Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí mật Shakespeare - Jennifer Lee Carrell

Sau khi ra mắt (từ tháng 1/2008), “The Shakespeare Secret” (Bí mật Shakespeare) hay còn có tên khác là “Interred with Their Bones” - tiểu thuyết đầu tay của Jennifer Lee Carrell đã lọt vào top 5 cuốn sách bán chạy nhất. Tác phẩm tạo thành một hiện tượng mới của làng xuất bản Mỹ với mức độ thành công tương đương với “Mật mã Da Vinci” của Dan Brown. The Shakespeare Secret (Bí mật Shakespeare) là một tiểu thuyết ly kỳ liên quan đến một vở kịch bị mất của Shakespeare, vở kịch The History of Cardenio. Vào một ngày tháng 6 năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dựng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị, khoa trương của trường ĐH Harvard chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho cô bạn mình là Katharine Stanley - đạo diễn người Mỹ đang dựng vở kịch Hamlet ở nhà hát Globe - một hộp nhỏ gói giấy vàng.  Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta đã giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind, chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời nữ hoàng Victoria được trang trí những bông hoa liên quan đến Ophelia, đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah; Arizona; Washington, D.C.; và quay trở lại London. Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo của vụ giết người.  Từ những tài liệu của Shakespeare cho đến những hầm mỏ hoang tàn, từ hiện tại đến quá khứ, tiểu thuyết tâm lý hành động của tác giả Jennifer Lee Carrell chứa đựng nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị. Sức hút của tác phẩm được thể hiện rất rõ qua viện Bản quyền tác phẩm đã bán cho 20 quốc gia trên toàn thế giới. *** Một ngày tháng Sáu năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dụng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho Katharine Staley - đạo diễn người Mỹ một hộp nhỏ màu vàng. Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đáng ngờ đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời Nữ hoàng Victoria đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah Anzona… Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết một cách bất ngờ khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo… “Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt đẹp thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ.” Bí mật Shakespeare đã tạo ra một hiện tượng mới trong làng xuất bản Mỹ, với mức độ thành công tương đương với Mật mã Da Vince của Dan Brown. *** LỜI TÁC GIẢ: Một buổi tối mùa thu khi tôi mới bắt đầu vào đại học, trong lúc đang lục lọi tìm kiếm giữa những cuốn sách cũ trong căn phòng phía sau thư viện Child, góc riêng tư của khoa Anh văn nằm ở một góc tầng trên cùng thư viện Widener của trường Harvard, tôi bắt gặp bộ sách bốn tập: Sân khấu thời Elzabeth của E. K. Chambers, xuất bản năm 1923. Tôi lần lượt giở qua từng tập. Những tập sách này đầy ắp thông tin, phần lớn chúng tôi không biết có thể sử dụng làm gì, chẳng hạn như ghi chú rằng “rất nhiều diễn viên thời Elizabeth cũng là nghệ sĩ nhào lộn, và hiển nhiên có thể đi trên dây”. Tuy vậy, ở cuối tập ba, tôi tìm thấy vài trang nói về những vở kịch của Shakespeare, gồm cả một mục ngắn có tên “Những vở kịch đã thất lạc.” Tôi biết phần lớn những vở kich được viết bằng tiếng Anh thời Phục hưng đã không tồn tại được đến ngày nay, và vì thế tôi nghĩ - một cách mơ hồ - rằng một số tác phẩm Shakespeare sáng tác chắc chắn cũng đã thất lạc. Điều làm tôi ngạc nhiên là Chambers biết được một vài điều về những tác phẩm đã mất. Đập vào mắt tôi, bằng giấy trắng mực đen, là hai cái tên, và trong trường hợp của vở kịch Cardenio còn có cả nội dung sơ lược. Tôi bắt đầu tự hỏi sẽ ra sao nếu tìm được một trong những vở kịch này. Ở nơi nào người ta có thể khám phá ra một thứ như vậy? Và khoảnh khắc của sự khám phá sẽ như thế nào? Và liệu một khám phá như thế sẽ ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của một người - ngoài việc hiển nhiên người đó sẽ lập tức trở nên giàu có và nổi tiếng? Nhưng địa điểm thích hợp nhất để tìm kiếm những vở kịch thất lạc của Shakespeare là các thư viện ở châu Âu và những ngôi nhà cổ. Nhưng tất nhiên, nếu một vở kịch nằm ở nơi dễ đoán như vậy, thì nó đã được tìm ra từ lâu. Theo cách chủ quan của những kẻ nằm mơ ban ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ xem ở nơi nào ngoài nước Anh, và cụ thể hơn, ở một số địa điểm tôi có thể thực sự tìm thấy nó, chẳng hạn New England (hay ít nhất nơi nào đó ở hành lang Đông Bắc giữa Boston và Washington D. C. ) hay vùng sa mạc phía tây nam. Thỉnh thoảng, tôi đi xa đến mức tìm kiềm những chiếc hộp đựng những cuốn sách sờn cũ trong cửa hiệu bán đồ cổ nằm trong những ngôi nhà thô kệch sau nhưng con đường mà tôi tình cờ đi qua trong lúc lang thang ở New England. Nhưng chẳng có ai lại để, cho dù một khổ thơ của Shakespeare chứ đừng nói tới cả tập bản thảo, nằm yên tại đó. Ở đâu đó trên bước đường tìm kiếm, tôi tự thừa nhận với mình rằng sẽ chẳng bao giờ tôi thực sự tìm thấy một trong các vở kịch thất lạc của Shakespeare - và rằng có thể sẽ thú vị hơn khi biến nó thành một câu chuyện, vì như thế tôi có thể kiểm soát những gì xảy ra, và xảy ra với ai. Và sau đó tôi nghĩ - tại sao không bám lấy bí mật khác thậm chí còn lớn hơn về Shakespeare? Ông là ai? Tôi đã mất hơn một thập kỉ chỉ để bắt đầu, nhưng Bí mật Shakespeare hay Chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ là kết quả. Đoạn văn trong tập sách của Chambers khởi đầu cho toàn bộ câu chuyện này, với vài chỉnh sửa nhỏ, chính là đoạn văn mà Kate đã đọc trong truyện. Những địa điểm liên quan tới Shakespeare xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết đều là những địa danh có thật, mặc dù tôi đã tự cho phép mình hư cấu đôi chút ở một vài chỗ cho phù hợp với mạch chuyện. Những giả thiết về danh tính thực của Shakespeare cũng đều có thật - ít nhất với tư cách là những giả thiết. Cuối cùng, rất nhiều nhân vật lịch sử được hư cấu từ các sự kiện có thật. Tất cả các nhân vật hiện đại đều là hư cấu. Một mục ghi chú trong cuốn Đăng kí Stationers (một dạng bản quyền sơ khai ở nước Anh) xác nhận Shakespeare là đồng tác giả của vở kịch Cardenio cùng với John Fletcher, người kế tục ông trong vai trò nhà soạn kịch chính cho đoàn kịch của nhà vua (và cũng là đồng tác giả với ông trong nhiều vở kịch khác). Tôi chọn “tìm ra”  Cardenio vì trong hai vở kịch đã thất lạc mà chúng ta biết nhan đề, đây là vở kịch chúng ta biết được nhiều chi tiết về nội dung hơn, và cũng bởi vì nguồn gốc của vở kịch này, từ cuốn tiểu thuyết Don Quixote của Miguel de Cervantes, cho nó một mối liên hệ mơ hồ với vùng thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, và do đó liên quan tới vùng tây nam nước Mỹ - một vùng đất tôi yêu mến, và là nơi tôi muốn các nhân vật của mình chơi trò đi tìm kho báu với vở kịch của Shakespeare. Vở kịch thất lạc còn lại - những nổ lực vì tình yêu được đền đáp - đã biến mất hoàn toàn, nhưng Cardenio đã xuất hiện trở lại dưới dạng bản thảo vào thế kỉ mười tám, khi Lewis Theobald “hiện đại hóa” nó trên sân khấu London. Bản thảo gốc, mà phần lớn học giả chấp nhận coi là xác thực, đã thất lạc, nhưng một bản rút gọn với cái tên Hai sự dối trá [sic] đã tồn tại tới ngày nay. Nhìn chung, bản phóng tác này thực sự kinh khủng đúng như Kate nói: đầy những lỗ hổng, chằng chịt những chỗ vá víu vụng về như khuôn mặt của Frankeinstein. Tuy vậy, rải rác trong bản thảo này có những câu có vẻ như đúng là do Shakespeare hay Fletcher - ở mức độ từng câu riêng lẻ, khó mà phân biệt giữa sự phụ hay đồ đệ, cũng giống như việc phân biệt giữa tranh của Rembrandt với tranh có xuất xứ từ “xưởng họa của Rembrandt” ở mức độ nhát cọ. Hai sự dối trá là nguồn gốc của những từ mà Kate cũng như những người khác đã nhận định là của Shakespeare trong cuốn tiểu thuyết này. Ngoại lệ duy nhất là câu chỉ đạo diễn xuất và dòng thoại về Sancho và Don Quixote: tôi phải mang gánh nặng trách nhiệm về những câu này vì trong bản rút gọn tôi đang nói đến không còn chút dấu vết nào của nhà quý tộc già điên rồ cùng anh hầu thực dụng của ông. Tuy vậy, giống như Kate, tôi muốn nghĩ rằng Shakespeare hẳn sẽ nhìn ra hai người này là không thể thiếu cho sự trào phúng và dẫn dắt mạch chuyện, và do đó chắc đã đưa họ vào dưới một dạng dẫn chuyện nào đó. Tôi đã đọc một giả thiết học thuật, do Richard Wilson đưa ra trong cuốn Shakespeare bí mật (Đại học Manchester xuất bản năm 2004) , cho rằng Cardenio có thể có mối liên hệ nào đso với gia đình Howard và cái chết của hoàng tử Henry. Gia đình Howard ủng hộ Tây Ban Nha và là những tín đồ Thiên chúa giáo bí mật, và nổi tiếng đố kỵ, nhất là bá tước Northampton và cháu ông ta, bá tước Suffolk (Để cho đơn giản, tôi sử dụng tước vị này để nói về hai người đó trong cuốn tiểu thuyết, mặc dù cả hai chỉ được phong bá tước sau khi vua James lên ngôi). Đúng là có những lời đồn đại về mối quan hệ tình ái giữa Frances Howard và hoàng tử, và theo những lời đồn “sự kiện chiếc găng tay” đã thực sự xảy ra (mặc dù tên của quý bà vẫn được giữ kín) ; câu chuyện khủng khiếp về việc Frances đầu độc một trong những tình nhân của chồng bằng những chiếc bánh tẩm thuốc độc đã được ghi lại rất chi tiết trong các tài liệu tư pháp, và bà ta đã thực sự bị phán quyết là có tội trước tòa. Tuy nhiên, chi tiết về những rắc rối của gia đình Howard và Shakespeare và nhà hát Quả cầu hoàn toàn do tôi tưởng tượng ra. Trong khi cách đơn giản nhất nói rằng William Shakespeare người Stratford đã viết những vở kịch mang tên ông, vẫn có rất nhiều ý kiến phản biện, từ thú vị gây tò mò tới thô thiển kỳ quặc, cho rằng có thể không phải như vậy. Tuy nhiên, vấn đề chính mà mọi giả thiết về “một người khác” đều không tránh khỏi, đó là tất cả đều đòi hỏi một sự đồng thuận im lặng: Nếu có một ai khác đã viết những vở kịch, thì chưa từng ai tiết lộ bí mật này. Trong một môi trường đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu sau lưng, những lời châm chọc đến mức chuyên nghiệp như tại triều đình của Elizabeth và James, đây là một thiếu sót không nhỏ. Nhiều hiệp hội của những người “chống lại giả thiết người Stratford (anti-Stratfordian)” hiện vẫn tồn tại - từ những tổ chức học thuật cho tới những nhóm theo lý thuyết âm mưu mang tính sùng bái. Rất nhiều người hâm mộ giải mã nhưng thông điệp được mã hóa mà theo họ tiết lộ danh tính của rất nhiều rác giá khác như là tác giả thực thụ, người đã ẩn danh một cách có chủ ý, của những tác phẩm được xuất bản dưới cái tên của “William Shakespeare”. Hai cái tên thay thế mà số người ủng hộ nhiều nhất - và cũng đáng tôn trọng nhất - là bá tước Oxford và Francis Bacon. Các ứng viên sáng giá khác gồm Christopher Marlowe; Edmund Spence; Philip Sidney và em gái ông Mary Herber, nữ bá tước Pembroke; Nữ hoàng Elizabeth; Walter Raleigh; bá trước Southampton, Derby, và Rutland, và một hội đồng bí mật gồm tất cả những người kể trên, được cho là do Bacon, hay Oxford, hoặc cả hai, chủ tọa. Còn điên rồ đến mức khó lý giải hơn là những người ủng hộ cho Henry Howard, bá tước Sussex (bị chặt đầu bốn mươi tư năm trước buổi công diễn đầu tiên một vở kịch của Shakespeare) và Daniel Defoe (ra đời bảy mươi năm sau buổi công diễn đầu tiên vừa nhắc tới ở trên). Một bổ sung mới nhất cho danh sách thu hút được sự chú ý nghiêm túc là vị triều thần khiêm tốn Henry Neville. Edward de Vere, bá tước Oxford đời thứ bảy, hiện là nhân vật được những người anti-Stratfordian ưa thích nhất. Những đoạn đảo chữ và ám chỉ về Oxford tromg cuốn sách này trên thực tế đều đã được đưa ra làm bằng chứng để chứng minh rằng bá tước là người viết các vở kịch. Như Athenaide đã chỉ ra, họ của ông ta - Vere - có liên quan tới từ Latinh verum, hay “sự thật” , theo một truyền thống lâu đời, và câu phương châm của gia đình ông ta - Vero nihil verius, tức “Không có gì đúng hơn sự thật” cũng tham dự vào mối liên hệ này. Đó là cách làm của những người ủng hộ ông ta ngoài đời thực: tìm kiếm những quan hệ “nghi ngờ” hay “có ý ngĩa” tới sự thật về Shakespeare. Từ “ever” là một bằng chứng thuyết phục khác. Người đầu tiên ủng hộ Oxford (hay Oxfordian) một cách nghiêm túc là J. Thomas Looney (đọc là “Loney” ), cuốn sánh Nhận diện “Shakespeare” của ông được xuất bản năn 1920 đã thuyết phục được nhiều người, trong đó có Sigmund Freud. Tuy vậy, Francis Bacon mới là tác giả thay thế được nhắc tới sớm hơn cả; những lập luận nghiêm túc nghiêng về ông đã được Delia Bacon và một vài người khác đưa ra từ những năm 1850. Những người ủng hộ Bacon (hay các Baconian) đã nghiên cứu kỹ lưỡng những tác phẩm của Shakespeare và các tác pharm thời Phục hưng khác với một sư hăng say mãnh liệt, khám phá ra vô số đoạn đảo chữ, ẩn ngữ theo chữ cái đầu, mật mã số và từ đồng nghĩa (thường là về “hog” (lơn thịt) và “bacon” (thịt muối) mà theo họ đã chỉ ra người hùng của họ chính lá tác giả các vở kịch; và thêm vào đó Bacon còn thường được cho là con trai của Nữ hoàng Elizabeth). Một số người thậm chí còn đi xa tới mức xem xét những buổi lên đồng hay đi đào trộm mộ. Tuy vậy, không phải tất cả những người ủng hộ Vacon đều dễ dàng bị khuất phục; trong số họ có cả các học giả, tác giả, luật gia, và thẩm phán ở cả nước Anh lẫn nước Mỹ. Tính đến nay bài viết mà các Baconian thích đọc nhất là bài tiểu luận của Mark Twain - “Có phải Shakespeare đã chết?”. Cho dù anh ta còn là gì khác nữa, chắc chắn Bacon là một người vừa xuất chúng vừa khôn ngoan. Đã từng có thời gian là chánh án của Hoàng gia, ông đã phát minh ra một hệ thống mật mã phức tạp đáng khâm phục mà Jem Branville đã sử dụng trong cuốn tiểu thuyết này. Bacon đã công bố mật mã năm 1623, cùng năm Tuyển tập Đầu tiên xuất hiện. Người đề xướng ra cái tên của bá tước Derby đời thứ sáu là Abel Lefranc, nhà nghiên cứu lịch sử văn học Pháp và giáo sư trường đại học Pháp, vào những thập kỷ đầu của thế kỉ hai mươi. Bất chấp tên của Derby (William) , những chữ cái đầu tiên tên goi (W. S. ), và cuộc đời nằm trong khoảng thời gian phù hợp, với những người nói tiếng Anh, tư cách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. ách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. Tác phẩm không hư cấu (và cũng không thiên vị) đáng chú ý nhất nói về những tranh cãi về tư cách tác giả này là cuốn Ai đã viết những tác phẩm của Shakespeare? Của John Mitchell (Thames và Hudson, 1996). Về một cái nhìn ủng hộ Shakespeare người Stratford, xin mời xem Cuộc điều tra vì Shakespeare của Scott McCrea (Praeger, 2005). Nhà hát Quả cầu nguyên bản bị cháy rụi vào ngày 29 tháng Sáu năm 1613 (một ngày thứ Ba, theo lịch Julian cũ) trong một buổi biểu diễn vở Henry VIII, sau đó được biết đến với cái tên Tất cả đều đúng. Theo những gì đã biết cho tới nay, đó là một tai nạn, do những tia lửa từ những phát đại bác bắn ra làm hiệu ứng đặc biệt rơi vào mái rạ. Những nhân chứng tận mắt chứng kiến đã thuật lại có một người đàn ông bị bỏng nhẹ trong khi cứu một đứa bé bị kẹt trong đám cháy; lửa bám vào người anh ta được dập tắt bằng bia. Nhà hát Quả cầu mới đúng là tòa nhà đầu tiên lợp mái rạ được chấp nhận ở khu vực phụ cận London từ sau vụ cháy lớn năm 1666. Những công trình kỉ niệm và nà hát về Shakespeare ở Stratford-upon-Avon đều nổi tiếng trên toàn thế giới. Thư viện Folger về Shakespeare ở trên đồi Capitol tại Washington D. C. sở hữu bộ sưu tập phong phú nhất về Shakespeare. Witon, tư gia của bá tước Pembroke, là một trong số ít địa điểm mà Shakespeare chắc chắn đã từng tới thăm còn tồn tại đến ngày nay - việc ông từng có mặt ở đây còn chắc chắn hơn tại bất cứ tòa nhà nào ở Stratford, ngoại trừ nhà thờ nơi ông được an táng. Bản copy tại tại Wilton, đài tưởng niệm Shakespeare ở Westminster cùng những thay đổi và những chữ cái viết hoa lạ lùng đều chính xác, mặc dù tôi đã tưởng tượng ra những màu sơn nhấn mạnh sự đảo chữ. Cũng như vậy, có một loạt tranh về chủ đề Arcadia trong gian phòng theo phong cách Palladian vẫn được gọi là phòng Lập phương, mặc dù tôi đã hư cấu đôi chút cho phù hợp với câu chuyện của mình. Ngăn hốc bí mật đằng sau một trong những bức họa đó là do tôi tưởng tượng ra. “Bức thư bị thất lạc” của nữ bá tước gửi cho con trai, nói rằng “chúng ta đang có Shakespeare ở đây” , đã được đề cặp tới trong tài liệu vào thế kỉ mười chín, nhưng từ đó tới nay chưa có học giả nào được nhìn thấy tận mắt. Bức thư của Will gửi cho con Thiên nga Ngọt ngào nhất là do tôi hư cấu. Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid được vua Tây Ban Nha Philip II thành lập nhằm mục đich đào tạo các thanh niên người Anh thành tu sĩ  Thiên chúa giáo và (theo cách nhìn của Nữ hoàng Elizabeth) gây ra những cuộc nổi loạn tôn giáo tại đất nước họ. Học viện này hiện vẫn tồn tại đào tạo thanh niên người Anh thành tu sĩ. Trong thư viện tuyệt vời của học viện này đã từng có một cuốn Tuyển tập Đầu tiên, nhưng tôi được nghe kể lại cuốn sách đã bị bán đi vào đầu thế kỉ hai mươi. Vào năm 1601, tám năm sau khi Christopher Marlowe bị sát hại, một “Christopher Morley” - tên gọi Marlowe từng sử dụng khi còn sống - được ghi lại trong tư liệu lưu trữ là đang theo học tại học viện. Tới năm 1604, Cervantes cũng có mặt tại thành phố này và hoàn tất Don Quixote tại đây. Những khu mỏ, thị trấn, và các nhà hát liên quan đến Shakespeare tồn tại nhiều vô số kể ở khắp miền tây Hoa Kỳ: những khu mỏ được đặt tên theo các nhân vật và vở kịch của Shakespeare rải rác khắp dãy núi Colorado. Nghiên cứu của Roz về chủ đề này chính là của tôi, được tiến hành cho một bài viết tôi thực hiện cho tạp chí Smithsonian với tên gọi “Một thi sĩ đã chinh phục miền Tây như thế nào” [Tháng Tám, 1998]. Thành phố Cedar, nằm ở vùng núi đá đỏ au của bang Utah, là nơi diễn ra Festival về Shakespear ở Utah, thành phố này rất tự hào về một bản sao mới xây lại của nhà hát Quả cầu thời Elizabeth - mặc dù tôi đã thêm vào Văn khố Preston dưới dạng bản sao ngôi nhà Shakespeare ra đời tại Stratford-upon-Avon. Vụ cá cược về vai diễn Hamlet của Jem Granville được lấy cảm hứng từ một vụ cá cược có thật đã diễn ra vào năm 1861 ở Denver. Tôi đã xây dựng nội dung những bài báo trong tiểu thuyết từ những phóng sự trên tờ Tin tức Rocky Moutain thuật lại một cách chi tiết cuộc cá cược có thật trong lịch sử này. Thị trấn ma mang tên Shakespeare nằm ở miền tây New Mexico, gần Lordsburg, trên biên giới bang Arizona; tôi đã nghe được câu chuyện về Bean Belly Smith vài lần từ những người chủ nhà. Tuy nhiên, tòa dinh thự của Athenaide nằm ở cuối con đường duy nhất của thị trấn là do tôi hư cấu thêm, mặc dù tòa lâu đài “nguyên bản” của Hamlet mà dinh thự đó mô phỏng theo là một địa điểm có thật - lâu đài Kronborg ở ngoại ô Elsinore (hay Helsingor) ở Đan Mạch, cũng như đại sảnh khiêu vũ tại lâu đài Hedingham, nơi đã từng là tư dinh của bá tước Oxford. Sự ám ảnh của những người theo trường phái Oxfordian với vở kịch Hamlet là có thật; những người này đã diễn giải giải vở kịch như một cuốn tự truyện được mã hóa của ứng cử viên họ ủng hộ. Như nhận xét của Kate và Athenaide, quả thực vở kịch có không ít điểm tương đồng đến kỳ lạ với cuộc đời của Oxford. Học giả người Mỹ Delia Bacon đã bị điên năm 1857 trong khi đang viết tác phẩm nổi tiếng Làm sáng tỏ [sic] triết lý trong những vở kịch của Shakespeare. Câu chuyện bà thức trắng đêm trước ngôi mộ của Shakespeare tại nhà thờ Thánh Ba ngôi ở Stratford được tái hiện theo đúng lời kể của chính bà về sự kiện này, trong một lá thư gửi cho người bạn Nathanien Hawthorne. Mục sư của nhà thờ Thánh Ba ngôi, Granville J. Granville, đã cho phép bà làm việc đó; mục sư Granville có vài người con, nhưng Jeremy (Jem) là do tôi hư cấu thêm vào gia đình ông. Cũng như vậy, bác sĩ George Fayrer đúng là người đã đưa Delia vào trại điên tư của ông ở Henley-in-Arden vào ngày 30 tháng Mười một năm 1857, nhưng cô con gái Ophelia của ông hoàn toàn là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tôi. Francis J. Child là giáo sư Anh văn tại Đại học Harvard từ năm 1876 cho tới tận khi ông qua đời năm 1896; bộ sưu tập các bản ballad bình dân của Anh và Scotland do ông thực hiện cho đến nay vẫn là một trong những công trình học thuật lớn về văn học Anh. Ông cũng là một học giả xuất sắc về Shakespeare. Giống như trong tiểu thuyết, hoa hồng là một niềm đam mê lớn nữa của đời ông (và quả thực có một cây hồng Lady Banks lâu năm rất nổi tiếng mọc trong vường sau một nhà trọ - ngày này là bảo tàng - ở Tombstone, bang Arizona, mặc dù tôi đã lùi thời gian nó được trồng sớm lên vài năm). Tôi hy vọng hương hồn ông sẽ tha thứ cho tôi vì đã gán cho ông một đứa con sinh ra từ tình yêu. Những bài sonnet của Shakespeare có vẻ được viết một cách rõ ràng dành cho chàng thanh niên tóc vàng rụt rè hoặc quý bà tóc đen bí hiểm, thi sĩ có vẻ như bị ràng buộc với hai người này trong mối tình tay ba. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công sức nhằm xác định xem quý bà và chàng thanh niên là ai; chưa ai trong số hai nhân vật bí ẩn này được xác định danh tính một cách thuyết phục. Trong mười bảy bài sonnet đầu tiên, Shakespeare cầu khẩn chàng thanh niên hãy có một đứa con. Thật đáng tò mò, lòi nói đầu của Theobald cho vở kịch Hai sự dối trá có ảm chỉ đến một người con gái ngoài giá thú của Shakespeare chưa từng được nhắc tới ở bất cứ nơi nào khác. Thi sĩ - người kể chuyện của những bài sonnet bị giày vò bởi ngọn lửa ghen tuông vì mối quan hệ giữa chàng thanh niên và quý bà tóc đen, việc gán đứa bé gái này cho quý bà và làm cho danh tính người cha đưa bé mơ hồ cũng là tự nhiên - nhưng mối liên hệ này là do tôi hư cấu nên và không hề được tìm thấy trên thực tế. Nicholas Hilliard quả thật là họa sĩ nổi bật nhất nước Anh vào thời Shakespeare còn sống; theo một nghĩa nào đó, có thể coi ông như là Shakespeare của mỹ thuật. Hilliard chuyên vẽ những bức chân dung cỡ nhỏ với những chi thiết tinh xảo, chính xác như một bức ảnh chụp. Bảo tàng Victoria và Albert ở London sở hữu một bức chân dung như vậy, vẽ một người đàn ông với hậu cảnh là những ngọn lửa. Thomas Shelton là quản gia mang hai dòng máu Anh và Ireland của gia đình Howard, đúng là người đã dịch Don Quixote sang tiếng Anh; bản dịch của ông ta được xuất bản năm 1612. Trong khi người em của ông ta chỉ là nhân vật hư cấu, trên thực tế đã có một số lượng không nhỏ người Anh theo Công giáo mộ đạo bí mất trốn tới lục địa để học tại các trường dòng giống như Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid. Những tu sĩ Jesuit người Anh thường được gửi trở lại Anh để coi sóc phần hồn cho những tín đồ Thiên chúa giáo ở nước này một cách bí mật. Những tu viện xuất hiện sớm nhất ở Santa Fe và vùng lân cận, ở khu vực hiện nay là bang New Mexico, đều thuộc dòng tu Franciscan. Người bản địa châu Mỹ ở khắp vùng tây nam - lúc đó là Tân Tây Ban Nha với người Âu - liên tiếp nổi dậy trong thế kỉ mười bảy, tàn sát những người Tây Ban Nha xâm lược, đặc biệt là các tu sĩ. Dãy núi Dragoon ở vùng đông nam Arizona là căn cứ địa của người Apache cho tới khi Geronimo bị bắt năm 1886. (Người thủ lĩnh Apache vĩ đại Cochise yên nghỉ ở một địa điểm bí mật nào đó trong những dãy núi này). Mặc dù tôi đã hư cấu ra hẻm núi và khu hang động trong đó Kate tìm thấy kho báu bị chôn vùi cùng những bộ hài cốt, quả thực vùng này chứa đựng vô số hang động. Hang động Kartchner nằm gần đó (và mới được phát hiện gần đây) là một ví dụ tuyệt vời về những “cung điện tự nhiên” mà những lòng núi rỗng chắc hẳn vẫn còn ẩn giấu. “Chữ ký” trong cuốn Kinh thánh của vua James vẫn luôn nằm đó cho bất kỳ ai muốn xem (hay muốn đếm). Tại sao nó lại có mặt ở đó là câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, và tôi cũng không rõ ai đã “phát hiện” ra nó. Không ai biết rõ bài Thánh thi số bốn mươi sáu, hay toàn bộ Sách các Thánh thi, được hoàn thành vào thời điểm nào (mặc dù thời điểm đó chắc chắn nằm giữa năm 1604 và 1610) , hay ai đã phụ trách bài Thánh thi nào. Cả Lancelor Andrewes, thu viện trưởng Westminster và sau đó là giám mục Chichester, và Laurence Chaderton, hiệu trưởng trường Đại học Emmannuel ở Cambridge, đều là những nhà thần học đã tham gia biên soạn cuốn Kinh thánh, và Chaderton, một người theo Thanh giáo, là thành viên của “Ủy ban Cambridge thứ nhất” được phân công phụ trách các bài Thánh thi. Tuy nhiên, bức thư của giám mục có nói đến Chaderton là do tôi tưởng tượng ra. Mặt khác, ngày tháng năm sinh của Bacon, Derby, và nữ bá tước Pembroke đều dựa trên các tư liệu lịch sử chính thức. Biến một giấc mơ giữa ban ngày thành một cuốn tiểu thuyết hóa ra lại cần đến vô số sự giúp đỡ và lời động viên. Trước hết và trên hết, tôi muốn cám ơn Brian Tart và Mitch Hoffman, sự kiên nhẫn cùng đôi mắt sáng suốt của họ đã giúp tôi định hình cuốn sách này. Bằng cách nào đó, họ đã giúp tôi luôn giữ được tiếng cười. Neil Gordon và Erika Imranyi đã giúp quá trình sáng tác của tôi được trôi chảy. Noah Lukeman tin chắc đây là cuốn sách tôi nên viết và đã làm những điều kỳ diệu để biến nó thành sự thật. Vì những ý kiến chuyên môn và tư liệu về nhiều lĩnh vực mà họ đã cung cấp, tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới Ilana Addis, Michelle Alexander, Kathy Allen, Bill Carrell, Jamie de Courcey, Lionel Faitelson, Dave và Ellen Grounds, cha Peter Harris, Jessica Harrison, Charlotte Lowe-Bailey, Peggy Marner, Karen Melvin, Kristie Miller. Liz Ogilvy, Nick Saunders, Brian Schuyler, Dan Shapiro, Ronald Spark, Ian Tennent, và Heidi Vanderbilt. Diễn đàn Straw Bale và Câu lạc bộ văn học Tucson đã được nghe một số trang bản thảo ban đầu, và để được tham dự vào hai nhóm này, tôi phải biết ơn Bazy Tankersley. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới tiến sĩ Javier Burrieza Sanchez, thủ thư và quản lý văn khố tại Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid; tới Nigel Bailey, người quản lý, và Carol Kitching, hướng dẫn viên chính tại dinh thự Wilton và Wiltshire; và tới Sarah Weatherall tại nhà hát Quả cầu của Shakespeare, London. Tập thể nhân viên thư viện Folger ở Washington D. C. , cũng như nhà thờ Thánh Ba ngôi và trung tâm Thư viện Shakespeare, đều ở Stratford, cũng đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Hơn bất cứ ai khác, Marge Garber đã góp phần định hình suy nghĩ của tôi về Shakespeare trên những trang giấy. Những thành viên của đoàn sân khấu Hyperion tại trường Harvard, trong những năm 1996 - 1998, và Shakespeare & Company, tại Lenox, Massachusetts, đã dạy cho tôi biết tất cả những gì về Shakespeare trên sân khấu. David Ira Goldstein và đoàn kịch Arizona đã đón tiếp tôi đến với thế giới của sân khấu chuyên nghiệp như một người khách thường xuyên. Ba người đã lắng nghe, đọc và nhận xét không ngừng trong suốt quá trình cuốn sách này hình thành: Kristen Poole, học giả, người kể chuyện, và người bạn: mẹ tôi, Melinda Carrell, người đầu tiên truyền cho tôi tình yêu với những cuốn sách; và chồng tôi, Johnny Helenbolt. Không gì có thể nói hết lòng biết ơn của tôi dành cho Johnny. *** Jennifer Lee Carrell sống tại Tucson, Arizona, Mỹ. Bà có bằng tiến sĩ về văn học Anh và Mỹ, chuyên đạo diễn các vở kịch của Shakespeare cho đoàn sân khấu Hyperion. Jennifer Lee Carrell là một tác giả người Mỹ của ba cuốn tiểu thuyết và nhiều bài viết cho Tạp chí Smithsonian và Ngôi sao hàng ngày Arizona   Mời các bạn đón đọc Bí mật Shakespeare của tác giả Jennifer Lee Carrell.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những con Rồng Châu Á - Selphie & Kitaro
Bộ truyện trinh thám gồm 4 tập được bạn trẻ ham mê trinh thám đón đọc trên toàn thế giới. *** Căn cứ Rồng hiện ra trước mắt ba cô gái, mọi sinh hoạt ở đây vẫn diễn ra bình thường nhưng đối với họ thì thật là mới mẽ, mọi thứ điều lạ, họ nhớ nới này, nhớ những công việc được giao và nhớ cả người đỡ đầu, người đưa cho các cô các nhiệm vụ mới. - Chúng con chào chú a. - Oh, chào các cô con gái của ta, các con khỏe không, những ngày nghĩ êm đềm đó các con nghĩ sao ? - Chán lắm chú a., bọn cháu chỉ muốn vừa du lịch vừa phá án thôi, như thế mới hấp dẫn. Sara lên tiếng. - Thế à, biết thế chú đã tìm các cháu lâu rồi, ở đây chú rối cả lên. - Tội nghiệp chú Saro đáng thương quá. Zane lên giọng thương xót. - Mà chú Saro nè, nhiệm vụ lần này như thế nào vậy chú. Sara hỏi. - Uh nhỉ ! Gạt chuyện tư qua đi, chuyện công đây. Trên màn hình bắt đầy hiện ra những tài liệu có liên quan đến nhiệm vụ lần này, vật bị lấy là một chiếc nhẫn nạm một viên kim cương bảy màu rất đẹp, có giá trị lớn. Vụ đánh cắp đã gấy thiệt mạng hai nhân viêc giám sát. Đây là chiếc nhẫn rất quý và nó có cả giá trị về chính trị giữa ThaiLand và Singapore. Vì thế các cháu phải sang Singapore để tìm hiểu và phá vụ này. - Gay đấy, không biết quan hệ hai nước có xấu đi không nhỉ. Zane bày tỏ suy nghĩ của mình. - Em nghe nói chiếc nhẫn đó là do vua ThaiLand tặng đấy. - Sara nói đúng đó, vì thế công việc chúng ta là tìm ra thủ phạm và chiếc đem đặt lại vị trí cũ. - Chúng cháu đi Singapore hả chú Saro. Sara hỏi. - Phải, giấy tùy thân, hộ chiếu, hành lý chú điều chuẩn bị xong cho các cháu rồi. - Chú Saro này, không lẽ thủ phạm lại muốn chia rẻ sự hợp tác hai nước à, cháu không nghĩ thế đâu, quốc vương ThaiLand đâu phải là chỉ tặng riêng vật đó. Alex lên tiếng. - À, thì ra nãy giờ cháu không nói gì là để suy nghĩ vấn đề này à ? - Vâng a. - Chị Alex nè, có lẽ chiếc nhẫn ấy quý nhất thì sao ? - Nhưng họ có thể không phải là ăn trộm như những tên khác - Vì đây là vật có giá trị mà chính quốc vương tặng không chừng đó Alex ạ. Saro nói. - Như vậy tại sao họ không lấy luôn những thứ như cây gậy ngọc quý, hai mãnh da con bạch hổ ? - Chị không biết Alex ạ, đừng hỏi chị. - Chúng ta qua đó điều tra sẽ rỏ ngay thôi, ở đây doán già, đoán non cũng vô ích thôi. Sara đề nghị. - Đúng đấy, các cháu đi đi. - Vâng ạ . - Cận thẩn đó nha, lần này không nên khinh địch đó. - Yes Sir !!! ... Mời các bạn đón đọc Những con Rồng Châu Á của hai tác giả Selphie & Kitaro.
Gã Hippi Trên Đường - James Hadley Chase
James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh - Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước khi tập trung vào sự nghiệp viết lách với hơn 80 cuốn sách trinh thám. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong Thế chiến II, ông phục vụ trong Không quân Hoàng gia, cuối cùng đạt được thứ hạng lãnh đạo Đội tàu chiến. Chase đã biên tập Tạp chí Không quân Hoàng gia cùng với David Langdon với nhiều câu chuyện, nó được phát hành sau chiến tranh trong cuốn sách Slipstream. Chase chuyển đến Pháp năm 1956 và sau đó đến Thụy Sĩ vào năm 1961, sống một cuộc sống ẩn dật ở Corseaux-Sur-Vevey, phía bắc của hồ Geneva, từ năm 1974. Ông qua đời yên bình vào ngày 6/2/1985. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Tỉa Dần Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Thằng Khùng Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... ***  Này, hãy nhìn bọn khốn kia kìa. - Người lái xe tải quay qua và vỗ nhẹ lên vai của Harry Mitchell và nói. Lúc này Harry Mitchell đang ngả lưng trên ghế nệm của cabin xe. Nghe vậy, anh giật mình nhìn về phía trước thấy một tốp Hippy đang đứng long nhong bên lề đường. Bên cạnh chúng ngổn ngang những đồ dùng, nổi bật là mấy cây đàn ghita. - Bọn khốn kiếp! - Người lái xe có vẻ khó chịu rồi nói tiếp. - Tương lai của xã hội đấy, nhưng chúng có thể giết ngay cả cha mẹ của chúng khi lên cơn ghiền ma túy. Bỗng trước mặt có ba đứa con gái mặc sơ mi và quần jean xanh, bọn chúng đưa tay ngoắc xe dừng lại. - Đồ điếm nhóc! Mới tập tễnh mà bày đặt. - Lần này anh khạc qua cửa sổ. - Mình hài lòng vì chưa có con, nhưng bà xã mình thì ngược lại. Thế hệ mình là đồ bỏ, nhưng còn bọn này thì... - Harry Mitchell lặng lẽ móc trong túi lấy gói Lạc Đà dẹp lép rồi mời anh lái xe, cả hai cùng đốt thuốc. Người lái xe nói tiếp: - Có phải cậu đang nghĩ là vì sao tôi cho cậu đi nhờ? Có phải cậu mới được giải ngũ không? Nhìn sơ là tôi biết ngay vì trước dây tôi cũng là lính ở Triều Tiên. Cậu mới về hả? - Đúng, tôi vừa về. - Harry lơ đãng nói. - Ờ. - Người lái xe gật đầu. - Trông chú em còn sặc mùi lính. Harry nhún vai: - Rồi tôi cũng sẽ như mọi người mà thôi. - Anh cảm thấy vui khi trở về chứ? Harry không muốn trả lời thẳng vào câu hỏi. Người lái xe tỏ vẻ thông cảm, anh ta nói như chia sẻ: - Cuộc sống ở quân đội thì có gì là vui, những ngày đầu ai cũng cảm thấy lẻ loi, trước kia tôi cũng như anh vậy. Anh ta hít sâu một hơi thuốc lá rồi từ từ nhả khói: - Có thật sự gian khổ như bọn nhà báo đã viết không? Harry không đáp lại và với vẻ mặt đăm chiêu anh nói: - Tôi không chịu được nỗi buồn. Anh hồi tưởng lại thời gian sống trong quân ngũ, gần kề giữa cái sống và cái chết, bây giờ anh không muốn nhắc tới nữa, với anh mọi việc vậy là đã xong. Người lái xe như đọc được ý tưởng của Harry, anh cảm thấy thất vọng vì không được nghe nói về những cuộc đụng độ, nên thở dài. Khi chiếc xe chạy qua khỏi Dayton Beach, người lái xe tên là Sam Bentz, đã cho xe dừng lại trước một quán ăn nhanh, để giải khát. Công việc của anh hiện giờ là mang trái cây từ Orangerille về miền Bắc, cứ một tuần hai lần. Đây là hành trình mà anh cảm thấy chán ngán vì có đám lưu manh đã làm bẩn con đường dẫn tới biển và mặt trời. Chúng dùng mọi cách buộc người đi đường phải cho chúng đi nhờ. ... Mời các bạn đón đọc Gã Hippi Trên Đường của tác giả James Hadley Chase.
Cảnh Sát Đặc Nhiệm Texas - Diana Palmer
Một vụ phá án của đội cảnh sát đặc nhiệm Texas lồng trong câu chuyện tình của trung úy Marc Brannon và Josette Langley, nữ điều tra viên, hai nhân vật chính của truyện. Nhiều năm trước, những éo le trong hai vụ án có liên quan nhau đã khiến họ phải đứng trước tòa ở hai phía đối lập, điều đó cũng khiến cho mối tình của họ phải tan vỡ và danh tiết của Josette bị tổn hại nghiêm trọng. Những tưởng hai người sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa khi mỗi bên đều chuyển công tác và chỗ cư ngụ, nhưng số phận lần nữa lại đẩy đưa họ đối mặt với nhau. Lần này, là một vụ án rất phức tạp khiến họ phải luôn sát cánh bên nhau trong công việc. Và dẫu còn đầy tổn thương vì chuyện cũ, Josette vẫn không thể tự dối lòng rằng, trái tim cô vẫn chưa thể xóa đi hình bóng của con người phụ bạc ấy. Rằng, quá khứ sâu đậm ấy giờ đây đang lên tiếng... Đây làtiểu thuyết trinh thámhình sự. Theo giới thiệu của nguyên bản, sách được xếp vào hàng best-sellers ở Hoa Kỳ với tác giả là Diana Palmer, một nữtiểu thuyếtgia nổi tiếng, có hơn 25 năm sáng tác và hơn 95 tiểu thuyết được in. Truyện có, nhiều tình tiết hấp dẫn gay cấn lồng trong một câu chuyện tình khá nóng bỏng với kết thúc có hậu. *** Tại trụ sở đội cảnh sát đặc nhiệm bang Texas ở San Antonio, trên tường nhà treo đầy những bức ảnh đen trắng được đóng khung của những thành viên cũ trong đội ngũ ưu tú đó. Những bóng ma màu nâu xám của quá khứ đang ngắm nhìn thế giới hiện đại với đầy những điện thoại, máy fax và máy tính qua những khung ảnh... Chuông điện thoại không ngừng kêu vang. Những nhân viên ngồi sau bàn làm việc của mình đang làm công việc thẩm vấn. Và như một điệu hát ru điện tử đều đặn du dương, tiếng kêu ro ro của những máy móc vẫn đều đều lấp đầy không gian. Trung úy cảnh sát Marc Brannon như bị trói chặt vào chiếc ghế xoay của mình trước một bàn làm việc chất đống tài liệu. Những lọn tóc xoăn màu hạt dẻ chen lẫn màu hoe vàng của anh ánh lên dưới bóng đèn neon. Cặp mắt nheo nheo, anh đang nghĩ đến một sự việc mới xảy ra gần đây. Vài tuần trước, một người bạn và cũng là đồng nghiệp của anh, Judd Dunn, người vừa được bổ sung tạm thời về văn phòng ở San Antonio suýt nữa đã bị một chiếc xe chạy với tốc độ cao cán vào người. Theo những lời bàn tán thì vụ việc đó không liên quan gì đến một vụ điều tra của FBI về Jake Marsh, một ông trùm mafia trong vùng. Dunn đã tham gia vào việc thẩm tra ấy, trước khi yêu cầu được chuyển đến Victoria vì những lý do cá nhân. Cuộc điều tra sẽ được tiếp tục dưới sự chỉ đạo của một nhân viên khác người gốc Georgie là Curtis Russell, người trước đây từng làm việc cho Sở Mật vụ. Chính vì thế mà Marc cảm thấy hoi lạ khi anh ta làm việc cùng bộ phận với mình. Nhưng trong công việc này, mọi người thường xuyên phải thay đổi công tác. Chắc đây là một trường hợp như vậy. Trừ phi Russell chính là kẻ chuyên quấy rầy. Hai ngày trước, chưởng lý Simon Hart đã đích thân gọi điện cho Marc để phàn nàn về tính bướng bỉnh của đồng nghiệp của anh. Russell, hiện giờ đang tung hoành ở Austin và đã gây nhiều khó khăn cho những nhân viên ở đây. Sau khi đã xem xét tỉ mỉ hồ sơ của cảnh sát, anh ta đã moi ra hai vụ giết người mà theo anh ta, hai vụ này có liên quan chặt chẽ đến Marsh và maña... Cũng có thể anh ta có lý. Nhưng vấn đề là gán tội cho bọn trộm cắp thì dễ hơn nhiều việc đưa ra được bằng chứng của những tội danh đó. Jake Marsh đã được tôi luyện trong tất cả các kiểu phạm tội như đe dọa tống tiền, ma cô dắt gái hay cá độ bất họp pháp... Ngoài ra, hắn còn sở hữu một căn hộ ngay giữa Downtown, khu phố đẹp nhất ở San Antonio. Đấy chính là gót chân Âsin của hắn. Bởi vì cảnh sát có thể “hỏi thăm” hắn bất cứ khi nào khi viện dẫn luật về yếu tố gây nguy hại nơi công cộng - một loại tội phạm hình sự cho phép cảnh sát đóng cửa một địa điểm bị nghỉ ngờ là được dùng để tổ chức các hoạt động phạm tội. Cảnh sát có thể viện mọi lý do để đánh bật những tay anh chị ra khỏi hang ổ của mình. Và, nếu xét theo giá trị bất động sản của căn hộ thì Marsh rất có khả năng bị sờ gáy. Nhưng điều đó chưa đủ để bắt ông ta. Marsh rất có tài và biết cách lẩn tránh sự truy tìm của cảnh sát. Rõ ràng là sự hiểu biết pháp luật rất có lợi cho bọn tội phạm. “Đáng tiếc là người ta không thể tóm cổ những kẻ phạm tội như ở thời trước đây nữa”, - Marc suy nghĩ với một thái độ khinh bỉ. Mắt anh gắn chặt vào bức ảnh cũ, trong đó có hình một thành viên của đội cảnh sát đặc nhiệm đang cưỡi ngựa, ngạo nghễ kéo theo bằng dây thừng một tên sống ngoài vòng pháp luật bị thương, nhục nhã và người đầy bụi bặm. Anh hờ hững mân mê báng súng bằng gỗ sậm màu của khẩu colt 45 mà anh luôn đeo nó bên thắt lưng của mình. Những thành viên của đội cảnh sát đặc nhiệm không mặc đồng phục, họ được tự do chọn phục trang và mang vũ khí cho phù hợp. Nhưng phần lớn trong số họ đều chọn cho mình cùng một kiểu: sơ mi trắng, cà vạt, ủng và mũ cao bồi Stetson trắng, và cùng đeo phù hiệu - một ngôi sao trong một vòng tròn. Một cảnh sát đặc nhiệm phải luôn lịch sự, sạch sẽ, bảo thủ và chuyên nghiệp. Ngay từ đầu, Marc đã cố gắng để quen vói hình ảnh này, nhưng nay thì anh tỏ ra thận trọng và đa nghi hơn. Hai năm trước, anh đã phạm một sai lầm trong cuộc đời mình: anh đã hiểu lầm về một người phụ nữ mà anh đã từng gắn bó... còn hơn cả lý trí của mình. Em gái của anh, người biết thông tin về người phụ nữ này, đã cam đoan là người phụ nữ này không còn muốn gì ở anh nữa. Đúng là một sự giúp đỡ vô dụng. Marc không tha thứ cho mình về chuyện đó. Anh đã xin thôi việc, rời khỏi đội đặc nhiệm và bang Texas, rồi gia nhập FBI và làm việc ở đó trong hai năm. Kinh nghiệm đã dạy cho anh biết rằng, trốn chạy khỏi một vấn đề không phải là giải pháp tốt; vì người ta luôn mang theo nó bên mình như một con tim bị thương. ... Mời các bạn đón đọc Cảnh Sát Đặc Nhiệm Texas của tác giả Diana Palmer.
Sherlock Holmes Toàn Tập - Arthur Conan Doyle (Bản Dịch Mới)
… Những bản dịch Sherlock Holmes trước đây đã tiếp cận tác phẩm lừng danh của Conan Doyle theo những phương cách khác nhau. Có bộ tuy gọi là “toàn tập” nhưng thực tế lại không dịch trọn vẹn 4 đoản thiên tiểu thuyết và 56 truyện ngắn kinh điển của Doyle. Một số truyện thậm chí là bản lược dịch hoặc dịch theo các bản rút gọn không đúng nguyên tác. Có bộ đúng là toàn tập, dịch từ nguyên tác tiếng Anh nhưng việc xử lý bản dịch lại thiếu nhất quán và không lưu tâm đến các giá trị văn học sử.  Để đáp ứng mong đợi lâu nay của nhiều bạn đọc - một là tiếp cận bộ truyện kinh điển này một cách trọn vẹn, hai là nắm bắt sự phát triển của nhân vật Sherlock Holmes qua các thời kì sáng tác của Conan Doyle - bộ sách này tập hợp đầy đủ 4 đoản thiên tiểu thuyết và 56 truyện ngắn, sắp xếp theo thời gian xuất bản.  Về mặt dịch thuật, bản dịch mới này tiếp cận tác phẩm của Doyle trên cả góc độ lịch sử và văn chương, không xem toàn tập Sherlock Holmes như những truyện trinh thám phổ thông mà là một danh tác kinh điển. Việc dịch thuật được tổ chức trên cơ sở tra cứu, tìm hiểu các thông tin liên quan đến tác giả, nhân vật lẫn thời đại và nỗ lực duy trì một phong cách nhất quán nhằm chuyển tải yếu tố văn học - đặc biệt là qua 4 đoản thiên tiểu thuyết. Một phần những thông tin đã sưu tầm, tra cứu trong quá trình dịch thuật được đúc kết thành phần dẫn nhập và một phụ lục có hệ thống, nhằm giúp độc giả hiểu rõ hơn về Sherlock Holmes, về người khai sinh ra nhân vật thám tử lừng danh và sức ảnh hưởng sâu xa của toàn tập tác phẩm này trên thế giới… *** Cái tên Sherlock Holmes đã quen thuộc khắp thế giới tới mức một người dù có thể chưa hề đọc truyện về nhà thám tử này nhưng chỉ cần nghe tên cũng biết anh ta là ai. Sherlock Holmes đã trở thành một biểu tượng của văn hóa đại chúng toàn cầu. Khác với những nhân vật thần tượng chỉ vang bóng một thời, Sherlock Holmes kể từ khi xuất hiện lần đầu tiên năm 1887 qua sáng tạo của Sir Arthur Conan Doyle vẫn sống mãi qua ba thế kỉ.  Sherlock Holmes hiện lên qua lời kể của cộng sự thân thiết và người viết tiểu sử tận tụy - bác sĩ Watson như một chân dung độc đáo, là chuyên gia số một trong lĩnh vực điều tra hình sự và khoa học suy luận, "chiến sĩ bảo vệ công lí lỗi lạc nhất" của thời đại. Trong sự nghiệp truy lùng tội phạm, vị thám tử đại tài từng trải qua nhiều thử thách gay cấn, thậm chí đã một lần chết đi sống lại, nhưng cũng chính nhờ đó, Holmes trở thành một nhân vật bất tử, được độc giả khắp thế giới yêu mến vì tài trí và chất nghệ sĩ, vì cả những nhược điểm lẫn cá tính lập dị. Bản dịch mới này tiếp cận tác phẩm của Doyle trên  cả  góc  độ  lịch  sử  và  văn  chương, không xem  toàn  tập  Sherlock Holmes như những truyện trinh thám phổ thông mà là một danh tác kinh điển. Bộ Sherlock Holmes toàn tập 3 tập, bìa mềm, hộp ngang có thêm Phụ bản in màu ở cuối tập 3 về Bảo tàng Sherlock Holmes.  *** Nội dung Tập 1 Sherlock Holmes lần đầu ra mắt công chúng trong một vụ án mạng hóc hiểm với tựa đề Cuộc điều tra màu đỏ (1887). Đây là khởi điểm của tình bạn lâu bền giữa Sherlock Holmes và bác sĩ Watson mà rồi đây sẽ làm đổi thay lịch sử loại hình tiểu thuyết trinh thám. Tiếp đó, trong Dấu bộ tứ (1890), đôi bạn Holmes và Watson tái xuất trong một vụ án mạng không kém phần li kì, phức tạp. Hai thiên truyện đầu ấy, hiện lên sinh động qua lời kể của bác sĩ Watson, không chỉ giới thiệu với độc giả phương pháp điều tra và suy luận của nhà thám tử tài ba mà còn góp phần định hình phong cách cho những truyện Sherlock Holmes sáng tác sau này.  Tập 2 Tập truyện ngắn thứ hai Những hồi ức về Sherlock Holmes (1894) mở ra cho độc giả cái nhìn toàn diện hơn về một Sherlock Holmes sở hữu nhiều năng lực xuất chúng nhưng cũng vô cùng lập dị. Cũng trong loạt truyện này, độc giả được hé lộ về vụ án đầu tiên đã tạo nên bước ngoặt đưa Holmes vào sự nghiệp thám tử; nhưng đáng nhớ nhất có lẽ là Vụ án cuối cùng, cuộc đối đầu gay cấn giữa Holmes và đối thủ nguy hiểm nhất trong giới tội phạm - giáo sư Moriarty. Tập 3 Khởi đầu từ một vụ án lắt léo tại vùng quê Anh quốc, Thung lũng Kinh hoàng (1915) đưa độc giả tới một vùng mỏ của Hoa Kì - sân khấu u ám cho những mưu mô, những cuộc đấu đá, thanh trừng, khủng bố của một băng đảng đã gieo rắc nỗi khiếp sợ cho biết bao con người. Cách dẫn dắt truyện ở đây gợi nhớ đến hai đoản thiên tiểu thuyết đầu cũng gắn với những vụ án có căn nguyên sâu xa từ hàng chục năm về trước.    Mời các bạn đón đọc Sherlock Holmes Toàn Tập của tác giả Arthur Conan Doyle.