Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trí Não Bất Bại

“Quá đát.” “Gần đất xa trời.” “Xế chiều.” “Hưu trí.” Những ngôn từ này cho thấy một sự ngộ nhận dai dẳng rằng tuổi tác là một trải nghiệm tiêu cực và tuổi già êm đẹp chẳng có gì khác ngoài việc làm chậm tiến trình suy thoái tất yếu của thân và tâm. Thật là sai lầm. Một số tặng phẩm quý giá nhất trong cuộc sống chỉ có thể đến bằng tuổi tác: Sự uyên bác, chẳng hạn, và sự tinh thông biết bao địa hạt kinh nghiệm khác của con người đều đòi hỏi hàng chục năm học hỏi. Tuổi tác là lúc con người đầy ắp những kinh nghiệm tích cực, và tuổi cao niên cũng là lúc để khai thác và thể hiện tiềm năng tích cực lớn lao mà mỗi chúng ta đều có, nhằm tiến hóa, thương yêu và hạnh phúc. Tất nhiên, tuổi tác cũng mang lại những thách thức và tổn thất..." Cuốn sách Trí Não Bất Bại (The Mature Mind) của tiến sĩ Gene D. Cohen là cuốn sách đầu tiên công bố một cách súc tích các khám phá đầy bất ngờ về não bộ và tuổi tác, mang lại tin vui thật sự cho những ai quan tâm đến hoạt động trí não, nhất là những người cao niên. Bằng lối mô tả thật cô đọng và đặc sắc về các thành tựu mới nhất của ngành thần kinh học, cùng với những câu chuyện minh họa lý thú và các ca nghiên cứu điển hình, ông đã giúp độc giả thay đổi hoàn toàn cái nhìn về tuổi tác và trí não, hiểu được bản thân và những người xung quanh, và có thể tự đề ra các chiến lược để hoàn thiện cá nhân. *** Trước tiên, tôi muốn cám ơn sự hỗ trợ và kiên nhẫn đầy ân cần từ gia đình tôi trong thời gian tôi soạn sách này. Thực tế là trong suốt mười tháng này tôi đang hồi phục sau khi bị gãy xương đùi và phải giải phẫu hai lần, điều đó càng khiến cho cho sự ủng hộ của gia đình trở nên bội phần quý giá. Vợ tôi, Wendy Miller, và con gái tôi, Eliana, thật phi thường trong thời gian qua, và con trai tôi, Alex, cùng vợ, Kate, và hai cháu gái của tôi – Ruby và Lucy – cũng là một sự cổ vũ tuyệt vời từ nơi xa, ở Camden, Maine. Tôi cũng muốn cám ơn những lời khuyên, sự trợ giúp và khích lệ vô giá mà Teresa Barker dành cho tôi trong quá trình lên kế hoạch, phác thảo sơ bộ và soạn thảo cuốn sách. Tôi cũng hết sức biết ơn Stephen Braun, người đã cộng tác rất chặt chẽ với tôi để giúp bản thảo cuối cùng đi đến đích, góp phần cực kỳ quan trọng trong việc bản thảo đạt chất lượng và kịp thời hạn. Tôi cũng rất biết ơn Gail Ross, đại diện xuất bản của tôi, người đã nỗ lực để kết nối tôi với Basic Books và tiếp tục hỗ trợ để mọi việc diễn ra suôn sẻ. Và tôi cũng biết ơn rất nhiều với Howard Yoon, người đã làm việc cần mẫn với Gail trong suốt quá trình này. Cảm ơn Jo Ann Miller, biên tập viên sách của tôi tại Basic Books, người đã làm việc chặt chẽ với tôi, luôn luôn nhanh nhẹn và tận tình trả lời các câu hỏi, giải quyết vấn đề và thúc đẩy công việc. Xin gửi lời tri ân sâu sắc đến các nhà bảo trợ những cuộc nghiên cứu chủ chốt tôi mô tả trong sách này. Tổ chức Atlantic Philanthropies (USA) Inc. đã hỗ trợ Nghiên cứu Hưu niên Thế kỷ 21. Cùng với Quỹ Helen Bader, họ cũng hỗ trợ biên soạn và đánh giá danh mục sách thiếu nhi đã chọn (để trẻ em có cái nhìn tích cực về sự lão hóa). Nghiên cứu Tính sáng tạo và Cao niên đã được hỗ trợ bởi sáu nhà bảo trợ, dẫn đầu bởi Quỹ Bảo trợ Nghệ thuật Quốc gia (NEA). Năm nhà bảo trợ kia là Trung tâm Dịch vụ Sức khỏe Tâm thần thuộc Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ, Viện Sức khỏe Tâm thần tại Viện Y tế Quốc gia, AARP, Quỹ Stella và Charles Guttman và Quỹ Nghiên cứu Âm nhạc Quốc tế. Về cuộc nghiên cứu này, xin đặc biệt cám ơn Paula Terry, cán bộ dự án tại NEA. Sau khi cuốn sách Thời sáng tạo của tôi ra đời, Paula, người đứng đầu Văn phòng Chương trình Tiếp cận và điều phối các dự án về lão hóa tại Quỹ Bảo trợ Nghệ thuật Quốc gia, đã đọc và quan tâm đến phần tóm tắt của cuộc nghiên cứu về tác động của sự biểu đạt sáng tạo đối với sức khỏe ở tuổi cao niên. Quỹ bảo trợ này từ lâu đã cam kết đưa toàn bộ các loại hình nghệ thuật đến với những người không đủ điều kiện tiếp cận, gồm cả người lớn tuổi. Nhận thấy phần dữ liệu ít ỏi ấy đã đề cập đến tác động của các chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp đối với người lớn tuổi, Paula đã khuyến khích tôi soạn định hướng cho một cuộc nghiên cứu và nộp đề xuất cho Quỹ. Tôi cũng xin cám ơn Quỹ Small-Alper Family đã đóng góp cho quá trình biên soạn cuốn sách này. Cuối cùng, tôi muốn bày tỏ sự tri ân đặc biệt với các đồng nghiệp của tôi tại ba địa bàn nghiên cứu trong Nghiên cứu Tính sáng tạo và Cao niên mà tôi đã dẫn dắt. Jeanne Kelly, thuộc Trường Âm nhạc Levine, giữ vai trò giám đốc nghệ thuật khu vực Washington, D.C., một phần của cuộc nghiên cứu. Jeff Chapline, người đứng đầu Trung tâm Cao niên và Thanh niên trong Nghệ thuật (CEYA), chỉ đạo khu vực San Francisco. Susan Perlstein, người đứng đầu tổ chức Người cao niên Chia sẻ Nghệ thuật (ESTA), chỉ đạo khu vực Brooklyn và chia sẻ các phát hiện quan trọng của Nghiên cứu về Tính sáng tạo và Cao niên với Trung tâm Quốc gia về Cao niên Sáng tạo (NCCA), mà bà cũng là người lãnh đạo, để thúc đẩy việc đưa các kết quả nghiên cứu vào ứng dụng thực tiễn trong các chương trình nghệ thuật cộng đồng trên cả nước. Làm việc với những đồng nghiệp tuyệt vời này giống như được đứng trong một đội hình lý tưởng. *** Trở ngại lớn nhất đối với hành trình khám phá không phải là sự dốt nát – mà là ảo tưởng về sự hiểu biết. • Daniel J. Boorstin “Quá đát.” “Gần đất xa trời.” “Xế chiều.” “Hưu trí.” Những ngôn từ này cho thấy một sự ngộ nhận dai dẳng rằng tuổi tác là một trải nghiệm tiêu cực và tuổi già êm đẹp chẳng có gì khác ngoài việc làm chậm tiến trình suy thoái tất yếu của thân và tâm. Thật là sai lầm. Một số tặng phẩm quý giá nhất trong cuộc sống chỉ có thể đến bằng tuổi tác: Sự uyên bác, chẳng hạn, và sự tinh thông biết bao địa hạt kinh nghiệm khác của con người đều đòi hỏi hàng chục năm học hỏi. Tuổi tác là lúc con người đầy ắp những kinh nghiệm tích cực, và tuổi cao niên cũng là lúc để khai thác và thể hiện tiềm năng tích cực lớn lao mà mỗi chúng ta đều có, nhằm tiến hóa, thương yêu và hạnh phúc. Tất nhiên, tuổi tác cũng mang lại những thách thức và tổn thất. Nữ diễn viên Bette Davis từng có câu châm biếm nổi tiếng, “Tuổi tác không dành cho những ai yếu đuối”. Mắt có thể mờ, tai có thể ngễnh ngãng, bạn bè có thể lìa trần hoặc không thể đi lại. Tất cả những điều này đều là sự thật, nhưng không phải toàn bộ sự thật. Từ xưa đến nay, khoa học và văn hóa trong xã hội phương Tây tập trung hoàn toàn vào những mặt tiêu cực của sự lão hóa và phớt lờ mặt tích cực. Đã đến lúc phải có một mô hình tốt đẹp hơn, đích thực hơn và giàu cảm hứng hơn – không phải một nhãn quan màu hồng, mọi thứ đều tuyệt vời, mà một cái nhìn chân thực để ghi nhận thực tế khó khăn của tuổi tác đồng thời tôn vinh những lợi ích, niềm vui và thành quả nó mang lại. Với cuốn sách này, tôi muốn phá vỡ ảo tưởng “kiến thức” về lão hóa dựa trên lý luận sai lầm, thiếu nghiên cứu và định kiến về bệnh tật và bệnh lý. Quan điểm tích cực của tôi về quá trình lão hóa xuất phát từ kết quả tiên tiến trong nghiên cứu khoa học cũng như kinh nghiệm của riêng tôi trong vai trò bác sĩ tâm thần, với hơn 35 năm điều trị cho những người cao niên và gia đình của họ. Các kết quả nghiên cứu mới nhất rất đáng khích lệ và quan trọng. Việc chối bỏ hoặc xem thường tiềm năng tích cực của quá trình lão hóa sẽ khiến người ta không nhận thức được trọn vẹn tài năng, trí tuệ và cảm xúc của chính mình. Khi ta kỳ vọng tuổi tác sẽ đến cùng với một sự tiến hóa, sự tiến hóa ấy sẽ được vun đắp. Chúng ta vẫn còn một chặng đường dài để làm chuyển biến nhận thức này, nhưng tôi hy vọng cuốn sách này sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ để tạo nên sự thay đổi theo chiều hướng đó. Khoa học mới, những chân trời mới Một số nghiên cứu thú vị nhất hậu thuẫn cho quan niệm tích cực về lão hóa được lấy từ các nghiên cứu gần đây về não bộ và trí tuệ. Phần lớn các nghiên cứu lão hóa được tiến hành trong thế kỷ 20 đều nhấn mạnh việc cải thiện sức khỏe cho cơ thể lão hóa. Kết quả là tuổi thọ và sức khỏe tổng thể được cải thiện đáng kể trong thực tế. Nghiên cứu lão hóa vào đầu thế kỷ 21, ngược lại, đã diễn ra với trọng tâm nhấn mạnh rõ nét vào việc cải thiện sức khỏe tinh thần. Hàng chục kết quả nghiên cứu mới đã làm đảo lộn quan niệm cho rằng não cao tuổi không còn sức tiếp thu. Kết quả chỉ ra rằng não cao tuổi không những tiếp thu tốt mà thật ra, đối với nhiều công việc trí óc, còn tốt hơn cả não bộ trẻ tuổi. Thông tin trọng đại ở đây là não bộ linh hoạt hơn và thích ứng hơn rất nhiều so với những gì mọi người từng nghĩ. Não không những giữ nguyên khả năng tạo ký ức mới, vốn đòi hỏi khởi tạo các kết nối mới giữa các tế bào não, mà còn sinh ra những tế bào não hoàn toàn mới – một phát hiện choáng váng và đầy hứa hẹn. Chúng ta cũng biết được rằng não bộ lớn tuổi có thể xử lý thông tin một cách rất khác so với não bộ trẻ tuổi. Những người lớn tuổi có thể sử dụng cả hai bán cầu não để làm việc trong khi những người trẻ tuổi chỉ sử dụng một bên. Nhiều công trình khoa học cũng khẳng định cơ chế “càng dùng càng tốt”: Trí óc phát triển mạnh mẽ hơn khi bị thách thức, hệt như cơ bắp được luyện tập thì cường tráng. Nhưng não bộ không phải là bộ phận duy nhất có tiềm năng lớn lao hơn ta tưởng. Tính cách, tính sáng tạo và “các thể” tâm lý của ta vẫn tiếp tục phát triển suốt đời. Điều này giờ đây nghe thật hiển nhiên, nhưng suốt nhiều thập kỷ các nhà khoa học nghiên cứu hành vi con người đã không đồng tình quan điểm này. Thật ra, trước cuối thế kỷ 20, người ta không mấy chú ý đến sự phát triển tâm lý trong nửa sau cuộc đời, và mỗi khi quan tâm, họ thường rút ra những kết luận sai lầm. Ví dụ, Sigmund Freud, người có ảnh hưởng lớn đến lý thuyết tâm lý học, đã nói thế này về người cao niên: “Vào khoảng 50 tuổi, như một quy luật, các tiến trình trí não thiếu độ đàn hồi, vốn là nền tảng của trị liệu. Người già không còn đào luyện được nữa”. Trớ trêu thay, Freud khẳng định điều này vào năm 1907, khi ông 51 tuổi, và một số tác phẩm vĩ đại nhất của ông đã được viết sau tuổi 65. Chưa hết, Oedipus Rex của Sophocles, kiệt tác mà Freud dựa vào để hình thành lý thuyết phân tâm học tiên phong của mình, được viết khi kịch tác gia Hy Lạp này 71 tuổi. Freud không phải là người tiên phong duy nhất nói sai về lão hóa. Jean Piaget, người đã có công lớn giúp chúng ta hiểu về sự phát triển nhận thức, đã kết thúc phần mô tả của ông về quá trình phát triển trí tuệ bằng khái niệm ông gọi là “thao tác hình thức”, loại tư duy trừu tượng vốn trưởng thành trong những năm niên thiếu. Theo Piaget, sự phát triển này dừng lại vào đầu độ tuổi trưởng thành và sau đó bắt đầu một tiến trình suy thoái chậm. Ngay cả nhà tâm lý học phát triển vĩ đại Erik Erikson, một trong những vị thầy dạy tôi tại Đại học Harvard, cũng chú ý rất ít đến sự phát triển ở tuổi cao niên. Erikson vạch ra tám giai đoạn phát triển tâm lý và định nghĩa mỗi giai đoạn như một vấn đề, hoặc xung đột, phải giải quyết. Thế nhưng chỉ duy nhất một giai đoạn của ông đề cập đến sự phát triển sau tuổi trưởng thành – được gọi là “thời kỳ trưởng thành,” kéo dài đến 50 năm! Tác phẩm kinh điển của ông mang tên “Bản thể và chu trình sống” đề cập chỉ một trang cho mỗi giai đoạn trong hai giai đoạn cuối của đời người. Erikson được ghi nhận là một trong những nhà tư tưởng có uy tín đầu tiên khẳng định rằng có một dạng phát triển tâm lý diễn ra trong suốt cuộc đời. Ông thừa nhận công trình của mình về lão hóa là không đầy đủ, và đã mời gọi các sinh viên tiếp tục đi vào lĩnh vực này. Cuốn sách này một phần cũng là sự đáp lại của tôi đối với lời kêu gọi Erikson nêu ra cách đây mấy thập kỷ. Bốn giai đoạn Trong cuốn sách này, tôi trình bày một kiến giải mới về sự phát triển tâm lý ở nửa sau của đời người. Quan điểm mới này giải thích nhiều điều về tuổi cao niên, và cơ bản là tư tưởng cấp tiến và lạc quan về tiềm năng con người có thể phát triển, sáng tạo và viên mãn về cảm xúc trong suốt cuộc đời. Dựa trên các nghiên cứu với hơn 3.000 người lớn tuổi, các cuộc phỏng vấn chuyên sâu và câu hỏi khảo sát được tiến hành nhiều lần trong nhiều năm, tôi đã xác định được bốn giai đoạn phát triển ở tuổi cao niên: tái đánh giá ở tuổi trung niên, khai phóng, đúc kết và encore [vẫn tiếp diễn]. Con người bước vào và đi qua những giai đoạn này bởi tác động của những động lực, ham muốn và sự thôi thúc trồi sụt trong suốt cuộc đời. Tôi gọi những động lực này là “Động lực Nội tại” và đã chứng kiến ​​nó ở hàng ngàn đối tượng lớn tuổi tham gia các dự án nghiên cứu và lâm sàng của tôi. Động lực Nội tại là nhiên liệu thúc đẩy sự phát triển; nó vận hành phối hợp với những biến đổi trong não bộ cao tuổi mà tôi khảo sát trong chương 1. Tôi quan niệm các giai đoạn này linh hoạt và năng động hơn so với quan niệm của Erikson vì tôi nhận ra rằng khi lớn tuổi, mọi người rất khác nhau về mọi mặt, và không một hệ thống cứng nhắc nào chính xác cho tất cả. Các giai đoạn tôi đưa ra là có thật – tôi đã nhìn thấy chúng hiển lộ – nhưng mọi người trải nghiệm chúng theo những cách khác nhau và đôi khi theo một trình tự hơi khác với những gì tôi trình bày. Giai đoạn đầu tiên, tái đánh giá ở tuổi trung niên, là thời điểm thăm dò và chuyển tiếp. Đây hoàn toàn không phải “khủng hoảng tuổi trung niên” – khái niệm mà nghiên cứu hiện nay cho thấy đã bị thổi phồng và phần lớn chỉ là một sự ngộ nhận trong văn hóa. Chỉ 10% những người tôi phỏng vấn cho biết họ gặp khủng hoảng tuổi trung niên. Thay vào đó, tôi thấy trong giai đoạn này, từ khoảng 40 đến 65 tuổi, người ta trải qua một cuộc tái đánh giá sâu sắc, và thường tự vấn: Lâu nay tôi đang ở đâu? Giờ tôi đang ở đâu? Tôi sẽ đi về đâu? Với hầu hết mọi người, giai đoạn này không phải một cuộc khủng hoảng mà là một cuộc tìm kiếm – ước muốn tìm được lãnh địa mới, giải đáp được những câu hỏi sâu xa và tìm kiếm những gì xác thực và mang ý nghĩa trong cuộc sống. Tiếp theo giai đoạn tái đánh giá ở tuổi trung niên là giai đoạn mà tôi gọi là khai phóng: Giai đoạn ta cảm thấy muốn thử nghiệm, đổi mới và giải thoát bản thân khỏi những sự kiềm tỏa hoặc bó buộc trước đó. Mong ước này thường chồng lấp với thời điểm tái đánh giá ở tuổi trung niên và sau đó tiếp diễn mạnh mẽ suốt từ cuối độ tuổi 50 và 60 sang đến 70. Trong thời gian này, não bộ chúng ta trải qua những biến đổi sinh lý quan trọng, trong đó có việc sinh sôi các kết nối mới giữa các tế bào não và vận dụng cân bằng hơn hai bán cầu não. Đây là lúc người ta thường nảy sinh ý niệm: “Nếu không phải lúc này thì lúc nào?”. Giai đoạn đúc kết, từ độ tuổi cuối 60 sang 70 và 80, là thời kỳ tổng kết, giải quyết, và đánh giá. Một trong những thành quả chung của giai đoạn tự đúc kết này là ước muốn đáp trả – cho gia đình, bạn bè và xã hội. Hoạt động tình nguyện và tham gia từ thiện, vốn thịnh hành ở những người cao niên và kéo dài cho đến độ tuổi 80, là hai biểu hiện có thể thấy của giai đoạn này. Đối với giai đoạn cuối, tôi dùng từ “encore”, mượn từ tiếng Pháp, để diễn tả nghĩa “một lần nữa”, “vẫn” và “tiếp tục”. Giai đoạn này không phải là vũ điệu bế mạc, mà là ước muốn dấn bước, bất chấp nghịch cảnh hoặc mất mát. Nhu cầu duy trì sức sống này có thể dẫn đến những biểu hiện mới về sáng tạo và hoạt động xã hội, khiến cho thời kỳ này đầy rẫy bất ngờ. Khi mọi người hiểu được các giai đoạn này của nửa đời về sau và cơ chế hoạt động của chúng, tôi thấy họ trở nên tràn đầy động lực và nhiệt huyết. Khi thoát khỏi những ảo tưởng quá tiêu cực về tuổi tác, người ta thường được khích động bởi nhiệt huyết mới, hướng đi mới hoặc mục đích mới. Trí thông minh tiến hóa Trong sách này, tôi giới thiệu một khái niệm mới, trí thông minh tiến hóa, mà tôi cho là lợi ích lớn nhất của não bộ/trí óc cao niên. Trí thông minh tiến hóa là mức độ biểu hiện của mỗi người về năng lực thần kinh, cảm xúc, trí tuệ và tâm lý độc nhất của mình. Nó cũng là tiến trình mà những yếu tố này được hợp nhất tối ưu trong não bộ trưởng thành. Cụ thể hơn, trí thông minh tiến hóa phản ánh sức mạnh tổng hợp thành thục của nhận thức, trí tuệ cảm xúc, sự phán đoán, kỹ năng xã hội, kinh nghiệm sống và ý thức. Tất cả chúng ta đều thông minh về mặt tiến hóa ở một mức độ nào đó và, cũng như với trí tuệ, chúng ta có thể chủ động thúc đẩy sự tăng trưởng của nó. Khi ta trưởng thành, trí thông minh tiến hóa được thể hiện dưới dạng sự uyên bác, óc đánh giá, quan điểm và tầm nhìn. Trí thông minh tiến hóa cao cấp được chia làm ba dạng tư duy và lý luận đặc trưng, và hình thành muộn hơn giai đoạn “thao tác hình thức” của Piaget[1] nên được gọi là “thao tác hậu hình thức” (postformal operations): Tư duy tương đối (nhận thức rằng kiến thức có thể là tương đối chứ không tuyệt đối); tư duy biện chứng (khả năng phát hiện và luận giải sự mâu thuẫn của những quan điểm đối nghịch và dường như không thể tương thích); và tư duy hệ thống (có khả năng nhìn thấy bức tranh bao quát hơn, phân biệt được giữa rừng và cây). Ba dạng tư duy này “cao cấp” theo nghĩa rằng chúng không tự nhiên có được ở tuổi trẻ; chúng ta thích câu trả lời của mình phải đen hoặc trắng, đúng hay sai. Và chúng ta thường thích có câu trả lời bất kỳ hơn không có gì cả. Phải mất thời gian, kinh nghiệm và nỗ lực để có được lối tư duy linh hoạt và tinh tế hơn. Khả năng chấp nhận sự bất định, thừa nhận rằng những câu trả lời thường mang tính tương đối, và gác lại phán xét để đánh giá cẩn thận các luận điểm đối nghịch là một chỉ dấu đích thực của trí thông minh tiến hóa. Trong cuốn sách này, tôi sẽ chỉ cho bạn cách trau dồi trí thông minh tiến hóa để từ đó gặt hái thành quả. Hai nghiên cứu mới Tôi có hân hạnh dẫn dắt hai cuộc nghiên cứu đột phá về tuổi cao niên kể từ năm 2000; một xem xét diện mạo mới của giai đoạn hưu niên và một xét đến những lợi ích tích cực của sự sáng tạo ở người lớn tuổi. Cả hai cuộc nghiên cứu đã mang lại những kết quả bất ngờ – và đáng khích lệ. Nghiên cứu về hưu niên của tôi cho thấy từ “nghỉ hưu” lỗi thời ra sao. Với hầu hết mọi người hiện nay, độ tuổi sau 65 hoàn toàn không phải để “nghỉ ngơi”. Chẳng phải mọi người đều không chịu nghỉ ngơi và tận hưởng cho bản thân, nhưng hầu hết những người tôi phỏng vấn đều xem đoạn đời này như cơ hội lớn để theo đuổi các hoạt động và sở thích mà trước đây họ không có thời gian. Rất khác với tinh thần thoát ly khỏi đời sống xã hội và và văn hóa (như đã được mặc nhiên công nhận bởi các nghiên cứu có uy tín trước đây), thời “hưu niên” giờ đây lại dẫn đến sự tham gia sâu rộng hơn, những mối quan hệ tâm đắc hơn, sự mở mang thêm về trí tuệ, và nhiều niềm vui hơn. Cuộc nghiên cứu kia của tôi khảo sát những tác động về tinh thần, thể chất và cảm xúc khi tham gia một chương trình nghệ thuật cộng đồng. Một lần nữa, tôi và các đồng nghiệp đã có những khám phá bất ngờ. Trái ngược với ngộ nhận của xã hội, sự sáng tạo chẳng phải là độc quyền của tuổi trẻ. Nó có thể bừng nở ở bất kỳ lứa tuổi nào – và thực tế, nó có thể nảy nở sâu sắc và phong phú hơn ở người lớn tuổi vì họ được bồi đắp bởi kho tàng kiến ​​thức và kinh nghiệm rộng lớn. Như tôi sẽ giải thích sau, việc tham gia bất kỳ chương trình nghệ thuật nào, gồm cả nghệ thuật phi thị giác như âm nhạc, múa và sân khấu, đều có thể cải thiện sức khỏe, quan điểm và khả năng hồi phục của bạn. Hai nghiên cứu này hàm chứa những ẩn ý quan trọng, cho các cá nhân và cả những người chịu trách nhiệm hỗ trợ sức khỏe và phúc lợi cho người cao tuổi. Kết quả từ nghiên cứu về tính sáng tạo của chúng tôi, chẳng hạn, là hết sức quý giá với các giám đốc chương trình tại các trung tâm người cao niên. Tương tự, kết quả từ nghiên cứu về hưu niên – rằng nhiều người lớn tuổi đang tìm công việc bán thời gian, sẽ là thông tin đáng quan tâm với giám đốc nhân sự trong các công ty và tổ chức phi lợi nhuận. Khi trình bày các kết quả nghiên cứu, tôi hy vọng sẽ đưa ra được một định hướng giúp cải thiện sự hỗ trợ của xã hội và mang đến cơ hội học tập cho tất cả những người lớn tuổi. Niềm hy vọng của tôi Năm 1971, khi tôi bước vào lão khoa, đó là một lĩnh vực nghiên cứu tương đối mới, còn thiếu thốn và chập chững với các định kiến ​​và quan niệm sai lạc. Cách đây chưa lâu, vào những năm 1960 và 1970, nhiều chuyên gia vẫn coi tuổi già là căn bệnh: Họ tin rằng tâm và thân tự khắc sẽ trục trặc, như một chiếc xe sau nhiều năm sử dụng. Đến giữa những năm 1970, các quan điểm này bắt đầu thay đổi bởi ngày càng có nhiều bằng chứng thực tế về lão hóa và dân số lớn tuổi bắt đầu tăng vọt. Chính phủ liên bang bắt đầu chi hàng triệu đô-la cho nghiên cứu mới thông qua hai chương trình lớn: Viện Quốc gia về Lão hóa và Trung tâm Nghiên cứu Sức khỏe Tâm thần Cao niên, mà với cuộc nghiên cứu sau, tôi đã may mắn là giám đốc đầu tiên. Các nhà nghiên cứu bắt đầu hiểu rằng bản thân lão hóa không phải là một bệnh; nó chỉ đơn thuần là một quãng đời mà nhiều bệnh bỗng bộc lộ – những cái gọi là các vấn đề liên quan đến tuổi tác. Trọng tâm mới này đã thúc đẩy lĩnh vực lão khoa và cho một cái nhìn cân bằng hơn về tuổi già. Các nhà nghiên cứu thấy những người lớn tuổi khỏe mạnh vẫn duy trì năng lực tinh thần và cảm xúc mạnh mẽ và thường chỉ suy giảm dần dần về thể lực. Hơn 30 năm sau đó, mức tài trợ cho nghiên cứu về lão hóa đã tăng từ 50 triệu đô-la một năm lên hơn 1 tỉ đô-la hiện nay. Tuy nhiên, bất chấp quỹ thời gian và tài chính dồi dào, các nghiên cứu thường vẫn tập trung vào các vấn đề của tuổi già. Ngay cả cuốn sách quan trọng gần đây, Tuổi cao niên viên mãn (Successful Aging), của John Rowe và Robert Kahn, cũng trình bày mục tiêu nhằm giảm thiểu suy thoái chứ không nhìn nhận tiềm năng to lớn để phát triển tích cực ở nửa đời về sau. Mặc dù Rowe và Kahn đã đúng khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì sức khỏe, chức năng tâm thần, và sự tham gia tích cực trong đời sống, họ không trình bày khả năng cải thiện những khía cạnh này theo tuổi tác. Cuốn sách này trình bày một mô hình mới của tiến trình lão hóa, một mô hình mà tôi hy vọng rốt cục sẽ thay thế những quan niệm và giả định tiêu cực hiện nay. Mô hình này nhìn nhận tiềm năng, bên cạnh các vấn đề liên quan đến lão hóa. Nó định vị lại tiến trình lão hóa như một chuỗi giai đoạn phát triển để thật sự thúc đẩy sự tiến hóa, ngược với quan niệm lão hóa là một sự suy thoái tất yếu. Cuốn sách này cho thấy ta có thể nâng đỡ và trau dồi năng lực sẵn có của mình ra sao để thay đổi tích cực. Tôi thật lòng hy vọng nó sẽ thúc đẩy sự đối thoại về chủ đề này bằng cách truyền đi thông điệp đầy hứa hẹn về các giá trị và năng lực của trí não cao niên. Mời các bạn đón đọc Trí Não Bất Bại của tác giả Gene D. Cohen.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo
Cảm hứng là có thật, nhưng nó chỉ đến khi ta làm việc. - Pablo Picasso Pablo Picasso là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất thế kỉ XX với nhiều tác phẩm đắt giá. Theo các nhà thống kê, ông có tới 26.075 tác phẩm được trưng bày, xuất hiện trước công chúng (chưa tính tới những tác phẩm chưa được tìm thấy hoặc công bố). Thử thực hiện một phép tính đơn giản, Picasso sống đến 91 tuổi, vị chi là 33.403 ngày. Nếu so sánh với số tác phẩm được công chúng biết tới ở trên thì trung bình mỗi ngày ông lại sáng tạo thêm được một tác phẩm mới, tính từ khi ông 20 tuổi cho đến tận lúc qua đời. Nói một cách đơn giản thì Picasso đã sáng tạo không ngừng nghỉ mỗi ngày, trong liên tục 71 năm. Picasso chính là ví dụ sinh động cho thấy khả năng sáng tạo vô hạn của con người, cùng nỗ lực không ngừng để vượt qua giới hạn của bản thân. Bạn có biết ngọn nguồn của mọi sự sáng tạo đều nằm trong chính con người chúng ta, nó vẫn ở yên đó chờ được chúng ta thức tỉnh? Trong cuốn sách Thói quen làm nên sáng tạo, tác giả Twyla Tharp, một biên đạo múa tài năng bậc nhất nước Mỹ, đã cho chúng ta thấy tiềm lực phi thường của con người trong việc đánh thức khả năng sáng tạo. Thông qua những câu chuyện làm nghề, quan điểm triết học sâu sắc và hiểu biết rút ra từ cuộc sống hằng ngày, bà đã chứng minh được rằng sáng tạo không phải là năng lực do Chúa trời ban tặng mà nó là cốt tủy được hình thành từ sự kỷ luật, gian khổ rèn luyện để hình thành những thói quen làm nên sáng tạo. Hãy đọc sách để thấy thành công luôn bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt nhất và sáng tạo chỉ đến khi được đầu tư công sức và thời gian theo đúng nghĩa. Trân trọng giới thiệu đến bạn cuốn sách vô cùng hữu ích này!   ** Twyla Tharp, một trong những biên đạo múa vĩ đại nhất nước Mỹ, bắt đầu sự nghiệp từ năm 1965 và đến nay, bà đã dàn dựng hơn 130 vở múa cho vũ đoàn của mình, cũng như cho Vũ đoàn Ba lê Joffrey, Vũ đoàn Ba lê New York, Vũ đoàn Ba lê Opera Paris, Vũ đoàn Ba lê Hoàng gia London và Nhà hát Ba lê Mỹ. Sử dụng âm nhạc của tất cả tác giả từ Bach, Beethoven và Mozart đến Jelly Roll Morton, Frank Sinatra và Bruce Springteen, bà là người tiên phong trong việc kết hợp múa hiện đại và ba lê với âm nhạc đại chúng. Trong lĩnh vực điện ảnh, bà từng cộng tác với Milos Forman trong phim Hair, Ragtime và Amadeus. Trong lĩnh vực truyền hình, bà chỉ đạo chương trình Baryshnikov by Tharp từng giành được hai giải Emmy. Trên sân khấu Broadway, bà đã đạo diễn phiên bản nhà hát của vở Singin’ in the Rainvà đến năm 2003, bà giành giải Tony cho vở Movin’ Out, tác phẩm bà tự tay dàn dựng, đạo diễn và biên đạo trên nền các bài hát của Billy Joel. Bà cũng từng nhận giải thưởng MacArthur Fellowship. Năm 1993, bà được kết nạp vào Viện Nghệ thuật và Khoa học Mỹ. Năm 1997, bà trở thành thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Bà đã nhận được 18 học vị tiến sĩ danh dự. Bà sống và làm việc ở thành phố New York. Mark Reiter đã cộng tác để cho ra đời 12 cuốn sách, tính cả Thói quen làm nên sáng tạo. Ông cũng là đại diện cho các tác giả tại Bronxville, New York. *** Tôi bước vào một căn phòng trắng Tôi bước vào một phòng tập nhảy nằm ở trung tâm Manhattan. Đó là căn phòng trắng rộng lớn. Tôi mặc một chiếc áo nỉ cùng cái quần jeans bạc phếch và đi đôi giày thể thao Nike. Bao quanh bốn bức tường là những tấm gương cao gần hai mét rưỡi. Một chiếc đài nằm trong góc. Sàn nhà sạch trơn, không vương tì vết, nếu không tính hàng nghìn vệt miết cùng dấu chân còn lưu lại sau những buổi tập của các vũ công. Ngoài mấy tấm gương, chiếc đài, những vệt miết và tôi, căn phòng hoàn toàn trống trải. Năm tuần nữa, tôi sẽ bay tới Los Angeles cùng một nhóm sáu vũ công để tham gia sô diễn kéo dài tám đêm liên tiếp trước 1.200 khán giả mỗi tối. Đó là nhóm nhảy của tôi. Tôi là một biên đạo múa. Tôi đã có trong tay một nửa chương trình – một vở ba lê kéo dài 50 phút cho toàn bộ sáu vũ công trên nền bản xô-nát số 9 của Beethoven dành cho đàn piano, bản “Hammerklavier”. Tôi đã sáng tác tiết mục này từ hơn một năm trước và đã dành mấy tuần vừa qua để luyện tập với cả nhóm. Nửa còn lại của chương trình vẫn còn là một ẩn số. Tôi không biết mình sẽ sử dụng bản nhạc nào. Tôi không biết mình sẽ làm việc với vũ công nào. Tôi còn chưa có ý tưởng về trang phục, thiết kế ánh sáng, hay nhạc công. Tôi cũng chưa nắm được thông tin về thời lượng của tiết mục, dù nó phải đủ dài để lấp đầy nửa còn lại của chương trình và mang đến cho khán giả thứ họ xứng đáng được nhận. Thời lượng của tiết mục sẽ quyết định khoảng thời gian tập luyện mà tôi cần. Thời gian này bao gồm việc liên lạc với vũ công, lên thời gian biểu tại phòng tập và khởi động quá trình luyện tập – tất cả đều dựa trên sự sáng tạo của tôi ở căn phòng trắng trống trơn này trong vài tuần tới. Các vũ công mong mỏi tôi sẽ thành công vì vũ đạo của tôi chính là sinh kế của họ. Các đại diện ở Los Angeles cũng kỳ vọng điều tương tự vì họ đã bán ra rất nhiều vé cùng lời hứa hẹn rằng khán giả sẽ được chứng kiến điều mới lạ và lý thú từ bàn tay tôi. Chủ rạp cũng mong như thế; vì nếu tôi không tới, rạp hát của ông ấy sẽ trống trơn suốt cả tuần. Như vậy là có rất nhiều người, bao gồm cả những người tôi còn chưa gặp bao giờ, đang gửi gắm niềm tin vào khả năng sáng tạo của tôi. Nhưng ngay lúc này, tôi không hề nghĩ tới những chuyện ấy. Tôi đứng trong một căn phòng với nghĩa vụ phải sáng tác ra tiết mục múa thật đặc sắc. Các vũ công sẽ có mặt ở đây chỉ trong vài phút nữa. Chúng tôi sẽ phải làm gì? Đối với một số người, căn phòng trống biểu trưng cho thứ gì đó sâu sắc, huyền bí và đáng sợ: Nhiệm vụ khởi đầu từ hai bàn tay trắng và nỗ lực để kiến tạo nên cái gì đó trọn vẹn, đẹp đẽ và viên mãn. Nó cũng không khác gì việc một nhà văn mở ra một trang soạn thảo trắng trên máy tính của mình; hay một họa sĩ đối mặt với tấm toan trống trơn; một nghệ sĩ điêu khắc trân mắt nhìn một tảng đá thô; một nhạc sĩ ngồi trước cây đàn piano, ngón tay bâng quơ lướt trên những phím đàn. Một số người cảm thấy khoảnh khắc này – khoảnh khắc trước khi sự sáng tạo khởi phát – quá đỗi đau đớn tới độ họ không tài nào đối mặt nổi với nó. Họ đứng dậy và rời bỏ chiếc máy tính, tấm toan, cây đàn; họ đánh một giấc, đi mua sắm, nấu bữa trưa hoặc làm đủ mọi việc lặt vặt trong nhà. Họ trì hoãn. Trong hình thái cực đoan nhất, nỗi kinh hoàng ấy khiến con người ta tê liệt hoàn toàn. Khoảng không trống vắng có lẽ chỉ tầm thường vậy thôi. Nhưng tôi đã đối mặt với nó trong suốt cuộc đời làm nghệ thuật. Đó là công việc của tôi. Đó cũng là sự nghiệp của tôi. Nói tóm lại: Việc lấp đầy khoảng không trống trơn đó đã giúp tôi tạo dựng được tên tuổi cho mình. Tôi là một vũ công kiêm biên đạo múa. Trong 35 năm qua, tôi đã sáng tác 130 vở múa và ba lê. Một số vở tốt, số khác lại dở tệ. Tôi đã làm việc với các vũ công ở hầu hết mọi không gian và môi trường mà các bạn có thể tưởng tượng ra. Tôi đã tập dượt trên đồng cỏ. Tôi đã kinh qua hàng trăm phòng tập, một số phòng rất xa hoa bởi chính sự mộc mạc chân phương và rộng lớn của nó; nhiều phòng thì bẩn thỉu, đầy sỏi sạn rác rưởi, chuột chạy rầm rập quanh bốn chân tường. Tôi đã làm việc tám tháng trời tại một phim trường ở Prague, biên đạo các bài múa và chỉ đạo các cảnh opera cho bộ phim Amadeus (tạm dịch: Sự đố kỵ của thiên tài) của Milos Forman. Tôi đã tổ chức dàn dựng các cảnh quay dùng ngựa trong Công viên Trung tâm của thành phố New York cho phim Hair (tạm dịch: Mái tóc). Tôi đã làm việc với các vũ công đến từ các nhà hát ở London, Paris, Stockholm, Sydney và Berlin. Tôi đã điều hành công ty của riêng mình suốt ba thập kỷ. Tôi đã sáng tác và đạo diễn một sô diễn rất thành công ở Broadway. Tôi đã làm việc chăm chỉ trong nhiều năm và không ngừng sáng tạo đến mức tới thời điểm này, tôi không chỉ thấy thách thức và lo lắng, mà còn có cảm giác bình yên và hứa hẹn khi đứng trước một căn phòng trắng trống trải. Nó đã trở thành mái nhà của tôi. Sau rất nhiều năm, tôi đã học được rằng sáng tạo là một công việc toàn thời gian với những mô thức thường nhật của riêng nó. Đó là lý do tại sao các nhà văn, chẳng hạn, thích thiết lập các nền nếp cho chính mình. Những người làm việc năng suất nhất bắt đầu công việc từ sáng sớm, khi không gian yên ắng, chuông điện thoại chưa reo và tâm trí họ đang tĩnh tại, tỉnh táo, chưa bị vẩn đục vì lời ra tiếng vào của mọi người. Có thể họ sẽ đặt cho mình một mục tiêu – viết 1.500 chữ, hoặc ngồi trước bàn làm việc cho tới trưa – nhưng bí mật thực sự nằm ở chỗ họ làm việc đó hằng ngày. Nói cách khác, họ có kỷ luật. Theo thời gian, khi nền nếp thường nhật dần biến thành bản năng thứ hai, kỷ luật cũng thay hình đổi dạng thành thói quen. Thực tế này đúng với mọi cá nhân hoạt động sáng tạo, dù đó là một họa sĩ bước tới trước giá vẽ vào mỗi sáng, hay một nhà nghiên cứu y khoa đến phòng thí nghiệm hằng ngày. Nền nếp cũng đóng vai trò ngang ngửa như tia chớp cảm hứng lóe lên trong quá trình sáng tạo, thậm chí còn lớn hơn. Và ai cũng có thể tự thiết lập nền nếp. Sáng tạo không chỉ là đặc sản của riêng các nghệ sĩ. Nó cũng cần thiết với các doanh nhân đang tìm kiếm những phương thức mới để hoàn tất thương vụ; nó là liều thuốc hữu hiệu cho các kỹ sư đang cố gắng giải quyết vấn đề; nó là yếu tố giúp các bậc cha mẹ muốn con cái mình nhìn nhận thế giới theo nhiều phương diện khác nhau. Trong bốn thập kỷ vừa qua, ngày nào tôi cũng bận bịu với một cuộc rượt đuổi sáng tạo đủ hình đủ dạng, trong cả công việc lẫn đời sống cá nhân. Tôi đã trăn trở rất nhiều về vấn đề thế nào là sáng tạo và làm thế nào để sáng tạo hiệu quả. Tôi cũng học được từ những kinh nghiệm đau thương, qua những lần sáng tạo theo cách tồi tệ nhất. Tôi sẽ tiết lộ cho các bạn cả hai điều nói trên. Và tôi sẽ đưa ra bài tập thách thức một số giả định về sáng tạo của bạn – để buộc các bạn cố gắng thêm, mạnh mẽ lên, bền bỉ hơn. Nói cho cùng, bạn luôn tập giãn cơ trước khi chạy bộ, khởi động trước khi tập thể hình, tập luyện trước khi chơi. Các hoạt động trí não cũng tương tự như vậy. Tôi sẽ nhấn mạnh luận điểm cho rằng khả năng sáng tạo được bồi đắp từ nền nếp và thói quen. Hãy tập làm quen với nó. Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy sự mâu thuẫn mang tính triết học liên tục xuất hiện. Đó là cuộc tranh cãi bất tận, có từ thời kỳ Lãng mạn,1 giữa hai đức tin cho rằng mọi hoạt động sáng tạo đều xuất phát từ (a) một tác động ngẫu nhiên cao siêu, vô phương biện giải của cảm hứng, một nụ hôn Chúa Trời đặt lên trán bạn, cho phép bạn trao tặng Cây sáo thần cho thế giới này, hoặc (b) lao động chăm chỉ. 1 Ý chỉ giai đoạn sau năm 1789, sau khi Cách mạng tư sản Pháp đánh đổ chế độ phong kiến (Mọi chú thích trong tác phẩm đều là của người dịch). Nếu ý tứ còn chưa đủ rõ ràng, tôi xin nói tôi thiên về hướng lao động chăm chỉ. Đó là lý do tại sao cuốn sách này có tựa đề Thói quen làm nên sáng tạo. Sáng tạo là một thói quen, và sự sáng tạo đỉnh cao là kết quả của những thói quen lao động tích cực. Nói tóm lại là thế. Bộ phim Amadeus (và vở kịch của Peter Shaffer, nền tảng của bộ phim) đã kịch tính hóa và lãng mạn hóa căn nguyên siêu phàm của các thiên tài sáng tạo. Antonio Salieri, trong vai nhà soạn nhạc tài năng chuyên nghề viết mướn, bị trời đày phải sống cùng thời với Mozart, người có tài năng thiên bẩm cùng tính tình vô tổ chức, luôn sáng tác như thể có bàn tay của Chúa Trời chạm vào. Salieri nhận thức rõ tầm vóc thiên tư của Mozart, và vô cùng đau khổ vì nghĩ Chúa đã chọn một kẻ khốn nạn làm nơi ký thác sức sáng tạo thần thánh của Người.   Mời các bạn đón đọc Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo của tác giả Twyla Tharp.
Thay Đổi 1% Cách Làm Việc - Đạt Được 99% Thành Công
Có thể đối với bạn đọc, những nội dung trình bày trong cuốn sách này là những điều hiển nhiên, hay chỉ là những việc mà chúng ta luôn cho là nhỏ nhặt, nhưng có một điều đáng ngạc nhiên là hiếm ai có thể thực hiện được tất cả. Thậm chí không quá khi nhận định rằng, số người không thực hiện được nằm ở mức 99%. Hãy nhớ rằng con đường ngắn nhất để trở thành “người thành đạt” là thay vì chăm chú làm những việc to tát, phô trương, thì chỉ cần ngày qua ngày tích lũy những việc làm tuy nhỏ nhặt nhưng hữu ích, được trình bày trong cuốn sách này là đủ. Những việc làm tuy nhỏ nhặt nhưng hữu ích gồm: Tập thói quen nói câu cửa miệng “Hãy cho tôi ba phút” Quy tắc 1/8 cuộc họp Thực hiện truyền đạt điều muốn nói trong thang máy Không để người nhận thư phải kéo chuột xuống dưới Hãy đi bộ tại chính giữa văn phòng Điểm mấu chốt khiến người khác “làm việc giúp bạn” Thêm vào lý do khiến bạn có phản hồi tích cực dành cho người khác Và còn nhiều nữa... *** Những bối cảnh có thể bắt gặp ở bất cứ đâu Bối cảnh 1: Cuộc nói chuyện giữa lãnh đạo và nhân viên Nhân viên: “Trưởng phòng, bây giờ tôi có thể trao đổi một chút được không ạ?” Trưởng phòng: “Xin lỗi, bây giờ tôi đang rất bận… Lát nữa cậu đến được không?” Nhân viên: “À, vâng ạ…” ---- Một tiếng sau ---- Nhân viên: “Trưởng phòng… Ơ? Trưởng phòng ra ngoài rồi à? Khi nào thì anh ấy quay lại công ty?” Trợ lý: “Hôm nay trưởng phòng về thẳng nhà. Sáng mai anh ấy sẽ đi công tác châu Âu một tuần, sau đó nghỉ phép luôn… Anh có vấn đề gì ạ? Tôi đã được trưởng phòng ủy quyền rồi.” Nhân viên: “Thực sự tôi rất muốn được nói chuyện trực tiếp với trưởng phòng, hai phút thôi cũng được.” Trợ lý: “Vậy thì phiền anh hai tuần nữa.” Bối cảnh 2: Tại một cuộc họp Cuộc họp kéo dài đằng đẵng nhưng vẫn không có dấu hiệu kết thúc. Cho dù có tới hơn 20 thành viên tham gia cuộc họp, nhưng chỉ có duy nhất một người phát biểu từ đầu chí cuối. Cũng có lúc cả hội trường rơi vào im lặng, nhưng người cất tiếng phá vỡ sự im lặng đó vẫn là nhân vật đã nói suốt từ đầu cuộc họp tới giờ. Nói cách khác, nhân vật đó chẳng khác gì “Người có quyền lực cao nhất” tại cuộc họp này. Cuộc họp dự kiến kéo dài một giờ đồng hồ, cuối cùng lại vượt quá. Thỉnh thoảng lại có người liếc mắt nhìn đồng hồ đeo tay, như thể mong chờ “Người có quyền lực cao nhất” kết thúc cuộc họp. Cũng có người ghi chép lại nội dung cuộc họp bằng laptop mà họ mang theo, cũng có người lại soạn thảo tài liệu khác không liên quan gì tới cuộc họp. Sau hai giờ đồng hồ, cuối cùng cuộc họp cũng kết thúc. “Không biết cuối cùng thì quyết định cái gì nhỉ?”, “Thao thao bất tuyệt…”, “Ai đó làm ơn dừng anh ta lại đi!”… Hẳn là trong đầu những người tham gia cuộc họp đang hiện ra những lời than thở như vậy. Điều đáng ngạc nhiên là trong tâm trí “Người có quyền lực cao nhất” đó cũng hiện lên những lời thoại giống hệt như vậy, rằng “Ai đó làm ơn dừng tôi lại!”, “Tại sao chẳng có ai phát biểu bất cứ điều gì vậy?” Người Nhật luôn “quá nghiêm túc”? Cá nhân tôi cho rằng phàm là những người làm việc tại các tổ chức, dù lớn hay nhỏ, cũng thường chứng kiến hoặc trải nghiệm cảnh tượng giống như trên. Những tình huống như vậy chắc chắn đang cướp đi rất nhiều thứ của chúng ta. Từ thời gian, tiền bạc, cơ hội để làm công việc khác, cho đến cơ hội để tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm. Thực sự vô cùng lãng phí. Vậy thì, vì nguyên cớ gì mà tình trạng lãng phí này lại đang xảy ra ở khắp nơi? Cá nhân tôi cho rằng, nguyên nhân xuất phát từ mặt trái của việc quá tôn trọng lễ nghĩa, quá chú trọng tới phương diện biểu hiện cảm xúc – thứ vốn là biểu tượng cho nét đẹp và đạo đức mang tính truyền thống của Nhật Bản. Ở bối cảnh thứ nhất, do nhân viên thấy trưởng phòng có vẻ rất bận rộn nên đã tuân thủ lễ tiết và nói rằng “Bây giờ tôi có thể trao đổi một chút được không ạ?” Nhưng chính vì thế, điều mà anh ấy nhận được là lời nhắn quay lại vào hai tuần sau. Trong bối cảnh thứ hai, vì mong muốn mọi người thảo luận và đưa ra ý kiến, nên “Người có quyền lực cao nhất” đã tổ chức cuộc họp. Nhưng cuối cùng, 20 con người tham gia cuộc họp lại tỏ vẻ ngại ngùng, không dám phát biểu ý kiến. Hệ quả là “Người có quyền lực cao nhất” đó đã lãng phí hai tiếng đồng hồ của 20 con người. Nói một cách đơn giản, đó là vì người Nhật “nghiêm túc tới mức nghiêm trọng”. Chính vào lúc này, “nghiêm túc” lại mang một nghĩa xấu. Gần đây, trong giới tâm lý thể thao học, rất nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết “Chữ U ngược” (tham khảo biểu đồ ở dưới). Thông qua biểu đồ, chúng ta có thể thấy khi quá nghiêm túc, hiệu suất của chúng ta sẽ không thể nâng cao được do phải đối mặt với những áp lực, căng thẳng kéo dài. Để thể hiện tối ưu khả năng của mình, đương nhiên chúng ta vẫn cần tới sự “nghiêm túc” (vốn rất quan trọng), nhưng bên cạnh đó, cũng cần thêm vào một chút tỉ mẩn và suy nghĩ thấu đáo. Có người đã nói một câu khiến tôi rất ấn tượng: “Trong tiếng Nhật, chữ ‘nghiêm túc’ và ‘khốn khổ’ chỉ khác nhau có một chữ cái.1” Thực ra, câu nói ấy không phải là để giễu cợt việc quá “nghiêm túc”, mà nó muốn truyền tải thông điệp rằng, khi bạn “nghiêm túc” một cách sai lầm, kết quả bạn nhận được chỉ là sự “khốn khổ”, dù rằng bạn thực lòng muốn mang lại thành quả tốt đẹp. Có những việc kể từ khoảnh khắc này, bất cứ ai cũng có thể thực hiện được Cuốn sách này sẽ giới thiệu tới bạn đọc những gợi ý góp phần thúc đẩy công việc tiến triển hiệu quả nhất có thể, đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Tôi cho rằng cho dù không cần tới năng lực đặc biệt, không cần tới quá trình đào tạo dai dẳng và khổ cực, chỉ cần chịu khó đào sâu nghiên cứu một cách có chọn lọc, bất cứ ai cũng có được chìa khóa dẫn tới thành công. Có thể đối với bạn đọc, nội dung trình bày trong cuốn sách này là những điều hiển nhiên, hay chỉ là những việc mà chúng ta luôn cho là nhỏ nhặt, nhưng có một điều đáng ngạc nhiên là hiếm có ai lại có thể thực hiện được tất cả. Có lẽ cũng không quá khi nhận định rằng, số người không thực hiện được toàn bộ nằm ở mức 99%. Tuy nhiên, nếu thử nhìn nhận những người đã và đang cố gắng thực hiện tất cả những nội dung đó, họ đã có những bước tiến vượt bậc so với chúng ta ra sao, tôi tin là đa số họ đã trở thành “những người thành đạt”, “những người làm được việc”. Cá nhân tôi luôn tâm niệm rằng, con đường ngắn nhất để trở thành “người thành đạt” là thay vì chăm chú làm những việc to tát, phô trương, thì chỉ cần ngày qua ngày tích lũy những việc làm tuy nhỏ nhặt nhưng hữu ích được trình bày trong cuốn sách này là đủ. Dù vậy, có một bức tường duy nhất mà chúng ta phải vượt qua. Đó là phải thay đổi lối suy nghĩ đối với “sự nghiêm túc” mà từ trước đến nay chúng ta vẫn luôn coi trọng. Điều tôi muốn gửi gắm tới bạn đọc, đó chính là hãy thay đổi 1% cách thức làm việc – lối mòn mà trước nay chúng ta vẫn bị cuốn vào. Cuốn sách này được trình bày thành tám chương. Về cơ bản, tôi nghĩ độc giả sẽ đọc theo thứ tự từ đầu tới cuối, nhưng bạn cũng có thể bắt đầu từ những phần mà bạn cảm thấy hứng thú hoặc tò mò, điều đó cũng không ảnh hưởng tới nội dung mà tôi muốn truyền tải. Sau khi đọc xong cuốn sách, tôi hy vọng bạn có thể ngay lập tức thử thực hiện những gợi ý được trình bày trong đây. Chắc chắn bạn sẽ nhận ra rằng, thì ra công việc lại có thể tiến triển thuận lợi một cách bất ngờ và nhanh chóng đến vậy. -Eitaro Kono Mời các bạn đón đọc Thay Đổi 1% Cách Làm Việc - Đạt Được 99% Thành Công của tác giả Eitaro Kono.
Tư Duy Đa Chiều
Bạn có thể sử dụng cuốn sách này cả ở nhà và ở trường học. Tại trường, quá trình giảng dạy thường tập trung vào tư duy chiều dọc (vertical thinking) truyền thống. Loại tư duy này hiệu quả nhưng không hoàn chỉnh. Nó cần được bổ sung những phẩm chất giúp sản sinh giải pháp của tư duy sáng tạo. Quá trình này đã được thực hiện ở một vài trường, sự sáng tạo bắt đầu xuất hiện nhưng vẫn hết sức mơ hồ. Không có một quy trình kỹ lưỡng và thực tiễn nào để tạo ra tư duy sáng tạo. Cuốn sách này sẽ thảo luận về tư duy đa chiều, quá trình sử dụng nó để tạo ra sự sáng tạo và tái cấu trúc cách nhìn nhận sự vật. Tư duy đa chiều là kỹ năng có thể học, thực hành và sử dụng, tương tự như kỹ năng toán học vậy. Cuốn sách này có thể hữu dụng với các giáo viên – những người đang tìm kiếm các phương pháp thực tế để giảng dạy kiểu tư duy đang ngày càng trở nên quan trọng này. Cuốn sách sẽ chỉ ra những cơ hội chính thống để thực hành tư duy đa chiều, đồng thời giải thích cách thức vận hành của các quá trình liên quan. Giáo viên có thể sử dụng cuốn sách này để rèn luyện bản thân hoặc tốt hơn là sử dụng làm nền tảng cho những bài tập trên lớp của mình. Vì việc giới thiệu rộng rãi tư duy đa chiều trong trường học không thể diễn ra trong tương lai gần, nên các bậc phụ huynh không nên quá mong chờ vào điều đó. Phụ huynh có thể lựa chọn bổ sung những chỉ dẫn về tư duy đa chiều cho trẻ tại nhà, bên cạnh các bài học trên lớp. Cần nhấn mạnh rằng hai lối tư duy này không đối lập nhau. Cả hai đều cần thiết. Tư duy chiều dọc cực kỳ hữu ích, tuy nhiên cũng cần bổ sung sự sáng tạo và hạn chế tính cứng nhắc của nó. Dù sớm hay muộn thì việc học tư duy đa chiều cũng sẽ diễn ra ở trường, nhưng cho đến lúc đó, việc học tại nhà là rất cần thiết. Bạn không nên đọc qua cuốn sách này một mạch mà nên đọc chậm rãi trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Vì lý do này, nhiều nguyên tắc được lặp lại xuyên suốt cuốn sách để củng cố chủ đề chính. Khi sử dụng cuốn sách này, bạn cần nhớ rằng việc thực hành còn quan trọng hơn rất nhiều so với việc chỉ hiểu bản chất của quá trình tư duy đa chiều. *** Tư duy đa chiều có liên quan chặt chẽ tới cách nhìn nhận, sự sáng tạo và tính hài hước. Bốn quá trình này đều có cùng một nền tảng. Nhưng trong khi chúng ta không thể thay đổi nhiều cách nhìn nhận, sự sáng tạo và tính hài hước thì tư duy đa chiều là một quá trình chủ động. Luôn tồn tại một cách thức sử dụng tâm trí để tư duy logic – nhưng đó là một cách khác với cách chúng ta thường làm. Văn hóa có liên quan tới những ý tưởng đang dần ổn định. Giáo dục liên quan đến việc truyền đạt các ý tưởng đó. Cả hai đều liên quan đến việc cải thiện các ý tưởng bằng cách cập nhật chúng. Cách duy nhất để thay đổi các quan niệm là thông qua mâu thuẫn và mâu thuẫn vận hành theo hai cách. Cách thứ nhất, có một cuộc đụng độ trực diện giữa những ý tưởng đối lập. Trong hai ý tưởng, sẽ có một ý tưởng thực tế hơn ý tưởng còn lại và phải thay đổi. Cách thứ hai, tồn tại sự mâu thuẫn giữa thông tin mới và ý tưởng cũ, kết quả là ý tưởng cũ sẽ bị thay đổi. Đây là cách làm của khoa học, lĩnh vực luôn tìm cách tạo ra những thông tin mới để phá vỡ những ý tưởng cũ và kiến tạo những ý tưởng mới. Tuy nhiên, cách làm thứ hai không chỉ là phương pháp khoa học mà còn là cách mà con người thu nhận kiến thức. Giáo dục dựa trên giả định an toàn rằng người học chỉ phải thu thập ngày càng nhiều thông tin, những thông tin này sẽ tự sắp xếp thành những ý tưởng hữu ích. Chúng ta đã phát triển các công cụ xử lý thông tin, ví dụ toán học để mở rộng thông tin, tư duy logic để tinh lọc thông tin. Phương pháp thay đổi ý tưởng bằng mâu thuẫn phát huy hiệu quả khi thông tin có thể được đánh giá khách quan. Nhưng phương pháp này vô hiệu khi thông tin mới chỉ được đánh giá dựa trên các ý tưởng cũ. Thay vì bị thay đổi, ý tưởng cũ sẽ được củng cố và trở nên cứng nhắc hơn bao giờ hết. Cách hiệu quả nhất để thay đổi ý tưởng cũ không đến từ bên ngoài – thông qua mâu thuẫn, mà đến từ bên trong – thông qua việc tái sắp xếp cách nhìn nhận những thông tin sẵn có. Cách nhìn là mấu chốt duy nhất để thay đổi các ý tưởng trong một tình huống tưởng tượng – khi thông tin không thể được đánh giá khách quan. Thậm chí khi thông tin có thể được đánh giá khách quan, hành động tái sắp xếp cách nhìn nhận thông tin cũng tạo nên một cú nhảy vọt. Điều giáo dục quan tâm không chỉ là việc thu thập thông tin mà còn là cách tốt nhất để sử dụng những thông tin đã thu thập. Khi các ý tưởng làm chủ thông tin thay vì phụ thuộc vào chúng, sự tiến bộ diễn ra rất nhanh chóng. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa phát triển các công cụ hữu ích để xử lý vấn đề cách nhìn nhận. Chúng ta chỉ thu thập thông tin và hy vọng đến một bước nào đó cách nhìn sẽ thay đổi. Tư duy đa chiều chính là một công cụ giúp thay đổi cách nhìn nhận. Cách nhìn nhận, sự sáng tạo và tính hài hước rất khó nắm bắt vì tâm trí làm việc cực kỳ hiệu quả. Tâm trí vận hành để tạo ra những mô hình từ môi trường bên ngoài. Một khi các mô hình đã hình thành, chúng ta có thể nhận ra chúng, phản ứng trước chúng và sử dụng chúng. Khi các mô hình được sử dụng, chúng trở nên vững chắc hơn bao giờ hết. Hệ thống hóa các mô hình là một cách rất hiệu quả để xử lý thông tin. Sau khi được thiết lập, các mô hình này sẽ hình thành một hệ thống mã hóa. Lợi ích của hệ thống mã hóa là thay vì phải thu thập tất cả thông tin, một người chỉ cần thu thập đủ thông tin để nhận diện mô hình mã hóa, điều này tương tự như tìm một cuốn sách thuộc một chủ đề nhất định trong thư viện bằng mã số sách. Tâm trí được ví như một chiếc máy tính chuyên xử lý thông tin. Tuy nhiên, nó không phải là một chiếc máy tính thông thường mà là một môi trường đặc biệt cho phép thông tin tự sắp xếp vào các mô hình. Hệ thống ký ức tự sắp xếp, tự tối đa hóa này rất giỏi trong việc tạo ra các mô hình – đó chính là sự hiệu quả của tâm trí. Nhưng bên cạnh sự hữu ích tuyệt vời đó, hệ thống mô hình hóa vẫn có những hạn chế nhất định. Khi được hệ thống hóa, các mô hình dễ dàng kết hợp hay bổ sung cho nhau nhưng rất khó để tái cấu trúc vì chúng điều khiển sự chú ý. Cách nhìn nhận và tính hài hước đều cần quá trình tái cấu trúc mô hình. Sự sáng tạo cũng liên quan đến quá trình tái cấu trúc nhưng đặt trọng tâm lớn vào việc thoát ra khỏi những mô hình giới hạn. Tư duy đa chiều tập trung vào việc tái cấu trúc, thoát ly khỏi mô hình cũ và gợi mở các mô hình mới. Tư duy đa chiều có mối liên hệ chặt chẽ với sự sáng tạo. Trong khi sáng tạo nhấn mạnh vào kết quả thì tư duy đa chiều lại mô tả một quá trình. Chúng ta thường cảm thấy sự bí ẩn khi nói về tài năng và sự vô hình khi nói về sáng tạo, thường là khi nhắc đến sự sáng tạo trong các lĩnh vực nghệ thuật như cảm thụ thẩm mỹ, đồng cảm và năng khiếu biểu đạt. Nhưng sự sáng tạo bên ngoài lĩnh vực này không phải như vậy. Sáng tạo ngày càng được xem là một thành tố quan trọng cho sự thay đổi và phát triển. Nó dần được đánh giá cao hơn cả kiến thức và kỹ thuật vì cả hai yếu tố này ngày càng dễ đạt được. Để có thể sử dụng sự sáng tạo, chúng ta phải loại bỏ suy nghĩ thần bí về nó và coi nó như một cách thức sử dụng tâm trí – một cách xử lý thông tin. Tư duy đa chiều sẽ thảo luận về chủ đề này. Tư duy đa chiều liên quan đến việc phát triển những ý tưởng mới. Thật kỳ cục khi nghĩ rằng các ý tưởng mới liên quan đến các sáng chế kỹ thuật. Sáng chế kỹ thuật chỉ là một phần nhỏ. Ý tưởng mới là các thay đổi hay tiến bộ từ khoa học tới nghệ thuật, từ chính trị đến hạnh phúc con người. Tư duy đa chiều cũng liên quan đến việc phá vỡ nhà tù của các ý tưởng cũ kỹ. Nó tạo ra sự thay đổi trong thái độ và cách tiếp cận, từ đó dẫn đến việc nhìn những sự vật quen thuộc theo một cách khác. Giải phóng khỏi các ý tưởng cũ và kích thích các ý tưởng mới là hai mặt song song của tư duy đa chiều. Tư duy đa chiều rất khác tư duy chiều dọc – kiểu tư duy truyền thống. Trong tư duy chiều dọc, chúng ta di chuyển từng bước và mỗi bước đều phải có cơ sở lý giải. Khác biệt giữa hai cách tư duy này rất rõ ràng. Ví dụ, trong tư duy đa chiều, chúng ta không chỉ đơn thuần sử dụng thông tin mà còn thu nhận những hiệu ứng từ việc sử dụng chúng. Trong tư duy đa chiều, chúng ta có thể phải sai ở một vài giai đoạn để đạt được một kết quả đúng; trong tư duy chiều dọc (logic hay toán học) điều này là bất khả thi. Trong tư duy đa chiều, chúng ta có thể chủ động tìm kiếm những thông tin không liên quan; còn trong tư duy chiều dọc, chúng ta chỉ tìm kiếm những gì có liên quan. Tư duy đa chiều không thay thế cho tư duy chiều dọc. Cả hai đều cần thiết và bổ sung cho nhau. Tư duy đa chiều giúp nảy sinh ý tưởng, tư duy chiều dọc mang tính chọn lọc. Với tư duy chiều dọc, chúng ta đi đến kết luận thông qua một chuỗi những bước đi có cơ sở. Vì tính hợp lý của những bước đó, chúng ta rất chắc chắn về tính chính xác của kết luận. Nhưng dù quy trình đó có chính xác đến đâu thì xuất phát điểm vẫn là lựa chọn cảm tính các khái niệm căn bản – hành động lựa chọn này thường có khuynh hướng phân chia rõ rệt và phân cực cao độ. Sau đó, tư duy chiều dọc sẽ làm việc dựa trên những khái niệm được tạo ra từ đây. Tư duy đa chiều cần thiết để xử lý các lựa chọn cảm tính nằm ngoài tầm với của tư duy chiều dọc. Tư duy đa chiều cũng kiềm chế sự kiêu ngạo của các kết luận cứng nhắc, dù nó được hình thành một cách vững chắc thế nào chăng nữa. Tư duy đa chiều nâng cao hiệu quả của tư duy chiều dọc. Tư duy chiều dọc phát triển những ý tưởng được tạo ra bởi tư duy đa chiều. Bạn không thể khoan nhiều lỗ ở nhiều vị trí khác nhau bằng cách khoan sâu hơn một cái lỗ. Tư duy chiều dọc được sử dụng để khoan một cái lỗ sâu hơn. Tư duy đa chiều được sử dụng để khoan một cái lỗ ở vị trí khác. Thói quen chỉ đặt trọng tâm vào tư duy chiều dọc khiến cho việc giảng dạy tư duy đa chiều càng trở nên cần thiết. Chỉ sử dụng tư duy chiều dọc không những là chưa đầy đủ mà còn là mối nguy hiểm. Cũng như tư duy logic, tư duy đa chiều là một cách thức sử dụng tâm trí. Nó là thói quen và thái độ của tâm trí. Có những kỹ thuật cụ thể có thể được sử dụng riêng cho từng loại tư duy. Cuốn sách này đặt trọng tâm nhất định vào một vài kỹ thuật không phải vì chúng là một phần quan trọng của tư duy đa chiều mà vì chúng có tính thực tế. Thiện chí và lý thuyết không đủ để phát triển kỹ năng tư duy đa chiều. Chúng ta cần một môi trường thực tế và cần những kỹ thuật hữu hình để thực hành. Từ việc hiểu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật, tư duy đa chiều sẽ phát triển thành một thái độ của tâm trí. Chúng ta nên luyện tập cách sử dụng các kỹ thuật này. Tư duy đa chiều không phải là hệ thống ma thuật mới. Không thiếu ví dụ về những người sử dụng tư duy đa chiều để đạt được thành quả. Có những người có khuynh hướng tư duy đa chiều một cách tự nhiên. Mục đích của cuốn sách này là cho bạn thấy rằng tư duy đa chiều là một phần rất căn bản của tư duy và ai cũng có thể phát triển kỹ năng này. Thay vì chỉ hy vọng có được cách nhìn nhận mới và sự sáng tạo, chúng ta có thể sử dụng tư duy đa chiều một cách chủ động và thực tế. TÓM TẮT Mục đích của tư duy là thu thập thông tin và sử dụng chúng tốt nhất có thể. Do đặc thù cơ chế vận hành của tâm trí trong việc tạo ra những mô hình khái niệm cố định, chúng ta không thể sử dụng những thông tin mới tốt nhất trừ khi sở hữu các phương tiện tái lập và cập nhật những mô hình cũ. Lối tư duy truyền thống dạy chúng ta cách tinh lọc các mô hình và xác lập giá trị của chúng. Nhưng chúng ta sẽ không thể tận dụng tối đa thông tin sẵn có nếu không biết cách tạo ra các mô hình mới và thoát khỏi sự kìm kẹp của những mô hình cũ. Tư duy chiều dọc liên quan đến việc cung cấp hay phát triển các mô hình khái niệm. Tư duy đa chiều thì liên quan đến việc tái cấu trúc những mô hình như vậy (cách nhìn nhận) và kích thích tạo ra những mô hình mới (sáng tạo). Tư duy đa chiều và tư duy chiều dọc bổ sung cho nhau. Cả hai kỹ năng tư duy này đều cần thiết nhưng hiện nay, giáo dục chỉ nhấn mạnh vào tư duy chiều dọc. Sự cần thiết của tư duy đa chiều được phát triển từ những giới hạn trong cách vận hành của tâm trí với vai trò của một hệ thống ký ức tự tối đa hóa. Mời các bạn đón đọc Tư Duy Đa Chiều của tác giả Edward De Bono.
Phá Vỡ Lối Mòn Tư Duy
Có một nghịch lý rất quen thuộc. Chúng ta thường xuyên được khuyên rằng hãy suy nghĩ kỹ càng trước khi hành động. Nhưng càng cố đào sâu suy nghĩ, càng cân nhắc cẩn thận, chúng ta càng dễ lún sâu vào những cái bẫy của tâm trí. Những cái bẫy đó là cảm xúc lo lắng, bồn chồn, là các luồng suy nghĩ rối rắm, lộn xộn. Chúng ta bế tắc và không thể thoát ra khỏi các lối mòn, để cuối cùng lại đưa ra những quyết định và hành động cực kỳ thiếu sáng suốt. Steven Schuster hiểu rằng, thay vì tập trung vào những suy nghĩ vẩn vơ không bao giờ chấm dứt, mỗi chúng ta nên chú tâm vào nguồn gốc gây ra nỗi sợ để chấp nhận và khắc phục chúng. Ông viết "Phá vỡ lối mòn tư duy" để trợ giúp độc giả, giúp người đọc trả lời hai câu hỏi: Thứ nhất, vì sao tâm trí bạn lại thường xuyên chống lại bạn, hay nói cách khác, vì sao bạn thường tự suy diễn ra những ý nghĩ tiêu cực và phụ thuộc vào nó? Thứ hai, làm thế nào để phá bỏ lối mòn tư duy, cải thiện kỹ năng tư duy phê bình và phát triển khả năng phán đoán tốt hơn trong cuộc chiến chống lại những suy nghĩ tự phá hoại? "Phá vỡ lối mòn tư duy" bao gồm 9 chương sách, phân tích 9 lối mòn tư duy thường gặp phải của đa số mọi người. Bạn nhất định sẽ bất ngờ khi bắt gặp chính hình ảnh của bản thân trong lối dẫn dắt và giải quyết vấn đề của Schuster, và nhanh chóng tìm thấy lời giải cho các vấn đề của mình. Có lẽ "Phá vỡ lối mòn tư duy" không phải là cuốn sách có thể thay đổi cuộc đời của bạn chỉ sau một đêm. Nhưng tác phẩm này đủ khả năng để cho bạn thấy cách cải thiện các mối quan hệ cá nhân, giải phóng bạn khỏi sợ hãi, và cho bạn một cách tiếp cận cuộc sống đa chiều, nhiều màu sắc. *** Bạn không thể thay đổi dòng chảy tự nhiên của cuộc sống... ... nhưng có thể thay đổi cách bạn lí giải chúng. Đôi khi những điều bình thường nhất xung quanh chúng ta lại là những thứ khó nhận biết nhất. Chúng ta dành không biết bao nhiêu ngày trôi qua để giết chết bộ não của mình, tự vấn biết bao câu hỏi lớn lao trong cuộc đời. Việc sống một cuộc sống với nhịp độ hối hả nhất khiến chúng ta bận tâm quá mức đến việc phải đạt được nhiều mục tiêu và kì vọng. Chúng ta không ngừng thắc mắc về sự nhàm chán của cuộc đời. Mặc dù vậy, hành động khao khát tìm hiểu ấy đôi lúc sẽ cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống của chúng ta. Bản chất con người vốn là hay suy nghĩ. Chính khả năng đó khiến chúng ta khác biệt với các giống loài khác. Chúng ta nhận thức được việc mình suy nghĩ. Thói quen nhận thức ngày càng phát triển hơn khi chúng ta lớn lên. Chúng ta học hỏi từ cha mẹ. Sau đó đi học, lên đại học, tìm được công ăn việc làm, đọc thật nhiều sách, xem cả tá phim ảnh và kết nối với người khác. Mỗi một hoạt động này vô tình ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của chúng ta. Kinh nghiệm nhận thức định hình thế giới quan của mỗi người. Mọi thứ mà cá nhân chúng ta trải nghiệm sẽ đi qua bộ lọc của bản thân và được hợp thức hóa. Rất thực tế. Còn thực tế hơn cả những thứ chúng ta chưa từng trải qua. Cho dù những điều chúng ta tin có thể không phải lúc nào cũng đúng. Khi còn nhỏ, tôi chủ yếu sống cùng ông bà. Bà tôi có những quan điểm rất khắt khe về nhiều khía cạnh khác nhau trong cuộc sống và bảo vệ ý kiến của mình cực kì quyết liệt. Bà bảo với tôi rằng những người sử dụng kem dưỡng da mặt cuối cùng sẽ nhận lấy hàng đống nếp nhăn sâu hoắm khi còn trẻ tuổi. Bà cũng dặn tôi đừng bao giờ mặc bất kì loại quần áo lót nào không may bằng vải cotton bởi chỉ có chất liệu đó mới đảm bảo. Bà dạy tôi rửa bát đĩa, sắp xếp quần áo để hong khô theo một cách nhất định. Tôi còn có thể thao thao kể ra tiếp nữa. Gần đây, tôi nhận ra những quan điểm của bà đã ảnh hưởng sâu sắc đến tôi và tôi cực kì bảo thủ khi ai đó phủ nhận chúng. Tôi đã cãi nhau với vợ về việc quần áo lót nên may bằng chất liệu gì. Tôi có cảm giác ghét cay ghét đắng khi lần đầu tiên mua kem chống lão hóa, bên tai văng vẳng tiếng bà bảo rằng da tôi rồi sẽ sớm trông giống như cái mông của một con voi. Tôi bắt đầu đọc các bài báo khoa học về tất cả “sự thật không thể chối cãi” mà bà đã dạy. Và hóa ra, hầu hết trong số đó hoặc đã lỗi thời hoặc vốn dĩ là sai. Tôi cảm giác có chút khó chịu trước bằng chứng cho thấy bản thân đã hiểu sai quá nhiều thứ. Và đặc biệt tổn thương khi những tài liệu khoa học thô thiển, vô tâm đó phủ nhận người bà quá cố - người đã truyền dạy cho tôi tri thức tâm huyết nhất của mình. Việc tin tưởng những điều chúng ta nghe được từ người mà chúng ta yêu mến thường dễ dàng hơn rất nhiều. Nếu bạn cũng giống như tôi, hầu như bạn sẽ chẳng bao giờ chất vấn họ. Bạn không tìm cách kiểm tra lại những gì bố mình nói về động cơ xe hơi bị trục trặc. Bạn không phản đối lời mẹ chỉ bảo về cách tổ chức đám cưới. Bạn có sự thiên vị nhận thức về phía những ai tác động đến tâm trí xúc cảm của bạn. Khi đề cập đến việc chấp nhận những điều người ngoài nói, thường sẽ có hai kiểu người: người nghi ngờ đến tận căn cơ gốc rễ và kiểm tra tỉ mỉ mỗi một mẩu thông tin họ nghe để đảm bảo rằng nguồn tin tức đó chính xác; và những người tin tất cả mọi điều họ nghe – ngay cả khi do kênh Fox News cung cấp. Người ta thường có xu hướng sẵn sàng tin tưởng thông tin do một chuyên gia, giáo sư, hay người nổi tiếng đưa ra hơn là từ ai đó mà họ cho là “vô danh tiểu tốt”. Bất kể thuộc nhóm nào, bạn cũng thường quả quyết cho rằng cách nghĩ của mình là đúng. Bạn nghĩ ngợi rất nhiều về các thông tin cần xử lí mỗi ngày, nhưng gần như chẳng bao giờ xem xem mình suy nghĩ như thế nào. Và làm thế nào để suy nghĩ. Khoảnh khắc đọc đến câu này, có lẽ huyết áp của bạn sẽ tăng lên một chút và tự nhủ: “Mình biết suy nghĩ ra sao. Mình có bằng đại học, có công việc tốt. Đó là bằng chứng cho thấy mình biết cách suy nghĩ như thế nào.” Chuyện này xảy ra với tất cả chúng ta. Chúng ta xử lí rất nhiều thông tin. Chấp nhận hoặc bác bỏ chúng. Dù bằng cách nào đi nữa, nó cũng định hình cách suy nghĩ trong chúng ta. Nhưng điều gì làm nên suy nghĩ? Tại sao một khái niệm giống nhau lại có thể mang ý nghĩa hoàn toàn khác nhau đối với hai người? Những khuôn mẫu niềm tin của mỗi cá nhân đến từ đâu? Do bẩm sinh, di truyền, hay hình thành từ sự tiếp nhận thúc đẩy của văn hóa và môi trường? Chúng ta có thể thay đổi niềm tin của mình không? Làm thế nào để nhận ra niềm tin mù quáng thay vì tự giam mình trong xà lim của lối tư duy bảo thủ? Mục đích của cuốn sách này là giúp bạn phát hiện sai sót và định kiến nhận thức mà bạn đang sống chung với chúng. Tôi không có quyền dạy bạn suy nghĩ như thế nào nhưng có thể cùng bạn khám phá “suy nghĩ đúng đắn hơn” thật sự nghĩa là gì, có thể cho bạn thấy những lùm cây, bụi rậm mà bộ não “đưa đường dẫn lối” bạn chui vào cũng như chia sẻ một chút về một tinh thần sáng suốt. Tôi không muốn thuyết phục bạn thay đổi cách suy nghĩ. Tôi chỉ muốn giúp bạn đạt được nhận thức toàn diện về những niềm tin tuyệt đối của mình. Hầu hết những thứ tôi thừa nhận là đúng mà không nghi ngờ gì hóa ra lại không đúng. Tôi đã phạm phải nhiều sai lầm, cãi vã vô số lần và có những trải nghiệm tồi tệ cho đến khi hiểu được điều này. Đó là khi tôi thừa nhận rằng mình không hiểu biết nhiều đến thế. Và thật sự, ngay cả những thứ tôi biết cũng có thể sai. Để chứng minh cho phát biểu của mình, đây là một thực tế tôi chấp nhận theo tiềm thức và nó không ngừng định hướng cuộc sống hiện tại của tôi – một thế giới như cách tôi nhìn thấy (và không chỉ một mình tôi; điều mà tôi sắp nói đây cũng đúng trong trường hợp của bạn, và trong trường hợp của bảy tỉ linh hồn khác). Một cách mặc định, mỗi cá nhân đều nhận thức rằng hết thảy mọi thứ từ mặt trời cho đến những quỹ đạo trong thái dương hệ đều quay xung quanh họ. Mọi người cảm thấy và cho rằng họ chính là phần cơ thể bằng xương bằng thịt quan trọng nhất từ trước đến nay. Niềm tin này hợp lí khi xét đến việc chúng ta suốt ngày chỉ sống trong đầu óc của chính mình, và mọi trải nghiệm có được từ khi sinh ra đến lúc chết đi đều tập trung xem chúng ta là nhân vật chính. Mọi thứ chúng ta trải nghiệm đều hướng về chính chúng ta. Có lẽ bạn cho rằng mình là một người suy nghĩ cởi mở, phóng khoáng nhưng trên thực tế, sự không ý thức bắt rễ trong tư tưởng tự xem mình là trung tâm tạo cho bạn “tầm nhìn trong đường hầm”1 hạn hẹp. Tôi không nói bạn ích kỉ. Hay ngốc nghếch. Hay cả hai. Bạn không phải như thế. Tôi chỉ muốn minh họa một vấn đề còn phổ biến hơn cả fan hâm hộ của Giáo hoàng Phanxico. Tôi cũng mắc phải tầm nhìn hạn chế và trong nhiều khía cạnh cuộc sống, tôi chắc chắn rằng mình vẫn chỉ nhìn thấy cái trước mắt. Biết được điều này, tôi sẽ là người cuối cùng cười nhạo bất cứ ai vừa mới trải qua khoảnh khắc “thức tỉnh” khi đọc những dòng vừa rồi của tôi. Tôi có mặt ở đây để giúp bạn từ từ thay đổi hoặc nâng màn mây nhận thức đang che phủ đôi mắt. Để lại phía sau thế giới quan cứng nhắc, vị kỉ có thể giúp bạn dễ dàng chấp nhận hơn, phóng khoáng hơn với thế giới này, bớt căng thẳng và thật sự thích nghi tốt với cuộc sống. 1 Tunnel vision: tầm nhìn hạn chế, chỉ thấy những cái trước mắt. Để tôi nói cho bạn nghe một nhận định sáo rỗng về nhận thức: Người càng có học vấn cao thì càng có nhiều nguy cơ rơi vào tình trạng suy nghĩ thái quá. Người thông minh có thể nảy ra lí do thông minh và cách lí giải trừu tượng. Họ “lạc lối” trong quá khứ hoặc tương lai thay vì tập trung chú ý vào sự việc đang xảy ra ngay lúc này. Và dĩ nhiên, họ bị thuyết phục bởi sự đúng đắn của mình. Nếu bạn nghĩ: “Thật may là mình không thông minh đến thế” hay “Tôi thông minh và ý kiến này thật xúc phạm” thì đúng là bạn đã rơi vào cái bẫy niềm tin của chính mình. Bạn bị cuốn vào cuộc độc thoại đang diễn ra trong đầu phản ánh sự đảm bảo về mặt nhận thức. Hãy ngừng đọc trong giây lát. Bạn đang suy nghĩ về cái gì vậy? Trong đầu óc bạn đang nói gì? Bất kể phản ứng trong thâm tâm là gì đi nữa, đó cũng là yếu tố định hình nên “tầm nhìn trong đường hầm” của bạn. Khi nói đến việc “làm thế nào để suy nghĩ chín chắn hơn”, tôi thật sự không có ý áp dụng một mô hình tư duy hoàn toàn mới. Tôi muốn nghiên cứu cách theo dõi và kiểm soát những gì bạn nghĩ. Ý thức về điều làm bạn chú ý và những ý nghĩa bạn quan tâm. Tập trung vào quá nhiều thứ, mâu thuẫn về cách giải thích, không nhận thức kiểu tư duy của bản thân sẽ khiến cuộc sống khi trưởng thành của bạn trở nên quay cuồng bận rộn. Đó chính là ý nghĩa thật sự của việc đổi mới thói quen tư duy. Làm thế nào để chuyển đổi nhận thức mặc định, cố chấp, vị kỉ về thế giới của bạn sang ý thức phổ quát cởi mở hơn, ít vị kỉ hơn. Nhận thức phổ quát ấy bắt đầu từ chỗ bạn chấp nhận rằng bản thân mình thật sự không phải là “cái rốn” của vũ trụ và bạn không hiểu biết nhiều như bạn nghĩ. Tôi xin hứa, những khẳng định táo bạo này sẽ trở nên dễ hiểu cho đến lúc bạn đọc xong cuốn sách. Còn bây giờ, hãy xem xét cuộc đời bình thường của một người trưởng thành, biết rằng cuộc sống này không phải được dệt nên từ những ý tưởng táo bạo, cuộc phiêu lưu dữ dội và những đỉnh cao bất ngờ, mà đa phần là bằng lề thói hằng ngày, nỗi buồn tẻ chán ngắt lẫn những điều có thể biết trước được. Bất kể bạn đang làm nghề gì, rốt cuộc nó cũng sẽ trở nên nhàm chán đơn điệu. Một nhân viên kế toán hay người hướng dẫn chèo thuyền băng ghềnh vượt thác trên sông đều có thể trải qua cảm giác “thế tục” như nhau. Thức dậy vào buổi sáng, đều đặn đi qua ngày làm việc dài từ 8 đến 10 tiếng. Không quan trọng họ nhận được bao nhiêu tiếng cổ vũ reo hò, có những khoảnh khắc cực kì ngoạn mục cùng đội nhóm xuôi theo dòng nước dữ dội, hay ngoan ngoãn gõ những con số trên máy tính với nửa tiếng nghỉ trưa; họ vẫn sẽ cảm thấy căng thẳng hoặc/và nhẹ nhõm hơn khi hoàn thành những việc lặt vặt. Công việc có thể khác nhau, nhưng trải nghiệm khi có việc làm thì giống nhau. Một người nhảy lên chiếc xe Volkswagen đậm chất hippie trong khi người khác leo lên chiếc xe Volvo an toàn, thiết thực và có động cơ nhiên liệu kép. Họ đều trở về nhà để thưởng thức bữa tối ngon miệng, giết thời gian bằng những chương trình ti vi vô nghĩa trong vài tiếng đồng hồ, rồi đi ngủ sớm bởi vì… vâng, vì họ thừa biết ngày mai sẽ có những sự kiện gì liên quan đến mình. Trong lúc lái xe về nhà, họ nghe vài bản nhạc hot trên radio, đều đều bắt nhịp với giai điệu của tay lái thì lại sực nhớ ra là chẳng còn tí thức ăn nào kể từ khi vợ mình về thăm mẹ. Lầm bầm bực dọc về nỗi mệt mỏi của bản thân và sự thiếu chu đáo của người vợ, hai nhân vật chính trong câu chuyện đổi đường đi đến một tiệm thức ăn nhanh. Đường sá thật kinh khủng vì đang giờ cao điểm. “Tại sao mấy cái người này không tìm được việc nào tử tế hơn việc ngáng đường mình đến Taco-Bell tìm cái gì bỏ bụng?”. Cả người nhân viên kế toán lẫn anh hướng dẫn chèo thuyền vượt thác của chúng ta đều nghĩ thế. Cuối cùng, họ đến được nhà hàng thức ăn nhanh chỉ để nhìn thấy cảnh tượng chen chúc còn hơn trên đường phố, bởi vì hết thảy những con người bận rộn với công việc và có vợ đang về thăm mẹ đều đang cố gắng kiếm cái gì đó để xoa dịu cơn đói. “Tại sao? Tại sao lại lúc này, tại sao lại là lúc mình đang muốn ăn?” – hai nhân vật chính trong câu chuyện cằn nhằn. Nhà hàng ồn ào kinh khủng và họ thuê những nhân viên chậm chạp hơn rùa bò. Thực đơn giờ có vẻ lộn xộn, và thật không may, bạn không phải là người duy nhất bị nhầm lẫn. Nhiều người xếp hàng đứng trước bạn cũng đang bàn cãi nên chọn món gì: gà kiểu châu Á với nửa giá, hay sườn heo nguyên giá nhưng khẩu phần gấp đôi? Tại sao bạn lại phải xếp hàng chung với những người mỏi mệt và lộn xộn khác? Hàng người xếp hàng đợi dài dằng dặc đến phát điên lên. Chắc là nên đi đến chỗ khác. Nhưng ai dám đảm bảo hàng chờ ở nơi đó sẽ ngắn hơn ở đây? Còn nữa, có thể họ không có món gà châu Á giảm giá một nửa. Do đó bạn quyết định chờ đợi, suy nghĩ xem mình nên trút cơn giận này lên ai: nhân viên thu ngân – người làm việc quá tải hơn bạn và có công việc vô nghĩa mà bạn thậm chí không thể hình dung nổi; hay cái người đang ngập ngừng chỉ ngón tay múp míp của mình vào món thịt heo trong khi lại gọi món gà cứ như thể nó bổ dưỡng hơn vậy? Bạn bắt đầu có những suy nghĩ tồi tệ để làm khuây khỏa nỗi chán chường của mình. Vài phút sau đó dài như cả đời người trên trái đất thì đến lượt bạn gọi thức ăn – gà nướng kiểu châu Á. Bạn lựa chọn nhanh chóng hơn bạn tưởng vì năng lượng đã tụt dốc trầm trọng, rồi thờ ơ nói với người tính tiền: “Cảm ơn, ngày tốt lành nhé”. Người đó ném cho bạn cái nhìn mang ý hỏi: “Ông đang giỡn tôi đó hả?” làm bạn hối hận vì đã cố ép mình lịch sự nhã nhặn và vội vội vàng vàng đi ra bãi giữ xe dơ bẩn. Việc quay lại với luồng giao thông giờ cao điểm khiến bạn thầm hi vọng mình tan biến ngay lúc này vì đã phí cả cuộc đời trong cái nhà hàng thức ăn nhanh đó. “Không, mình không ăn may như thế… Không phải trong cái thành phố chết tiệt này. Không phải ở đây”. Bạn về nhà. Ngôi nhà trống không và bát đĩa chưa rửa. Bạn lầm bầm lấy một chiếc nĩa và ăn luôn món gà trong hộp trong lúc xem vài chương trình ti vi ầm ĩ. Có vài lúc hài hước nhưng đa phần là chán ngắt và ngớ ngẩn. Và thức ăn cũng không ngon. Giờ đã trễ rồi. Bạn đi đánh răng, ngẫm nghĩ xem ngày hôm nay vô nghĩa như thế nào rồi leo lên giường chỉ để thức giấc vào sáu giờ sáng hôm sau và lại lặp lại một ngày vô vị y như thế. Chao ôi, viết về một ngày thường nhật còn tồi tệ hơn việc sống cái ngày ấy. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, người ta vượt qua chướng ngại này. Tất cả chúng ta đều như thế. Mọi thứ rốt cuộc sẽ trở thành thói quen. Bất kể là diễn viên hạng A hay người trông nom nhà cửa, sự buồn tẻ đơn điệu của hành động lặp đi lặp lại rồi sẽ đến với bạn. Các lề thói đơn điệu sẽ xâm nhập vào cuộc sống của bạn khi bạn già đi. Bất kì ai từng có một công việc đều thấu hiểu điều tôi đang nói. Tôi biết bạn đang ao ước được nghe nói là những giây phút ấy không nhất thiết phải tẻ ngắt như thế và có một giải pháp thần kì để giảm bớt sự đều đều đơn điệu của chúng. Không. Thành thật xin lỗi. Tôi sẽ không nói dối – nhiều phần việc trong cuộc sống của chúng ta vốn đã được định sẵn là ngớ ngẩn và nhàm chán. Tôi biết các phương tiện truyền thông xã hội muốn thuyết phục bạn về sự thật hoàn toàn khác. Đừng tin nó. Cuộc sống của chúng ta không phải chỉ được xây dựng bằng những đỉnh cao vô hạn. Nhưng điểm mấu chốt trong bài trình bày của tôi về sự đơn điệu thường nhật là cho bạn thấy một cách tiếp cận khác đi hơn là con đường thoát li chúng. Giải pháp sau gần như bất khả thi, bởi vì ngay cả công việc lí thú nhất trên đời cũng trở nên nhàm chán sau một thời gian. Người xinh đẹp nhất trên Trái Đất này cũng thế… Bạn không thể thay đổi dòng chảy tự nhiên của cuộc sống nhưng có thể thay đổi cách bạn lí giải chúng. Những lúc xếp hàng dài lê thê vào giờ cao điểm là lúc bạn phải ý thức rất rõ về suy nghĩ của mình. Bạn không thể thay đổi hoàn cảnh nhưng có thể thay đổi suy nghĩ về nó. Bạn nên làm như vậy bởi các sự kiện này đầu độc bạn qua từng ngày đúng theo nghĩa đen nếu bạn để mặc chúng làm vậy. Bạn có thể nghĩ mỗi lần tắc đường, mỗi lần nhồi nhét xếp hàng là một âm mưu mà cả thế giới đang quấy rầy bạn. Bạn có thể vận những sự việc thường ngày vào bản thân mình. Thật dễ dàng để làm như vậy bởi vì có một lực hút suy nghĩ “thâm căn cố đế” rằng bạn là trung tâm của vũ trụ. Bạn có thể cho rằng các sự kiện kia đơn thuần đang cản trở bạn nhanh chóng mua thức ăn ở cửa hàng, thậm chí khiến bạn càng mệt mỏi và ngăn không cho bạn về nhà sớm hơn. Bạn có quyền nghĩ là người ta biết rằng họ đang ngáng đường của bạn và cố tình làm thế. Họ la hét và chọn món một cách chậm chạp chỉ để trêu tức bạn mà thôi. Bạn có thể phẫn nộ trước miếng sườn heo to tướng mà anh chàng kia đang “xơi tái”, thọc những ngón tay bóng dầu mỡ vào sâu trong thịt, xé ra đến tận xương và nhai nhóp nhép rõ to, trong lúc hoàn toàn không đếm xỉa đến bạn vẫn đang đứng xếp hàng với cái bụng đói meo. “Làm sao hắn dám ăn trước mặt mình với vẻ thỏa mãn trong khi mình còn đang đói? Chắc chắn hắn cố tình làm thế để khoe mẽ. Cái đồ tham ăn.” Khi anh ta ăn xong, bạn nhìn anh ta lặc lè đi ra ngoài, leo lên chiếc mô tô quá khổ và xì khói khi khởi động động cơ. Bạn nhìn theo anh ta rời khỏi, lắc đầu phản đối thói quen tiêu xài đó. Đúng là cái xe đáng ghét của một gã ích kỉ nhất, vô tâm nhất với môi trường. Thật là kiểu sống vô dụng, thiếu suy nghĩ… Nhân tiện, hai đoạn văn cuối cùng chính là ví dụ về cách suy nghĩ chắc chắn sẽ khiến bạn cảm thấy đau khổ và đáng thương hơn nữa. Kiểu suy nghĩ vị kỉ ấy làm cho nhiều người thất vọng và hoàn toàn chán ghét cuộc đời. Tuy nhiên, mỗi ngày bạn có thể chọn suy nghĩ theo hướng đó trong hàng người đợi mua thức ăn nhanh hay bất cứ nơi nào khác. Đó là quyết định của bạn. Nhưng bạn cũng có thể chọn cách suy nghĩ khác đi. Nếu bạn vừa mới nhận ra bản thân mình trong đoạn giới thiệu này, đừng lo lắng. Mỗi người trong chúng ta thỉnh thoảng đều suy nghĩ như vậy. Đó là dạng suy nghĩ vô thức. Đó là biểu hiện của nhận thức về sự buồn chán, thất vọng và cảm giác vô nghĩa. Những ý nghĩ hung hăng như những người ở trên làm dịu bớt chút ít sự thất vọng của chúng ta. Nhưng chúng lại tạo ra một loại thất vọng khác. Đó là nỗi bực dọc khi cuộc sống không tuân theo yêu cầu vị kỉ của bản thân chúng ta. Vậy, giải pháp là gì? Thay đổi quan điểm. Bạn có thể suy nghĩ giống như tôi đã miêu tả ở trên. Tuy nhiên, bạn cũng có thể chọn cách nhìn nhận khác đi. Trước hết, bạn phải chấp nhận rằng bạn thật sự cảm thấy bản thân mình là “cái rốn” của vũ trụ, nhưng lựa chọn nhìn nhận điều đó không đúng. Việc này thật khó khăn và không phải lúc nào bạn cũng sẽ thành công trong việc chuyển đổi nhận thức, nhưng “có công mài sắt, có ngày nên kim”. Chẳng hạn, bạn có thể chọn cách nghĩ rằng những người xếp hàng phía trước cố tình phá hỏng giờ phút “tự do” hiếm hoi của bạn. Hoặc bạn có thể chọn cách nghĩ là hầu hết những người kia chỉ vừa mới kết thúc một ngày làm việc dài lê thê và kiệt sức; họ xếp hàng mua thức ăn nhanh vì bắt buộc chứ không phải do chọn lựa. Họ không đủ tiền để mua ở một nơi đắt đỏ hơn. Bạn thì, mặt khác, đến đây bởi vì nó gần. Hay người đàn ông to béo đang nhai nhóp nhép miếng sườn heo ấy có lẽ đã không được ăn nó cả một năm rồi, và đó là món khoái khẩu đặc biệt của anh ta. Bạn có thể chọn cách nhìn nhận rằng mọi người khác đang đứng đợi xếp hàng hoặc ùn tắc giao thông cảm thấy giống y như bạn. Họ cũng muốn nhanh chóng về nhà giống bạn. Người phụ nữ thu ngân kia bất lịch sự không phải để khiến cho một ngày của bạn thậm chí còn tồi tệ hơn; chỉ là cô ấy quá mệt nhọc sau ca làm 12 tiếng ở một nơi mà tất cả những gì cô phải làm là ứng phó với tiền bạc và sự thiếu kiên nhẫn của người khác. Thay đổi sang cách nghĩ này không hề dễ dàng và chưa bao giờ dễ dàng. Bất kể bạn luyện tập cách suy nghĩ giàu lòng trắc ẩn hơn và không xem mình là trung tâm của vũ trụ nhiều bao nhiêu, thỉnh thoảng, bạn vẫn sẽ rơi vào tình trạng thiếu kiên nhẫn. Đừng chán ghét bản thân vì điều đó. Chỉ cần bạn chắc chắn ý thức được những lựa chọn tư duy của mình. Hãy biết rằng bạn có thể suy nghĩ theo hướng giàu lòng yêu thương hoặc tự cao tự đại. Cố gắng nhìn nhận một cách nhân ái thường xuyên nhất có thể. Có những ngày bạn không thể làm được, trong khi những ngày khác bạn lại không muốn nghĩ như thế. Tuy nhiên, một khi bạn trải qua cảm giác có thể suy nghĩ một cách bao dung và tràn đầy yêu thương khi đối mặt với những khó khăn thường nhật như thế nào, bạn sẽ không muốn vướng vào những tư tưởng vô nghĩa kia chút nào nữa. Nó mang lại cho bạn cảm giác thân thuộc. Rằng bạn không hề cô đơn trong nỗi bất hạnh của mình. Những người khác cũng đang chịu đựng y như bạn – hay thậm chí còn tồi tệ hơn. Điều quan trọng không phải là tìm thấy sự dễ chịu trong nỗi đau của người khác mà là xoa dịu cảm giác khổ sở của bạn bằng cách nghĩ rằng bạn không đơn độc. Nếu dũng cảm, bạn cũng có thể thử an ủi sự bất hạnh của người khác. Việc đó thậm chí còn mang đến cho bạn cảm giác toại nguyện hơn. Nói điều gì đó vui vui trong lúc đang chờ đợi xếp hàng, tán thưởng nhân viên thu ngân, hay trò chuyện với một người lạ mà bạn hi vọng rằng họ sẽ ngon miệng với bữa ăn của mình. Đừng trông đợi hồi đáp điều gì. Đơn giản là hãy giải phóng nỗi thất vọng của bản thân theo một con đường tích cực và tạo dựng mối quan hệ với những người khác. Có khi người đàn ông hối hả đứng trước bạn đang mang món ăn yêu thích về cho bà mẹ bị ốm rất nặng của mình. Có lẽ người phụ nữ thu ngân làm việc gấp đôi để nuôi nấng ba đứa con nhỏ của cô. Có thể bạn không bao giờ biết được động lực nào khiến cho những người ấy phải vội vàng đến vậy. Nhưng có một điều chắc chắn – họ không làm như thế để khiến bạn khó chịu. Nếu bạn cho rằng công bằng là chuyện hiển nhiên, trái tim bạn sẽ không còn chỗ cho lòng trắc ẩn. Một vấn đề “quỷ quyệt” của nhận thức chính là bạn tập trung sức mạnh ở nơi nào thì nơi đó sẽ khiến bạn kém chắc chắn. Ví dụ, nếu bạn đặt quá nhiều suy nghĩ và những kì vọng tiêu cực, bạn sẽ không ngừng sợ hãi xảy ra bi kịch và hậu quả không may. Nếu dồn hết tâm trí vào tiền bạc, bạn sẽ không bao giờ thấy đủ. Nếu bạn khao khát có người yêu, ngày tháng dường như còn dằng dặc hơn khi bạn chẳng có một ai bên cạnh. Bất kể thứ gì làm bạn bận tâm quá nhiều cũng sẽ “ăn mòn” cuộc đời bạn. Tôi biết rằng bạn biết chuyện này và tôi chẳng nói bất kì điều gì mới mẻ. Nhưng bạn có nhận thức về nó mỗi ngày không? Bạn có ý thức được tại sao mình sợ hãi, giả sử khi già đi? Hoặc vì sao bạn quá “thắt lưng buộc bụng” với tiền bạc? Hay căng thẳng khi ai đó cản bạn lại để hỏi một câu hỏi đơn giản? Hầu hết những lần đó bạn đều không ý thức được thứ gì điều khiển suy nghĩ của mình. Năng lực nhận thức của bạn trở thành thói quen nhận thức. Chúng trở thành một thiết lập mặc định trong suy nghĩ. Ngày nay, những thiết lập ấy liên quan rất nhiều đến nỗi ám ảnh về sự tự nhận thức, tiền bạc, quan điểm và chủ nghĩa cá nhân. Chớ hiểu lầm ý tôi, đó là những thứ quan trọng nhưng chúng có thể giam cầm bạn trong lối suy nghĩ phiến diện, gây nản lòng và tự đầu độc chính mình. Bạn không bắt buộc phải từ bỏ ước muốn có nhiều tiền hơn, xinh đẹp hơn hay có được những ngày suôn sẻ hơn để quan tâm đến người khác và các vấn đề bạn gặp khó khăn chung với họ. Bạn sẽ không trở nên xinh đẹp, khỏe mạnh hoặc nhanh nhẹn hơn nếu đồng tình với cảm giác tự thấy mình quan trọng của người khác chỉ để khẳng định tầm quan trọng của bản thân bạn. Năng lực ý thức thật sự đến từ sự rèn luyện, quan tâm và lòng trắc ẩn. Khía cạnh đối lập lại với “sức mạnh nhận thức” của bạn là sự vô ý thức, tự yêu bản thân và niềm tin cố chấp rằng vũ trụ chỉ muốn làm tổn thương bạn. Bạn có thể phản đối những gì tôi nói trong phần giới thiệu này hoặc chấp nhận chúng. Việc đó tùy thuộc vào bạn. Bạn có quyền chọn cách phớt lờ sự nhàm chán, vô vị của cuộc sống nhưng chúng sẽ ở xung quanh bạn cho dù bạn có lựa chọn chú ý đến chúng hay không. Nhận thức không làm bạn tốn kém điều gì cả nhưng đó có thể là câu trả lời cho rất nhiều câu hỏi trong cuộc sống. Việc thay đổi thói quen tư duy của bạn sẽ không làm đổi thay thế giới nhưng dù sao đi nữa, tốt hơn là bạn nên chấp nhận và học cách cảm thấy dễ chịu về nó.I Mời các bạn đón đọc Phá Vỡ Lối Mòn Tư Duy của tác giả Steven Schuster.