Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Hồng Vàng - K. G. Paustovsky

K. G. Paustovsky (1892 – 1968) là một trong những nhà văn Nga xuất sắc nhất của thế kỷ hai mươi, mang tầm vóc quốc tế. Những tác phẩm của ông đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và được bạn đọc khắp năm châu vô cùng ngưỡng mộ. Chính vì vậy ông đã từng được đề cử để trao giải Nôben về văn học.  Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn Nga, Paustovsky đã làm cho bạn đọc và giới phê bình chú ý, bởi một giọng văn hết sức độc đáo giàu chất thơ đến mức nồng nàn, càng đọc càng thấm thía sâu xa về cuộc đời, về những nét rung động tinh tế nhất của tâm hồn trước tình người hồn hậu, trước thiên nhiên Nga bình dị mà tráng lệ và vô cùng quyến rũ. Tác phẩm của Pauxtốpki có một ma lực khổng lồ quyến rũ bạn đọc đến với những điều tưởng chừng nhỏ nhặt mà ẩn giấu trong đấy bao ý nghĩa lớn lao về cuộc đời. Người ta thường gọi ông là nhà thơ bị đóng đinh trên cây thánh giá của văn xuôi. Văn của ông là tiếng nói tâm hồn nồng cháy đến mức tột cùng của ông đối với Tổ quốc Nga Xô Viết.  Từ xưa tới nay khi viết truyện ngắn hay tiểu thuyết, các nhà văn đều chú ý đến việc xây dựng cốt truyện sao cho hấp dẫn. Riêng truyện ngắn và truyện vừa của Paustovsky lại không chú ý đến cốt truyện, mà đọc lại rất hấp dẫn. Ông viết truyện theo cốt cách và bút pháp của một nhà thơ, tiêu biểu như tác phẩm “Bông hồng vàng”. *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó – một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva – tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng… Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị…, tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. * * * Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: “Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn”. Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn – trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem – tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại “Chú Bé Chăn Bò”, “Gió Biển”, “Chuyến Xe Đêm”, “Người Đầu Bếp Già”… Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người – nhân vật chính – mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái “hư” trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: “Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi”. “Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu”. “Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi”. “Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó.” Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự – một bầu trời sống – với muôn vàn vì sao lấp lánh. “Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó”. Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài “Những Kẻ Lãng Mạn”, “Những Vầng Mây Lấp Lánh”, mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: “Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng”… “Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế”… “Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống “thô thiển” và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn… Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn.” Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng “hiện thực xã hội chủ nghĩa” muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp.3 Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài “Thơ Của Văn Xuôi” đăng trong tạp chí “Ngọn Cờ” (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. “Bông Hồng Vàng” ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí “Tháng Mười”(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết (“Bông Hồng Vàng” đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương “Ngôn Ngữ Kim Cương” và “Những Cuốn Từ Điển”. Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu… của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong “Bông Hồng Vàng”, sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch “Bông Hồng Vàng”, tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi tế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng của tác giả K. G. Paustovsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiền Chuộc Mạng - Danielle Steel
Danielle Steel cho tới hôm nay đã bán được tới hơn 519 triệu bản sách. Các tiểu thuyết của bà từng ở trong danh sách best-seller của tờ New York 412 tuần. 24 tiểu thuyết của bà được chuyển thể thành phim. Thu nhập trung bình mỗi năm của bà lên tới 30 triệu USD. Steel đã 5 lần lên xe hoa và cũng 5 lần hát bài ca chia biệt. Bà đã sinh 7 người con và đã mất một người con trai vì cậu ta tự vẫn. Cuộc đời bà luôn là sự gợi ý cho những tác phẩm đặc sắc nhất của bà. Sách đã trở thành cuộc sống của Steel, và cuộc sống được phản ánh cực kỳ đầy đủ trong sách của bà. Bà viết về “hội chợ phù hoa” trong giới thượng lưu Mỹ nhưng những sang giàu nhung lụa chỉ là những khung  viền lộng lẫy cho các bi kịch cuộc đời, những gia đình tan rã và những tình yêu đã tới lúc cạn kiệt cảm hứng. Trong các trang sách của Steel hòa trộn những cây dương cầm sáng bóng, những bức mành lụa mượt mà,  những bộ y phục hàng hiệu Dior, những bó hoa hồng thắm đỏ, “những cái giường rộng trắng muốt với tấm phủ bằng da cáo nâu xám” cùng rất nhiều đồ xa xỉ của một cuộc sống thượng lưu – thế nhưng giữa những đồ vật này luôn là những người phụ nữ cô đơn, với trái tim tan nát, với những mâu thuẫn không thể nào hóa giải trong đời tư… Danielle Streel viết về những người phụ nữ mòn mỏi kiếm tình hạnh phúc. Đối với chính bà, hạnh phúc là ở trong tình yêu, trong gia đình, trong con cái. Có lẽ bà đã viết như thế để cố gắng quên đi những thất bại của mình, những nỗi sợ, những hy vọng đã tan thành mây khói… Đến mức đôi khi chính bà cũng có cảm giác như cuộc sống đầy nhung lụa của bà cũng có thể bị tan thành mây khói trong chớp mắt. Bà có những ngôi nhà sang trọng và những cỗ xe limousine đen bóng, một tài khoản khổng lồ trong nhà băng, nhưng không bao giờ bà cảm thấy an tâm về tương lai. Bà luôn luôn lo lắng cho những người con của mình, bà luôn luôn sợ lỡ đâu họ bị bắt cóc hay có chuyện gì đó rất không hay có thể xảy ra với họ vào bất cứ lúc nào. Là một nữ văn sĩ nổi tiếng, một “người của công chúng” nhưng bà lại không thích đi ra ngoài mà luôn cố gắng ở cùng gia đình càng nhiều càng tốt. Bà thường viết vào đêm, bà chỉ ngủ mỗi ngày có ba bốn tiếng để có thể có nhiều thời gian hơn dành cho việc chăm lo cho con cái. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Peter Mathew đứng trước quầy trả đồ đạc của tù nhân. Gã nhận cái ví đựng bốn trăm đô-la mà người ta giao trả. Gã phải có giấy tờ phóng thích để xuất trình cho nhân viên quản lý các tù nhân mới được thả. Gã mặc áo quần do bang cấp, chiếc quần jeans, áo thun trắng có sơ-mi bằng vải bông dệt chéo khoác ra ngoài, mang giày chạy bộ và tất trắng. Áo quần thật rất khác xa với áo quần mà gã đã mặc khi mới vào đây. Gã ở trong nhà tù Pélican Bay của bang bốn năm ba tháng. Gã đã ở đủ thời gian tối thiểu của bản án, mà theo bản án thì gã phải ở tù lâu hơn thế rất nhiều. Gã đã bị bắt với số lượng rất nhiều côcain, bị chính quyền bang truy tố, bị ban hội thẩm của tòa án kết tội, tống giam vào nhà tù Pélican Bay. Mới đầu gã chỉ bán ma túy cho bạn bè, rồi sau đó không những để thỏa mãn cho thói quen không bỏ được, mà còn để phục vụ cho nhu cầu về tài chính của mình và cho gia đình. Chỉ trong vòng sáu tháng mà gã kiếm được gần một triệu đô-la trước khi bị bắt, nhưng dù có nhiều tiền như thế, gã cũng không lấp được lỗ hổng về mặt tài chính mà gã đã tạo nên một cách tùy hứng. Đó là vì gã nghiện ngập ma túy, đầu tư không thành công, buôn bán các mặt hàng thua lỗ. Gã làm môi giới thị trường chứng khoán một thời gian, gây nhiều rắc rối cho công ty, nhưng công ty không đủ chứng cứ để truy tố gã ra tòa, vì trường hợp này chỉ có nhân viên điều tra liên bang mới bắt gã, chứ không phải cảnh sát bang, mà nhân viên điều tra liên bang không có đủ chứng cớ. Gã sống một cuộc sống vượt quá đồng lương của mình, đắm mình trong những cuộc truy hoan bê tha, có nhiều khả năng sa đọa, tạo cơ hội cho những kẻ xấu đi vào con đường nghiện ngập ma túy. Cho nên cuối cùng gã chỉ còn con đường duy nhất là theo bọn buôn ma túy để có tiền sống theo nhu cầu của mình. Gã lại còn gây ra một vài chuyện gian lận nho nhỏ khác nữa, như làm quỷ phiếu giả, biển thủ tiền bạc của công ty, nhưng gã đã gặp may là không bị phát hiện. Khi gã bị bắt vì buôn bán côcain, chủ gã không truy tố gã, quan trọng gì nữa đâu mà truy tố. Gã không có tiền để trả bất cứ cái gì gã đã lấy, vả lại số tiền gã ăn cắp cũng không nhiều và gã đã tiêu hết từ lâu và không có cách gì để họ thu lại số tiền đã mất. Chủ của gã lại còn tỏ ra thương hại gã. Peter có cách làm cho mọi người có cảm tình với gã và thích gã. Peter Morgan là hình ảnh tượng trưng cho lớp thanh niên đi vào con đường lầm lạc. Trong cuộc sống, nhiều lần gã chọn con đường sa đọa và khước từ cơ hội ngàn vàng để tu nhân. Bạn bè và những người hợp tác làm ăn với Peter thường tỏ ra thương xót cho vợ con gã, gia đình gã đã trở thành nạn nhân của chương trình điên loạn và sự phán xét sai lầm của gã. Nhưng bất cứ người nào quen biết gã, đều nói rằng tự thâm tâm Peter Morgan là người tốt. Khó mà biết cái gì đã làm cho gã mắc phải sai lầm như thế. Trên thực tế, có nhiều người đã gặp phải trường hợp như gã. Bố Peter chết khi gã mới ba tuổi, ông ta là con dòng cháu giống trong một gia đình danh tiếng của xã hội thượng lưu ở New York. Mấy năm sau khi ông ta mất, tài sản gia đình bắt đầu khánh kiệt, vì mẹ gã tiêu xài hoang phí của chồng để lại trước khi gã khôn lớn. Chẳng bao lâu sau khi bố mất, mẹ gã lấy một thanh niên quý tộc rất nổi tiếng. Ông ta là người thừa kế của một gia đình chủ ngân hàng giàu có. Ông ta nhiệt tình thương yêu Peter và hai người em ruột của gã, ông ta cho anh em gã học hành và thương yêu chúng, cho chúng theo học những trường tư tốt nhất cùng với hai cậu em trai cùng mẹ khác cha với Peter. Gia đình ông ta có vẻ sung túc, có nhiều tiền, nhưng mẹ gã càng ngày càng uống rượu nhiều, đến nỗi cuối cùng bà lâm bệnh phải vào bệnh viện, để Peter và hai em ruột gã sống trong cảnh côi cút. Người bố kế không nhận anh em gã làm con nuôi, nên sau khi mẹ gã chết một năm thì ông ta lấy vợ khác. Bà vợ mới này thấy chồng không có lý do gì phải gánh lấy bầy con riêng của vợ cũ, về mặt tài chính cũng như về các mặt khác. Bà ta chỉ bằng lòng để cho chồng cưu mang chăm sóc hai đứa con mà ông đã có với mẹ của Peter, mặc dù bà ta muốn ông gửi hết chúng vào trường nội trú. Nhưng bà ta không muốn làm thế với ba đứa con riêng của mẹ Peter. Bố dượng của Peter đành phải cố gắng đưa anh em Peter vào trường nội trú, rồi vào cao đẳng với số tiền trợ cấp ít ỏi và nói rằng, ông không cho chúng ở trong nhà nữa và không cho thêm tiền bạc gì nữa. Sau đó, vào những dịp nghỉ lễ hay nghỉ hè, Peter phải ở lại trường, hay đến nghỉ ở nhà bạn bè. Gã phải trổ tài chinh phục họ, để họ mời gã về nghỉ ở nhà mình. Gã rất có tài quyến rũ người khác. Khi mẹ chết, Peter phải học cách làm đẹp lòng người để sống. Gã chỉ còn con đường ấy và nhờ phương cách ấy mà gã sống được thoải mái. Trong thời gian này, gã đã sống nhờ vào tình thương yêu, đùm bọc của bố mẹ bạn bè mình. ... Mời các bạn đón đọc Tiền Chuộc Mạng của tác giả Danielle Steel.
Một Mùa Thơ Dại - Higuchi Ichiyo
TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một xứ sở kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện một cuộc phiêu lưu hoan lạc. Dịch thuật, giới thiệu và biên khảo về những tác phẩm tinh hoa sẽ mở ra các lối cổng dẫn vào những cảnh tượng văn chương khác nhau, qua những không gian và thời gian vừa hiện thực vừa kỳ ảo. Khát vọng hiểu biết và vui thú trong đời là bản tính của con người ở mọi nơi và mọi thời. Các tác phẩm văn chương thật sự vĩ đại đều mang lại hai điều đó: vui thú và hiểu biết. Nhưng hiểu biết là niềm vui hiếm khi tự đến một cách dễ dãi. Cần đón đợi và hồi đáp. Mọi tác phẩm tinh hoa cần được đón đợi và hồi đáp trong niềm hân hoan có tên là “ĐỌC”. ĐỌC. Cầm sách lên và đọc. Trong sách có bạn hiền, có người đẹp, có mọi thứ. Do vậy, chúng tôi chủ trương TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC, xem đó như cửa ngõ của hiểu biết và niềm vui. CÓ NĂM CỬA: • Kiệt Tác: Mỗi Kiệt tác sẽ được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong phối cảnh văn hóa những đặc điểm thiết yếu. • Tuyển: Tuyển chọn những tác phẩm ngắn của một tác giả, một nền văn học hay một chủ đề mang tính điển mẫu (thuộc vòng đời hay vòng mùa) • Kiến Thức: Những kiến thức mà người đọc hiện đại cần có: trào lưu văn học, các nền văn học, thể loại... được trình bày gọn nhẹ, dễ tiếp nhận. • Nghiên Cứu: Các công trình chuyên sâu về một vấn đề văn học, một tác giả thiên tài, lý luận phê bình... • Mới: Về các hiện tượng văn học mới xuất hiện của nước ngoài đang gây chú ý hoặc đoạt các giải thưởng lớn... Mong ước chúng tôi là TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC sẽ tiến bước bền vững và được đón nhận thân tình. Tủ sách được biên soạn và dịch thuật từ những nhà giáo, dịch giả và nhà nghiên cứu có uy tín và tâm huyết với văn chương. NHẬT CHIÊU *** Ichiyo - thiên tài của tuổi xuân vĩnh cửu Ichiyo và 24 mùa xuân 24 mùa xuân đó là toàn bộ cuộc đời của cô gái thơ Higuchi Ichiyo! Nàng sinh giữa mùa xuân 1872 và mất vào mùa thu năm 1896. Một tài năng ngoại hạng đã đưa cuộc đời phù du đó lên đài cao văn học hiện đại Nhật Bản thời khai sáng. Cha nàng đã đưa gia đình đến Edo (Tokyo ngày nay) sinh sống và ông đã mua được tước vị Samurai vào năm 1867 sau bao nhiêu năm ước mơ. Và thực là công cốc, bởi cuộc Duy Tân sau đó đã hủy bỏ hệ thống giai cấp. Ichiyo mất cha năm nàng 17 tuổi và bắt đầu biết thế nào là cuộc sống khốn cùng, thế nào là lăn lộn kiếm sống: viết văn đối với nàng có mục đích trước mắt là kiếm tiền nuôi thân và nuôi gia đình. Trừ phi kiếm được nhiều tiền bằng văn chương nếu không nàng sẽ không thoát khỏi cảnh may thuê, giặt mướn hay bán kẹo bánh cho người dân nghèo. Tuy thế, bút hiệu mà nàng bắt đầu ký từ năm 1891 là Ichiyo (nàng tên thật là Natsuko) lại rất ý nghĩa. Ichiyo (Nhất Diệp) có nghĩa là “một lá” ám chỉ cọng lau đơn độc mà Bồ Đề Đạt Ma dùng vượt sông Dương Tử. Với bút danh đó, có lẽ Ichiyo khao khát một cuộc vượt sóng, đến được “bờ bên kia” nào đó. Nàng muốn tìm kiếm được chính bản thân mình ngay trong lúc phải ra sức kiếm tiền. Nàng viết cả thơ và truyện với một lối văn hầu như là cổ điển, không có dấu vết gì của ảnh hưởng Tây phương. Nhưng các nhân vật nữ của nàng đã bắt đầu rất mới trong ý thức và cả trong tâm lý. Hirata Tokuboku nhận xét: “Nàng chưa bao giờ vượt qua sự giáo dục mà nàng nhận được ở truyện Genji, ở Saikaku và các tác phẩm Nhật Bản cổ điển khác, thế mà nàng vẫn hiểu rõ chúng ta vô cùng, mặc chúng ta là những kẻ dấn mình hoàn toàn vào thơ văn phương Tây, và nàng cứ thản nhiên tiến bước đồng bộ với ta - Đó mới thật là sự lỗi lạc!”. Lần lượt, những tiểu thuyết nhỏ nhắn nhưng tuyệt đẹp của nàng xuất hiện: - Ngày cuối năm (Otsugomori, 1894) - Khe nước đục (Nigorie, 1895) - Đêm mười ba (Jusanya, 1895) - Một mùa thơ dại (Takekurabe, 1895) - Những ngả đường cách biệt (Wakaremichi, 1896). Khoảng 20 truyện ngắn, chừng 4.000 bài thơ và vài tiểu luận cùng một bộ nhật ký nổi tiếng - đó là những gì Ichiyo kịp tạo dựng trong cuộc đời mệnh yểu của mình. Nàng chết vì bệnh lao. Trước khi mất, Ichiyo đã nổi tiếng lẫy lừng. Những nhà văn lớn nhất thời ấy đều đến nhà nàng như Koda Rohan, Mori Ogai... Còn Izumi Kyoka thì chẳng ngại ngùng “tự phong” làm đồ đệ của nàng. Và sự ngưỡng mộ, sau cái chết của nàng lại càng dâng cao. Các truyện ngắn lừng danh của Ichiyo lần lượt được dựng thành những bộ phim nghệ thuật vào giữa những năm 1970, ở Tokyo mỗi sớm mai, đài phát thanh lật những trang nhật ký của Ichiyo ra và đọc với giọng truyền cảm ngân vang khắp xứ sở, làm sống dậy một linh hồn u uẩn, người con gái cuối cùng của Phù Tang xưa và người con gái đầu tiên của Nhật Bản mới. Tiểu thuyết Một mùa thơ dại - Kiệt tác của trò chơi làm người Một mùa thơ dại (Takekurabe) vừa xuất hiện đã ngay lập tức tỏa sáng. Hầu như các nhà phê bình đồng loạt nhìn nhận nó là kiệt tác mà không chút do dự sau khi nó được ấn hành đầy đủ vào tháng 4/1896. Chính vì tác phẩm này mà Mori Ogai phải thốt lên: “Cho dù bị chế nhạo là kẻ thờ phụng Ichiyo thế nào đi nữa, tôi cũng không ngần ngại gọi nàng là thi nhân thượng thặng”. Nhan đề Takekurabe (Một mùa thơ dại) có nghĩa đen là “So sánh chiều cao” bắt nguồn từ một tình tiết trong tác phẩm cổ điển Truyện Ise, trong đó đôi trai gái hồi tưởng về thời niên thiếu và những ngày tháng lớn lên bên nhau trên bờ dốc trưởng thành, cùng nhớ lại trò chơi đánh dấu chiều cao trên thành giếng nước. Như vậy, Takekurabe có thể được hiểu là trò chơi thơ dại, tâm hồn thơ dại, là thế giới của những đứa trẻ đang dần lớn khôn, đang ở trên bờ dốc có nhiều biến chuyển thể lực và tâm lý, sự biến chuyển mà Truyện Ise đã biểu hiện tài tình qua bài thơ của chàng trai gửi cho bạn gái: Khắc dấu chiều cao bên thành giếng nước vượt xa lúc nào kể từ ngày cuối nhìn em nao nao Một mùa thơ dại ra đời từ tinh thần của bài thơ ấy, nhưng nó không diễn ra bên bờ giếng nước ở thôn quê như Truyện Ise của đầu thế kỷ 10 mà Ichiyo cho nó một địa điểm khác hẳn, đó là khu phố ăn chơi Yoshiwara ở Edo (Tokyo). Vào năm 1893, Ichiyo mở một hiệu bánh kẹo nhỏ bé gần Yoshiwara. Tuy chuyện làm ăn này không thành công, nhưng nhờ đấy mà nàng có sự hiểu biết về đời sống Yoshiwara: con người, khung cảnh, màu sắc, âm thanh, mùi vị... Từ đó, Yoshiwara được tái hiện tuyệt vời trong nhiều tác phẩm của nàng như Ogai nhận xét: “Điều lỗi lạc nhất là các nhân vật qua lại khu phố này không hề là những dã thú đội lốt người như các bản sao xây dựng nhân vật theo kiểu tác phẩm của Emile Zola, Ibsen, của những kẻ theo đuôi cái gọi là trường phái tự nhiên - mà họ là những con người rất thật, cùng với họ chúng ta có thể khóc cười...”. Thật vậy, Một mùa thơ dại đầy ắp những chân dung rất sống động, khó mà quên, cả người lớn hay trẻ thơ nhưng chủ đề của nó là tình yêu thơ dại. Thế giới của cô bé Midori xinh đẹp, là em gái một kỹ nữ nổi tiếng và cậu bé Nobu hiền lành lặng lẽ, con trai của một nhà sư phàm tục. Thế giới đó còn có những đứa trẻ khác như Shota ở cửa hiệu cầm đồ, Sangoro con trai người phu kéo xe, như Chokichi con trai đội trưởng cứu hỏa... Đám trẻ này, như mọi đứa trẻ ở những nơi khác, lớn lên bên nhau qua những trò chơi, học tập, lễ hội, cãi vã, đánh nhau... Chúng cũng làm những việc người lớn sai bảo như Shota đi thâu tiền lãi, Sangoro đi kéo xe... Đúng hơn, chủ đề của tác phẩm không phải là “niềm thơ dại” mà chính là “niềm thơ dại bị đánh mất”. Chúng lần lượt đánh mất tuổi thơ của mình, leo lên bờ dốc của sự trưởng thành mà chấp nhận định mệnh, chấp nhận những vai trò mà người lớn giao cho chúng. Chúng không chọn lựa và không có quyền chọn lựa. Và đã đến cái ngày Midori vấn cao mái tóc theo phong cách Shimada của một thiếu nữ. Nàng biết mình sẽ phải đi theo con đường của người chị, làm một kỹ nữ. Nhìn cô bạn gái bỗng lộng lẫy ra, Shota kinh ngạc. Trước đây, cậu từng nói đùa rằng cậu sẽ “mua” nàng khi nàng lớn lên. Bây giờ thì cậu sắp làm một ông chủ của cửa hiệu cầm đồ, liệu lời đùa “vô tội” xưa kia có ý nghĩa gì? Không hề đùa cợt, cậu sẽ mua một đêm của Midori, cô bạn nhỏ ngày xưa chứ gì? Dường như bài hát cuối cùng mà cậu hát là: Ngày còn thơ cùng hoa với bướm mải mê chơi đùa Mười sáu bây giờ biết bao buồn khổ tan tành cơn mơ Đúng là sau đó, khi mà Midori ẩn mình vào phòng riêng, Shota đi quanh khu phố lặng lẽ, miễn cưỡng làm công việc của mình, không thiết hát ca gì: “Hiếm khi người ta nghe Shota lại cất lên tiếng hát. Đêm đêm cậu ấy cầm đèn lồng đi quanh khu phố thâu tiền lãi. Bóng cậu đi dọc theo bờ mương nước trông lạnh lẽo quá”. Nhưng Nobu mới thật là một nhân vật cô đơn. Nobu cô đơn và xa lạ ngay giữa gia đình của mình, giữa khu phố, giữa thời đại. Một phần do những hoàn cảnh ấy không cần có anh, một phần do bản chất quá mẫn cảm quá thanh khiết của anh. Trước hết là gia đình. Cha anh là một nhà sư phàm ăn tục uống, tham lam và ích kỷ. Ông ta có một vợ hai con. Ngoài Nobu còn có đứa con gái Ohana. Ohana có nhan sắc, ông ta mở cho nàng một quán trà để nàng có thể bán cái duyên sắc ấy kẻo nó phí hoài đi. Ông ta bảo vợ đi bán kẹp tóc cho khách thập phương những ngày lễ chùa. Ông ta thích ăn thịt lươn và thường sai con trai đi mua, một công việc mà Nobu thấy nhục vì anh căm ghét mọi thứ tanh tưởi. Tại sao một người như thế lại là nhà sư cho được? Và mẹ anh, và chị anh - tất cả những gì họ làm đều khiến cho Nobu sợ hãi, hổ nhục. Cạnh đó là cái khu phố Yoshiwara đầy náo động, đầy bạo lực và trụy lạc. Nó vây bọc tuổi thơ của Nobu. Nobu bị ném vào nó. Nó tồn tại cũng như thế giới của người lớn đang tồn tại mà không cần Nobu có chấp nhận hay không. Và thời đại, một thời đại quá nhiều hứa hẹn, khát vọng, giấc mơ... ở những thập niên cuối cùng của thế kỷ 19. Vào thời đại đó, những người phụ nữ được gì ở Yoshiwara và những đứa trẻ thơ được gì ở Yoshiwara? Chính vì vậy, sự mất mát niềm thơ dại trong tác phẩm Một mùa thơ dại mang tính tượng trưng. Những Nobu, Midori, Shota không chỉ là những đứa trẻ của khu phố không có đêm. Họ còn là cả một thế hệ. Đó là “Một bi ca về sự tan biến của một thời đại ngây thơ trong xã hội Nhật Bản” (nhà phê bình John Lewell). Hay nói rõ hơn như Robert Danly: “Một cách gián tiếp Một mùa thơ dại là bi ca về những vận hội mất mát, thể hiện niềm hối tiếc của thế hệ của thời đại mà Ichiyo sống, về một thời thơ dại và lạc quan đã bị tước đoạt quá phũ phàng”. Tác phẩm kết thúc vào lúc Nobu, trước ngày khoác áo tu, để lại một đóa hoa thủy tiên vàng bằng giấy nơi thềm nhà Midori như một tình yêu bị tước đoạt. “Một buổi mai mờ sương, ai đó đã để lại một đóa thủy tiên giấy trên thềm nhà nàng. Không có lời nhắn nào trong hoa, nhưng Midori vẫn đem đặt nó vào bình, ngắm nhìn trìu mến, nàng thấy nó không hoàn hảo chút nào tuy phảng phất buồn, trong dáng vẻ khô lạnh và cô đơn. Và rồi không biết từ đâu nàng nghe rằng sau ngày đó Nobu vào một tự viện, mặc lấy chiếc áo đen”. Chính trong Một mùa thơ dại, Ichiyo trẻ trung và thầm lặng bước lên đài cao thiên tài. Một thiên tài với tuổi xuân vĩnh cửu. NHẬT CHIÊU Mời các bạn đón đọc Một Mùa Thơ Dại của tác giả Higuchi Ichiyo.
Khóc Giữa Sài Gòn - Nguyễn Ngọc Thạch
Bức tranh hiện thực, với những gam màu xám lạnh về Sài Gòn của tác giả chuyên về những đề tài gai góc. Tất cả nhân vật, sự kiện trong tác phẩm này đều chỉ là hư cấu, nếu có trùng khớp hay hơi hơi giống bất cứ thứ gì ngoài đời, đều chỉ là ngẫu nhiên. Sài Gòn kia hào nhoáng lắm, sôi nổi, đông vui lắm, hà cớ gì phải khóc? Nhưng đọc sách của Nguyễn Ngọc Thạch mới thấy ở những nơi càng rộng lớn, con người càng dễ cô đơn. Gần đây, yếu tố sex xuất hiện khá nhiều trong sách của các nhà văn trẻ. Tuy nhiên, để đưa chất liệu nhạy cảm này vào tác phẩm một cách khéo léo và tinh tế không phải chuyện dễ. Nguyễn Ngọc Thạch đã thành công khi theo hướng này. Sau  Đời Callboy, Lòng dạ đàn bà, Chuyển giới, Mẹ ơi con đồng tính, Chênh vênh hai lăm, Một giọt đàn bà,  Khóc giữa Sài Gòn là cuốn sách tiếp theo Nguyễn Ngọc Thạch viết về những đề tài gai góc của xã hội. Thạch như đang thuật lại những câu chuyện đời thường mà anh là một phần trong số đó. Thạch có một biệt tài khác nữa: hiểu đàn bà hơn chính đàn bà. Anh biết họ cần gì, muốn gì, và đau đớn vì điều gì. Cứ thế, Thạch chỉ việc khắc họa nhân vật thôi, và người đọc - nhất là phái nữ - tự nhiên sẽ tìm thấy mình trong các đứa con tinh thần của Thạch. Cái nhìn của Thạch trong Khóc giữa Sài Gòn không chỉ về tình yêu đơn thuần mà còn về sự hy sinh và nỗ lực kéo người mình yêu khỏi nỗi đau của đời họ, như Phan "đã nguyện dùng phần đời còn lại để giúp Nam lau hết nước mắt đau thương". Dưới con mắt của Thạch, tình dục trở nên thơ và đẹp hơn bao giờ hết. Không trần trụi, cũng không bóng bẩy. Thạch khiến ta có cái nhìn khác hơn về những người đồng tính, về những khát khao tình yêu của họ, về cả những nỗi đau. Họ cũng yêu, đau và chấp nhận hy sinh. Họ cũng có những ước mơ hạnh phúc nhưng bị vướng vào những thị phi của xã hội. Họ bị dư luận nhấn chìm. Nguyễn Ngọc Thạch đã cho người đồng tính quyền được sống, được yêu và có thể ngẩng cao đầu với tất cả mọi người. Chỉ tiếc, những gì đi ngược với quy luật tạo hóa đều có một cái kết buồn... Mời các bạn đón đọc Khóc Giữa Sài Gòn của tác giả Nguyễn Ngọc Thạch.
Mối Tình của Chàng Nhạc Sĩ - Hermann Hesse
Đây không phải là cuốn tiểu sử tự thuật của một nghệ sĩ mà là một cuốn tiểu thuyết nói về mối hiểm hoạ tinh thần thường được gọi là "tiến trình sáng tạo". Cái cặp bất hạnh và lạ lùng này, Muoth và Gertrude, có thể được coi như là phép ẩn dụ thành công đầu tiên của Hesse cho những nguyên tố bất khả hoà giải trong nghệ thuật - hai cái khả tính mà Nietzsche từng đã đặc tính hoá như là Dionysus và Apollo. "Khi tôi quay nhìn kỹ lại cuộc đời mình, như thể từ bên ngoài, thì cuộc đời đó đặc biệt không hạnh phúc. Nhưng tôi còn ít tỏ rõ hơn trong việc gọi cuộc đời đó là bất hạnh dù cho có tất cả những điều lầm lẫn của nó. Dù sao, thật là rồ dại cứ phải tra vấn hạnh phúc hay bất hạnh, vì đối với tôi hình như sẽ khó lòng trao đổi những ngày bất hạnh nhất của đời tôi cho tất cả những ngày hạnh phúc. Nếu cái gì đó trong sự hiện hữu của một người là chấp nhận không thể tránh được một cách có ý thức, để nếm trải điều tốt xấu trọn vẹn và để đưa ta đến chỗ cá thể hơn, không ngẫu nhiên và định mệnh nội tâm song song với số mệnh bên ngoài, thế thì đời tôi không trống rỗng mà cũng chẳng phải là vô giá trị Số mệnh, như nó đã được điều khiển bởi quỷ thần, đã giày xéo tàn nhẫn trên sự hiện hữu bên ngoài của tôi như nó đã làm với mọi người, dù vậy cuộc sống nội tâm của tôi vẫn do tôi định đoạt. Tôi đáng được hưởng sự dịu dàng và cay đắng của nó và chấp nhận trọn vẹn trách nhiệm về cuộc đời ấy. Có những lúc, khi tôi còn trẻ hơn, tôi muốn trở thành thi sĩ. Và nếu bây giờ tôi là thi sĩ, tôi cũng sẽ không phản đối sự cám dỗ để hướng đời tôi trở lại qua những bóng dáng nhẹ nhàng thời thơ ấu của tôi đến những cội nguồn quí giá và che chở của những ký ức đầu đời của mình. Nhưng vật sở hữu này cũng xa vời, thâm thiết và thiêng liêng cho con người mà nay về phần mình tôi đã hoang phí đi mất. Tất cả đều có đó để nói rằng thời hoa niên của tôi là tốt lành và hạnh phúc. Tôi được tự do khám phá khuynh hướng và tài năng của mình, để thích nghi với những lạc thú và nỗi sầu của mình và để hướng đến tương lai không như một sức mạnh lạ lùng cao cả hơn nhưng như là niềm hy vọng và sản vật của sức mạnh của mình. Bởi thế tôi đã qua những trường học không lưu lại dấu vết gì như một kẻ miễn cưỡng, bất tài, tuy là một học sinh lặng lẽ mà sau cùng họ để cho hắn ghi tên vào lớp học, bởi vì hắn dường như thoát khỏi những ảnh hưởng mạnh mẽ mang chụp lên người hắn. Vào khoảng lên sáu hay bảy tuổi, tôi đã nhận ra rằng tất cả những sức mạnh vô hình mà tôi đã dành riêng cái cảm tình mạnh mẽ và kiệt xuất nhất thì đó là âm nhạc. Từ giây phút đó trở đi tôi đã có một vũ trụ cho mình, một đền đài và một bầu trời mà không một ai có thể mang đi khỏi tay tôi hay hạ giảm được, và tôi cũng không muốn chia sẻ cho bất cứ người nào. Tôi trở thành một nhạc sĩ, dù tôi không học chơi bất cứ nhạc cụ nào trước khi tôi được mười hai tuổi và tôi không nghĩ rằng sau này tôi sẽ sinh nhai bằng âm nhạc. Đó là câu chuyện ra sao từ dạo đó, không có bất cứ thay đổi cốt yếu nào, và đó là vì đâu khi nhìn lại đời tôi nó không có vẻ gì khác nhau hay muôn mặt, nhưng từ khởi đầu nó đã phát âm trong một nột nhạc đơn điệu và một mình trực tiếp hướng tới vì sao. Dù sự việc có tốt đẹp hay tệ hại với tôi, cuộc sống nội tâm của tôi vẫn không thay đổi. Bởi vì những thời kỳ dài lâu tôi có thể rong buồm trực chỉ đến những đại dương xứ lạ, không đụng đến sách ký hay nhạc cụ, và tuy vậy ở mỗi khoảnh khắc ấy sẽ là một nhịp điệu hài hoà trong huyết quản và trên môi tôi, một thứ nhịp điệu và âm tiết trong cái lôi cuốn của hơi thở và đời sống. Tuy là khát vọng nồng cháy tôi cũng đã tìm kiếm sự giải thoát, quên lãng và buông thả trong nhiều cách, tuy tôi đã khao khát hướng về Thượng đế, tri thức và thanh bình, tôi luôn luôn tìm thấy chúng chỉ trong âm nhạc mà thôi.........." *** Khi tôi quay nhìn kỹ lại cuộc đời mình, như thể từ bên ngoài, thì cuộc đời đó đặc biệt không hạnh phúc. Nhưng tôi còn ít tỏ rõ hơn trong việc gọi cuộc đời đó là bất hạnh dù cho có tất cả những điều lầm lẫn của nó. Dù sao, thật là rồ dại cứ phải tra vấn hạnh phúc hay bất hạnh, vì đối với tôi thì hình như sẽ khó lòng trao đổi những ngày bất hạnh nhất của đời tôi cho tất cả những ngày hạnh phúc. Nếu cái gì đó trong sự hiện hữu của một người là chấp nhận không thể tránh được một cách có ý thức, để nếm trải điều tốt xấu trọn vẹn và để đưa ta đến chỗ cá thể hơn, không ngẫu nhiên và định mệnh nội tâm song song với số mệnh bên ngoài, thế thì, đời tôi không trống rỗng mà cũng chẳng phải là vô giá trị. Số mệnh, như nó đã được điều khiển bởi quỷ thần, đã giày xéo tàn nhẫn trên sự hiện hữu bên ngoài của tôi như nó đã làm với mọi người, dù vậy cuộc sống nội tâm của tôi vẫn do tôi định đoạt. Tôi đáng được hưởng sự dịu dàng và cay đắng của nó và chấp nhận trọn vẹn trách nhiệm về cuộc đời ấy. Có những lúc, khi tôi còn trẻ hơn, tôi muốn trở thành thi sĩ. Và nếu bây giờ tôi là thi sĩ, thì tôi cũng sẽ không phản đối sự cám dỗ để hướng đời tôi trở lại qua những bóng dáng nhẹ nhàng thời thơ ấu của tôi đến những cội nguồn quý giá và che chở của những ký ức đầu đời của mình. Nhưng vật sở hữu này cũng xa vời, thân thiết và thiêng liêng cho con người mà nay về phần mình tôi đã hoang phí đi mất. Tất cả đều có đó để nói rằng thời hoa niên của tôi là tốt lành và hạnh phúc. Tôi được tự do khám phá khuynh hướng và tài năng của mình, để thích nghi với những lạc thú và nỗi sầu của mình và để hướng đến tương lai không như một sức mạnh lạ lùng cao cả hơn nhưng như là niềm hy vọng và sản vật của sức mạnh của mình. Bởi thế tôi đã qua những trường học không lưu lại dấu vết gì như một kẻ miễn cưỡng, bất tài, tuy là một học sinh lặng lẽ mà sau cùng họ để cho hắn ghi tên vào lớp học, bởi vì hắn dường như thoát khỏi những ảnh hưởng mạnh mẽ đang chụp lên người hắn. Vào khoảng lên sáu hay bảy tuổi, tôi đã nhận ra rằng tất cả những sức mạnh vô hình mà tôi đã dành riêng cái cảm tình mạnh mẽ và kiệt xuất nhất thì đó là âm nhạc. từ giây phút đó trở đi tôi đã có một vũ trụ cho mình, một đền đài và một bầu trời mà không một ai có thể mang đi khỏi tôi hay hạ giảm được, và tôi cũng không muốn chia sẻ cho bất cứ người nào. Tôi trở thành một nhạc sĩ, dù tôi không học chơi bất cứ nhạc cụ nào trước khi tôi được mười hai tuổi và tôi không nghĩ rằng sau này tôi sẽ sinh nhai bằng âm nhạc. Đó là câu chuyện ra sao từ dạo đó, không có bất cứ đổi thay cốt yếu nào, và đó là vì đâu khi nhìn lại đời tôi nó không có vẻ gì khác nhau hay muôn mặt, nhưng từ khởi đầu nó đã phát âm trong một nốt nhạc đơn điệu và một mình trực tiếp hướng tới vì sao. Dù sự việc có tốt đẹp hay tệ hại với tôi, cuộc sống nội tâm của tôi vẫn không thay đổi. Bởi vì những thời kỳ dài lâu tôi có thể rong buồm trực chỉ đến những đại dương xứ lạ, không đụng đến sách ký âm nhạc hay nhạc cụ, và tuy vậy ở mỗi khoảnh khắc ấy sẽ làm một nhịp điệu hài hoà trong huyết quản và trên môi tôi, một thứ nhịp điệu và âm tiết trong cái lôi cuốn của hơi thở và đời sống. Tuy là khát vọng nồng cháy tôi cũng đã tìm kiếm sự giải thoát, quên lãng và buông thả trong nhiều cách, tuy tôi đã khao khát hướng về Thượng Đế, tri thức và thanh bình, tôi luôn luôn tìm thấy chúng chỉ trong âm nhạc mà thôi. Tôi chẳng cần Beethoven hay Bach, âm nhạc đã là một khuyây khoả liên tục cho tôi và là một chứng giải cho tất cả đời sống rằng đã có âm nhạc trên cõi đời, rằng ta có thể, đôi lúc xúc động sâu xa bởi những âm tiết và thấm nhập bởi những hoà điệu. Ôi âm nhạc! Một nhịp điệu hài hoà xuất hiện với bạn, bạn hát lên một cách im lặng, chỉ bên trong người bạn thôi, bạn nhậm chìm hữu thể của bạn trong nó, nó chiếm hữu tất cả sức mạnh và cảm xúc bạn, và trong khi nó sống trong người bạn, nó xoá nhoà tất cả cái chi là tình cờ, xấu xa, thô bạo và buồn sầu trong người bạn, nó mang vũ trụ vào trong hoà điệu với bạn, nó làm cho gánh nặng thành nhẹ nhàng và đem đến đôi cánh cho những tinh thần trì trệ chán nản. Nhịp điệu hài hoà của dân ca có thể làm tất cả điều đó. Và trước hết là hoà điệu! Vì hoà âm của những nốt nhạc thuần khiết có nhịp tiết của mỗi hoà điệu – chẳng hạn, những tiếng chuông nhà thờ - rót đầy tinh thần với vẻ kiều diễm và hoan hỉ, một cảm giác đã làm mạnh thêm bằng mỗi nốt nhạc tiếp thêm, và đôi lúc điều này có thể làm phấn khích tâm hồn và làm nó run rẩy với sự ngây ngất cực điểm như không có một lạc thú nhục dục nào có thể làm được. Về tất cả những ý niệm của sự thuần chân phúc mà công chúng và các thi sĩ đã mơ tưởng, thì cái việc lắng nghe hoà điệu của thiên cầu đối với tôi hình như luôn luôn là điều cao cả nhất và khốc liệt nhất. Đấy là những giấc mơ thân thiết nhất và trong sáng nhất đã sắp hàng – để nghe thời hạn của con tim vũ trụ đập rộn ràng và toàn thể cuộc đời trong hoà điệu thiên bẩm, huyền nhiệm của nó. Ôi chao, làm sao mà cuộc đời lại có thể lẫn lộn và sai điệu và giả dối như vậy, làm sao có thể là dối trá, xấu xa, ghen tị và thu hận giữa con người khi mà bài hát ngắn nhất và đoạn âm nhạc đơn giản nhất cũng giảng giải rằng thiên đàng là sự khải thị trong sự thuần khiết, hoà điệu và hỗ tương tác dụng của những nốt nhạc trong sáng xướng lên. Và làm sao tôi lại có thể xỉ vả con người và trở nên giận dữ khi mà tôi, chính mình, với tất cả thiên chí trên cõi đời lại không thể nào làm cho bài hát và âm nhạc thoát ra từ cuộc đời tôi? Bên trong con người tôi, tôi có thể cảm thấy sự cảnh cáo khẩn thiết là lòng khát khao thèm muốn một lạc thú, thuần tuý, cái âm thanh thiêng liêng thiết yếu đó và nó đã nhạt nhoà, nhưng ngày tháng của tôi thì đầy rẫy những rủi ro và lạc lõng. Dù cho tôi quay về bất cứ hướng nào và tôi cất lên bất cứ giọng nào, chẳng bao giờ có được âm vang chân thật và trong sáng cả. Nhưng thôi, tôi sẽ kể cho bạn nghe một câu chuyện. Khi tôi nhận xét những người mà tôi đã làm đầy những trang sách này – thì quả thật nàng là người có nhiều sức mạnh trên con người tôi, nàng có thể xuyên qua nỗi cô đơn của tôi và lôi ra điều thú tội ở tôi – tôi phải đưa ra tên tuổi của người đàn bà kiều mị yêu dấu này, người không chỉ hạn độ với tôi bằng một tổng số kinh nghiệm và vận mệnh phi thường, nhưng vượt lên trên mọi sự đối với tôi như một biểu tượng linhthánh, một vì sao. ... Mời các bạn đón đọc Mối Tình của Chàng Nhạc Sĩ của tác giả Hermann Hesse.