Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gặp Gỡ Cuối Năm

“Gặp gỡ cuối năm” – đúng như cái tên của nó – kể về cuộc gặp gỡ tại một bữa tiệc tất niên. Chị Hoàng – chủ nhà, chủ trì – đã khiêm nhường thông báo trước là bữa tiệc “rất xoàng”, vì thế, mỗi vị khách có mặt cần phải góp một câu chuyện thật hay để bữa tiệc thêm phần hấp dẫn. Điểm qua các thực khách được mời dự tiệc tất niên, có thể khẳng định đây là cuộc gặp gỡ của trí thức thuộc nhiều thế hệ khác nhau, từng đứng ở các vị trí chính trị đối lập nhau. “Gặp gỡ cuối năm”, như vậy,  là ‘hội nghị bàn tròn’ của những người trí thức về các vấn đề xã hội. Mỗi nhân vật đề cập đến một vấn đề khác nhau nhưng tất cả đều hướng đến trả lời câu hỏi: Phải sống thế nào trong năm mới, trong tương lai khi năm cũ, quá khứ đã khép lại? Qua cuộc gặp gỡ, đối thoại của các nhân vật, người đọc được phản tỉnh: Nên sống giản dị, thuận theo tự nhiên, không tham lam, không vị kỉ, nên hết sức tỉnh táo để không lầm đường lạc lối, không xa rời mục tiêu chung của dân tộc, nên là một lực đẩy chứ đừng là lực cản trong hành trình đi lên của đất nước…   Về tác giả: Nhà văn Nguyễn Khải (1930 - 2008) là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà văn trưởng thành sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Các sáng tác của ông thường gắn liền với những bước chuyển mình của đất nước, thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, vì thế ông được gọi là nhà văn thời sự. Nhà văn Nguyễn Khải đã nhận rất nhiều giải thưởng, trong đó có Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1982) cho tiểu thuyết "Gặp gỡ cuối năm"; Năm 2000, ông vinh dự được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt II. *** Mỗi dịp tết đến xuân về, đọc lại Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải, độc giả vẫn “gặp gỡ” nhiều điều thú vị. Tiểu thuyết được viết năm 1981, cách đây đã 37 năm, trong một sinh quyển ít nhiều khác biệt. Nhưng những vấn đề đặt ra trong truyện vẫn chưa cũ, vẫn có sức quyến rũ đối với người đọc hôm nay.   Gặp gỡ cuối năm – đúng như cái tên của nó – kể về cuộc gặp gỡ tại một bữa tiệc tất niên. Chị Hoàng – chủ nhà, chủ trì – đã khiêm nhường thông báo trước là bữa tiệc “rất xoàng”, vì thế, mỗi vị khách có mặt cần phải góp một câu chuyện thật hay để bữa tiệc thêm phần hấp dẫn. Bà chủ nhà bí ẩn này như đang muốn lắng nghe, đồng thời muốn bày tỏ một điều gì đó quan trọng khi năm cũ kết thúc, năm mới bắt đầu.   Cuộc gặp gỡ tiến diễn hết sức tự nhiên. Việt – nhà văn quân đội, người kể chuyện – đến sớm nhất. Sau Việt là anh Quý – luật sư, từng là viên chức của bộ ngoại giao ở chế độ cũ. Anh từng rất thành công trong sự nghiệp nhưng rồi anh bị rơi vào mặc cảm thất bại. Sau bao nhiêu trải nghiệm cuộc sống, bây giờ anh muốn né tránh mọi chuyện, cười nói như một kẻ vô tâm. Nhưng đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, trong thâm tâm anh là cả “một nỗi niềm, một chí hướng, một nhớ tiếc nào đó”. Đến thứ ba là vợ chồng anh Hảo. Anh Hảo là luật sư được đào tạo ở Pháp, từng làm tri huyện nhưng sớm treo ấn từ quan để đi theo kháng chiến, từng được giao giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền cách mạng. Là một “công tử” đi làm cách mạng, có lúc anh được tin tưởng, có lúc bị nghi ngờ nhưng lúc nào anh cũng sống đúng là mình, “dám nói to những điều anh cho là đúng”. Người đến thứ tư là anh Đại, đã tám mươi tuổi nhưng vẫn rất galant và hóm hỉnh. Anh trước kia là kĩ sư hóa học được đào tạo ở Đức, không theo khuynh hướng chính trị nào nhưng ủng hộ nhiệt tình tất cả các phong trào yêu nước. Anh bị bắt, bị tù đày, bị mất hết gia sản cũng chỉ vì yêu nước. Đến thứ năm là anh Chương và Bình. Anh Chương là người có hai bằng tiến sĩ, một luật, một văn chương. Anh từng giữ các chức vụ quan trọng: viện trưởng một viện đại học, bộ trưởng quốc gia giáo dục, làm thượng nghị sĩ trong nhóm đối lập. Sau khi hòa bình được tái lập anh phải đi cải tạo rồi trở về làm một người dân thường, tâm tính đã có nhiều thay đổi. Còn Bình thì trẻ, đẹp trai, lịch thiệp, năng động, mới tốt nghiệp đại học vài năm nhưng đã là giám đốc một công ti. Theo nhận xét của anh Hoàng thì Bình “lịch sự, tinh tế như Pháp mà lại nhanh chóng, thiết thực như Mĩ”. Đến thứ sáu là Quân. Dưới cái vỏ bên ngoài là một nhà báo quốc tế, Quân tham gia công tác tình báo đã nhiều năm. Từng gặp rất nhiều loại người, phải đối diện với rất nhiều hiểm nguy nhưng Quân vẫn một lòng vì lí tưởng cách mạng. Quan điểm sống của Quân rất rõ ràng: “Quốc gia hữu sự, kẻ thất phu còn phải gánh trách nhiệm huống hồ là anh trí thức”, “Làm người đã khó, làm trí thức lại càng khó hơn. Hàng ngày phải lựa chọn, từng việc phải lựa chọn, lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời”.   Điểm qua các thực khách được mời dự tiệc tất niên, có thể khẳng định đây là cuộc gặp gỡ của trí thức thuộc nhiều thế hệ khác nhau, từng đứng ở các vị trí chính trị đối lập nhau. Sự góp mặt của các nhân vật có cuộc đời không hề “nhạt nhẽo” này dự báo câu chuyện đêm giao thừa sẽ có nhiều bất ngờ thú vị.   Cuộc gặp gỡ diễn ra trong không khí thân mật ấm cúng và đầy cởi mở như ý của chủ nhà. Chỉ trong thời gian một bữa tiệc, bao nhiêu câu chuyện hấp dẫn đã lần lượt được kể ra, chuyện xưa có, chuyện nay có, chuyện kinh tế, chính trị, tôn giáo, văn hóa, khoa học… đều có. Sau mỗi câu chuyện, người dự tiệc lại đưa ra những lời bàn thể hiện quan điểm cá nhân của mình. Hình như trong lòng mỗi người đều ăm ắp tâm sự, chỉ mong có cơ hội để được phơi trải, giãi bày. Từ câu chuyện về cách ứng xử kì quặc để thể hiện khí tiết của Nguyễn Thế Truyền, Quân cho rằng đó là kiểu “trí thức trùm chăn” và anh nêu rõ quan điểm của mình về cách hành xử cần có của người trí thức khi đất nước lâm nguy. Câu chuyện về “chú Phùng” và các mối quan hệ phức tạp đầy bất ngờ của nhân vật này với nhân viên C.I.A thể hiện nhận định riêng của Quân về các mối quan hệ phức tạp của các nước trong chiến tranh Việt Nam. Vấn đề lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trong làm ăn kinh tế, mối liên hệ giữa miếng cơm manh áo và lí tưởng sống, sức mạnh của đồng tiền… được Bình nói đến bằng những câu chuyện đời thường hết sức sinh động. Rồi câu chuyện về những ngày sống ở Mã Đảo của anh Đại. Thoạt đầu tưởng chỉ là một câu chuyện “nhạt” của một ông già đã mất hết sự minh mẫn, nào ngờ chứa trong đó là nhiều câu chuyện về âm mưu, thủ đoạn và sự giành giật đến kinh hoàng. Rồi câu chuyện về thiền của anh Chương, anh Hảo cũng được mọi người hưởng ứng sôi nổi. Đâu chỉ là chuyện thiền, đó còn là chuyện nhận thức cuộc sống, lựa chọn cách sống, tâm thế sống trước những biến động. Câu chuyện tử vi số mệnh cũng thu hút sự quan tâm của cả người già và người trẻ. Từ chuyện tử vi, vai trò của con người trong việc chủ động hoán cải số mệnh đã được củng cố. Anh Chương không ngần ngại bày tỏ nỗi đau đời, sự mệt mỏi của bản thân trong cảnh ngộ hiện tại. Câu chuyện tranh giành quyền lực và sự chi phối của đồng tiền đến việc hình thành đại cục trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước kia được anh Chương và Quân nói đến một cách say sưa. Anh Đại và Bình quan tâm đến mối quan hệ giữa đồng tiền và nhân cách… Cứ thế, mỗi câu chuyện hé mở một điều mới mẻ về sự thật trong quá khứ, sự thật đang diễn ra và cuộc đối thoại bình đẳng cất lên những tiếng nói cá nhân sâu sắc.   Gặp gỡ cuối năm, như vậy, là “hội nghị bàn tròn” của những người trí thức về các vấn đề xã hội. Trong “hội nghị” này không có sự phân biệt tuổi tác, vai vế, tư cách chính trị, mỗi người đều được quyền nói thẳng nói thật những nhận thức, quan điểm cá nhân của mình. Tác phẩm ra đời năm năm sau khi chiến tranh kết thúc. Đây là lúc những khách mời nhìn lại lịch sử, nhìn lại chính mình sau độ lùi thời gian cần thiết để rút ra bài học cho hiện tại và tương lai. Quân và Quý có chung nhận định, không ai có thể đứng ngoài chính trị, ngay cả những người nói là họ không quan tâm đến chính trị thì “không quan tâm” đã là một thái độ chính trị rồi. Vì thế mà mỗi người, đặc biệt là mỗi trí thức, phải hết sức thận trọng, “từng ngày phải lựa chọn, từng việc phải lựa chọn”, “lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời”. Anh Chương – người một thời lầm lỡ – khẳng định, đã là trí thức thì không ai bán nước cả, anh Hảo thành công do đi đúng đường, còn mình thất bại là do buổi đầu lựa chọn đường đi không đúng. Với anh Đại và Bình thì con người cần có lòng tự trọng. Khi đất nước có ngoại bang xâm lược, lòng tự trọng thể hiện ở việc đóng góp sức người sức của cho đất nước, ở thái độ bất hợp tác với kẻ thù; còn thời bình, lòng tự trọng thể hiện ở việc chiến thắng những ham muốn vật chất của cá nhân, dám từ chối quyền lợi cá nhân khi quyền lợi ấy mâu thuẫn với lợi ích tập thể. Bình quyết liệt hơn khi nói tới vấn đề đồng tiền…   Mỗi nhân vật đề cập đến một vấn đề khác nhau nhưng tất cả đều hướng đến trả lời câu hỏi: Phải sống thế nào trong năm mới, trong tương lai khi năm cũ, quá khứ đã khép lại? Anh Quý nguyện sẽ không vì “mưu cái lợi riêng mà nỡ phá phách sự nghiệp chung”. Anh Chương chỉ mong muốn được trở về với gia đình, làm một người chồng, người cha tốt. Anh Hảo vẫn tiếp tục chọn cách sống thuận theo tự nhiên bởi anh đã tìm thấy ở đó sự an lạc. Bình khẳng định, nếu người trẻ để sức mạnh đồng tiền cám dỗ thì sẽ mất tất cả. Quân mong muốn được là “một cái gì đó trong khoảnh khắc ta đang sống, là một sức đẩy dẫu là yếu ớt vào cái dòng lưu chuyển chung”. Chị Hoàng tỉ mẩn chuẩn bị bữa tiệc mà mỗi món là một món khoái khẩu đối với từng khách mời; chị còn chọn mặc bộ quần áo đẹp nhất, sang nhất trong thời khắc chuyển giao năm cũ và năm mới. Chị Hảo, chị Bơ cũng góp thêm mấy món ăn thật tết, thật truyền thống mà mình kì công làm để mời mọi người… Dù mỗi người mang một nỗi niềm, một tâm sự riêng nhưng đến giờ phút giao thừa, không ai bảo ai, tất cả cùng hân hoan nâng li chúc mừng năm mới. Qua cuộc gặp gỡ, đối thoại của các nhân vật, người đọc được phản tỉnh: Nên sống giản dị, thuận theo tự nhiên, không tham lam, không vị kỉ, nên hết sức tỉnh táo để không lầm đường lạc lối, không xa rời mục tiêu chung của dân tộc, nên là một lực đẩy chứ đừng là lực cản trong hành trình đi lên của đất nước…   Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải đã vượt lên giới hạn của buổi tiệc tất niên thông thường khi năm hết tết đến của một gia đình để trở thành cuộc gặp gỡ mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đó là cuộc gặp gỡ cần thiết của các thế hệ, của những trải nghiệm sống, những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong quá khứ để có thêm bài học cần thiết cho hiện tại và tương lai. Tác phẩm này cứ vẫn tươi mới chừng nào con người không thôi thiện chí và khát vọng làm mới mình, làm mới cuộc đời. *** T ôi là người đến đầu tiên trong đám khách được bà chị tôi mời tới ăn bữa cơm cuối năm. Theo chị nói, Tết này chị không ăn Tết, chỉ làm một mâm cơm cúng tối Ba mươi, ngày mồng Một đóng cửa không tiếp khách, ngày mồng Hai xoa mạt chược, ngày mồng Ba ngủ, từ ngày Bốn trở ra mọi sự lại như năm cũ. Cũng chẳng có năm cũ và năm mới, ngày hôm qua và ngày mai, ngày ngày đều giống nhau, người người thì tàn tạ, tiền bạc hiếm hoi dần, tin vui thưa vắng dần, nhưng vẫn cứ phải sống, chẳng có ai chết, họ nội họ ngoại suốt năm năm nay không có một ai chết. Người bảy mươi sắp sang tuổi bảy mốt, người tám mươi sắp sang tuổi tám mốt, như vẫn còn muốn sống thêm cả chục năm nữa, lạ thật, quái quỷ thật, trêu chọc nhau thật. Tôi nói: - Nhưng sang ngày mai chị vẫn cứ phải thêm một tuổi, ví như năm nay chị sáu mươi, qua đêm nay tuổi chỉ sẽ là sáu mươi mốt. Chị Hoàng vội xua tay: - Không khiến nịnh, nỡm ạ. Năm nay tao sáu tư, sang năm đã là sáu nhăm. - Đấy nhé, vẫn cứ là "sang năm". - Ừ, ừ, có ai bảo ngày hôm nay không là ngày cuối cùng của một năm đâu. Nhưng ngày mai là ngày gì? Là ngày đầu tiên của một năm mới à? Với các anh thì phải, nhưng với tôi vẫn là một năm cũ, mãi mãi là một năm cũ, mỗi năm mỗi cũ đi! Mỗi năm mỗi cũ đi, có lẽ đúng, với chị là đúng. Người chị mập hơn, các thớ thịt trên mặt như lỏng ra, chảy dần xuống. Tóc chưa bạc nhưng thưa nhiều, nhìn rõ cả da đầu. Cũng là cũ rồi, mỗi năm mỗi cũ, tôi thầm nhắc lại rồi bật cười: - Bữa cơm tất niên gì mà lạ, không có người mới ra, chỉ có những người cũ đi. - Mày thì sao? - Cũng đang cũ dần đi. - Năm mươi ngoài chỉ có cũ đi chứ mới ra thế nào được. Tôi trách: - Một lũ người ọp ẹp, cũ kỹ ngồi cạnh nhau, ngắm nhìn nhau để đón hy vọng một năm mới! Cái trò chơi độc ác này chắc là phát minh của riêng chị. Chị Hoàng nhìn chăm chú những ngón tay mới sơn móng đỏ chót, cười nhạc không nói gì. Bà chủ đã tiều tụy tang thương, mà cái nơi để trú nấp, để vào ra cũng tả tơi, lở lói, tan nát, là phòng chờ của nhà ga, là quán trọ của tỉnh lẻ, chứ không thể là nơi của một gia đình. Từ hai năm nay chỉ có hai vợ chồng già sống với nhau tại số nhà này, còn con trai, con dâu và các cháu nội đã lần lượt ra nước ngoài bằng nhiều đường bí mật khác nhau, phiêu bạt tại nhiều nơi nhưng đều bình an cả. Người ở lại sống để chờ đợi đến lượt mình cũng sẽ ra đi, tất nhiên là phải đi thật đàng hoàng, có giấy xuất cảnh và nhập cảnh, có tiễn và có đón. Nhưng là bao giờ? Là tháng sau? Là năm tới? Cái đó còn tùy ở sự may rủi, ở mệnh trời. Lại mệnh trời! Bà con trong này mười người có đến chín tin ở mệnh trời. Ông đồng bà cốt nở như sâu. Trong các khoản tiền chi hàng tháng có một khoản chi cho việc xem tướng số, "mua hy vọng" người ta bảo thế, không có hy vọng thì sống làm sao? Ông anh tôi là một trường hợp ngoại lệ. Ông là một viên chức gương mẫu, là cái đinh, cái vít của một guồng máy hành chính tinh xảo, là giáo sư trường Quốc gia Hành chánh thời chế độ cũ. Tóm lại, là người chỉ tin ở những gì trong phạm vi hiểu biết và tính toán của chính mình, trong tầm tay với của chính mình. Thậm chí đến sự buồn, vui, mừng, giận cũng có thể tự kiềm chế được. Một gương mặt bất động, một dáng đi lặng lẽ, tiếp chuyện ai thì nghe và nhìn, chỉ nói khi rất cần, tiếp nhận chứ không ban phát, thi hành chứ không bàn luận, cần sự chuẩn xác chứ không cần sự bay bướm, là người rất hiền và rất lành như nhận xét của cả họ, là "type" viên chức hoàn hảo nhất, theo nhận xét của riêng tôi. - Anh đi đâu nhỉ? - tôi hỏi - Chiều Ba mươi vẫn có người mời xoa à? - Đi làm đẹp, hớt tóc, cạo râu, đón xuân mới. Tôi cười ngờ vực: - Ồ, ông già còn lạc quan nhỉ? - Cũng buồn rồi, nóng ruột lắm rồi, có bữa chị để ý thấy mặt anh đỏ bừng, hai bàn tay nắm chặt lại nện khe khẽ lên tay ghế. Muốn điên lắm đấy. - Còn chị? Chị Hoàng nhìn tôi, mắt nhìn như dại đi: - Chị hả? Chị đã trải qua các thời kỳ. Bây giờ thì trống rỗng, hoàn toàn trống rỗng. Có thể, chị nói là có thể lát nữa, trước đông đủ mọi người chị sẽ nói rõ cái ý định sắp tới của chị. Tôi vẫn cười cợt: - Chị có thể cho em biết trước được không? Chị vẫn nhìn tôi chằm chặp: - Không, không thể cho biết trước được. Tối nay đối với anh chị sẽ là một tối không bình thường. Chuyện gì thế nhỉ? Chuyện gì có vẻ nghiêm trọng đến thế nhỉ? Nhưng phải đợi lát nữa. Những ai sẽ có mặt tại nhà này trong lát nữa? o O o Người khách đến sau tôi là anh Quý, xuất thân luật sư, sau làm viên chức của Bộ ngoại giao các chính quyền của chế độ cũ. Một nhà ngoại giao cũng có tên tuổi, nghe người ta bảo thế, bạn thân của cả hai anh chị tôi từ vài chục năm nay và hiện giờ là khách xoa mạt chược những ngày chẵn của gia đình. Thoạt làm quen tôi không ưa anh lắm. Anh cười đùa như một kẻ vô tâm, tránh né mọi sự bình phẩm và hoàn toàn không có ý kiến gì về thời cuộc. Mỗi lần gặp tôi chỉ trò chuyện với anh qua loa, vì cái ông già lễ phép và lãnh đạm chẳng có gì buộc tôi phải chú ý. Nhưng có một bận nghe anh đọc và bình một đoạn thơ trong "Ly Tao" của Khuất Nguyên, tôi mới nhận ra mình đã hiểu lầm người. Cái ruột trong rất khác với cái vỏ ngoài. Anh cũng có một nỗi niềm, một chí hướng, một nhớ tiếc nào đó. Bữa ấy tôi hết lời tán tụng cái giọng đọc thơ của anh vì không tiện đả động tới cái khác. Nhưng chính anh lại gợi: "Cậu chỉ khen cái giọng thôi à?". Tôi nóng mặt: "à, có cả cái khác nữa chứ, cái bên trong, cái tâm tư của anh!". Anh cười ha hả: "Tôi nhìn vào cậu để đọc đoạn thơ này, cậu phải thế nào tôi mới đọc được hay đến thế chứ?" Bà chị tôi nói dằn dỗi: "Còn tôi chỉ là cái túi thịt trong con mắt các người, có phải không?". Anh vẫn cười: "Thế bà còn muốn gì hơn nào". Họ vẫn ăn nói với nhau chớt nhả, suồng sả như vậy, nhưng chẳng ai giận ai cả, bè bạn với nhau những mấy chục năm mà. Rồi anh khoe cũng có làm nhiều thơ lắm, làm cho mình chứ không dám đọc cho ai nghe. "Cái tâm mình thì thật mà chữ nghĩa sao nó cũ kỹ, khuôn sáo thế. Thì ra, cái sáo của nghề ngoại giao đã thấm nhiễm vào tôi quá lâu rồi", anh tự thú nhận như vậy. Mời các bạn đón đọc Gặp Gỡ Cuối Năm của tác giả Nguyễn Khải.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nếu Một Đêm Đông Có Người Lữ Khách - Italo Calvino
Một cái kết mở thì rất nhiều nhà văn giỏi đã làm, nhưng một cái mở không tiến lên, thậm chí không kết, thì hình như chỉ một người như Italo Calvino mới dám biến thành trò chơi tiểu thuyết của mình. Làm cho một cuốn tiểu thuyết "đi tới" trong sự tiến triển hợp lý và đẹp đã là khó, nhưng giữ cho một cuốn tiểu thuyết hoàn chỉnh đứng yên ở ngưỡng bắt đầu còn khó hơn nhiều lần. Nếu một đêm đông có người lữ khách nhốt câu chuyện ngập ngừng trong vẻ tươi mới của sự khởi đầu trong suốt mấy trăm trang sách, buộc người đọc liên tục hào hứng với không ngớt những bước chân đầu tiên, dự cảm đầu tiên, đoán định đầu tiên. Cuốn tiểu thuyết từ khi ra đời đã giữ chân bao độc giả lòng vui sướng thỏa mãn ở ngay điểm xuất phát, và cũng là nguồn khai thác dồi dào cho không ít lý thuyết gia văn học nhìn thấy ở đây một trò chơi tài tình và một suy tư sâu sắc về bản chất của tiểu thuyết và văn chương. *** Đây là một tác phẩm của những sự khởi đầu, là một tập hợp bao gồm mười sự khởi đầu của mười cuốn tiểu thuyết khác nhau mà bạn không bao giờ biết được phần kết. Mười mảnh rời này được nối lại với nhau thông qua một câu chuyện mà trong đó bạn như là một người lữ khách đang làm cái công cuộc đi tìm một tác phẩm hoàn chỉnh, một văn bản thực thụ mà nó có vẻ như đang lẩn khuất đâu đó. Bằng phong cách hậu hiện đại, Italo Calvino đã phá vỡ mọi quy củ, mọi nét quen thuộc có được trong một cuốn tiểu thuyết truyền thống. Bên trong cuốn tiểu thuyết này lại xuất hiện những cuốn tiểu thuyết khác, rồi lần lượt mỗi cuốn tiểu thuyết xuất hiện bên trong đó lại bị ngắt quãng, việc ngắt quãng đó có chức năng như là một lối ẩn dụ mở rộng cho cái mỏng manh của sự bỏ lửng trong giao tiếp văn chương.   “Nếu một đêm đông có người lữ khách” là một tác phẩm hư cấu, nhưng lại có lối hành văn như thể nó là tập hợp của những bài tiểu luận. Thông qua một câu chuyện hư cấu về những câu chuyện hư cấu khác, Italo Calvino còn lồng vào đó những đoạn triết lí thâm trầm về sự đọc, sự viết, về vai trò của độc giả, của tác giả, và của sách. Ở đây, cái lằn ranh phân chia giữa độc giả, tác giả, nhân vật gần như bị xoá bỏ, người đọc cũng chính là nhân vật chính, còn tác giả cũng chính là người đọc. Có thể nói tác phẩm “Nếu một đêm đông có người lữ khách” này của Italo Calvino là một ví dụ tiêu biểu cho ý niệm “tác phẩm mở” mà Umberto Eco đã nêu ra vào năm 1962 trong tác phẩm Opera aperta (Tác phẩm mở) của mình, rằng những thông điệp trong những tác phẩm hoàn toàn mập mờ và những người thưởng thức tác phẩm, tức những người đọc, phải tham gia một cách chủ động hơn vào quá trình diễn giải và sáng tạo. *** Italo Calvino (1923–1985) tại Santiago de Las Vegas (Cuba), là nhà văn hậu hiện đại người Ý. Ông là con của hai nhà thực vật học Mario Calvino và Evelina Mameli (cháu của Goffredo Mameli) và em trai của Floriano Calvino, nhà địa chất học nổi tiếng. Khi còn trẻ, ông chuyển đến quê hương nước Ý và ở đấy gần suốt đời. Italo Calvino qua đời ngày 19 tháng 9 năm 1985. Tác phẩm: Nam Tước Trên Cây - Italo Calvino Tử Tước Chẻ Đôi - Italo Calvino Hiệp Sĩ Không Hiện Hữu - Italo Calvino Những thành phố vô hình Nếu Một Đêm Đông Có Người Lữ Khách Giải thưởng: Năm 1976 ông được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu.   Mời các bạn đón đọc Nếu Một Đêm Đông Có Người Lữ Khách của tác giả Italo Calvino.
Lời Hồi Đáp 1994 - Lee Woo Jung & Oh Seung Hee
Lời hồi đáp 1994 là cuốn sách đặc biệt dành tặng những người đã từng phải rời gia đình đến một nơi xa, tự mình bắt đầu một hành trình mới.   Nằm trong series Reply nổi tiếng Hàn Quốc cùng với Lời hồi đáp 1997, tiểu thuyết Lời hồi đáp 1994 do chính biên kịch Lee Woo Jung và Oh Seung Hee chấp bút tiếp tục được bạn đọc đón nhận nhiệt tình. Trọng tâm cuốn sách xoay quanh cuộc sống của một nhóm sinh viên lên thành phố học đại học. Duyên số đã đưa tất cả về ở cùng một nhà trọ. Lần đầu tiên rời quê hương mình đã gắn bó từ khi sinh ra đến một nơi hoàn toàn mới, là cả một hành trình hòa nhập đầy khó khăn và thử thách của những cô cậu tỉnh lẻ này.  Việc phải đi học hay đi làm xa gia đình là câu chuyện của nhiều người trẻ hiện nay. Lời hồi đáp 1994 chính là món quà đặc biệt dành tặng những con người dùng cả thanh xuân của mình để xây dựng một tương lai mới tốt đẹp hơn. Hành trang họ mang theo không chỉ có đam mê, tuổi trẻ và nhiệt huyết mà còn có hi vọng và niềm tin của người thân ở quê nhà. Dù nhiều chông gai và vất vả thì những ngày tháng đó luôn là thời gian tươi đẹp và đầy sức sống nhất. Đi qua rồi nhìn lại, ta đều sẽ bất giác mỉm cười: ai cũng từng có một thời tuổi trẻ như thế! *** Tháng Chín năm 2013, phường Sangam, quận Mapo, thành phố Seoul.   Phố lên đèn. Bóng tối lẩn khuất giữa những ánh sáng rực rỡ phát ra từ các cửa hàng cùng những biển hiệu quảng cáo liên tục nhấp nháy. Những tòa nhà sáng rực, những cây cầu vượt đông nghịt xe hơi, đoàn người liên tục di chuyển trên đường phố. Bóng tối như thể bị đè sâu xuống mặt đất, để những cái phao người và xe nổi lềnh bềnh bên trên. Có lẽ phải lấy giấy vẽ đè xuống, rồi dùng bút chì tô thật mạnh lên trên, thì những mảng hình khối loang lổ của thành phố mới dần dần hiện hình.   Bức phác họa ấy chính là đêm Seoul. Ở một nơi nào đó, một ngày mới đang bắt đầu, một tình yêu đang nảy nở, một thời khắc huy hoàng đang được mong chờ. Chẳng biết từ lúc nào trong quãng thời gian mười chín năm sống ở Seoul, Na Jung không còn cảm thấy bất kỳ điều gì lạ lẫm, mới mẻ ở nơi đây nữa. Từ nãy đến giờ, Na Jung bày đầy ra nhà những thùng các tông to tướng, mải miết tìm kiếm cái gì đó. Bên ngoài cửa sổ, cuộc sống thành phố quen thuộc vẫn đang trôi đi.   “Cậu tìm cái gì thế?”   Yoon Jin vừa hỏi vừa quệt ngón tay lên giá sách. Có đúng là nhà mới chuyển đến không đấy? Ôi mẹ ơi, không có lấy một tí bụi nào. Sung Na Jung vẫn y như ngày nào, sạch sẽ gọn gàng đến phát sợ. Yoon Jin ngắm một lượt giá sách, le lưỡi ngạc nhiên.   “Ôi, cậu vẫn còn giữ cái này cơ à?”   Thứ mà Yoon Jin vừa lôi từ cuối giá sách ra là cuốn album của đội bóng rổ trường Đại học Yonsei. Yoon Jin không giấu nổi nụ cười mừng rỡ. Trời đất ơi! Phải ngắm các cầu thủ một tí mới được. Trẻ quá, trẻ quá đi thôi, đẹp hơn cả hoa!   “Xem cẩn thận đừng có để dính nước miếng vào. Đồ quý hiếm nhà mình đấy.”   Đang nói dở, Na Jung lục tung cái thùng giấy, bàn tay chợt dừng sững lại.   “Tìm thấy rồi!”   Na Jung hét lên phấn khích khiến Yoon Jin phải quay lại nhìn. Đấy là cái gì? Na Jung lôi từ trong hộp ra một cuộn băng VHS. Có tiếng mở cửa. Sook Sook nói vọng vào, “Em ra ngoài một tí”, rồi đi thẳng ra cửa.   “Úi chà chà. Sook Sook lớn quá rồi nhỉ. Mới ngày nào sự xuất hiện của thằng bé còn làm cả nhà một phen bất ngờ. Nó học có giỏi không?”   Yoon Jin đưa mắt nhìn theo cậu bé mặc đồng phục.   “Không, học dốt lắm. Càng lớn càng khó bảo, lại còn bắt đầu mọc râu, kinh chết đi được.”   Na Jung trả lời ngắn gọn, vừa lắc đầu vừa đi đến ngồi trước chiếc ti vi treo trên tường.   “Ôỉ, lâu lắm mới thấy cuộn phim băng đen như thế này đấy. Nhưng video gì thế? Đừng nói là cuộn băng hôm cưới cậu đấy nhé?”   Na Jung ra điệu bộ dễ thương gật đầu cười.   “Gớm quá. Cậu vẫn còn là cô dâu mới cưới đấy à? Bây giờ mà vẫn còn xem cái đấy à?”   “Đâu mà. Mình cứ tưởng làm mất rồi. Hôm trước dọn nhà tự nhiên tìm thấy. Hồi đấy xấu hổ có dám xem đâu. Hôm nay mới bật lên lần đầu tiên đây.”   Na Jung cho cuộn băng vào đầu máy video. Tìm thấy cuộn băng đã bị quên lãng từ lâu giữa cuộc sống bận rộn hối hả khiến cô thực sự vui mừng như thể gặp lại người bạn cũ.   “Nhất định phải xem đúng hôm về nhà mới thế này à?”   “Thì làm sao. Mọi người cùng xem lại mình ngày xưa cũng vui mà.”   “Chắc trông cậu phải kinh nhất luôn đấy.”   Na Jung đang định bấm nút play chợt dừng lại, quay lưng nhìn Yoon Jin. Kiểu trang điểm cô dâu môi đỏ chót quê một cục, nụ cười gượng gạo cứng đờ, đôi môi run rẩy vì căng thẳng trước máy quay. Yoon Jin không thể nào quên được cô dâu Na Jung ngày ấy.   “Sung Na Jung hồi đấy mặc váy cưới kiểu Park Ju Mi, lại còn đội cả vương miện nữa cơ mà.”   “Hay thôi không xem nữa?”   Na Jung và Yoon Jin nhìn nhau, cả hai đều có chung một suy nghĩ. Bỗng điện thoại của Na Jung rung lên. Yoon Jin ngắm nhìn Na Jung giải thích trôi chảy qua điện thoại, giờ này thì đường nào tắc, đường nào đi nhanh. Giọng địa phương vùng Gyeongsangdo cũng hoàn toàn biến mất, thay vào đó là tiếng thành phố chuẩn mực, thành thạo. Đến cả đoạn dặn mua café, nhớ bỏ hạnh nhân ra khỏi sữa chua blueberry, rồi cho thêm hai thìa espresso, tiếng Anh như gió, nghe cũng thật là “Seoul”.   “Na Jung nhà mình thành người thành phố xịn rồi. Hơi bị ghen tị đấy nhé. Đường nào cũng biết, tên café cũng thuộc vanh vách, gọi không cần phải nghĩ. Thế này thì ai mà biết được đây lại là gái quê Masan cơ chứ.”   Na Jung đặt điện thoại xuống, thở một hơi dài thườn thượt.   “Bạn à. Năm nay là năm thứ mười chín mình sống ở Seoul rồi đấy. Một nửa cuộc đời sống ở thành phố, như thế chưa đủ để gọi là người thành phố hả?”   Nói đoạn, Na Jung cố tình chuyển sang giọng nhà quê.   “Cũng phải. So với hồi đó thì bây giờ hoàn toàn là người Seoul rồi.”   Yoon Jin hất cằm chỉ về hướng ti vi. Cuộn băng lễ cưới Na Jung do Yoon Jin quay bắt đầu chạy.   ***   Thứ Bảy ngày 22 tháng Sáu năm 2002. Chiếc máy quay đang rung lắc loạn xạ trong tay Yoon Jin dần dần được giữ ổn định lại, hình ảnh cô dâu Na Jung hiện ra. Trước khuôn mặt không thể giấu nổi vẻ đờ đẫn sau một đêm hồi hộp đến mất ngủ của cô dâu, giọng địa phương vùng Jeonlado nặng trình trịch của Yoon Jin vang lên.   “Na Jung à, cơ hội cuối cùng rồi đấy. Bỏ trốn đi. Chỉ cần bước ra ngoài cánh cửa này thôi là thế giới tự do sẽ lại về với cậu. ”   “Bây giờ là lúc nói như thế với cô dâu đấy à. Cậu định lấy chồng đẻ con sống hạnh phúc để một mình mình thành bà già cô đơn hả?”   “Cậu mà lấy chồng bây giờ là không đi Jeonju gặp anh Lee Sang Min được đâu.”   Từ trong phòng chờ của cô dâu, Na Jung nở nụ cười gượng gạo hướng ra ngoài chào khách, rồi nghiến chặt răng gầm ghè.   “Mình đã xin phép chú rể rồi. Chú rể bảo trận đấu vào ngày nghỉ sẽ cho mình đi xem.”   “Trước khi cưới thì nói thế nào chả được. Thế mà cậu cũng tin à?”   “Ờ. Tin. Cậu không tin thì đi mà hỏi chú rể đứng đằng sau cậu kia kìa.”   Từ lúc nào Na Jung đã chuyển ánh nhìn ra phía sau vai Yoon Jin. Gương mặt cô không giấu nổi sự rạng rỡ xen lẫn ngại ngùng. Chú rể dường như cũng cảm nhận được tình cảm của cô dâu dành cho mình. Nụ cười bẽn lẽn khiến Na Jung trở nên xinh đẹp hơn bất cứ lúc nào. Mặc dù toàn nói đùa từ nãy đến giờ, nhưng Yoon Jin hiểu ngay chính giây phút này, Na Jung đang hạnh phúc đến nhường nào.   Lễ cưới của Na Jung. Dù đã mười năm trôi qua nhưng trong trí nhớ của Yoon Jin, hình ảnh ngày hôm ấy vẫn rực rỡ, ấm áp. Ký ức về những ngày đầu họ gặp nhau cũng dần dần hiển hiện rõ ràng. Từng hình ảnh, từng kỷ niệm về những ngày thanh xuân gan góc, vui vẻ, và ngờ nghệch tràn lên sống động như câu chuyện của ngày hôm qua. Lâu lắm rồi Yoon Jin mới ngồi hồi tưởng lại chuyện ngày xưa như thế này. Quãng thời gian của tình yêu trong sáng và những tổn thương vụng về. Quãng thời gian khó khăn và hạnh phúc mà ai cũng phải trải qua trong đời.   Năm 1994. Khi đó, chúng tôi mới hai mươi tuổi.   Mời các bạn đón đọc Lời Hồi Đáp 1994 của tác giả Lee Woo Jung & Oh Seung Hee.
Ghềnh V - Nam Dao
“Ghềnh V” là câu chuyện của những con người đang trên hành trình đi tìm “cái Đẹp cứu rỗi”. Nhân vật Tôi từ bỏ công việc của một Giám đốc Kỹ thuật để thực hiện ước mơ được đi và được viết. Đam mê viết và nhu cầu tìm hiểu về cội nguồn cái Đẹp đã dẫn dắt Tôi tìm đến Ghềnh V -“Nơi để Chết trong cái Đẹp cứu rỗi” dù phải vượt qua rất nhiều khó khăn, thử thách “muốn hiểu thì cứ đi, nhưng đi là khó có bước về, và nếu về, người đi và kẻ về sẽ chẳng thể là một nữa.” Mai - một cô gái hiền lành, hiếu thảo nhưng cuộc đời lại không ít truân chuyên. Cô tìm đến ghềnh V những mong chuộc lại tội bất hiếu của mình. Rồi câu chuyện tình éo le giữa bà chủ quán và sư thầy… Họ gặp nhau ở ghềnh V, giãi bày những tâm tư, hé lộ những bí mật… để cuối cùng nhận ra ngọn nguồn của sự cứu rỗi: “ Em biết… Lời không cứu rỗi. Tình yêu cũng không cứu rỗi! Nhưng con người vẫn sống, lắm khi sống trong những hoàn cảnh thật ngặt nghèo! Đời sống, tự thân đã là cứu rỗi những con người đang sống rồi!” “Ghềnh V” mang lại cho người đọc không ít suy tư và chiêm nghiệm về bản thân hay cuộc sống quanh mình. Hãy sống, cảm nhận, và hòa nhịp cùng những yêu thương để mang đến cho đời cái Đẹp trọn vẹn nhất. *** Nam Dao tên thật là Nguyễn Mạnh Hùng. Hiện ông là giáo sư Kinh tế của trường Đại học Toronto, Canada. Ông tham gia giảng dạy tại nhiều trường Đại học danh tiếng trên thế giới như: Havard, Paris – Sorbonne, Toulouse, Montpellier, Paris10, CEPREMAP, National Australian University, University of New Southwales... Ông cũng là tác giả của nhiều nghiên cứu đã in trong những tờ báo tiếng tăm nhất trong ngành. Từng được giải có bài nghiên cứu kiệt xuất nhất của tờ Asian Pacific Economic Review năm 1999. Ông là thành viên của Hội Đồng Nghiên cứu Khoa Học Nhân Văn của Canada về Kinh Tế Học và nhiều Trung tâm Nghiên Cứu Kinh Tế tại Canada và Pháp, Úc. Không dừng lại ở đó, trong lĩnh vực văn học Nguyễn Mạnh Hùng còn là cây bút sáng tác rất sung sức và nổi bật trên nhiều lĩnh vực: truyện ngắn, thơ, kịch, tiểu luận, phê bình. Các tác phẩm của ông chủ yếu được xuất bản ở nước ngoài dưới 2 bút hiệu Nam Dao & Dã Tượng. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông: Cõi tình (tiểu thuyết), Trăng nguyên sơ (tiểu thuyết), Bể dâu (tiểu thuyết lịch sử), Khoảng chơi vơi(truyện và ký), Tiếng cồng, Trong buốt pha lê (tập truyện), Gió lửa (tiểu thuyết lịch sử), Dấu vết ngậm ngùi(Thơ), Tình phụ, Sân đền, Ta xô biển lại (kịch bản)… cùng rất nhiều tác phẩm khác. Mời các bạn đón đọc Ghềnh V của tác giả Nam Dao.
Dòng Thời Gian - Michael Crichton
Cuối thể kỷ hai mươi, Robert Doniger một nhà vật lý học tài năng cùng công ty nghiên cứu ITC của mình đã bí mật nghiên cứu và phát triển thành công công nghệ dịch chuyển tức thời giữa các vũ trụ tồn tại song song trên cơ sở lý thuyết lượng tử. Với khao khát độc quyền khai thác quá khứ, Robert Doniger đã đồng thời tiến hành đầu tư dựng lại khu di tích dọc theo con sông Dordogne vàthử nghiệm việc gửi người trở về Dordogne vào thời kỳ Trung Cổ. Giáo sư Edward Johnston, trưởng nhóm khảo cổ học tiến hành dựng lại khu di tích, khi được Robert giới thiệu về công nghệ dịch chuyển tức thời, đã vô tình bị mắc kẹt lại Dordogne giữa thời kỳ Trung Cổ. Các nhóm tìm kiếm được ITC gửi đi đều không đem lại kết quả do hiểu biết hạn chế của họ về thời kỳ này. Điều này buộc nhóm sinh viên tham gia vào dự án của giáo sư Johnston bao gồm André Marek, Kate Erickson và Christopher Hughes phải cùng trở về quá khứ và tham gia vào quá trình tìm kiếm. Tại Dordogne, vào thời điểm thế kỷ 14, giữa cuộc chiến tranh tàn khốc của Lãnh chúa Oliver và Đại tư tế Arnault, họ được chứng kiến một thời kỳ Trung Cổ không hề giống những gì mình từng đọc qua sách vở, đồng thời phát hiện nhiều hơn nữa những mặt trái. *** Nhận định “Những dòng thời gian kết hợp được tất cả những yếu tố đã làm nên sự hấp dẫn cho tiểu thuyết của Micheal Crichton: câu chuyện với diễn biến chóng mặt, những lập luận khoa học thuyết phục, và cấu trúc gần như một bộ phim...Một câu chuyện giàu hình ảnh và được đầu tư nghiên cứu...Crichton đã kết hợp hoàn hảo yếu tố hồi hộp, ly kỳ vào tiểu thuyết khoa học của mình và những tác phẩm của ông thực sự đã định nghĩa một thể loại cho riêng mình.” (Iain Pears theo Los Angeles Times) “Những dòng thời gian, tiểu thuyết kiếm hiệp của Crichton, có thể sẽ lại là một bom tấn phi thường nữa giống như Công viên kỷ Jura...Tác giả có một tài năng phi thường trong việc kết hợp yếu tố hồi hộp với những khái niệm khoa học vốn không ngừng cuốn hút trí tưởng tượng của người đọc.” (USA Today) *** Michael Crichton, sinh ngày 23 tháng 10 năm 1942 tiểu bang Chicago mất ngày 4 tháng 11 năm 2008 ở Los Angeles.  Ông là một người chuyên viết về những truyện khoa học,giả tưởng và đã có nhiều truyện đã được dựng lên phim. Tác giả Michael Crichton nổi tiếng trong giới truyền hình nhiều hơn là trong giới văn chương bởi đơn giản ông là một nhà viết kịch bản tài ba của nhiều bộ phim nổi tiếng. Điểm đặc biệt trong sự nghiệp văn chương của ông chính ở chỗ các truyện được viết dựa trên những nghiên cứu khoa học của ông sau khi tham gia học ngành y và ông có được một kiến thức y học tương đối rộng (ông tốt nghiệp khoa y Đại học Havard). Vì lý do đó, ông được gọi là "Cha đẻ của truyện giật gân Mỹ", các sáng tác của ông mang nặng tính giả tưởng, tính ly kỳ hoàn hảo và bằng tài năng hiếm có, ông đã sáng tạo ra những thiên truyện hoàn mỹ, ly kỳ và giật gân nhất thế kỷ XX.  *** Đây là một tác phẩm của Michael Chrichton. Nếu ai quan tâm thì ông cũng là người viết Công viên kỷ Jura và Thế giới nghịch. Và Dòng Thời Gian cũng đề cập đến một nhánh nghiên cứu trong khoa học: thuyết Lượng tử. Nói đơn giản và ngắn gọn thì tuyện đề cập đến một công ty nghiên cứu về thuyết này và ứng dụng nó cho việc di chuyển người từ nơi này đến nơi khác (hay còn gọi là Teleport) nhằm thao túng việc khai thác lịch sử. Công ty ITC đã dùng hiện tượng giao thoa ánh sáng để giải thích cho nghiên cứu của họ. Khi chiếu hai tia sáng qua khe, họ nhận được kết quả là những vệt sáng song song trên màn chắn, đó chính là kết quả của hiện tượng giao thoa ánh sáng mà ai cũng đã từng nghe qua. Thế nhưng điều thú vị không dừng lại ở đó. Khi các nhà khoa học ở ITC chỉ dùng một tia sáng duy nhất, được chiếu qua khe tương tự, họ cũng nhận được những vệt sáng tương tự trên màn chắn. Vậy câu hỏi đặt ra là, thứ gì đã giao thoa với tia sáng ấy? Và họ đưa ra lập luận: Hãy còn những vũ trụ khác tồn tại song song với vũ trụ chúng ta đang sống, những vũ trụ mà ta không nhìn thấy được. Chính những thứ tồn tại trong những vũ trụ ấy đã giao thoa với tia sáng duy nhất trong thí nghiệm của họ, và từ đó họ nhận được kết quả như trên. Chính từ lập luận ấy, ITC quyết định thành lập một nhóm nghiên cứu nhằm chế tạo ra những cỗ máy dịch chuyển, đưa con người từ vũ trụ này sang một vũ trụ khác. Thế nhưng, mọi hoạt động của họ đều được thực hiện trong bí mật. Họ đã chi một khoảng cực lớn vào hệ thống dịch chuyển, từ những miếng đệm nước đến những thiết bị tinh vi nhưng không một ai biết đến sự tồn tại của ITC và dự án táo bạo này. Nhưng đã đến lúc công ty không thể ém nhẹm quá lâu mọi việc. Một hôm, bệnh viện tiếp nhận một bệnh nhân ngất trên sa mạc với những triệu chứng khó giải thích. Sau khi điều tra, họ phát hiện ông là Giáo sư khoa học đang làm cho ITC. Đương nhiên họ không biết gì về công ty này, họ chỉ không hiểu tại sao một Giáo sư lại bị lạc ở Sa Mạc, cách quá xa trụ sở Công ty đến vậy. Quái lạ hơn, sau khi chụp MRI và các thứ khác, các bác sĩ còn nhận thấy, xương tay, xương chân của người đàn ông này như bị tách rời, không khớp vào nhau. Vụ việc đã làm dấy lên nghi ngờ và Robert Doniger, nhà vật lý học thiên tài, người sáng lập ITC, phải tìm cách bưng bít sự cố này. Sự việc tạm rơi vào quên lãng. Hiện nay, Robert Doniger đang đầu tư vào kế hoạch dựng lại khu di tích thời Trung Cổ Dordogne, đồng thời thử nghiệm việc đưa người của công ty trở lại thời kỳ này để khảo sát. Nhóm khảo sát của Giáo sư Edward Johnston chịu trách nhiệm dựng lại khu di tích Dordogne. Tuy nhiên, Johnston và những người học trò của ông không biết đến mục đích thật sự của Robert và sự tồn tại của những cỗ máy dịch chuyển. Bất thình lình, Robert nhận thấy đã đến lúc cần tiết lộ mọi việc với giới truyền thông. Giáo sư Johnston được gọi đến trụ sở Công ty và được giới thiệu về những cỗ máy dịch chuyển. Trong một lần thử nghiệm, ông đã đi quá xa cỗ máy và bị kẹt lại thời Trung Cổ. Những người được ITC gửi đi để tìm cách đưa ông trở về đều thất bại, vì họ không nắm được kiến thức trong thời kỳ đó. Chính vì vậy, Robert đã ra lệnh tập họp những người học trò của Johnston lại và yêu cầu họ đi cứu Giáo sư của mình. Những sự cố xảy ra và nhóm học trò này, gồm có André Marek, Kate Erickson và Christopher Hughes cũng bị kẹt lại thời Trung Cổ, thế kỷ 14. Tại đây họ đã chứng kiến cuộc chiến tranh tàn khốc giữa Lãnh Chúa Oliver và Đại Tư tế Arnaut. Quan trọng là… Họ chỉ có 36 tiếng để hoàn thành sứ mệnh. Rắc rối là… Phòng dịch chuyển đã bị hỏng hóc nặng do một vụ nổ. Họ không thể quay về được cho đến khi mọi thứ được sửa chữa… … Trong vòng 36 tiếng. Liệu họ có thể sống sót trở về? Liệu họ có thể tìm ra và cứu được Giao sư của mình? Dòng thời gian không ngừng chạy! Mời các bạn đón đọc Dòng Thời Gian của tác giả Michael Crichton.