Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đường Về Nô Lệ

Đường Về Nô Lệ

Đường Về Nô Lệ

Đường Về Nô Lệ của F. A. Hayek, một trong những kinh tế gia và tư tưởng gia xuất sắc nhất của thế kỷ XX, có thể được xem như là cuốn “cẩm nang” hàng đầu để giải quyết những vấn nạn này cho xã hội Việt Nam hôm nay.

Những khó khăn mà người Việt Nam chúng ta đã trải nghiệm trong thời kỳ kế hoạch hoá đã được Hayek nhìn thấy trước từ cách đây hơn 60 năm khi ông cảnh báo những hậu quả xấu nhất có thể xảy ra cho nước Anh nếu đất nước này áp dụng cơ chế hoạch định tập trung sau thế chiến II.

Khi phương tiện sản xuất bị quốc hữu hoá, và mọi thứ đều phải tuân theo những kế hoạch cứng nhắc do trung ương áp đặt xuống thì động lực sáng tạo của các cá nhân sẽ bị mai một và hậu quả tất yếu là nền kinh tế của quốc gia sẽ bị suy yếu, và bất mãn trong xã hội ngày càng tăng.

Những gì nền kinh tế Việt Nam phải trải qua trong giai đoạn áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước khi đổi mới, chẳng hạn khan hiếm lương thực thực phẩm – điều khó có thể tưởng tượng được một đất nước được xem là vựa lúa của thế giới, có lẽ là minh chứng rõ ràng nhất cho những tiên đoán của Heyek trên khía cạnh này.

Triết Học Hiện Sinh Triết Học Mỹ Kinh Dịch Trọn Bộ

Nhưng kinh tế không phải là lĩnh vực duy nhất là cơ chế kế hoạch hoá tập trung gây ra hệ quả xấu. Thực ra trong cuốn Đường về nô lệ, Hayek chỉ điểm qua các tác động thuần tuý kinh tế của cơ chế này.

Ông chỉ ra rằng trong cuộc sống không thể tách rời “động cơ kinh tế” ra khỏi các mục tiêu khác mà con người muốn hướng tới vì một khi chúng ta không có cơ hội đạt mục tiêu khác.

Khi cơ chế kế hoạch hoá tập trung ngăn cản các cá nhân quyền tự tìm kiếm thu nhập và sử dụng tài sản của mình cho những mục đích riêng tư tất dẫn đến những tác động tiêu cực về mặt đạo đức, thái độ, lối sống và cách ứng xử của con người, mặc dù sự thay đổi này diễn ra từ từ và gần như không thể nhận ra được.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

CÂU CHUYỆN TRIẾT HỌC - Will Durant (Dịch giả: Trí Hải và Bửu Đích)
Nếu bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa trung hải. Phía nam là hòn đảo Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch (tTL) đó là nơi khởi đầu của văn minh nhân loại. Về phía đông là lãnh thổ thuộc về Á châu tuy ngày nay có vẻ lạc hậu nhưng dưới thời Platon là một lãnh thổ rất trù phú với một nền thương mãi, kỹ nghệ cực thịnh và một nền văn hoá phong phú. Về phía tây là nước Ý giống như một toà lâu đài ở giữa biển, các đảo Sicile và nước Y-pha-nho (Tây Ban Nha). Tại những nơi đó có những nhóm người Hy lạp sinh sống; cuối cùng là xứ Gibraltar, nơi đầy nguy hiểm cho các thuỷ thủ mỗi khi muốn vượt eo biển này. Về phía bắc là những xứ man rợ như Thessaly, Epirus và Macédonie. Từ những xứ ấy nhiều bộ lạc xuất phát và mở những cuộc tấn công về phía nam, những trận đánh do những văn nhân Hy lạp như Homère kể lại mà những chiến sĩ như Périclès chỉ huy. Hãy nhìn một lần thứ hai vào bản đồ, bạn sẽ thấy nhiều chỗ lồi lõm ở bờ biển và núi đồi trong đất liền, đâu đâu cũng có những vịnh nhỏ và những mỏm đá trồi ra biển. Nước Hy lạp bị chia cắt và cô lập bởi những chướng ngại thiên nhiên đó. Sự đi lại và liên lạc ngày xưa khó khăn hơn bây giờ rất nhiều. Do đó mỗi vùng tự phát triển lấy nền kinh tế, tự thành lập lấy nền hành chánh chính trị, tự phát huy tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ của mình. Những quốc gia như Locris, Etolia, Phocis, Béothia v.v. Hãy nhìn vào bản đồ một lần thứ ba và quan sát vị trí của tiểu quốc Athènes: đó là một tiểu quốc nằm về phía cực đông của Hy lạp. Đó là cửa ngõ của Hy lạp để giao thiệp với các quốc gia thuộc vùng Á châu, đó là cửa ngõ để Hy lạp thu nhận những sản phẩm và ánh sáng văn hoá từ bên ngoài. Ở đây có một hải cảng rất tiện lợi, hải cảng Pirus, rất nhiều tàu bè đến trú ẩn để tránh những lúc sóng to gió lớn. Ngoài ra Pirus còn là nơi xuất phát một hạm đội chiến tranh hùng mạnh.
CHÂN LÝ VÀ THỰC TẠI - Krishnamurti
Sinh ra gần THÀNH PHỐ MADRAS, Miền nam Ấn Độ, Jiddu Krishnamurti (1895 – 1986). Năm mười bốn tuổi sống dưới quyền giám hộ của Bà Annie Besan, người theo chủ nghĩa xã hội, nhà cải cách, và chủ tịch của Hội Quốc Tế Thông Thiên Học tại Adyar, gần thành phố Madras. Bà và người cộng sự, G,W, Leadbeater tin tưởng rằng Krishnamurti là phương tiện của đấng cứu thế đang giáng lâm như người hội viên Thông Thiên Học đã báo trước. Hội Cứu Tinh Đông Phương, một tổ chức được dành riêng để chuẩn bị cho nhân loại về sự giáng lâm của Đấng Giáo Chủ Thế giới, đã được thành lập năm 1911 với Krishnamurti là người lãnh đạo. Cùng trong năm này, ông được mang sang Anh quốc để được giáo dục riêng và được huấn luyện đảm nhận vai trò sắp tới của mình. Sinh ra gần THÀNH PHỐ MADRAS, Miền nam Ấn Độ, Jiddu Krishnamurti (1895 – 1986). Năm mười bốn tuổi sống dưới quyền giám hộ của Bà Annie Besan, người theo chủ nghĩa xã hội, nhà cải cách, và chủ tịch của Hội Quốc Tế Thông Thiên Học tại Adyar, gần thành phố Madras. Bà và người cộng sự, G,W, Leadbeater tin tưởng rằng Krishnamurti là phương tiện của đấng cứu thế đang giáng lâm như người hội viên Thông Thiên Học đã báo trước. Hội Cứu Tinh Đông Phương, một tổ chức được dành riêng để chuẩn bị cho nhân loại về sự giáng lâm của Đấng Giáo Chủ Thế giới, đã được thành lập năm 1911 với Krishnamurti là người lãnh đạo. Cùng trong năm này, ông được mang sang Anh quốc để được giáo dục riêng và được huấn luyện đảm nhận vai trò sắp tới của mình.Tuy nhiên vào năm 1929, ông đã tuyên bố giải tán Hội Cứu Tinh và từ bỏ tiền bạc và tài sản đã được tích trữ nhân danh ông. Ông đã tuyên bố rằng không thể tìm thấy chân lý thông qua bất kỳ môn phái, phe phái hay tôn giáo nào mà chỉ bằng cách tự giải thoát mình khỏi mọi hình thái qui định tù ngục. “Bạn có thể thành lập một tổ chức khác và kỳ vọng ở người khác”, ông nói, “Điều đó tôi không quan tâm, cả việc tạo ra những chuồng giam mới… Mối quan tâm duy nhất của tôi là giúp con người tự do một cách tuyệt đối, vô điều kiện”. Đã được nhìn nhận từ lâu như một nhà giáo về mặt tâm linh hàng đầu thế giới, Krishnamurti đã cống hiến trọn đời mình cho việc diễn thuyết khắp nơi trên thế giới. Không ở nơi nào lâu quá vài tháng, ông tự nhận mình không thuộc chủng tộc hay quốc gia nào. Nhiều năm qua, các cuộc họp mặt hàng năm ở Ấn Độ, tại Ojai, California, ở Seanen, Thụy Sĩ và Brockwood Park ở Hampshire đã thu hút nhiều ngàn người quốc tịch, nghề nghiệp, nhân sinh quan khác nhau.
CỔ NHÂN ĐÀM LUẬN (1929) - TRẦN TRUNG VIÊN
 Bào-Thúc tiến   Quản-Trọng  lên   Hoàn-Công. Tề Hoàn-Công hỏi Quản-Trọng chính-trị và gây-dựng kỷ-cương trong nước. Trọng thưa: « Lễ, nghĩa, liêm, sỉ, là bốn mối lập kỷ-cương. » Bào-Thúc tiến  lên . Tề Hoàn-Công hỏi Quản-Trọng chính-trị và gây-dựng kỷ-cương trong nước. Trọng thưa: « Lễ, nghĩa, liêm, sỉ, là bốn mối lập kỷ-cương. »— Làm thế nào mà sai-khiến được dân?— Muốn khiến dân trước phải yêu dân.— Đạo yêu dân thế nào?— Trên dưới cùng sửa-sang, cùng dúp nhau, cùng chia lợi lộc, dùng người hiền, chính-lệnh nghiêm. — Cách sử-dân thế nào?— Sĩ, nông, công, thương, trong tứ dân, con kẻ nào nối nghiệp kẻ đó, luyện-tập, yên phận, chớ đổi nghệ, thì dân yên.— Nước nghèo thì làm thế nào?— Đào núi lấy tiền, gạn bể lấy muối, đem dao-thông, thu tài vật thiên hạ về, thì giầu.Vua tôi cùng nhau đàm-đạo suốt ba ngày không chán, rồi Hoàn-Công bái Quản-Di-Ngô lên làm tướng-quốc, trong có vài năm mà nước Tề nên được nghiệp Bá.