tình cảm cho đến bộ tóc đỏ bất trị! Nhưng cơ hội đổi đời đã tới: cô tiếp quản công ty mai mối từ người bà đã khuất. Tất cả những gì cô phải làm là thuyết phục bằng được anh chàng độc thân nóng bỏng nhất Chicago trở thành khách hàng của mình. Tại sao một đại diện thể thao đẹp trai, mạnh mẽ và giàu có như Heath Champion lại cần đến bà mối, nhất là một thảm họa biết đi như Annabelle? Đúng, cô thú vị, cô có một vẻ hấp dẫn kỳ quặc. Nhưng cái Heath đang tìm kiếm là biểu tượng thành công cuối cùng - một người vợ hoàn hảo. Và người ta có cần một bà mối ngoại hạng để tìm được một người vợ ngoại hạng? Gợi cảm, sắc sảo và hài hước - Mai mối cho tôi nếu em có thể thỏa mãn những kỳ vọng của độc giả đối với tiểu thuyết của một nhà văn đã năm lần được vinh danh trong giải RITA - giải thưởng uy tín của Mỹ nhất cho dòng tiểu thuyết lãng mạn. *** Bộ sách Chicago Stars gồm có: It Had to Be You (Vì đó là em) [Chicago Stars #1] - Susan Elizabeth Phillips Heaven, Texas [Chicago Stars #2] - Susan Elizabeth Phillips Nobody's baby but mine [Chicago Stars #3] - Susan Elizabeth Phillips Dream a Little Dream [Chicago Stars #4] - Susan Elizabeth Phillips This Heart of Mine [Chicago Stars #5] - Susan Elizabeth Phillips Mai mối cho tôi nếu em có thể [Chicago Stars #6] - Susan Elizabeth Phillips *** Susan Elizabeth Phillips sinh tại Ohio (Hoa Kỳ), tốt nghiệp ngành Nghệ thuật Sân khấu tại Đại học Ohio, rồi dạy kịch nghệ và tiếng Anh tại một trường phổ thông cho đến khi sinh con đầu lòng và trở thành bà nội trợ. Từng cùng bạn thân Claire Lafkowitz hợp tác viết một tiểu thuyết lãng mạn lịch sử, nhưng sau đó Phillips độc lập sáng tác và thu được thành công rực rỡ. Các tiểu thuyết của bà đều nằm trong danh sách bestseller của tờ USA Today và New York Times. Bà là tác giả duy nhất năm lần đoạt giải Sách của năm và chủ nhân giải Thành tựu trọn đời do Hội các nhà văn lãng mạn Mỹ trao. Hiện bà sống tại ngoại ô Chicago với chồng và hai con trai lớn. *** Pippi giơ chiếc máy ghi âm lại gần môi và hét lên. “Alô! A lô! A lô!” “Nó hoạt động rồi,” Heath nói từ chiếc ghế xô pha ở phía bên kia căn phòng giải trí đa phương tiện. “Cháu có thể nói nhỏ hơn một chút được không?” “Tên tôi là Victoria Phoebe Tucker…” con bé thì thầm. Và rồi quay lại với âm lượng bình thường của nó. “Tôi năm tuổi, và tôi sống tại khách sạn Plaza.” Con bé lén nhìn Heath một cái, nhưng anh vừa xem bộ phim Eloise với nó, và anh chỉ mỉm cười. “Đây là chiếc máy ghi âm của hoàng tử và chú ấy nói tôi phải trả lại.” “Chết tiệt, đúng là cháu phải trả lại.” Đáng lẽ con bé sẽ xem trận đấu của đội Bít Tất với anh trong lúc câu lạc bộ sách gặp nhau trên gác, nhưng con bé thấy chán. “Chú hoàng tử vẫn còn giận vì tất cả những chiếc điện thoại tôi lấy khi tôi mới chỉ có ba tuổi,” con bé nói vào trong máy ghi âm. “Nhưng tôi chỉ là một đứa bé, và mẹ đã tìm thấy hầu hết và trả chúng lại.” “Không phải tất cả.” “Vì tôi không thể nhớ được đã để chúng ở đâu!” con bé tuyên bố, ném cho anh cái nhìn thách thức của một tiền vệ nhỏ tuổi. “Cháu nói điều đó khoảng một triệu lần rồi.” Lờ anh đi, con bé tập trung vào những gì nó đang làm. “Đây là những điều tôi yêu. Tôi yêu mẹ và bố và Danney, bác Phoebe và bác Dan và tất cả những anh chị em h của mình và hoàng tử khi chú ấy không nói về những chiếc điện thoại và Belle và tất cả mọi người trong câu lạc bộ sách trừ Portia, vì bác ấy không để tôi cầm hoa khi bác ấy cưới Bodie vì họ chạy tốn với Vegas Heath cười lớn. “Họ chạy trốn.” “Họ chạy trốn,” con bé lặp lại. “Và Belle không muốn Portia tham gia câu lạc bộ sách, nhưng bác Phoebe cố nài vì bác ấy nói Portia cần…” con bé không thể nhớ được, và con bé nhìn Heath. “Tình bạn với những người phụ nữ không có tính cạnh tranh,” anh nói với một nụ cười. “Và, như thường lệ, bác Phoebe đã đúng. Chính vì thế, bằng sự sáng suốt của mình, chú đã thuyết phục bác Phoebe trở thành cố vấn của Portia.” Pippi gật đầu và tiếp tục nói chuyện phiếm. “Hoàng tử quý Portia. Portia từng là bà mối, nhưng giờ bác ấy làm việc cho chú ấy, và hoàng tử nói bác ấy là người đại diện thể thao chết tiệt giỏi nhất chú ấy từng biết, và, nhờ bác ấy, bộ phận thể thao mới của phụ nữ đang ngày càng phát triển.” “Cô ấy là đại diện thể thao giỏi thứ ba,” anh nói. “Sau Bodie và chú. Và không được nói chết tiệt.” Con bé lún sâu hơn vào chiếc ghế bành lớn, bắt tréo hai bàn chân giống y hệt anh. “Hoàng tử trả cho Portia rất nhiều tiền vì món quà cưới dành cho Annabelle. Mẹ nói đó là món quà ngớ ngẩn, nhưng Belle nói hoàng tử đã tặng thứ cô ấy thích nhất trên đời, và giờ Portia cho Belle lời khuyên trong việc làm thế nào để trở thành bà mối.” Con bé nhăn trán. “Chú tặng cho Belle cái gì làm quà cưới thế?” “Dữ liệu từ công ty cũ của Portia.” “Chú nên tặng cô ấy một con chó con.” Heath cười lớn, rồi cáu kỉnh nhìn chiếc ti vi. “Đừng có lúc nào cũng xoáy bóng chứ, đồ ngốc!” “Tôi không yêu đội Bít Tất,” Pippy nhấn mạnh. “Nhưng tôi yêu bác sĩ Adam và Delaney vì họ để tôi cầm hoa trong đám cưới, mẹ của Belle khóc và nói Belle là bà mối giỏi nhất trên thế giới. Tôi yêu Rosemary vì cô ấy kể chuyện và trang điểm cho tôi. Bây giờ Rosemary cũng đang ở trong câu lạc bộ sách thì Rosemary cũng sẽ ở trong câu lạc bộ, vì Rosemary cũng cần có bạn nhiều như Portia, và rồi Belle nói cô ấy quá hạnh phúc để có thể tiếp tục gi lại sự say đắng xưa.” “Cay đắng.” “Đây là những gì tôi không yêu.” Con bé lại len lén nhìn về phía Heath. “Tôi không yêu Trevor Granger Champion. Thằng bé có chiếc bỉm to tướng ở bẹn.” “Lại bắt đầu rồi đây.” Heath chuyển cái gối tựa trong tay lên vai anh. Con bé bỏ chiếc máy ghi âm xuống, bò ra khỏi cái ghế bành to, và trèo lên trên xô pha cạnh anh, săm soi em bé đang ngủ với vẻ khó chịu. “Trevor nói với cháu nó ghét vì chú bế nó suốt. Nó nói nó muốn chú đặt…nó…xuống!” Vì Trevor chỉ mới sáu tháng, Heath nghi ngờ khả năng ngolf ngữ của thằng bé cao đến thế, nhưng anh tắt tiếng ti vi đi và hướng sự chú ý sang cô bé năm tuổi đang ghen tị. “Chú tưởng chúng ta đã nói về chuyện này rồi.” Con bé dựa vào anh. “Nói lại với cháu đi.” Anh vòng cánh tay rảnh rỗi quanh vai con bé. Pip không hài lòng trừ phi tất cả những người đàn ông trong thế giới tự do hoàn toàn chịu sự sai khiến của con bé, điều con bé rất hay làm. “Trev chỉ là em bé. Em ấy rất tẻ nhạt. Em ấy không thể chơi với chú như cháu được.” “Và em ấy là thằng bé khóc lóc to tướng.” Heath cảm thấy nhu cầu phụ tử ủng hộ tính nam nhi của con trai mình. “Chỉ khi em ấy đói bụng thôi.” Pippy nâng đầu lên. “Cháu nghe thấy họ di chuyển trên lầu. Cháu nghĩ đã đến lúc ăn tráng miệng rồi.” “Cháu chắc không muốn xem nốt trận đấu với chú chứ?” “Thực tế đi nào.” Đó là câu nói mới nhất của con bé, và nó sử dụng câu này mỗi khi bố mẹ nó không có mặt. ... Mời các bạn đón đọc Mai Mối Cho Tối Nếu Em Có Thể của tác giả Susan Elizabeth Phillips.
Lỡ Yêu Người Hoàn Hảo - Susan Elizabeth Phillips
Bằng câu chuyện hài hước, tác giả chứng minh rằng những người tính cách trái ngược luôn tạo sức hấp dẫn với đối phương. Tình đầu hay tình cuối / 9 bí quyết để trở thành nhà văn ăn khách Câu chuyện bắt đầu bằng việc Lucy Jorik chuẩn bị kết hôn với Ted Beaudine - ngài thị trưởng trẻ tuổi, điển trai, tài năng và giàu có của thị trấn Wynette. Đó là người đàn ông hoàn hảo được tất cả phụ nữ trong thị trấn ngưỡng mộ. Đám cưới sẽ diễn ra tốt đẹp nếu không có sự xuất hiện của Meg Koranda - cô bạn thân chuyên gây rắc rối của Lucy. Meg đến Wynette để tham dự đám cưới của Lucy với vai trò phù dâu. Nhưng ngay từ lần đầu tiên gặp Ted, bằng linh cảm của một người bạn thân Meg đã một mực quả quyết rằng anh chàng này chẳng hợp với Lucy chút nào. Vốn mê Ted như điếu đổ, nhưng chẳng hiểu tại sao Lucy lại nghe theo lời khuyên của Meg và hủy bỏ hôn lễ vào phút chót. Từ đây, Meg chính thức trở thành kẻ thù của Ted và cả thị trấn Wynette - nơi tôn sùng thị trưởng của họ không khác nào một vị thánh. Lúc này, một rắc rối khác tiếp tục xảy đến với Meg. Vì muốn cô con gái ba mươi tuổi của mình tự lập, dừng việc rong chơi vô bổ suốt ngày và dựa dẫm vào người khác, bố mẹ Meg đã khóa các tài khoản của cô. Nợ tiền phòng, bị Ted gây khó dễ, cộng thêm việc không tìm được ai giúp đỡ, Meg đành phải ở lại Wynette làm công để trừ nợ. Từ một cô tiểu thư quen hưởng thụ, bỗng chốc Meg trở thành một nhân viên phục vụ phòng cỏn con và suốt ngày bị bắt nạt. Không còn cách nào khác cô đành nhẫn nhịn và chăm chỉ làm việc để sớm có tiền  quay trở lại Los Angeles.  Do hiểu nhầm Ted là một người đàn ông trăng hoa, nên Meg đã ghét cay ghét đắng anh chàng và suốt ngày tìm cách chơi xấu. Nhưng càng ở lâu bên Ted cô mới nhận ra anh là một người đàn ông tuyệt vời hơn cả những gì thiên hạ vẫn đồn đại. Tình yêu đã chớm nở giữa hai con người hoàn toàn trái ngược này. Đây cũng là lúc những rắc rối mới xảy đến. Đầu tiên là việc đám phụ nữ ở Wynette, đặc biệt là những cô nàng đang để ý đến Ted không thể chấp nhận được chuyện anh yêu Meg. Tất cả đều cho rằng Meg đã dùng thủ đoạn để quyến rũ ngài thị trưởng đẹp trai của Wynette. Họ tìm đủ mọi cách để chơi xấu Meg. Không chỉ có vậy, Spencer Skipjack - ông chủ lớn nhất trong dự án đầu tư xây dựng khu nghỉ dưỡng ở Wynette cũng để ý đến Meg. Điều đó đồng nghĩa với việc Ted phải đứng giữa hai lựa chọn khó khăn là bảo vệ người con gái anh yêu hay nghĩ cho tương lai của thị trấn Wynette. Chỉ có dũng cảm đứng lên đương đầu với mọi khó khăn mới đưa họ đến một cái kết hạnh phúc. Susan Elizabeth Phillips không còn xa lạ với những độc giả yêu thích dòng văn học lãng mạn Mỹ. Các tác phẩm nổi tiếng của bà xuất bản ở Việt Nam gồm: Trời sinh quyến rũ, Tình đầu hay tình cuối, Con của riêng tôi, Mai mối cho tôi nếu em có thể, Vì đó là em... Các tiểu thuyết của Susan đều nằm trong danh sách best-seller của tờ USA Today và New York Times. Bà là tác giả 5 lần đoạt giải "Sách của năm" và từng nhận giải "Thành tựu trọn đời" do Hội các nhà văn lãng mạn Mỹ trao tặng. *** Bộ sách Wynette, Texas gồm có: Fancy Pants (Wynette, Texas, #1) Lady Be Good (Wynette, Texas, #2) Glitter Baby (Wynette, Texas, #3) First Lady (Wynette, Texas, #4) - Tình Đầu Hay Tình Cuối What I Did for Love (Wynette, Texas, #5) - Lỡ Yêu Người Hoàn Hảo Call Me Irresistible (Wynette, Texas, #6) The Great Escape (Wynette, Texas, #7) *** Lời tác giả Mỗi cuốn sách tôi viết đều có một đời sống độc lập, nhưng điều đó không ngăn cản các nhân vật trong tác phẩm này lang thang vào trong một tác phẩm khác. Rất nhiều người bạn cũ đã bước vào trong cuốn sách này - Francesca và Dallie Beaudine từ Fancy Pants; Nealy Case và Mat Jorik từ First Lady; Fleur và Jake Koranda từ Glitter Baby (Bé Cưng Lấp Lánh); Kenny Traveler và Emma (ối chà... Công nương Emma chứ) từ Lady Be Good, và cuốn này còn bao gồm cả câu chuyện tình yêu có một không hai của Torie và Dex nữa. Bạn có thể thấp thoáng bắt gặp hình ảnh Meg ngày xưa trong What I Did for Love (Tình đầu hay tình cuối) và gặp phiên bản thời trẻ của Ted trong cả Fancy Pants lẫn Lady Be Good. Và, phải, Lucy Jorik xứng đáng có một cái kết hạnh phúc. Khi viết những dòng chữ này, tôi đã đang làm việc cật lực với câu chuyện của cô ấy rồi. Tôi cần phải cảm ơn sự động viên của rất nhiều người, trong đó có biên tập viên và người bạn thân quyến rũ khôn cưỡng của tôi, Carrie Feron; đại diện lâu năm của tôi, Steven Axelrod, những người cổ vũ tuyệt vời của tôi ở Harper Collins, William Morrow và Avon Books. Đúng vậy, tôi biết rõ ràng tôi may mắn biết bao khi được tất cả các bạn cùng sát cánh bên tôi. Tôi không biết mình có thể làm gì nếu không có trợ lý tài năng Sharon Mitchell, người đã giúp hết thảy mọi chuyện được trôi chảy. Vô cùng cảm ơn cố vấn golf độc nhất vô nhị của tôi, Bill Phillips. Ngoài ra còn có Claire Smith và Jessie Niermeyer vì đã chia sẻ “Những câu chuyện từ xe đồ uống” của họ. Nhiệt liệt hoan hô những bạn văn thân thiết của tôi: Jennifer Greene, Kristin Hannah, Jayne Ann. Krentz, Cathie Linz, Suzette Van và Margaret Watson, cùng tràng pháo tay đặc biệt dành cho Lindsay Longford. Xin được gửi những cái ôm nồng nhiệt tới những người bạn tôi mới quen trên Facebook cùng tất cả những người ủng hộ tuyệt vời đã gửi tin nhắn cho tôi! SUSAN ELIZABETH PHILLIPS Mời các bạn đón đọc Lỡ Yêu Người Hoàn Hảo của tác giả Susan Elizabeth Phillips.
Cuộc Gọi Từ Thiên Thần
“Một câu chuyện lãng mạn, cốt truyện bậc thầy với kết thúc điêu luyện”, đó là những dấu ấn về tác phẩm mới của Guillaume Musso. Một tuần trước lễ Giáng sinh, tại phòng chờ chật cứng người của sân bay JKF, New York, một người đàn ông và một người phụ nữ đâm sầm vào nhau. Sau cú sốc vì va chạm và những lời lẽ cáu giận mà mỗi người họ dành cho người còn lại, Madeline và Jonathan ai đi đường nấy: anh lên chuyến bay Delta 4565 rời New York với đích đến là San Francisco, còn cô lên chuyến Air France để trở về Paris nơi mình sinh sống. Mọi thứ tưởng như ổn thỏa, nhưng chỉ đến khi đã cách nhau 10.000 cây số, họ mới nhận ra rằng mình đang … cầm nhầm điện thoại của nhau. Madeline là chủ một tiệm hoa tại Paris, trong khi Jonathan là chủ một nhà hàng tại San Franciso. Họ chưa bao giờ gặp nhau, và hẳn cũng sẽ chẳng bao giờ tái ngộ. Nhưng rồi, hai chiếc điện thoại đã trở thành cầu nối, khiến họ khám phá ra những điều bí mật gắn kết giữa hai con người họ mà chính họ cũng chưa bao giờ ngờ tới… Và định mệnh tình yêu, nằm trong hai chiếc điện thoại kia…  “Họ là những người mà số phận đã được định sẵn để gặp nhau. Dù họ đang ở đâu. Dù họ sẽ đi đến đâu. Một ngày nào đó họ sẽ gặp nhau. Claudie Gallay – trích Cuộc gọi từ thiên thần Cuốn tiểu thuyết Cuộc gọi từ thiên thần trở thành cuộc hành trình của hai con người xa lạ dần khám phá về nhau. Từ những tò mò rất đỗi con người, thông qua những hành động “xem trộm” hình ảnh, tin nhắn, email, đến tất cả những ghi chú, phim ảnh, trò chơi trong điện thoại của… người còn lại, Jonathan và Madeline dần vẽ nên hình ảnh rõ nét nhưng vẫn đầy bí ẩn của đối phương. Một lực hấp dẫn vô hình được tạo nên giữa hai người họ, lôi kéo cả hai vào một câu chuyện tình còn gay cấn hơn cả truyện trinh thám. *** Với sức nóng của mình, cuốn tiểu thuyết nhận được không ít lời khen từ giới phê bình và báo chí. “Một tiểu thuyết trinh thám có sức hút mạnh mẽ.” - Télé7jours “Một cuộc điều tra khiến chúng ta nghẹt thở đến tận trang cuối cùng.” - France 2 – “Cuộc gọi từ thiên thần, bắt đầu như một tiểu thuyết lãng mạn, rồi tăng tốc trở thành một cuốn trinh thám mà ta không thể buông tay ra nữa.” – Đài Europe 11. *** Guillaume Musso, sinh năm 1974 tại Antibes (miền Đông nước Pháp), hiện đang là giáo viên chuyên ngành kinh tế. Say mê văn học từ thuở nhỏ, anh bắt tay vào viết văn khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học. Văn chương của Guillaume Musso được ví như sự kết hợp hoàn hảo giữa Marc Levy và Stephen King, đậm màu sắc liêu trai, hấp dẫn, bất ngờ và lãng mạn mê đắm, tiệm cận chiều sâu tâm hồn mỗi con người. Những tác phẩm tiêu biểu của Guillaume Musso là: Skidamarink, Rồi sau đó…, Hãy Cứu Em, Hẹn Em Ngày Đó, Bởi Vì Yêu. Bảy Năm Sau Ngày Mai Nếu Đời Anh Vắng Em Cô Gái Trong Trang Sách Trở Lại Tìm Nhau Cuộc Gọi Từ Thiên Thần Giây Phút Này Công Viên Trung Tâm Cô Gái Brooklyn Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn Cô Gái Và Màn Đêm Cô Gái Vô Danh Trên Sông Seine Dưới Một Mái Nhà Ở Paris Cuộc Đời Là Một Tiểu Thuyết ... Tác phẩm của Gaulliaume Musso đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, và một số đang được dựng phim. Guillaume Musso được xem là hiện tượng best-seller của văn chương Pháp hiện tại. *** Sáng hôm sau Mặt trời mọc trên nền trời quang đãng chiếu những tia nắng lấp lánh xuống thành phố màu xà cừ. Oằn mình dưới lớp tuyết dày tới sáu mươi phân, New York bị cắt lìa khỏi thế giới. Hàng đống tuyết chắn ngang các đường phố và vỉa hè. Hôm nay, xe buýt và taxi ở nguyên trong bãi đỗ, tàu ở nguyên trong ga và máy bay không rời khỏi đường băng. Trong ít nhất là vài giờ đông hồ, Manhattan trở thành một khu thể thao mùa đông rộng mênh mông. Xỏ ván trượt tuyết hoặc giày chuyên dụng, nhiều người dân New York vẫn thách thức cái lạnh bất chấp chấp giờ sáng sớm và lũ trẻ đã thỏa thích vui đùa: Đua xe trượt, ném tuyết, đắp người tuyết với những thứ phụ kiện kỳ khôi. Tay cầm cốc, tay kia cầm gói giấy bìa Jonathan thận trọng bước xuống vỉa hè đóng băng. Anh đã trải qua gần hết đêm tại sở cảnh sát để tham dự một cuộc họp tổng kết dài cùng cảnh sát địa phương và những người có vai vế của FBI, cơ quan phụ trách việc bảo vệ Danny từ nay trở về sau. Kể cả thận trọng đến thế, rốt cuộc anh vẫn bị sẩy chân trên sân trượt băng đó. Như một diễn viên xiếc chuyên giữ thăng bằng, anh túm lấy mấu cột đèn đường, làm thứ chất lỏng nóng bỏng sánh lên tận nắp chiếc cốc trên tay. Anh nhẹ cả người khi bước qua ngưỡng cửa bệnh viện St. Jude nằm ở rìa khu Chinatown và Financial District. Anh đi thang máy lên tầng trên nơi Alice đang được chữa trị. Ngoài hành lang có một đám đông cảnh sát mặc đồng phục đang gác trước cửa phòng bệnh. Jonathan trình giấy ủy nhiệm trước khi đẩy cửa bước vào. Nằm dài trên giường, ống truyền gắn vào cánh tay, Alice đang được chăm sóc. Cô bé ngước mắt về phía anh, và vẫn hơi choáng váng, nở một nụ cười khiến gương mặt xinh xắn rạng rỡ hẳn lên. Việc truyền nước đã phát huy tác dụng nhiệm màu: Mặt Alice hồng hào trở lại và cho thấy vẻ bình tâm đáng kinh ngạc sau những gì cô bé vừa phải trải qua. Anh cười lại với Alice, vẫy tay ra hiệu để cô bé biết rằng anh sẽ lại ghé qua ngay khi y tá rời đi. Jonathan đi tiếp tới tầng có phòng bệnh nơi Madeline điều trị. Khi đi ngang qua một xe đẩy kim loại, anh lấy một khay nhựa rồi để tách sô cô la nóng lên trên. Anh mở hộp các tông, lấy ra ba chiếc bánh kẹp và bày biện sao cho hài hòa nhất. Cuối cùng, khi nhìn thấy một vành hoa trắng treo trên tường, anh bèn ngắt trộm một nhành hoa chân ngỗng để lên khay cho đẹp mắt. - Bữa sáng tới đây! Anh dõng dạc khi bước vào phòng. Anh cứ nghĩ Madeline chỉ có một mình, nhưng hóa ra còn có cả đại úy Delgadillo, một trong những trụ cột của sở cảnh sát New York: Một người Mỹ gốc Latinh cao lớn với hàm răng trắng lóa vả vẻ nghiêm nghị cố hữu. Ăn mặc chải chuốt, nét mặt khinh khỉnh, viên cảnh sát không thèm nhìn anh lấy một mảy may. - Tôi chờ câu trả lời của cô từ giờ đến cuối tuần này, cô Greene ạ, ông ta nói chắc nịch trước khi rời khỏi phòng. Madeline đang nằm dài trên giường. Mới ngày hôm trước, cô đã bị gây mê toàn thân. Cuộc phẫu thuật diễn ra suôn sẻ, nhưng những vết cắn đã hằn sâu vào da thịt cô nên dấu vết cuộc đụng độ với đàn chó đô gơ sẽ còn lưu lại mãi. - Thứ này dành cho em sao? Cô hỏi và nhón lấy một chiếc bánh. - Vị va ni, sô cô la, kẹo dẻo marshmallow. Những chiếc bánh kẹp ngon nhất New York đấy, anh cam đoan. - Một ngày nào đó anh sẽ tự tay làm món bánh này cho em thưởng thức chứ? Anh biết là em vẫn chưa được nếm những món anh làm mà! Anh gật đầu rồi ngồi xuống giường cạnh cô. - Anh đã gặp Alice chưa? Cô hỏi. - Anh vừa gặp ban nãy. Cô bé đang dần bình phục rồi. - Thế còn bên sở cảnh sát, mọi việc trôi chảy chứ anh? - Anh nghĩ vậy. Họ nói với anh là đã tới đây lấy lời khai của em? - Vâng, thông qua người trung gian anh đã gặp ban nãy đó. Anh sẽ không bao giờ đoán ra đâu: Ông ấy đề nghị nhận em vào làm việc! Thoạt tiên anh cứ ngỡ cô đùa, nhưng cô tỏ ra hết sức hào hứng: - Cảnh sát điều tra tham vấn cho sở Cảnh sát New York! - Em sẽ nhận lời ư? - Em nghĩ vậy. Em rất mê hoa, nhưng cái ghế cảnh sát này ngấm vào máu em mất rồi. Jonathan lặng lẽ gật đầu rồi đứng dậy để vén gọn rèm. Ánh nắng chan hòa trong căn phòng nhưng Madeline lại thoáng rùng mình vì lạnh. Tương lai cuộc sống chung giữa họ sẽ thế nào đây? Trong vài ngày qua, họ đã sống trong cơn say với hiểm nguy. Những thử thách họ đã cùng vượt qua dữ dội tới mức hẳn nhiên sẽ vạch ra một ranh giới trong cuộc sống của họ. Mỗi người lần lượt nắm giữ mạng sống của người kia trong tay. Họ đã đặt trọn niềm tin vào nhau, họ đã bù trừ cho nhau, họ đã yêu nhau. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Gọi Từ Thiên Thần của tác giả Guillaume Musso.
Bởi Vì Yêu - Guillaume Musso
Layla, một bé gái năm tuổi biến mất trong một trung tâm thương mại Los Angeles. Bố mẹ cô, đã chia tay nhau vì không thể vượt qua cú sốc. Năm năm sau, cô bé lại xuất hiện, vẫn tại trung tâm thương mại đó. Cô còn sống, nhưng mắc phải một chứng câm lạ thường. Layla đã ở đâu trong suốt quãng thời gian đó? Cùng với ai? Và nhất là: Vì sao cô bé lại trở về? Một chuyện tình yêu cuốn hút. Một cuốn sách làm độc giả đắm chìm trong cảm giác hồi hộp và huyền bí. Một kết cuộc mở nút khiến ai nấy đều ngỡ ngàng. *** "Musso chẳng khác nào Sipelberg của nền văn học đương đại Pháp." - Nostalgie "Cuốn tiểu thuyết hay nhất của Guillaume Musso từ trước tới nay, gây ngạc nhiên nhất, sâu kín nhất, nhân văn nhất." - La Voix du Nord "Một ly cocktail chứa đầy bất ngờ và tưởng tượng." - Elle "Musso đã chứng tỏ tài năng bậc thầy của mình trong nghệ thuật tạo bất ngờ." - Paris Match "Ngay từ trang đầu tiên, chúng ta đã lọt vào bẫy. Và toàn bộ sự kháng cự sẽ là vô ích." - Le Figaro Magazine "Độc giả hoàn toàn bị cuốn theo câu chuyện, giữa một bên là mộng mị và bên kia là hư ảo. Một kết cuộc khiến ta phải ngỡ ngàng." - Gala "Cảm xúc, hồi hộp, siêu nhiên... Trí tưởng tượng làm nên tất cả." - Télé Star "Không có lấy một nét hoa mỹ, Guillamue Musso đã tạo ra sự bất ngờ theo bản năng." - Le Parisien "Khám phá Bởi vì yêu tức là bị dẫn dụ bởi ngòi bút linh hoạt và quyến rũ của Guillaume Musso." - Nice Matin "Một cuốn sách rất khó để khép lại." - Matin Plus Không gì tốt hơn một cuốn tiểu thuyết giúp ta hiểu rằng hiện thực khác xa bình thường, rằng hiện thực không đủ để thỏa mãn những mong muốn, dục vọng và mơ ước của con người. Mario VARGAS LLOSA *** Mark không bao giờ tiếp tục công việc của mình tại văn phòng của Connor nữa. Hai tháng sau đợt điều trị, anh tìm được chân "bác sĩ tâm lý đường phố" tại một hiệp hội chuyên giúp đỡ những người vô gia cư. Hàng ngày, anh đi khắp thành phố giám sát khoảng hơn trăm người không nhà cửa mà anh đang gắng giúp họ thoát khỏi cảnh rượu chè, khỏi cuộc sống đường phố và tránh cho họ lại rơi vào cảnh đó. Anh toàn tâm toàn ý cho cuộc chiến mới này và cũng đã thành công. Chính lần rơi xuống địa ngục đã biến đổi con người anh: anh chàng bác sĩ tâm lý trẻ tuổi đầy tham vọng và tự tin đã nhường chỗ cho một người đàn ông yếu đuối hơn, nhưng con người hơn. o O o Ở một góc phố nào đó, anh thường thấy Layla ngồi trên một bậc thềm hay trên cầu bập bênh ở khoảng sân chơi dành cho trẻ con. Gương mặt con bé vẫn đẹp, vẫn trầm lặng và bình thản như khi ở trên máy bay. Con bé không nói gì nhưng đưa tay khẽ ra hiệu với anh và anh cũng kín đáo đáp lại. Điều ấy khiến anh an tâm rằng con bé vẫn ở đó, phía sau anh, dõi theo anh như một vị thần hộ mệnh trong tuổi thơ anh. Anh không hề nói chuyện này với cả Connor lẫn Nicole, bởi anh biết rõ rằng việc Layla xuất hiện chỉ xảy ra trong tâm trí anh mà thôi. Nhưng có quan trọng gì: điều tưởng tượng ấy là một phần của trạng thái cân bằng mà anh tự dựng lên cho mình để lại tiếp tục đứng vững. Đó mới là tất cả những gì đáng kể. o O o Một buổi sáng tháng Chín, khi mở radio, Mark mới hay tin Alyson Harrison đã chết trong một tai nạn máy bay trực thăng tại Amazon. Đứng đầu một trong những tổ chức do người cha sáng lập, kiều nữ tỷ phú ấy, từ vài tháng nay, đã tham gia rất nhiệt tình vào cuộc chiến chống lại quá trình tàn phá khu rừng nhiệt đới rộng lớn để bảo vệ môi trường. o O o Phải mất nhiều tuần mới xác định được vị trí của xác máy bay, nhưng người ta chẳng bao giờ tìm thấy xác của viên phi công người Brasil lẫn cô gái được hưởng quyền thừa kế giàu có. o O o Tháng Mười một, Mark nhận được một tấm bưu thiếp được gửi từ Lhassa. Trên ảnh là một tác phẩm điêu khắc bánh xe luân hồi đặt trước lối vào một tu viện Tây Tạng. Đoạn thư không ký tên người gửi, nhưng anh nhận ra ngay nó là của Alyson. Trên tấm bưu thiếp viết: Em luôn nghĩ tới anh. Có lẽ anh có lý: có lẽ người ta có thể thực sự làm lại cuộc đời mình chứ không chỉ hài lòng với việc tiếp tục nó. Dù sao chăng nữa đó cũng chính là niềm hy vọng từ nay em sẽ bám lấy. Trong khi chờ đợi, em muốn chuyển đến anh điều này. Em đã tìm thấy mấy dòng ghi chú này ở một trong những cuốn sổ tay của bố em. Em rất muốn tin rằng ông giữ chúng để một ngày nào đó trao lại cho anh... Sau đó là ba từ: vĩ độ, kinh độ, độ cao... kèm theo một dãy số khiến Mark cứ mãi băn khăn cho đến khi anh hiểu được ý nghĩa của chúng. Đó là tọa độ của Hệ thống Định vị Toàn cầu nơi Layla được chôn cất. o O o Một ngày thứ Bảy tháng Mười hai, Mark cùng Nicole lái xe băng qua những dãy núi và bình nguyên sỏi đá thuộc sa mạc Mojave. Vào đầu giờ chiều một ngày không ánh mặt trời, họ tới một vùng đất hoang vắng, nằm không xa biên giới bang Nevada. Theo như trên máy thu nhận tín hiệu từ Hệ thống Định vị Toàn cầu, họ rời đường chính để tiến sâu vào một khu toàn đá dăm bụi bặm và những mỏm đá lởm chởm. Ở giữa vùng đất khô cằn ấy, họ nhận thấy một khoảnh đất nằm hơi tách biệt, mặt đất nứt nẻ, nhưng có tán cây Ngọc giá che phủ. Ngay lập tức họ biết rằng chính là đây. Họ xuống xe rồi tay trong tay tiến về nơi con gái họ đang yên nghỉ. Sáu năm sau ngày Layla qua đời, cuối cùng họ cũng đã có thể nói lời vĩnh biệt cô bé. o O o Rồi cuộc sống bắt kịp họ... Một hôm, Mark bất giác nhận thấy mình đang mỉm cười và anh lại có thể nói về chuyện tương lai. Cùng với thời gian, những lần xuất hiện của Layla thưa dần. Không phải bởi anh không nghĩ tới con gái mình nữa, mà bởi anh nghĩ tới con bé theo một cách khác. Từ giờ anh có thể nhớ tới con bé mà không cảm thấy quặn đau nữa. Một tối, Nicole báo với anh rằng cô đang có mang và anh đón nhận tin ấy lòng tràn ngập vui sướng. Họ có một bé trai đầu tiên rồi một cậu nhóc nữa vào ba năm sau đó. o O o Rồi năm tháng trôi đi... Chiều tối một ngày tháng Bảy, mười năm sau khi câu chuyện này bắt đầu, một cuộc gặp gỡ lạ lùng đã diễn ra tại sân bay Heathrow. Mùa hè ấy, Mark và Nicole nghỉ dài ngày để đưa hai cậu con trai của họ - Théo, tám tuổi, và Sam, năm tuổi - đi khám phá những kỳ quan của Lục địa Già. Sau khi đã thăm thú Athènes, Paris và London, gia đình nhỏ bé ấy giờ đang sửa soạn để bay tới lisbonne. - Đi nào, Sammy! Mark vừa hô to vừa nhấc bổng cậu con trai để đặt lên vai mình trong khi Nicole nắm lấy cánh tay Théo. Quây quần bên nhau, cả bốn người họ cùng lên thang cuốn dẫn tới khu vực làm thủ tục lên máy bay. Một cặp vợ chồng khác đang đi xuống theo chiều ngược lại. Người đàn ông, kiểu người Nam Mỹ, trìu mến nhìn vợ và con gái mình, một bé gái lai có nước da màu đồng. Khi hai gia đình đi ngang nhau, ánh mắt Mark thoáng bắt gặp ánh mắt người phụ nữ đang đi qua trước mặt anh. Anh chắc chắn đó là Alyson Harrison. Vẻ bề ngoài của cô đã đổi khác: cô gái tóc vàng với khuôn mặt xương xương, thân hình mảnh dẻ và dáng vẻ sành điệu giờ đã là một người phụ nữ đầy đặn, mái tóc hạt dẻ, cùng vài lọn uốn xoăn tạo cho cô một vẻ điềm tĩnh. Chỉ có đôi mắt cô là không thay đổi. Mark vẫn luôn tự hỏi Alyson đã trở thành người như thế nào. Vài tháng sau khi cô được coi là đã chết, anh đọc thấy trên tờ báo rằng người vợ góa của Richard Harrison đã nắm lại quyền điều hành đế chế Green Cross sau vụ mất tích thảm thương của cô con gái riêng của chồng. Và tất cả chỉ có thế. Thông qua chính dòng tin ấy Alyson đã nói lời từ biệt với báo giới, cô, người trong vòng nhiều năm liền luôn có mặt trên trang nhất các tờ lá cải trên toàn thế giới. Khi tự hỏi về những cảm giác mà hiện thời Alyson gợi lên trong anh, Mark chẳng hề cảm thấy một chút đắng cay nào và anh thậm chí còn hy vọng bản thân cũng đã tìm thấy sự thanh thản. Khi gặp cô trên thang cuốn, Mark đoán rằng cô gái từng được hưởng quyền thừa kế ấy đã làm lại cuộc đời mình dưới một nhân thân khác, cùng với người phi công trực thăng đã giúp cô giả chết, và cuối cùng cô cũng đã hạnh phúc. Alyson cũng nhận ra anh. Họ chỉ nhìn nhau một lúc, nhưng mỗi người đều thấy được trong ánh mắt người kia hình ảnh phản chiếu của tất cả những gì bản thân họ đang cảm thấy. Mời các bạn đón đọc Bởi Vì Yêu của tác giả Guillaume Musso.