Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ảnh Phổ Diện

Vua John ra sắc lệnh Công nương Gabrielle xứ St. Biels phải rời khỏi quê hương Anh quốc của cô để kết hôn với một lãnh chúa Cao nguyên. Cô biết mình phải tuân lệnh và gói ghém đồ đạc đến Scotland cùng với đội cận vệ. Trên đường tới tu viện nơi dự định tiến hành lễ cưới, họ bắt gặp một nhóm người đang muốn chôn sống một kẻ khác. Cô đã giải cứu kẻ gần chết đó và bí mật mang anh ta đến tu viện.  Vì cô đến đó chờ để làm lễ kết hôn, hai nam tước đồi bại người Anh đang tranh giành để có được cô cũng đến tu viện. Nhưng vị lãnh chúa mà cô buộc phải cưới thì không. Ông ta bị sát hại trước khi tới nơi. Giờ hai nam tước đang tranh cãi xem ai là người thay mặt cho đức vua để quyết định tương lai của Gabrielle.  Lãnh chúa Colm MacHugh đến tu viện để đón em trai mình, người đã gần như bị chôn sống. Anh không khám phá ra người nào đã cứu em trai mình nên quyết định đưa vị linh mục đã giúp Liam hồi phục lại về vùng đất của anh để xem xem liệu anh có tìm hiểu được thêm gì nữa. Khi mệnh lệnh của hai nam tước người Anh đặt ra cho Gabrielle dẫn đến kết quả không mong đợi, anh liền giải cứu cho cô và đưa cô về với anh. Để đáp trả món nợ cũ, anh chấp thuận kết hôn với cô và trở thành người bảo hộ cho cô.  Ảnh Phổ Diện (Shadow Music) là cuốn tiểu thuyết lãng mạn, vì thế người đọc đều biết cuối cùng thì Colm và Gabrielle sẽ yêu thương nhau và cùng chống lại những thế lực đen tối vây quanh. Các nam tước dồn hết sức lực, đặc biệt là một kẻ trong số họ muốn “kho vàng ẩn” của St. Biel. Có cả những xung đột thị tộc tại Scotland – điều luôn luôn xuất hiện trong loại tiểu thuyết lãng mạn này.  Công nương Gabrielle có một cá tính mạnh mẽ. Cô không thắc mắc gì khi tuân lệnh nhà vua. Mặc dù vậy, cô sẽ sống cuộc sống của cô khi thấy phù hợp theo những hạn chế về mặt văn hóa và tín ngưỡng của thời bấy giờ. Colm nhanh chóng học được cách giải mã một số những từ ngữ của cô để biết cô sẽ làm điều mà cô thích. Colm là một vị lãnh chúa mạnh mẽ, điển hình và cũng là một chú rể bất đắc dĩ. Anh học được rằng cuộc hôn nhân này không phải là sự trói buộc như anh tưởng. *** Wellingshire, nước Anh. Công nương Gabrielle chỉ mới có 6 tuổi khi bị triệu đến bên giường người mẹ đang hấp hối. Hộ tống là người cận vệ trung thành, đằng sau là hai người lính hai bên, bước chân họ chậm rãi để cô bắt kịp khi họ trang trọng diễu qua hàng lang dài. m thanh duy nhất chỉ là tiếng những đôi ủng dập xuống nền nhà bằng đá lạnh buốt. Gabrielle đã được gọi đến giường mẹ nhiều lần đến nỗi cô bé không tài nào đếm nổi. Chân bước và mái đầu cúi xuống, ánh nhìn dán chặt vào viên đá sáng bóng mà cô vừa tìm được. Mẹ sẽ rất thích nó. Đó là một viên đá đen tuyền với một đường sọc màu trắng mảnh mai lượn vòng quanh. Một bên mặt trơn nhẵn như bàn tay mẹ lúc vuốt ve khuôn mặt Gabrielle. Mặt bên xù xì như những cái chạm của cha cô. Hàng ngày lúc hoàng hôn buông xuống, Gabrielle mang đến cho mẹ một món quà quý giá khác nhau. Hai ngày trước cô bé bắt được một con bướm. Đôi cánh của nó thật xinh đẹp, vàng óng xen lẫn những mảng màu tím biếc. Mẹ tuyên bố đó chính là chú bướm xinh đẹp nhất mà bà từng thấy trên đời. Bà khen ngợi Gabrielle vì đã biết nâng niu một tạo vật của Chúa lúc bà tiến về phía cửa sổ và thả cho nó bay đi. Ngày hôm qua Gabrielle hái những bông hoa ở ngọn đồi phía ngoài lâu đài. Hương cây thạch nam và mật ong vất vít quanh cô bé, và cô bé nghĩ mùi hương này thậm chí còn dễ chịu hơn cả mùi dầu thơm và nước hoa đặc biệt của mẹ cô. Gabrielle buộc một dải lụa xinh xắn quanh phần cuống bó hoa và cố gắng tạo thành một chiếc nơ đẹp, nhưng cô bé không biết cách và cuối cùng làm rối tung nó lên. Cô bé đã dỡ nó ra trước khi mang cả bó hoa đến cho mẹ mình. Những hòn đá là những món quà quý ưa thích của Mẹ. Mẹ giữ một hộp đầy những viên đá mà Gabrielle thu nhặt cho bà và đặt nó trên bàn ngay cạnh giường, chắc Mẹ sẽ thích viên này nhất cho mà xem. Gabriella không hề tỏ ra lo lắng về cuộc gặp gỡ ngày hôm nay. Mẹ đã hứa sẽ không đi tới thiên đường sớm, và mẹ chưa bao giờ thất hứa với cô. Những vệt nắng trải dài trên những bức tường và sàn nhà lát đá lạnh buốt. Nếu như Gabrielle không bận rộn với viên đá của mình, cô bé sẽ thích được đuổi bắt theo bóng nắng và cố gắng giành lấy một vệt cho mình. Hành lang dài là một trong số những chốn đùa nghịch ưa thích của cô bé. Cô bé thích co chân nhảy lò cò từ viên nọ sang viên kia trên mặt đá lát sàn, và quay lại xem xem khoảng cách xa đến bao nhiêu trước khi ngã phịch xuống. Thi thoảng cô bé nhắm chặt mắt, hai cánh tay giang rộng, và xoay tròn xoay tròn cho đến tận lúc loạng choạng ngã nhào xuống nền nhà, mặt mũi tối tăm đến nỗi những bức tường đá dường như bay lượn ngay trên đầu. Nhưng thích nhất là được chạy dọc hành lang, đặc biệt khi cha có ở nhà. Ông là người đàn ông to lớn, trang nghiêm , cao hơn bất kì chiếc cột chống nào trong nhà thờ. Cha cô sẽ gọi cô đến và chờ cô sà vào lòng ông. Rồi ông sẽ nhấc bổng cô lên trong vòng tay mình và nâng cô đến ngang đầu. Nếu đang ở khu sân trong, cô với hai bàn tay lên trời, cảm giác chạm vào được cả một đám mây. Cha lúc nào cũng vờ thả lỏng tay mình để cô tưởng ông sẽ làm cô rơi xuống. Cô biết ông sẽ không bao giờ làm thế, nhưng cô vẫn kêu thét lên thích thú. Cô bé quàng tay quanh cổ cha và bám thật chặt khi ông sải bước đến phòng mẹ. Khi tâm trạng cha đặt biệt vui vẻ, ông sẽ cất tiếng hát. Cha có một giọng hát dễ sợ, thỉnh thoảng Gabrielle cười rúc rích và bịt chặt lấy hai tai tỏ vẻ khiếp đảm cực kì, nhưng cô chưa bao giờ thực sự cười phá lên. Cô không muốn tổn thương đến những tình cảm dịu dàng của cha mình. Hôm nay cha vắng nhà. Ông rời Wellingshire để đến thăm chú Morgan ở phía bắc nước Anh, và vài ngày tới cũng sẽ chưa về. Gabrielle không hề lo lắng. Nếu không có cha ở nhà, bà sẽ không chết. Stephen, chỉ huy của đội cận vệ, mở cánh cửa phòng mẹ cô và vỗ về Gabrielle bước vào phòng bằng một cú thúc nhẹ qua vai. “Nào, Công nương,” anh hối thúc. Cô quay lại với một cái cau mày bất bình. “Cha nói anh phải gọi mẹ em là Công nương Geneieve, và gọi cháu là Lady Gabrielle chứ.” “Ở nước Anh, em sẽ là Lady Gabrielle.” Anh đập nhẹ vào chỏm lông trang trí trên chiếc áo dài của mình. “Nhưng ở St. Biel, em chính là công nương của chúng ta. Giờ thì đi đi nào, mẹ em đang đợi.” Nhìn thấy Gabrielle, mẹ cô lên tiếng gọi. Giọng nói phát ra yếu ớt, còn mặt bà trông trắng bệch. Từ lúc cô bé nhớ được tới bây giờ , mẹ đã nằm trên giường rồi. Hai chân mẹ đã quên mất bước đi, bà giải thích với Gabrielle như thế, nhưng cô bé vẫn hy vọng, cầu nguyện rằng một ngày nào đó chúng sẽ nhớ ra. Nếu như điều nhiệm màu ấy xảy đến, mẹ hứa với Gabrielle rằng mẹ sẽ đứng chân trần trên nền nhà sạch sẽ để đếm gạch cùng với cô bé. Và mẹ cũng sẽ khiêu vũ cùng với Cha. Phòng ngủ chật ních toàn những người là người. Họ nhích thành một lối nhỏ giành cho cô. Vị mục sư, Cha Gartner, đang lẩm bẩm lời cầu nguyện của ông qua tiếng thì thầm gần hốc tường, và thầy thuốc, người lúc nào mặt mày cũng cau có và thích chọc lấy máu mẹ bằng những con đỉa nhày nhụa, đen sì, cũng có mặt. Gabrielle thầm biết ơn vì ông ta đã không đặt những con vật đó vào cánh tay mẹ ngày hôm nay. Các tớ gái, người hầu và quản gia lảng vảng bên cạnh giường. Mẹ đặt khung thêu và chiếc kim của bà xuống, xua tay cho người hầu tránh sang một bên, và ra hiệu cho Gabrielle. “Lại đây ngồi cạnh mẹ nào,” bà ra lệnh. Gabrielle bước tới, trèo lên bục, và chìa hòn đá ra cho mẹ. “Chà, đẹp quá,” mẹ thì thầm khi cầm lấy viên đá và cẩn thận quan sát nó. “Đây hẳn là viên đá đẹp nhất,”, mẹ thêm vào với một cái gật đầu. “Mẹ, lần nào con mang tới cho mẹ một viên đá mẹ đều nói thế. Lúc nào cũng là viên đẹp nhất.” Mẹ cô chạm nhẹ vào cô bé. Gabrielle dịch tới gần hơn. “Mẹ không thể chết hôm nay được. Nhớ không? Mẹ hứa rồi.” “Mẹ nhớ mà.” “Cha sẽ rất giận dữ, vì mẹ không khỏe lên.” “Lean closer, Gabrielle,” her mother said. “I have need to whisper.” “Xích vào với mẹ, Gabrielle,” mẹ cô bé đáp. “Mẹ nói thầm thôi.” Một tia sáng lóe lên trong mắt báo cho Gabrielle biết mẹ lại đang bắt đầu trò chơi của mình. “Một bí mật ạ? Mẹ sẽ nói cho con biết?” Đám đông tiến lại gần. Ai cũng hăm hở giỏng tai nghe lời bà sắp nói. Gabrielle nhìn quanh phòng. “Mẹ, tại sao mọi người đều ở đây hết vậy?” Mẹ hôn lên má cô bé. “Họ nghĩ mẹ biết nơi cất giấu kho báu, và hi vọng mẹ sẽ nói cho con nghe.” Gabriella cười rúc rích. Cô bé rất thích trò chơi này. “Mẹ sẽ nói cho con chứ?” “Không phải hôm nay,” mẹ trả lời. “KHông phải hôm nay,” Gabrielle lặp lại để cho đám người tò mò đang vây xung quanh có thể nghe thấy. Mẹ cô bé gắng gượng ngồi dậy. Một người hầu nhanh chóng tiến lại đặt thêm gối vào sau lưng bà. Ngay tức khắc thầy thuốc loan báo rằng sắc mặt bà đã khá hơn. “Ta cả thấy khỏe hơn nhiều rồi,” bà lên tiếng. “Giờ hãy rời đi,” bà ra lệnh, giọng nói nhấn mạnh từng lời. “Ta muốn có phút giây riêng tư với con gái mình.” Vị thầy thuốc nhìn như thể ông muốn cự lại, nhưng vẫn im lặng giải tán đám đông ra khỏi phòng ngủ. Ông ra hiệu cho hai người hầu gái ở lại bên trong. Những người khác đứng túm tụm bên ngoài để chờ lệnh của bà chủ. “Có phải hôm nay mẹ khỏe hơn nhiều nên mới kể chuyện được cho con phải không?” Gabrielle hỏi. “Phải,” bà đáp. “Con muốn nghe chuyện gì nào?” “Câu chuyện về nàng công chúa,” Cô bé hăm hở lên tiếng. Mẹ cô bé không hề ngạc nhiên. Lúc nào Gabrielle cũng đòi bà kể đúng một câu chuyện. “NGày xửa ngày xưa có một nàng công chúa sống ở vùng đất xa thật xa tên gọi là St. Biel,” mẹ cô bắt đầu. “Chỗ ở của nàng là một lâu đài màu trắng thật lộng lẫy nằm tên đỉnh một ngọn núi cao. Nhà vua trị vì nơi ấy là chú của nàng. Ngài đối với công chúa rất ân cần và nàng vô cùng hạnh phúc.” Khi mẹ cô bé dừng lại, Gabrielle nôn nóng tiếp lời. “Mẹ là nàng công chúa đó.” “Gabrielle, đúng như thế, con biết mà. Và đó là câu chuyện của cha và mẹ.” “Con biết, nhưng con vẫn muốn nghe mẹ kể chuyện cơ.” Mẹ cô bé tiếp tục. “Khi nàng công chúa đến tuổi trưởng thành, một giao kèo được lập với Nam tước Geoffrey vùng Wellingshire. Công chúa buộc phải cưới vị nam tước và sống với anh ta tại nước Anh.’ Vì bà biết rằng con gái mình thích nghe đoạn kể về lễ cưới, những bộ váy áo xúng xính, âm nhạc, thế là bà đi vào chi tiết. Cô con gái bé nhỏ vỗ hai tay vào nhau đầy hào hứng khi nghe đến bữa tiệc cưới long trọng, đặc biệt là lời miêu tả những chiếc bánh tạc nhân hoa quả cùng với những chiếc bánh ngọt nhân mật ong. Đến cuối câu chuyện, lời kể của người mẹ trở nên chậm chạp và nặng nề. Bà kiệt sức. Cô con gái bé nhỏ nhận thấy điều đó và , theo thói quen, cô lại bắt mẹ cô hứa sẽ không được chết hôm nay. “Mẹ hứa. Giờ đến lượt con kể cho mẹ nghe câu chuyện mẹ đã dạy cho con đi nào.” “Đúng y như mẹ dạy, phải không Mẹ? Và cũng y như mẹ của mẹ dạy mẹ phải không?” Bà mỉm cười. “Từng từ một. Và con sẽ nhớ và lại kể cho con gái con một ngày nào đó để chúng biết về dòng dõi của chúng và vùng đất St. Biel.” Gabrielle trở nên trịnh trọng, hai mắt cô bé nhắm lại đầy tập trung. Cô bé biết mình không được bỏ sót một từ nào trong toàn bộ câu chuyện. Đây là di sản của cô, và mẹ cô chắc chắn rằng một ngày nào đó cô sẽ hiểu ý nghĩa của câu chuyện này. Cô bé đặt hai tay lên lòng mình và rồi mở bừng mắt. Nhìn vào nụ cười khích lệ của mẹ, cô bé bắt đầu. “Này xửa ngày xưa vào một năm nhiều bão lớn ập vào từ ngoài biển khơi…” Mời các bạn mượn đọc sách Ảnh Phổ Diện của tác giả Julie Garwood.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Duyên Phận Bất Ngờ
Những tháng ngày tăm tối sau cái chết của vua Richard Tim Sư Tử, các vùng đất rơi vào hỗn loạn dưới sự cai trị của một ông vua người Anh thèm khát quyền lực. Duyên Phận Bất Ngờ xoay quanh nhân vật chính Gillian. Khi cô lên 4 tuổi, gia đình cô gặp phải biến cố lớn: Gillian ngây thơ vẫn còn là một đứa trẻ, khi cô chứng kiến Bá tước Alford tàn nhẫn và đầy tham vọng giết hại cha mình để tìm lại chiếc hộp trang sức quý giá cho vua John, hai chị em cô bị lạc mất nhau. 14 năm sau, cô sống cùng bác họ của mình - Lãnh chúa Morgan và người hầu gái đã chăm sóc cho cô từ nhỏ tại lãnh địa của ông. Nhưng những tên lãnh chúa đã gây ra nỗi đau cho gia đình cô năm nào lại một lần nữa xuất hiện và đe dọa đến cuộc sống của cô và những người xung quanh cô. Để cứu bác mình, cô phải đến lãnh địa Macpherson tìm lại chị và tung tích chiếc hộp châu báu đã thất lạc của vua John. Trên đường đến đây, cô tình cờ cứu giúp cậu bé Alec khỏi tay bọn bắt cóc, và chạm trán Lãnh chúa Buchanan Brodick, người bảo vệ cậu bé. Cô và vị lãnh chúa trẻ tuổi nhanh chóng nảy sinh tình cảm. Nhưng cô không thể ở lại lãnh địa của anh. Cô phải nhanh chóng tìm được chị gái và chiếc hộp để quay về cứu bác mình. Khi cô không tìm thấy chiếc hộp và quyết định trở về nước Anh mà không thông báo cho anh, cô lại một lần nữa rơi vào tay của Nam tước Alford. Cuối cùng, liệu Gillian có thể thoát khỏi nguy hiểm và trở về bên Buchanan Brodick được không? Thông tin tác giả: Julie Garwood sinh năm 1946 tại thành phố Kanas, Missouri và là con thứ sáu trong một gia đình gốc Ireland. Mary Elizabeth – người bạn cũng là người thầy tại một lớp học đọc vào mùa hè năm bà mười một tuổi đã giúp Julie mở cánh cửa vào thế giới văn chương và trở nên say mê với nó. *** Julie Garwood là một tác giả người Mỹ khá thành công ở thể loại tiểu thuyết lãng mạn với hơn 27 đầu sách, 35 triệu bản in được phát hành trên khắp thế giới. Các tác phẩm của Julie thường xuyên góp mặt trong danh sách best-seller của New York Times. Julie viết cả tiểu thuyết lịch sử - lãng mạn lẫn hiện đại lãng mạn pha trộn sự hồi hộp, gay cấn. Bên cạnh Gentle warrior (Chiến binh nhân từ); A girl named summer (Cô nàng mùa hè); Prince Charming (Hoàng tử trong mơ); các series: Crown's Spies (Những chàng điệp viên hoàng gia); Lairds' Brides (Những nàng dâu quý tộc); Highlands' Lairds (Những quý tộc miền cao nguyên)...The Secret (Điều bí mật) là một trong những tác phẩm xuất sắc của Julie Garwood. Julie Garwood thường xuyên lọt vào danh sách các tác giả ăn khách nhất do New York Times, Wall Street Journal, và Publisher Weekly bình chọn. Hiện nay, những tác phẩm của bà đã phát hành được hơn ba mươi lăm triệu bản trên khắp thế giới. Bà là một trong những tác giả người Mỹ nổi tiếng nhaatsthees giới về tiểu thuyết cổ điển lãng mạn, bên cạnh những tên tuổi lớn như Linda Howard và Johanna Lindsey. Sách đã xuất bản và dịch tại Việt nam: Món Quà Tình Yêu Lâu Đài Hạnh Phúc Thiên Thần Hộ Mệnh Danh Dự Huy Hoàng Cô Nàng Sư Tử Rebellious Desire Kẻ Phá Đám Điều Bí Mật Sizzle Người Đàn Ông Lý Tưởng Shadow Music Khát Vọng Nổi Loạn Âm Điệu Bóng Đêm Vì Những Đóa Hồng - Julie Garwood Phép Màu Tình Yêu Duyên Phận Bất Ngờ ... Mời các bạn mượn đọc sách Duyên Phận Bất Ngờ của tác giả Julie Garwood & Nguyễn Thị Lệ Thi (dịch).
Bí Mật Sâu Kín Nhất
Nối tiếp Chỉ thời gian có thể cất lời và Tội lỗi của người cha, Bí mật sâu kín nhất là tập thứ ba trong bộ Biên niên Clifton của Jeffrey Archer. Trong phần 3 – Bí mật sâu kín nhất, mỗi nhân vật chính sẽ xuất hiện với những vai trò mới với những biến cố và thử thách mới. Harry sẽ trở thành một tiểu thuyết gia, Emma cố gắng điều hành công việc kinh doanh của riêng cô, còn Giles bắt đầu tham gia hệ thống chính trị và chạy đua vào nghị viện. Những nhân vật chính sẽ bắt đầu một chương mới của cuộc đời, nhưng liệu rằng con đường của họ sẽ thuận lợi hay nhiều chông gai? Liệu những sóng gió có quật ngã sức sống của họ? Đây không còn là câu chuyện chỉ liên quan đến Harry Clifton. Mối ràng buộc giữa hai nhà Clifton và Barrington ngày càng sâu sắc hơn. Các bí mật xoay quanh thân thế của các nhân vật và những kế hoạch của họ khiến cho số phận các thành viên hai gia đình thay đổi nhanh chóng. Cho đến phút cuối cùng, bí mật sâu kín nhất vẫn chưa được tiết lộ. Liệu còn nhân vật nào sẽ khép lại câu chuyện của mình sau khi bí mật được phơi bày? *** #Review_độc_giả BÍ MẬT SÂU KÍN NHẤT – JEFFREY ARCHER Cuối phần 2 – Tội lỗi của người cha, mình đã nghĩ tác giả có thể kết thúc truyện rồi vì đa số các mâu thuẫn chính đã được giải quyết; Harry và mọi người đều có kết thúc đẹp, kẻ ác thì đã trả giá. Nên mình có đôi chút lo lắng về phần 3, vì nếu cố tình kéo dài truyện thì nhiều khi các phần sau sẽ khiên cưỡng và nhàm chán như rất nhiều tác phẩm trước đây đã gặp phải.  Tuy nhiên, Archer đã không làm mình thất vọng, những nhân vật phản diện vẫn trực chờ cơ hội báo thù Harry, Giles cũng như Emma. Tất nhiên là cậu con trai Sebastian cũng bị cuốn vào; mạch truyện càng về sau càng chuyển dần qua chàng trai mới lớn này. Những thử thách và số phận của cậu hứa hẹn sẽ còn hấp dẫn hơn cả cuộc đời người cha - Harry. Người con gái nuôi của Harry và Emma mà thực chất là con của Hugo cũng hứa hẹn sẽ tạo nên những rắc rối lớn cho sau này, nhưng chắc chúng ta phải đợi tới phần 4 để theo dõi. Tuy nhiên, mình cũng hơi thất vọng một chút về Harry, một người đã trải qua nhiều năm bão táp chiến trường trong Thế chiến thứ 2 mà không thể hiện được nhiều bản lĩnh của mình, có lẽ tác giả muốn dành sân khấu cho lớp trẻ nhiều hơn chăng?? Chỉ có một tình tiết mình khá thích, nếu ai đọc của Archer nhiều thì sẽ nhận thấy các nhân vật chính của ông đều đầy tài năng nhưng không chung thủy, họ dễ bị ngã vào vòng tay của nhưng người mới, tình huống tương tự cũng được Acher xây dựng cho Harry và Emma, kết quả ra sao thì mình sẽ để cho mọi người tự khám phá để tránh spoil. Cá nhân mình thích kết phần 3 hơn kết phần 2 rất nhiều, vì nó hứa hẹn phần 4 sẽ rất đáng mong đợi. Mình đánh giá BÍ MẬT SÂU KÍN NHẤT khoảng 8,5 điểm. Hy vọng chúng ta sẽ sớm được đón nhận phần 4 của series truyện này. Review: Đào Đức Tâm *** Big Ben đổ chuông bốn tiếng. Mặc dù đã kiệt sức bởi những gì diễn ra tối hôm đó, nhưng vẫn còn đủ chất kích thích được bơm đi khắp cơ thể khiến vị Đại Chưởng ấn hầu như không thể ngủ nổi. Ông đã cam đoan với các thành viên Thượng viện sẽ đưa ra một phán quyết cho vụ tranh tụng của Barrington chống lại Clifton về vấn đề thừa kế tước hiệu lâu đời và tài sản khổng lồ của gia tộc. Thêm một lần nữa, ông cân nhắc các sự kiện thực tế, vì ông tin vào chúng, và chỉ có chúng được phép quyết định phán quyết cuối cùng của ông. Khoảng bốn mươi năm về trước, khi ông bắt đầu tập sự, người hướng dẫn đã khuyên ông phải loại bỏ mọi cảm xúc hay thiên kiến cá nhân khi cần đưa ra một phán quyết về thân chủ hay về vụ tranh tụng đang diễn ra trước mắt. Ngành luật không phải là ngành dành cho những kẻ có trái tim yếu đuối hay lãng mạn, sư phụ của ông đã nhấn mạnh như thế. Tuy vậy, sau khi tuân thủ tôn chỉ này trong bốn thập kỷ, ngài Đại Chưởng ấn buộc phải thừa nhận ông chưa bao giờ gặp phải một vụ việc cân bằng đến mức gần như tuyệt đối thế này. Ông chỉ ước gì F. E. Smith⁜vẫn còn sống để ông có thể tìm kiếm lời khuyên từ sư phụ của mình. ← Frederick Edwin Smith, Bá tước thứ nhất của Birkenhead, là một chính trị gia và luật sư bảo thủ người Anh. Một mặt… ông căm ghét những lời lẽ sáo mòn này biết chừng nào. Một mặt, Harry Clifton đã ra đời sớm hơn ba tuần so với người bạn thân nhất của anh ta, Giles Barrington: đó là thực tế. Mặt khác, Giles Barrington, không nghi ngờ gì nữa, là con trai chính thức của Sir Hugo Barrington và người vợ kết hôn hợp pháp của ông ta, Elizabeth: đó là một thực tế nữa. Nhưng điều đó vẫn không làm chàng trai trở thành người con được ra đời sớm nhất của Sir Hugo, và đó là điểm mấu chốt của bản di chúc. Một mặt, Maisie Tancock sinh Harry vào ngày thứ 28 của tháng thứ chín sau khi bà ta thừa nhận đã có quan hệ tình dục với Sir Hugo Barrington khi họ tham gia chuyến dã ngoại dành cho công nhân tới Weston-super-Mare⁜. Thêm một thực tế. Mặt khác, Maisie Tancock đã kết hôn với Arthur Clifton khi Harry ra đời, và giấy khai sinh khẳng định rõ ràng Arthur là bố đứa trẻ. Một thực tế khác. ← Một thị trấn ven biển ở Somerset, Anh. Một mặt… Dòng suy nghĩ của Đại Chưởng ấn quay trở lại những gì đã diễn ra trong phòng họp sau khi Viện cuối cùng cũng thực hiện biểu quyết để quyết định xem Giles Barrington hay Harry Clifton nên được thừa kế tước vị và tất cả những gì đi kèm.Ông nhớ lại chính xác những lời của người phụ trách kiểm phiếu khi công bố kết quả trước Thượng viện đông kín. “Đồng ý ở bên phải, hai trăm bảy mươi ba phiếu. Không đồng ý ở bên trái, hai trăm bảy mươi ba phiếu.” Những tiếng xôn xao ồn ã vang lên khắp các băng ghế đỏ⁜. Ông chấp nhận việc kết quả bỏ phiếu cân bằng sẽ buộc ông phải đảm nhận trách nhiệm không hề mong muốn là đưa ra quyết định ai là người được thừa kế tước vị của gia đình Barrington, công ty hàng hải danh tiếng, cũng như mọi tài sản, đất đai, vật sở hữu có giá trị. Giá như không có nhiều thứ đến vậy gắn liền với quyết định của ông khi tính đến tương lai của hai người đàn ông trẻ tuổi. Liệu ông có nên chịu ảnh hưởng bởi thực tế Giles Barrington muốn được thừa kế tước vị còn Harry Clifton thì không? Không, ông không được làm thế. Như Lord Preston đã chỉ ra trong bài diễn thuyết đầy sức thuyết phục của ông ta từ băng ghế phe đối lập, rằng như thế sẽ tạo ra một tiền lệ xấu, cho dù nó thật tiện lợi. ← Ở Quốc hội Anh, các băng ghế tại phòng họp Thượng viện sơn màu đỏ, còn Hạ viện sơn màu xanh. Một mặt, nếu ông thực sự ra phán quyết có lợi cho Harry… cuối cùng ông ngủ thiếp đi, để rồi bị đánh thức bởi một tiếng gõ cửa khe khẽ vào lúc bảy giờ, một thời điểm muộn bất thường. Ông rên lên, đôi mắt vẫn nhắm trong khi đếm từng tiếng chuông của Big Ben. Chỉ còn ba giờ đồng hồ nữa trước khi ông phải đưa ra phán quyết, và ông vẫn chưa đi được tới quyết định. Đại Chưởng ấn rên lên lần thứ hai khi ông đặt chân xuống sàn, xỏ dép vào và đi sang phòng tắm. Thậm chí lúc ngồi trong bồn tắm, ông vẫn tiếp tục đánh vật với vấn đề. Thực tế. Harry Clifton và Giles Barrington đều bị mù màu, giống như Sir Hugo. Thực tế. Bệnh mù màu chỉ có thể di truyền từ mẹ, vậy nên đây chỉ đơn thuần là trùng hợp ngẫu nhiên, và cần được loại bỏ trên đúng cơ sở đó. Ông ra khỏi bồn tắm, lau khô người, khoác lên mình một chiếc áo mặc trong nhà. Sau đó, ông ra khỏi phòng ngủ, đi theo hành lang trải thảm dày tới phòng làm việc của mình. Đại Chưởng ấn cầm một cây bút máy và viết hai cái họ “Barrington” và “Clifton” lên đầu một trang giấy, phía dưới ông bắt đầu liệt kê những ưu thế và yếu thế của từng người. Cho tới khi ông viết kín ba trang giấy với thứ chữ gọn ghẽ như bản khắc đồng của mình, Big Ben đã đánh tám tiếng chuông. Song ông vẫn chẳng sáng suốt được thêm chút nào. Ông đặt bút xuống và miễn cưỡng đi ăn sáng. Đại Chưởng ấn ngồi một mình, lặng lẽ dùng bữa sáng. Thậm chí ông không để mắt tới những số báo ra buổi sáng được xếp ngay ngắn ở bên đầu bàn, cũng không bật máy thu thanh lên, vì ông không muốn một bình luận viên không được thông tin đầy đủ nào đó làm ảnh hưởng đến phán quyết của mình. Những tờ báo nghiêm túc tập trung vào tương lai của nguyên tắc thừa kế thế tập nếu Đại Chưởng ấn phán quyết có lợi cho Harry, trong khi các tờ lá cải dường như chỉ bận tâm đến chuyện liệu Emma có thể kết hôn với người đàn ông cô yêu hay không. Khi ông quay trở lại phòng tắm để đánh răng, cán cân công lý vẫn chưa nghiêng về bên nào. Ngay sau khi Big Ben đánh chuông báo chín giờ, ông quay trở lại phòng làm việc và đọc lại các ghi chép của mình với hy vọng rằng cuối cùng cán cân cũng sẽ nghiêng về bên này hay bên kia, song nó vẫn cân bằng tuyệt đối. Ông tiếp tục nghiền ngẫm các ghi chú khi một tiếng gõ cửa nhắc nhở Đại Chưởng ấn rằng cho dù có hình dung quyền lực của ông lớn đến thế nào, ông vẫn không thể ngăn được thời gian trôi đi. Ông thở dài, xé ba tờ giấy khỏi tập sổ ghi chép, đứng dậy, tiếp tục đọc trong khi bước ra khỏi phòng làm việc và đi xuống hành lang. Khi vào phòng ngủ, ông trông thấy East, người hầu phòng, đang đứng cạnh chân giường, chờ đợi thực hiện phần việc buổi sáng. East bắt đầu bằng việc khéo léo cởi chiếc áo mặc trong nhà bằng lụa ra trước khi giúp ông chủ mặc lên người một chiếc sơ mi trắng vừa là xong vẫn còn ẩm. Tiếp theo, một cái cổ cồn hồ bột, rồi đến một chiếc khăn quàng cổ nhỏ tinh tế có dây buộc. Trong khi Đại Chưởng ấn kéo cái quần dài đen lên, ông tự nhắc nhở mình đã tăng thêm vài cân kể từ khi nhậm chức. Tiếp đó, East giúp ông mặc chiếc áo thụng dài màu đen và vàng trước khi chuyển sự chú ý sang đầu và bàn chân ông chủ. Một bộ tóc giả che kín gáy được đội lên đầu ông trước khi ông xỏ chân vào đôi giày có cài khóa. Chỉ sau khi sợi dây chuyền vàng chức tước từng được ba mươi chín vị Đại Chưởng ấn trước đó đeo đã nằm trên vai, ông mới từ bộ dạng một vai quý bà cáu bẳn trên sân khấu kịch câm chuyển thành quan chức tư pháp có quyền lực lớn nhất ở quốc gia này. Một cái liếc mắt vào gương, và ông cảm thấy đã sẵn sàng để bước lên sân khấu diễn vai của mình trong vở diễn đầy kịch tính đang được công diễn. Chỉ tiếc một điều là ông vẫn chưa biết lời thoại sẽ thế nào. Việc căn thời gian cho Đại Chưởng ấn đi vào và ra khỏi tòa tháp Bắc cung điện Westminster hẳn có thể khiến một thượng sĩ nhất của trung đoàn phải thấy ấn tượng. Vào lúc 9 giờ 40 phút sáng, có một tiếng gõ cửa và David Bartholomew, thư ký của vị đại thần, bước vào phòng. “Chúc buổi sáng tốt lành, thưa ngài,” ông ta mở lời. “Chúc buổi sáng tốt lành, ông Bartholomew,” Đại Chưởng ấn chào lại. “Tôi rất tiếc phải thông báo,” Bartholomew nói, “là Lord Harvey đã qua đời tối qua, trong một chiếc xe cứu thương trên đường tới bệnh viện.” Mời các bạn mượn đọc sách Bí Mật Sâu Kín Nhất của tác giả Jeffrey Archer & Lê Đình Chi (dịch).
Bao Điều Không Nói
"Lydia đã chết. Nhưng gia đình cô vẫn chưa biết điều này.”  Đó là mở đầu của cuốn tiểu thuyết về một gia đình lai Mỹ - Á sống tại thị trấn nhỏ ở Ohio năm 1970. Lydia là đứa con mà ông bà Lee rất mực yêu thương, và cô được kỳ vọng sẽ hoàn thành những giấc mơ dang dở của cha mẹ mình. Nhưng cuộc đời không phải luôn bằng phẳng. Cái chết của Lydia đã làm đảo lộn mọi dự định cũng như phá vỡ sự cân bằng mong manh của gia đình cô.Trong quá trình đi tìm manh mối về cái chết của Lydia, những bí mật của gia đình Lee dần được hé lộ… Cuốn tiểu thuyết không đơn thuần kể về một án mạng, nó còn là câu chuyện xúc động về gia đình, về ước mơ, khát khao và lầm lỗi. Đặc biệt, sự giằng xé trong những thân phận ngụ cư, loay hoay tìm giấc mơ nơi "Miền đất hứa", cũng là một điểm nhấn kéo dài âm ỉ trong suốt mạch truyện, đầy day dứt và xót xa. *** Lydia chưa biết bơi. Dù cô đã đi tập bơi suốt cả mùa hè với anh Nath. Lydia rất muốn thỏa cái cảm giác nổi lơ lửng trên mặt nước là như thế nào. Nhưng đấy phải là lúc cô còn sống cơ. Nhìn từ bên ngoài, nhà Lee là một gia đình hạnh phúc. Ông chồng James là một giáo sư được yêu mến tại trường đại học, bà vợ Marilyn giỏi nấu nướng và đảm đang. Ba người con của họ đều tài giỏi, đứa lớn Nath thì được nhận vào trường Harvard, đứa thứ hai Lydia là học sinh xuất sắc ở trường, đứa út Hannah lại là một cô bé cực kỳ ngoan ngoãn. Nhưng trong tâm trí của mỗi thành viên lại có những suy nghĩ riêng mà không ai hiểu được. James vật lộn trong đống bài vở của đám sinh viên, ông chỉ mong muốn được hơi ấm phụ nữ ôm lấy mình. Tuy nhiên ông lại không nói với vợ con. Marilyn ngày đêm mơ đến lớp Hóa - Sinh vẫn còn đang dang dở tại trường đại học, giấc mơ trở thành bác sĩ vẫn ám ảnh bà. Khi biết mình không còn cơ hội nào, Marilyn dồn giấc mơ đó cho đứa con gái bà yêu quý nhất, Lydia. Nhưng bà cũng không nói những điều đó với chồng con. Kể từ xem chương trình khoa học trên TV, Nath bắt đầu đam mê thiên văn học, cậu muốn sau này trở thành phi hành gia hoặc làm việc trong NASA. Vậy mà trong nhà không một ai quan tâm đến điểm A môn Vật lý cậu giành được, hay lá thư trường Harvard gửi về mời cậu nhập học. Nath ghét bố mẹ, ghét cả cô em gái cậu từng rất yêu thương Lydia, và chỉ muốn nhanh chóng thoát khỏi căn nhà này. Cuối cùng Nath vẫn không biến những suy nghĩ đó thành lời nói. Hannah giống như một đứa trẻ vô hình trong gia đình. Họ quên bày bát đĩa của cô, không bao giờ hỏi chuyện học ở trường, không dẫn cô đi tập bơi, và thậm chí đôi khi cũng quên mất sự tồn tại của cô trên đời. Thú vui duy nhất của Hannah là trộm đồ đạc trong nhà, cô cất giữ chiếc bật lửa của bố, dây chuyền của chị Lydia và vô số đồ lặt vặt khác. Nhưng cô không bao giờ kể chuyện đó cho ai biết. Còn Lydia rất muốn nói cho bố rằng cô không hề có bạn bè nào trong suốt nhiều năm qua, nói với mẹ rằng cô không còn hiểu được các công thức Vật lý phức tạp kia, và đừng mua thêm sách cho cô nữa. Lydia muốn tâm sự với Nath rằng cô không muốn anh rời đi, khi ngôi nhà này ngột ngạt quá đến mức cô không thể chịu đựng nổi. Lydia cũng luôn muốn dặn Hannah, nếu em thực sự muốn điều gì, em phải nói ra, nếu không em sẽ hối hận cả đời. Tuy vậy, chính Lydia lại không làm được điều đó. Tất cả những điều họ không nói đã trở thành ác mộng. Xác của Lydia được tìm thấy đáy hồ, mất một nửa mặt vì bị ngâm quá lâu trong nước. Một cái xác câm lặng nhưng phơi bày hết một thứ gì đó đã mục ruỗng từ lâu trong chính nhà Lee, những người Trung Quốc duy nhất trong thị trấn này. Lấy bối cảnh những năm 1970 tại một thị trấn nhỏ nước Mỹ, Bao điều không nói của Celeste Ng đã vẽ nên một bức tranh nhức nhối ẩn đằng sau vẻ bên ngoài yên bình giả tạo. Cái chết dưới hồ của một cô gái có thể là chủ đề bàn tán cho cả thị trấn trong suốt thời gian dài, nhưng quan trọng hơn đó là một cô gái Trung Quốc mắt xanh. Sự phân biệt chủng tộc ngầm len lỏi qua cộng đồng nhỏ bé này là một cái tát thẳng vào mặt những kẻ ngoại tộc ở đây. Với mạch truyện chậm rãi và buồn thảm, Bao điều không nói thử thách sự kiên nhẫn cực độ của người đọc. Nếu cuốn sách được chuyển thể, độc giả có thể mường tượng được màu sắc u tối và xám xịt trong từng cảnh của phim hiện ra như thế nào. Nhưng trên tất cả, cuốn sách là bài học giáo dục sâu sắc dành cho các bậc phụ huynh, người trước giờ vẫn luôn ảo tưởng rằng mình đã hiểu hết tâm tư của những đứa trẻ. *** Lydia đã chết. Nhưng gia đình cô vẫn chưa biết điều này. Năm 1977, ngày 3 tháng năm, lúc 06:30 sáng, không ai thấy có gì bất thường ngoài một thực tế vô thưởng vô phạt: Lydia muộn bữa ăn sáng. Như mọi khi, bên cạnh bát ngũ cốc, mẹ của Lydia đặt một cây bút chì mài nhọn và sáu bài tập Vật lý về nhà đã được đánh dấu nháy nhỏ cho cô. Đánh xe đến chỗ làm, bố của Lydia quay đĩa số về WXKP, Kênh Tin tức Hay nhất Tây Bắc Ohio, bực mình bởi tiếng rè rè của sóng vô tuyến. Trên cầu thang, anh trai của Lydia ngáp ngắn ngáp dài, đắm mình trong cơn mơ ngủ. Trên chiếc ghế trong góc bếp, em gái của Lydia khòm người, tròn mắt nhìn đĩa ngũ cốc bắp, cố hút từng miếng một, chờ Lydia xuất hiện. Rốt cuộc, cô cũng lên tiếng: “Lydia đang làm mất thời gian hôm nay rồi đấy.” Tầng trên, Marilyn mở cửa phòng con gái mình và trông thấy chiếc giường trống không: mấy góc chăn bông vẫn được xếp gọn gàng, mặt gối vẫn mịn và căng phồng. Mọi thứ vẫn ở yên vị trí của nó. Mớ đồ nhung kẻ màu mù tạt nằm ngổn ngang dưới sàn, cạnh một chiếc vớ sọc cầu vồng. Hàng ruy băng Giải thưởng Khoa học treo trên tường, một tấm bưu thiếp của Einstein. Chiếc túi du lịch nhàu nát trên sàn tủ quần áo. Chiếc cặp đựng sách màu xanh lá nằm rũ trên bàn. Lọ Baby Soft trên nóc tủ với mùi hương phấn dịu ngọt mềm mại vẫn còn đọng trong không khí. Nhưng không có Lydia. Marilyn nhắm mắt lại. Có lẽ, khi bà mở mắt ra, Lydia sẽ ở đó, phủ chăn quá đầu như thường lệ, suối tóc dài xòa xuống. Một giọng điệu gắt gỏng phát ra từ dưới tấm ga trải giường mà, vì lí do nào đó, bà mặc kệ. Con đang trong phòng tắm, mẹ ơi. Con xuống dưới lầu uống nước rồi. Con nằm đây nãy giờ mà. Tất nhiên, khi bà đưa mắt nhìn xung quanh, chẳng có gì thay đổi cả. Các rèm cửa khép kín hắt ánh sáng như một màn hình tivi trống. Xuống cầu thang, bà dừng lại ở cửa nhà bếp, bàn tay đặt lên mỗi bên khung cửa. Sự im lặng của bà đã nói lên tất cả. “Mẹ sẽ kiểm tra bên ngoài” - cuối cùng, bà nói. - “Có thể có lí do nào đó…”. Bà nhìn chằm chằm vào sàn nhà rồi lại hướng về phía cửa trước, như thể dấu chân của Lydia đã bị thảm lau mất dấu vết. Nath nói với Hannah: “Lydia ở trong phòng nó tối qua mà. Anh nghe có tiếng radio. Lúc 11:30.” Cậu ngừng nói, sực nhớ ra cậu đã không chúc em gái ngủ ngon. “Mười sáu tuổi thì có còn bị bắt cóc được nữa không ạ?” - Hannah vặn vẹo. Nath dùng muỗng khuấy bát thức ăn của mình. Ngũ cốc bắp nát ra rồi chìm vào lớp váng sữa. Mẹ chúng trở vào bếp, và vì một khoảnh khắc an nhiên trong lòng, Nath thở hắt ra nhẹ nhõm với ước nguyện: Em đây rồi, Lydia, vẫn bình an vô sự. Điều này thỉnh thoảng vẫn xảy ra - gương mặt anh em chúng giống nhau đến nỗi dù đã nhìn thật chăm chú nhưng bạn vẫn sẽ nhầm lẫn đứa này với đứa khác: chiếc cằm xinh xắn, xương gò má cao và lúm đồng tiền bên má trái giống nhau, bờ vai thon gọn y hệt. Chỉ có màu tóc là khác biệt, tóc Lydia đen nhánh như màu mực trong khi mẹ chúng lại có mái tóc xoăn màu mật ong. Nath và Hannah lại giống bố. Có một lần, một người phụ nữ dừng lại trước chúng trong một cửa hàng tạp hóa và sẵng giọng hỏi: “Người Trung Quốc à?” Và khi chúng vừa kịp trả lời vâng, bà ta không thiết nghe tiếp câu nói dang dở đã gật gật đầu ra chiều hiểu biết. “Nhìn đôi mắt đó là biết ngay mà.” Bà ta nói rồi kéo dài đuôi mắt với một ngón tay. Nhưng Lydia, bất chấp di truyền, bằng cách nào đó sở hữu đôi mắt màu xanh biếc của mẹ, và chúng biết điều này là một trong nhiều lý do Lydia rất được mẹ cưng chiều. Và bố của chúng cũng vậy. Khi Lydia đặt tay lên trán thì trông cô càng giống mẹ hơn nữa. “Chiếc xe vẫn còn ở đây” - bà nói, Nath biết trước như vậy rồi. Lydia không thể lái xe; con bé thậm chí còn chưa có giấy phép lái xe. Tuần trước, nó đã khiến cả nhà kinh ngạc khi thì rớt, và bố nhất định sẽ không để con bé ngồi ở ghế lái khi không có bằng. Nath khuấy ngũ cốc đang dần đặc quánh lại ở đáy bát của mình. Đồng hồ trong sảnh kêu tích tắc, điểm bảy giờ ba mươi phút. Không một ai di chuyển. “Hôm nay chúng ta vẫn đến trường chứ?” - Hannah hỏi. Marilyn lưỡng lự. Sau đó, bà vào lấy ví và chùm chìa khóa với một vẻ mặt tươi tỉnh. “Hai con muộn xe buýt rồi. Nath, lấy xe của mẹ và tiện thể thả Hannah xuống trên đường con đi nhé.” Rồi bà nói tiếp: “Đừng lo lắng. Bố mẹ sẽ tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra.” Bà không nhìn bọn trẻ. Chúng cũng không hề quay lại nhìn bà. Khi hai đứa con đi khỏi, bà lấy ra một chiếc cốc từ chạn bếp, cố giữ bàn tay khỏi run rẩy. Cách đây rất lâu, khi Lydia còn là một đứa bé, Marilyn đã từng để Lydia một mình trong phòng khách, chơi trên một cái chăn, và đi vào nhà bếp để pha một tách trà. Con bé chỉ mới mười một tháng tuổi. Marilyn nhấc ấm nước ra khỏi bếp và quay sang tìm Lydia đang đứng ở ngưỡng cửa. Vừa xoay đi, bà đã đặt nhầm bàn tay trên bếp nóng. Một vết bỏng đỏ au, hình xoắn ốc hiện lên trên lòng bàn tay, rồi bà chạm nó lên môi và nhìn con gái mình qua làn nước mắt. Lydia đứng đó, hoạt bát lạ thường, tựa như đây là lần đầu tiên cô vào nhà bếp. Marilyn đã không nghĩ về những thiếu sót trong bước đầu tiên nuôi dạy con trẻ, hoặc giả con gái mình đã lớn đến nhường nào. Ý nghĩ hiện lên trong tâm trí bà không phải là Mình đã bỏ rơi con bé ra sao? Mà là Con đang che giấu điều gì khác? Nath đã biết rướn người, loạng choạng lật mình và đi chập chững ngay trước mặt bà, nhưng bà lại không nhớ Lydia đã bắt đầu tập đứng khi nào. Dù con bé trông có vẻ rất vững vàng trên đôi chân trần, những ngón tay bé nhỏ hé ra từ gấu áo của bộ đồ yếm. Marilyn thường quay lưng lại, mở tủ lạnh hoặc ủi quần áo. Lydia có thể đã bắt đầu biết đi từ nhiều tuần trước, trong lúc bà mải cúi người làm bếp, và không hề biết điều gì đang diễn ra. Mời các bạn mượn đọc sách Bao Điều Không Nói của tác giả Celeste Ng & Thảo Lê (dịch).
Áo Khoác Lông Chồn
Ngay từ lần xuất bản đầu tiên vào năm 1935, Áo khoác lông chồn đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất nước Mỹ. Nhà văn John O'Hara - tác giả của tiểu thuyết - đã lấy cảm hứng từ thông báo tìm thấy xác một cô gái trẻ đẹp trôi dạt vào bãi biển Long Island. Đây có thể chỉ là một tai nạn, một vụ giết người hay tự tử? Không ai biết được sự thật về cái chết ấy, nhưng John O'Hara đã chộp lấy tấn thảm kịch này và tưởng tượng ra cuộc đời đầy thăng trầm của một người con gái ở New York vào đầu những năm 1930. Nhà văn O'Hara đã khéo léo khắc họa chân dung cuộc sống của cô gái Gloria Wandrous trẻ đẹp từ giây phút cô tỉnh dậy trên một chiếc giường lạ đến khoảnh khắc cuộc đời của cô chấm dứt. Với sự chân thực đến xấc xược và sự thính nhạy độc đáo, Áo khoác lông chồn đã bóc trần những sự thật thường là xấu xa và được che giấu, ẩn nấp dưới cái vẻ bên ngoài của một xã hội quay cuồng vì ảnh hưởng của cuộc Đại Suy thoái. Có thể nói đây là một tuyệt phẩm trên văn đàn nước Mỹ. *** Một nước Mỹ năm 1935 được miêu tả: "Nhiều đam mê ngấm ngầm, nhiều quy tắc bất thành văn. Có nhiều người giàu không kể xiết và có những anh hùng không được tôn vinh…" Tên sách: Áo khoác lông chồn Tác giả: John O’Hara Dịch giả: Đinh Thị Thanh Vân NXB Văn hóa Sài Gòn   Nhắc đến John O’Hara, người ta thường nghĩ ngay tới cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Appointment in Samarra” (Hẹn gặp ở Samarra) – tác phẩm đầu tay gắn với tên tuổi của tác gia nước Mỹ này chưa bao giờ rời khỏi danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất mọi thời đại. Nếu như “Hẹn gặp ở Samarra” từng được đánh giá là đạt đến vẻ đẹp kinh điển của một tác phẩm hiện thực trong thế kỷ 20 thì có một tiểu thuyết khác của ông lại được ví như cuốn “biên niên sử của nước Mỹ”. Tác phẩm ấy là “BUtterfield 8” – được xuất bản ở Việt Nam dưới cái tên “Áo khoác lông chồn”. “Áo khoác lông chồn” ra mắt lần đầu năm 1935, thời điểm mà theo tác gia Fran Lebowitz là lúc nền văn hóa cũng như kinh tế của nước Mỹ đang hồi nhiễu loạn: “Năm 1935, nhiều sự việc không nói ra thì tốt hơn. Nhiều đam mê ngấm ngầm, nhiều quy tắc bất thành văn. Có nhiều người giàu không kể xiết và có những anh hùng không được tôn vinh… Năm 1935, chỉ số Dow Jones đóng cửa ở mức 144.13, không những cho thấy tác động của nạn Đại Suy thoái, mà còn truyền đạt một ý nghĩa đặc biệt, đây là một giai đoạn có không ít việc buôn bán ngoài luồng. Năm 1935, Luật cấm buôn bán rượu mới hết hiệu lực được hai năm, sau khi kéo dài mười ba năm liền. Trong nhiều thành công khác, nó còn có tác dụng dân chủ hóa hoàn toàn và rất quái đản tính chất vụng trộm của nền đạo đức, chi phối các cuộc ngoại tình của tầng lớp thượng lưu Mỹ…” Trong bối cảnh ấy, John O’Hara đã tái hiện lại một cuộc đời đầy những biến động của cô gái trẻ Gloria Wandrous. Mồ côi cha từ rất sớm, Gloria sống trong sự bao bọc của một người mẹ mẫu mực và người bác ruột hết lòng yêu thương, chiều chuộng cô. Nhưng rồi bi kịch thứ nhất xảy đến. Gloria bị lạm dụng tình dục bởi thiếu tá Boam – bạn quân ngũ của bác cô. Cô gái 12 tuổi rơi vào tình trạng rầu rĩ và suy nhược, nên buộc phải chuyển đến New York. Từ một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, có giáo dục, Gloria trở thành một kẻ say xỉn, “nhẵn mặt” hầu hết các quán rượu lậu ở New York. Ở tuổi 20, Gloria đã trở thành người đàn bà sành sỏi chốn tình trường. Bước ngoặt lớn thứ hai trong cuộc đời Gloria là gặp gỡ và quen biết Liggett – một người đàn ông đã có vợ và hai con.   Từ một mối quan hệ qua đường, cô gái trẻ đem lòng yêu người đàn ông đáng tuổi bố mình. Rồi trong một lần ở cùng nhau, bị chi phối bởi phút bốc đồng của những đam mê nhục dục, Liggett đã xé rách chiếc váy dạ hội của Gloria. Điều này tiếp tục đẩy cuộc đời Gloria vào một bi kịch mới: Bi kịch đánh cắp chiếc áo khoác lông chồn trị giá 6.000 đô la và được bảo hiểm với giá 3.000 đô la.   Chẳng phải ngẫu nhiên mà tác phẩm mang tên “Áo khoác lông chồn”. Thứ đồ xa xỉ ấy cũng giống như bộ mặt của giới thượng lưu Mỹ trong thời Đại Suy thoái. Nó là thứ vỏ bọc bên ngoài đẹp đẽ và hào nhoáng, nhưng phù phiếm và vô giá trị về mặt tinh thần. Nó là món quà người chồng tặng cho vợ mình để minh chứng tình yêu nhưng thực chất chính anh ta lại là kẻ ngoại tình đáng khinh nhất.   Nó – chiếc áo lông chồn ấy cũng vẫn là vật cuối cùng mà Liggett tìm đến sau khi chạy trốn như một kẻ tội phạm khỏi con tàu mà Gloria tội nghiệp đã bỏ mạng. Vẫn theo Fran Lebowitz thì John O’Hara đã: “hiểu rõ hơn bất cứ nhà văn Mỹ nào khác rằng, giai tầng có thể vừa bộc lộ vừa nhào nặn lên tính cách, sự hời hợt có thể trọn vẹn đến vô cùng, và quần áo có thể thực sự làm nên con người ra sao”.   John O’Hara viết “Áo khoác lông chồn” ở tuổi 29. Điều này giúp lý giải một cách thấm thía rằng giọng điệu từng trải, thông thái và lối văn chương chân thực mà tinh tế ấy không phải được tạo nên bởi một ngòi bút nhiều trải nghiệm mà bởi một tài năng đáng ngưỡng mộ, cộng với một tầm hiểu biết sâu sắc.   Cũng bởi thế mà tờNew York Times từng có lời khen tặng: "O’Hara chiếm giữ vị trí độc nhất trong nền văn học đương đại của Mỹ. Ông là nhà văn Mỹ duy nhất tái hiện xã hội Mỹ trong cái cách mà nó đã được thể hiện trong tác phẩm của Henry James về nước Mỹ, hay dưới ngòi bút của Proust về nước Pháp". “Áo khoác lông chồn” xứng đáng được coi là một tuyệt phẩm trên văn đàn nước Mỹ. Năm 1960, tác phẩm này đã được chuyển thể thành phim với sự tham gia của hai ngôi sao điện ảnh hàng đầu Elizabeth Taylor và Laurence Harvey. Bộ phim mang về cho huyền thoại Elizabeth Taylor giải Oscar Nữ diễn viên xuất sắc nhất. *** John O’Hara (1905-1970) viết “Áo khoác lông chồn” năm ông mới 29 tuổi. Tác phẩm trở thành kiệt tác và gần công chúng hơn khi được chuyển thể thành phim với sự tham gia diễn xuất của hai ngôi sao điện ảnh hàng đầu: Elizabeth Taylor và Laurence Harvey năm 1960. Áo khoác lông chồn được cho là “biên niên sử của nước Mỹ”. Ngòi bút sinh động và thực tế của John O’Hara đã bóc trần đời sống xã hội Mỹ những năm 30 với những suy thoái về kinh tế và sự chao đảo về đạo đức.   Nhân vật chính của câu chuyện là Gloria Wandrous. Cha cô là một nhà hoá học đã chết vì phóng xạ, Gloria sống cùng mẹ và bác ruột tên là Vandanm. Tuổi thơ của Gloria diễn ra trong tình yêu thương, sự hy vọng của mẹ và bác trai. Nhưng bất hạnh bắt đầu đổ ập xuống cuộc đời của Gloria từ khi thiếu tá Boam - một người bạn quân ngũ của bác cô - sau một lần đến nhà chơi đã giở trò lạm dụng tình dục đối với cô. Giống như nhiều nạn nhân của bi kịch bị lạm dụng tình dục khác, cô bé 12 tuổi Gloria có những biểu hiện khác thường: hay rầu rĩ, hơi suy nhược. Cuộc đời Gloria thực sự rẽ sang một hướng khác. Cô buộc phải chuyển đến môi trường mới để tiếp tục sống và học tập những mong quên đi bi kịch của mình. Nhưng cô đến New York đúng thời điểm nước Mỹ đang trên đà đại suy thoái về kinh tế và đạo đức, lối sống của xã hội Mỹ đang bị chao đảo nặng nề. Gloria chỉ là nạn nhân, nhiều cô gái trẻ khác cũng chỉ là nạn nhân. Sau một lần nạo thai vì vui vẻ với chàng sinh viên trường Yale, Gloria dần dần trở thành người đàn bà sành sỏi chốn tình trường. Cho đến khi gặp Ligget, gã đàn ông đã có vợ và hai cô con gái, thì cô lún sâu hơn vào bùn lầy không thể rút chân ra được. Để thoả mãn đam mê nhục dục, Ligget đã xé toang váy áo của cô. Chính hành động lúc say tình này mà Ligget đã vô tình đẩy cô đến bi kịch khác: Bi kịch của kẻ ăn cắp chiếc áo khoác lông chồn đắt tiền, chiếc áo có giá trị tới 10.000 USD và được đóng bảo hiểm tới 4.000 USD. Chiếc áo khoác lông chồn bị mất, cuộc hôn nhân của gia đình Ligget bị dồn đến bên bờ vực thẳm. Nhưng có điều Ligget thấy kỳ lạ, ông vừa thấy ghê sợ Gloria nhưng lại thấy đam mê cô khủng khiếp. Điều này ông chỉ nhận ra khi phải đứng ở lằn ranh của cuộc hôn nhân đổ vỡ. Người đàn ông thứ hai của Gloria và luôn sát cánh bên cô là Eddie Brunner. Anh cũng nhiều lần muốn có được Gloria nhưng luôn bị ám ảnh rằng cô là mẫu đàn bà dễ dãi và từng chung đụng với nhiều người tình. Eddie Brunner được tác giả xây dựng như một người đàn ông tình nghĩa, một người bạn đích thực. Anh biết mọi bi kịch, sự đổ đốn của Gloria nhưng vẫn luôn âm thầm bảo vệ và xót thương cho cô. O’Hara đã tạo nên nhân vật của mình với sự chân thực đến táo bạo, sự thính nhạy độc đáo đã bóc trần thói xấu xa được che giấu, ẩn nấp dưới cái vẻ bề ngoài của một xã hội quay cuồng bởi Đại suy thoái. T.T. Review Mời các bạn mượn đọc sách Áo Khoác Lông Chồn của tác giả John O'Hara & Đinh Thị Thanh Vân (dịch).