Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sấm Truyền Ca (1670) - Lữ Y Đoan (Diễn kinh Cựu Ước bằng thơ Lục Bát)

Hằng sinh Thượng đế đại quyền, Tự không sáng tạo phán truyền hoằng khai Càn khôn bỗng chúc phôi thai Hư hư hàn vũ, dày dày u minh.

Đó là những câu mở đầu trong tác phẩm Sấm Truyền Ca, diễn ca lục bát 5 quyển đầu của Cựu ước, do cha Lữ Y Đoan, một trong những linh mục thế hệ đầu của Giáo phận Đàng Trong biên soạn. Cha Lữ Y  (Louis)  Đoan sinh năm 1613 tại Kẻ Chàm, Quảng Nam, soạn xong quyển Sấm Truyền Ca bằng chữ Nôm khi còn là Thầy Giảng năm 1670. thụ phong LM tại Quảng Ngãi năm 1676 và hai năm sau đó qua đời (1678).

Đó là những câu mở đầu trong tác phẩm Sấm Truyền Ca, diễn ca lục bát 5 quyển đầu của Cựu ước, do cha Lữ Y Đoan, một trong những linh mục thế hệ đầu của Giáo phận Đàng Trong biên soạn.

Cha Lữ Y  (Louis)  Đoan sinh năm 1613 tại Kẻ Chàm, Quảng Nam, soạn xong quyển Sấm Truyền Ca bằng chữ Nôm khi còn là Thầy Giảng năm 1670. thụ phong LM tại Quảng Ngãi năm 1676 và hai năm sau đó qua đời (1678).

Tác phẩm Sấm Truyền Ca đã Việt hóa các nhân danh và địa danh trong Kinh thánh, trình bày nội dung các sách Ngũ Thư với phong cách hết sức Việt Nam. Giáo dân rất thích nhưng có lẽ các cha Tây ngại rằng nó không sát bản văn Kinh thánh nên không ủng hộ, tác phẩm chỉ được chép tay chứ không được in ra. Qua thời kỳ bắt đạo, quyển sách đã trôi dạt về phía nam. Năm 1820 bộ sách được chuyển sang chữ quốc ngữ do Phan Văn Cận (tại Cái Mơn, Bến Tre). Năm 1870, có người đào được tại Cái nhum (Chợ lách, Vĩnh long) một hầm vô chủ, có nhiều sách vở về đạo thánh,'trong đó có bộ Sấm Truyền Ca, giấy đã mục nhiều. Lúc đó có ông Nguyễn Vãn Thế chịu khó chép lại và truyền ra cho nhiều người biết. Năm 1885 cha Phaolồ Qui muốn giúp độc giả tiện đối chiếu với bản văn Kinh thánh nên đã ghi số thự tự vào các câu trong mỗi chương. Ngài cũng chuyển các tên người và tên đất cho sát bản Latinh nhưng chỉ làm được một phần. Có hai bản sao đã tồn tại tới giữa thế kỷ XX: Một bản do nhà báo Paulus Tạo (báo Nam Kỳ Địa Phận) chép theo Sưu tầm của Phêrô Trần Hớn Xuyên, trực tiếp chép theo bản của Simong Phan Văn Cận, hoàn tất ngày l7 tháng 5 năm 1910 và một số tài liệu về Sấm Truyền Ca, do linh mục Phao-lồ Qui Sưu tầm và sửa chữa, từ năm 1885. Paulus Tạo ghi năm tháng ông thực hiện việc biên khảo trên một trang nay đã rách, nên nay không rõ là năm nào. Khi nhà in Tân Định được thành lập, đã có đề nghị in bộ sách nhưng các cố Tây không chịu. Bản thứ hai ở báo Tông Đồ. Năm 1947 nhà báo Nguyễn Cang Thường mang về tòa soạn báo Tông Đồ một số văn liệu, trong đó có Sấm Truyền Ca. Năm 1952, nhà báo Tông-Đồ bị bão làm sập đổ, văn liệu hư hại hơn phân nửa. Bổn Sấm Truyền Ca hư hỏng hoàn toàn ba quyển sau, vì bị nước ngập và mối xông phá, chỉ còn hai quyển đầu là Genesia (Tạo Đoan Kinh) và Exodus (Lập Quốc Kinh). Quyển Lập Quốc Kinh bị mối tàn phá phân nửa, chỉ còn 21 chương. Năm 1956 nhà báo Thaddoeus Nguyễn Văn Nhạn chép những phần còn lại của tập Sấm Truyền Ca và chép xong ngày 20 tháng 12 năm 1956. Trong bản chép tay của ông Nhạn, tên đất và tên người chép theo bản của linh mục Lữ-y Đoan và ghi chú theo bản sửa chữa của linh mục Phao-lồ Qui. 1993 Giáo sư Nguyễn Văn Trung và một số trí thức Công giáo đã thực hiện quyển sách “Về các tác giả Công giáo thế kỷ XVII-XIX”, do Khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Tp HCM ấn hành. Quyển sách đã giới thiệu tác phẩm Sấm Truyền Ca đến công chúng. Giáo sư Trung và các cộng sự viên đã có công nghiên cứu đối chiếu, thực hiện bản văn hiệu đính mang tính khoa học và năm 2000 Tập san Y Sỹ ở Montreal đã xuất bản tập 1: Tạo Đoan Kinh. Dù quyển sách được in ở Canada mới cách đây 20 năm, hiện nay ở Việt Nam tìm không đâu có. May thay cuối cùng, chúng ta may mắn tìm được một bản photocopy ở Thư viện Học viện Đa Minh, Gò Vấp và một ấn bản ở Thư viện Mân Côi Bùi Chu. Được Đức Giám mục Giáo phận khuyến khích, chúng con đang chuẩn bị để in lại quyển sách kịp phát hành vào Mùa Vọng năm nay, nhằm mừng kỷ niệm 350 năm việc biên soạn tác phẩm, để tạ ơn Chúa và để đẩy mạnh công việc truyền giáo cho giới trí thức.

Tác phẩm Sấm Truyền Ca đã Việt hóa các nhân danh và địa danh trong Kinh thánh, trình bày nội dung các sách Ngũ Thư với phong cách hết sức Việt Nam. Giáo dân rất thích nhưng có lẽ các cha Tây ngại rằng nó không sát bản văn Kinh thánh nên không ủng hộ, tác phẩm chỉ được chép tay chứ không được in ra. Qua thời kỳ bắt đạo, quyển sách đã trôi dạt về phía nam.

Năm 1820 bộ sách được chuyển sang chữ quốc ngữ do Phan Văn Cận (tại Cái Mơn, Bến Tre).

Năm 1870, có người đào được tại Cái nhum (Chợ lách, Vĩnh long) một hầm vô chủ, có nhiều sách vở về đạo thánh,'trong đó có bộ Sấm Truyền Ca, giấy đã mục nhiều. Lúc đó có ông Nguyễn Vãn Thế chịu khó chép lại và truyền ra cho nhiều người biết.

Năm 1885 cha Phaolồ Qui muốn giúp độc giả tiện đối chiếu với bản văn Kinh thánh nên đã ghi số thự tự vào các câu trong mỗi chương. Ngài cũng chuyển các tên người và tên đất cho sát bản Latinh nhưng chỉ làm được một phần.

Có hai bản sao đã tồn tại tới giữa thế kỷ XX:

Một bản do nhà báo Paulus Tạo (báo Nam Kỳ Địa Phận) chép theo Sưu tầm của Phêrô Trần Hớn Xuyên, trực tiếp chép theo bản của Simong Phan Văn Cận, hoàn tất ngày l7 tháng 5 năm 1910 và một số tài liệu về Sấm Truyền Ca, do linh mục Phao-lồ Qui Sưu tầm và sửa chữa, từ năm 1885. Paulus Tạo ghi năm tháng ông thực hiện việc biên khảo trên một trang nay đã rách, nên nay không rõ là năm nào.

Khi nhà in Tân Định được thành lập, đã có đề nghị in bộ sách nhưng các cố Tây không chịu.

Bản thứ hai ở báo Tông Đồ. Năm 1947 nhà báo Nguyễn Cang Thường mang về tòa soạn báo Tông Đồ một số văn liệu, trong đó có Sấm Truyền Ca. Năm 1952, nhà báo Tông-Đồ bị bão làm sập đổ, văn liệu hư hại hơn phân nửa. Bổn Sấm Truyền Ca hư hỏng hoàn toàn ba quyển sau, vì bị nước ngập và mối xông phá, chỉ còn hai quyển đầu là Genesia (Tạo Đoan Kinh) và Exodus (Lập Quốc Kinh). Quyển Lập Quốc Kinh bị mối tàn phá phân nửa, chỉ còn 21 chương. Năm 1956 nhà báo Thaddoeus Nguyễn Văn Nhạn chép những phần còn lại của tập Sấm Truyền Ca và chép xong ngày 20 tháng 12 năm 1956. Trong bản chép tay của ông Nhạn, tên đất và tên người chép theo bản của linh mục Lữ-y Đoan và ghi chú theo bản sửa chữa của linh mục Phao-lồ Qui.

1993 Giáo sư Nguyễn Văn Trung và một số trí thức Công giáo đã thực hiện quyển sách “Về các tác giả Công giáo thế kỷ XVII-XIX”, do Khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Tp HCM ấn hành. Quyển sách đã giới thiệu tác phẩm Sấm Truyền Ca đến công chúng.

Giáo sư Trung và các cộng sự viên đã có công nghiên cứu đối chiếu, thực hiện bản văn hiệu đính mang tính khoa học và năm 2000 Tập san Y Sỹ ở Montreal đã xuất bản tập 1: Tạo Đoan Kinh.

Dù quyển sách được in ở Canada mới cách đây 20 năm, hiện nay ở Việt Nam tìm không đâu có. May thay cuối cùng, chúng ta may mắn tìm được một bản photocopy ở Thư viện Học viện Đa Minh, Gò Vấp và một ấn bản ở Thư viện Mân Côi Bùi Chu.

Được Đức Giám mục Giáo phận khuyến khích, chúng con đang chuẩn bị để in lại quyển sách kịp phát hành vào Mùa Vọng năm nay, nhằm mừng kỷ niệm 350 năm việc biên soạn tác phẩm, để tạ ơn Chúa và để đẩy mạnh công việc truyền giáo cho giới trí thức.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Kim Cang Kinh - Đoàn Trung Còn (NXB Sài Gòn 1943)
Đối với người tu học Thiền, Kinh Kim Cương đóng một vai trò khai ngộ đặc biệt, bởi vì chính nhờ câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" trong bài Kinh mà Lục tổ Huệ Năng và nhà vua Trần Thái Tông đều đạt được đại ngộ. Bài Kinh này thường được tụng niệm tại các chùa thuộc hệ Đại Thừa, nhưng ít khi được tìm hiểu và trình bầy một cách cặn kẽ, ngoài một vài câu nổi tiếng được dẫn chứng trong các bài thuyết pháp. Lý do có lẽ là Kinh nói chung khó hiểu, với một hình thức đặc biệt làm cho người đọc dễ bị lôi cuốn bởi các câu rườm rà, và lướt qua nhanh một số câu cô đọng chứa đựng tất cả cái cốt tủy tinh hoa. Hơn nữa, cũng như đối với đa số kinh điển Phật giáo, dùng trí thức thuần túy để mà phân tích, suy luận và diễn giải, không thể nào đầy đủ. Người ta còn phải hiểu bằng trí huệ Bát Nhã, bằng trực giác, bằng linh cảm, bằng tất cả cái tâm của mình. Trong Kinh, đức Phật há đã chẳng nói "Kinh này không thể nghĩ bàn, không thể đo lường được" (Hán văn: Thị kinh hữu bất khả tư nghị, bất khả xứng lượng, chương 15, 16) hay sao? Tuy nhiên, trong sự truyền thông, trao đổi giữa những con người với nhau, thì không thể nào không dùng đến khái niệm, ngôn từ để lý giải, đồng thời vẫn ý thức được sự hạn hẹp của lối tiếp cận này. Kim Cang KinhNXB Sài Gòn 1943Đoàn Trung Còn82 TrangFile PDF-SCAN
Kinh Vạn Phật (Kinh Phật Thuyết Phật Danh)
Kính thưa chư vị Tôn Ðức,Kính thưa các Ðạo hữu xa gần,Từ gần mười năm nay, hàng ngày vào buổi chiều, vợ chồng tôi đi chùa tụng kinh Pháp Hoa dưới sự hướng dẫn của Thầy trụ trì, mỗi ngày một phẩm, hết quyển lại bắt đầu lại từ đầu.... Cho đến khi có cơ duyên đưa đến, có người tặng cho chùa một số kinh Vạn Phật (mới xuất bản tháng 9/ 2000 ở VN.) và do sự khuyến khích của Thầy trụ trì, mỗi chiều sau thời kinh Pháp Hoa, chúng tôi lạy Phật và niệm hồng danh sám hối theo kinh Phật Thuyết Phật Danh (Kinh Vạn Phật). Mỗi ngày niệm danh hiệu 100 vị Phật và lạy 100 lạy.Khi lạy và niệm đến phần cuối của quyển thứ bảy, tức là đã lạy và niệm được 6800 vị Phật, tự nhiên một nỗi cảm xúc rất mạnh chợt dâng lên trong lòng khi tôi nghĩ về tình thương của Ðức Phật Thích Ca đối với chúng sanh, làm cho nước mắt tôi đã trào ra và ngay khi đó tôi nguyện: Tôi sẽ đánh máy lại toàn bộ quyển kinh Vạn Phật (Tức là kinh Phật Thuyết Phật Danh) để phổ biến trên các Web site Phật Giáo để cống hiến cho chư vị Phật tử nào chưa có duyên để biết về kinh này.Mục đích của chúng tôi là để cho chúng ta cùng thấy rằng đạo Phật và Ðức Phật của chúng ta quá cao siêu: Chẳng những Ðức Phật nói cho chúng ta biết trong không gian vô tận này có không biết bao nhiêu là thế giới mà Ðức Phật còn biết và chỉ rõ cho chúng ta tên từng thế giới và ở thế giới nào có những vị Phật nào... Chẳng những vậy mà Ðức Phật còn cho chúng ta biết Phật nào ở thế giới nào có cha tên gì, mẹ tên gì, vợ tên gì, con tên gì ngay cả đệ tử của Phật đó là những ai tên là gì...v...v.... Trong khi khoa học hiện tại còn chưa tìm thấy một thế giới nào khác ngoài thế giới của chúng ta...Vẫn biết rằng mình tuổi đã cao, đánh máy lại không giỏi, phải một thời gian dài mới đánh máy xong danh hiệu của mười một ngàn một trăm (11,100) vị Phật nhưng tôi tự hứa là phải làm cho được... Và mong rằng việc làm của tôi sẽ mang lại một chút lợi lạc nào đó cho hàng Phật tử hữu duyên.... Và việc làm này, nếu có một chút công đức nào đó thì tôi xin hồi hướng về cho tất cả chúng sanh hữu hình hay vô hình để có đủ thuận duyên quy hướng về Phật Ðạo.Sau đây tôi sẽ chép lại nguyên văn quyển kinh Vạn Phật của dịch giả là Thầy Thích Thiện Chơn, Giáo Hội phật Giáo Việt Nam, do nhà xuất bản Tôn Giáo xuất bản năm 2000.Tôi cũng xin được ghi chú ở đây là tôi chỉ làm công việc chép lại nguyên văn. Những đoạn nào hay chữ nào có dấu (*) , đó là do tôi làm dấu để nói rõ là đoạn đó hay chữ đó đã được tôi kiểm lại, tức là không sai với nguyên văn.Nay Kính,Úc Châu, Mùa Vu Lan 2001
Phong Thủy Đại Sư Lưu Bá Ôn (2 tập)
Cuốn sách “Phong Thủy Đại Sư – Lưu Bá Ôn” được Anh Vũ & Kim Đồng dịch từ nguyên tác Trung văn của Tiêu Hiển: Phong thủy đại sư – Lưu Bá Ôn Sư Đồ Thần Toán Phong Thủy Ký của Nhà xuất bản Thanh Hải, Trung Quốc. Cuốn sách “Phong Thủy Đại Sư – Lưu Bá Ôn” được Anh Vũ & Kim Đồng dịch từ nguyên tác Trung văn của Tiêu Hiển: Phong thủy đại sư – Lưu Bá Ôn Sư Đồ Thần Toán Phong Thủy Ký của Nhà xuất bản Thanh Hải, Trung Quốc. Sách gồm có 20 chương: Chương 1: Gặp kỳ duyên, được thần tiên truyền tuyệt học Chương 2: Bạo chúa trị trăm năm, Long tinh châu xuất thế Chương 3: Đấu pháp phong thủy, thiện nhân được thiện báo Chương 4: Khéo may gặp đất khí vượng, ăn mày một bước lên mây Chương 5: Trở về kinh sư bất kể an nguy, ra sức ngăn cản làn sóng dữ Chương 6: Trừng trị gian thần Tần Cối, trải qua tận cùng gian nguy Chương 7: Nước trong điểm tài, nước trong điểm bệnh Chương 8: Vượt trùng trùng quan ải, tìm kho báu Hán triều Chương 9: Phong thủy tìm long huyệt, mưu người và ý trời Chương 10: Thay hình đổi cục, giải tan nội loạn Chương 11: Thiên cơ ngầm chuyển, kỳ sỹ Lưu Bá Ôn xuất thế Chương 12: Vì xã tắc trăm họ, Lưu Bá Ôn tìm người ứng kiếp vận Chương 13: Hấp thụ long khí, Chu Nguyên Chương đã ẩn hiện phong độ đế vương Chương 14: Quách Tử Hưng dựng cờ khởi nghĩa kháng Nguyên phục Hán Chương 15: Soái tinh rơi rụng đế vị ngầm dời Chương 16: Lưu Bá Ôn xông pha chiến trường bách chiến bách thắng Chương 17: Lưu Bá Ôn được tâm pháp của Khổng Minh Chương 18: Dụng hết tâm lực, nghĩa quân Minh Giáo tránh một trường huyết chiến Chương 19: Lưu Bá Ôn diễn dịch Sáu điềm thiên cơ Chương 20: Công thành thân thoái, Lưu Bá Ôn chu du thiên hạ. Đây là bộ sách viết về cuộc đời và những chiến tích lừng lẫy của Lại Bố Y, một người được xem là nhà phong thủy địa lý tinh thâm, thuật phong thủy của ông đã đạt cảnh giới xuất thần nhập hóa và Lưu Bá Ôn, một người rất giỏi chiêm bốc Dịch số. Sách gồm có 20 chương:Chương 1: Gặp kỳ duyên, được thần tiên truyền tuyệt họcChương 2: Bạo chúa trị trăm năm, Long tinh châu xuất thếChương 3: Đấu pháp phong thủy, thiện nhân được thiện báoChương 4: Khéo may gặp đất khí vượng, ăn mày một bước lên mâyChương 5: Trở về kinh sư bất kể an nguy, ra sức ngăn cản làn sóng dữChương 6: Trừng trị gian thần Tần Cối, trải qua tận cùng gian nguyChương 7: Nước trong điểm tài, nước trong điểm bệnhChương 8: Vượt trùng trùng quan ải, tìm kho báu Hán triềuChương 9: Phong thủy tìm long huyệt, mưu người và ý trờiChương 10: Thay hình đổi cục, giải tan nội loạnChương 11: Thiên cơ ngầm chuyển, kỳ sỹ Lưu Bá Ôn xuất thếChương 12: Vì xã tắc trăm họ, Lưu Bá Ôn tìm người ứng kiếp vậnChương 13: Hấp thụ long khí, Chu Nguyên Chương đã ẩn hiện phong độ đế vươngChương 14: Quách Tử Hưng dựng cờ khởi nghĩa kháng Nguyên phục HánChương 15: Soái tinh rơi rụng đế vị ngầm dờiChương 16: Lưu Bá Ôn xông pha chiến trường bách chiến bách thắngChương 17: Lưu Bá Ôn được tâm pháp của Khổng MinhChương 18: Dụng hết tâm lực, nghĩa quân Minh Giáo tránh một trường huyết chiếnChương 19: Lưu Bá Ôn diễn dịch Sáu điềm thiên cơChương 20: Công thành thân thoái, Lưu Bá Ôn chu du thiên hạ.Đây là bộ sách viết về cuộc đời và những chiến tích lừng lẫy của Lại Bố Y, một người được xem là nhà phong thủy địa lý tinh thâm, thuật phong thủy của ông đã đạt cảnh giới xuất thần nhập hóa và Lưu Bá Ôn, một người rất giỏi chiêm bốc Dịch số.
Hoa sen trong biển lửa - Thích Nhất Hạnh
"Hoa Sen Trong Biển Lửa" vì nhu cầu đòi hỏi đã phải tái bản lần thứ tư bằng Việt ngữ. Bản Anh ngữ do hai nhà xuất bản khác nhau đã phát hành tại Anh và tại Mỹ, còn bản tiếng Đan Mạch đã phát hành tại Copenhague, còn bản Nhật ngữ và Ý ngữ đang in... Nhân dịp, chúng tôi muốn nêu một số nhận định để chúng ta có thể đồng thoại trong khi tham khảo cuốn sách này: "Hoa Sen Trong Biển Lửa" vì nhu cầu đòi hỏi đã phải tái bản lần thứ tư bằng Việt ngữ. Bản Anh ngữ do hai nhà xuất bản khác nhau đã phát hành tại Anh và tại Mỹ, còn bản tiếng Đan Mạch đã phát hành tại Copenhague, còn bản Nhật ngữ và Ý ngữ đang in... Nhân dịp, chúng tôi muốn nêu một số nhận định để chúng ta có thể đồng thoại trong khi tham khảo cuốn sách này: 1- Lịch sử Việt cho thấy rằng đạo Phật đã du nhập vào những thời kỳ khổ đau nhất của dân tộc và luôn luôn có mặt ở mọi giai kỳ quật khởi. Chính nhờ khí chất của quần chúng cũng như của đạo Phật đã gặp nhau trong ý thức phục vụ và giải phóng con người. Phục vụ con người bằng cách đem lại một lối nhìn và lối sống hoàn toàn tự do và tự cường. Giải phóng con người khỏi những liên hệ giả tạo của nô lệ và khổ đau (ví như liên hệ giả tạo giữa thế lực xâm lược và thế lực dân tộc). Nhận định đưa tới ý thức cấp thiết về sứ mệnh của chúng ta trong hiện tại để phá đổ định mệnh hắc ám của chiến tranh. Vài mươi năm gần đây, người Phật tử Việt Nam đang sống lại quá trình của lịch sử ở một không gian, thời gian khác: thời kỳ huân tập chuẩn bị ý thức từ khi đạo Phật du nhập (thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ IX) là giai đoạn chấn hưng của phong trào Phật giáo từ năm 1930- 1950; thời kỳ chủ động (qua năm thế kỷ từ thế kỷ IX đến XIV) là giai đoạn 1950- 1963. Sau đó chúng ta rơi vào thế bị động. Bị động ở đây không có nghĩa là tê liệt, vì tiềm lực của ý thức và của quần chúng vẫn còn có đó. Tuy nhiên, chúng ta không bi quan. Kẻ bi quan chỉ nhìn thấy thành quả sau những lần và thắng lợi; trong khi sự thắng lợi nhất thời của bạo chính đã bao hàm thử thách, không nhận thức được rằng thất bại hàm chứa những nhân tố quật khởi những nhân tố thất bại. 1- Lịch sử Việt cho thấy rằng đạo Phật đã du nhập vào những thời kỳ khổ đau nhất của dân tộc và luôn luôn có mặt ở mọi giai kỳ quật khởi. Chính nhờ khí chất của quần chúng cũng như của đạo Phật đã gặp nhau trong ý thức phục vụ và giải phóng con người. Phục vụ con người bằng cách đem lại một lối nhìn và lối sống hoàn toàn tự do và tự cường. Giải phóng con người khỏi những liên hệ giả tạo của nô lệ và khổ đau (ví như liên hệ giả tạo giữa thế lực xâm lược và thế lực dân tộc). Nhận định đưa tới ý thức cấp thiết về sứ mệnh của chúng ta trong hiện tại để phá đổ định mệnh hắc ám của chiến tranh. Vài mươi năm gần đây, người Phật tử Việt Nam đang sống lại quá trình của lịch sử ở một không gian, thời gian khác: thời kỳ huân tập chuẩn bị ý thức từ khi đạo Phật du nhập (thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ IX) là giai đoạn chấn hưng của phong trào Phật giáo từ năm 1930- 1950; thời kỳ chủ động (qua năm thế kỷ từ thế kỷ IX đến XIV) là giai đoạn 1950- 1963. Sau đó chúng ta rơi vào thế bị động. Bị động ở đây không có nghĩa là tê liệt, vì tiềm lực của ý thức và của quần chúng vẫn còn có đó. Tuy nhiên, chúng ta không bi quan. Kẻ bi quan chỉ nhìn thấy thành quả sau những lần và thắng lợi; trong khi sự thắng lợi nhất thời của bạo chính đã bao hàm thử thách, không nhận thức được rằng thất bại hàm chứa những nhân tố quật khởi những nhân tố thất bại. 2- Nhận định trên đưa tới ý thức quật khởi để giải quyết hiện trạng chiến tranh. Đối tượng cuốn sách này nằm ở đó. Hiện nay thế giới đang kết án tính cách vô nhân trong cuộc tham chiến của người Mỹ. Những phong trào hoà bình trên thế giới đều đứng sau lưng chúng ta, họ kết tội và chống đối kịch liệt chính sách Mỹ. Đây chính là lúc mà lực lượng thực sự dân tộc, lực lượng thứ ba, phải tận triển mọi khả năng bất khả để tạo thế chủ động, mở ra cục diện mới. Giữa hai khối Đế quốc và Cộng sản, một bên là vị kỷ chiếm hữu, một bên là độc tài đảng trị, chúng ta chỉ có hai con đường: làm tay sai cho một trong hai khối hoặc là đứng cả dậy dưới bóng mặt trời để hoàn tất sự nghiệp Việt nam. 2- Nhận định trên đưa tới ý thức quật khởi để giải quyết hiện trạng chiến tranh. Đối tượng cuốn sách này nằm ở đó. Hiện nay thế giới đang kết án tính cách vô nhân trong cuộc tham chiến của người Mỹ. Những phong trào hoà bình trên thế giới đều đứng sau lưng chúng ta, họ kết tội và chống đối kịch liệt chính sách Mỹ. Đây chính là lúc mà lực lượng thực sự dân tộc, lực lượng thứ ba, phải tận triển mọi khả năng bất khả để tạo thế chủ động, mở ra cục diện mới. Giữa hai khối Đế quốc và Cộng sản, một bên là vị kỷ chiếm hữu, một bên là độc tài đảng trị, chúng ta chỉ có hai con đường: làm tay sai cho một trong hai khối hoặc là đứng cả dậy dưới bóng mặt trời để hoàn tất sự nghiệp Việt nam. Chối bỏ quan niệm quốc gia cực đoan, nhưng chúng ta chủ xúy quyền tự quyết của dân tộc trong một thế giới thuận hảo, như con sông Cửu Long phải là con sông Cửu Long để có thể đưa nước về hoà đồng cùng biển. Quyền tự quyết bao hàm ý chí tự cung và tự chủ của dân tộc; nhờ tự cung - tự cung về ý thức cũng như về sở vật sinh tồn - mà khỏi cầu ngoại viện. Cầu ngoại viện mà không tự chủ sẽ thành vong nô. Đó là hiện trạng của chúng ta. Chối bỏ quan niệm quốc gia cực đoan, nhưng chúng ta chủ xúy quyền tự quyết của dân tộc trong một thế giới thuận hảo, như con sông Cửu Long phải là con sông Cửu Long để có thể đưa nước về hoà đồng cùng biển. Quyền tự quyết bao hàm ý chí tự cung và tự chủ của dân tộc; nhờ tự cung - tự cung về ý thức cũng như về sở vật sinh tồn - mà khỏi cầu ngoại viện. Cầu ngoại viện mà không tự chủ sẽ thành vong nô. Đó là hiện trạng của chúng ta.