Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả

Tác phẩm - Năm 1989, Những cậu bé kẽm lần đầu được xuất bản - Tháng 7 năm 1992, những đơn kiện Những cậu bé kẽm và S. Alexievich đầu tiên được gửi đi - Ngày 20 tháng 1 năm 1993, phiên xử đầu tiên diễn ra - Ngày 10 tháng 8 năm 2015, giải Nobel Văn học thứ 112 trong lịch sử gọi tên Svetlana Alexievich, dư luận một lần nữa lại dậy sóng… Vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Những cậu bé kẽm là thiên thứ ba trong loạt năm quyển của bộ Những giọng nói không tưởng gồm: Những nhân chứng cuối cùng, Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Lời nguyện cầu Chernobyl và Thời second hand. Những cậu bé kẽm, một nhan đề khốc liệt – những xác người trong quan tài kẽm – những cái xác vừa mới mười tám đôi mươi – những cậu bé đẹp đẽ rạng ngời, vừa rời vòng tay cha mẹ, người thương để rồi trở về trong những cỗ quan tài kín bưng – “hàng vận chuyển 200”. Được viết bằng thể loại văn xuôi tư liệu cùng với tâm thế của một con người vị nhân phản chiến, cuốn sách đã khuấy lên một giai đoạn lịch sử đầy những tổn thương đau đớn, đã phác họa một bối cảnh, đã soi chiếu bằng một góc nhìn trước nay chưa từng được công bố. Những cậu bé kẽm là lời bộc bạch của những người sống sót trở về từ chiến tranh Afghanistan và của thân nhân những người đã mất. Đó là những dòng hồi ức khốc liệt, đẫm máu, thống khổ và vĩnh viễn làm thương tổn không chỉ thân thể mà còn tinh thần con người. Nó phơi bày cái phi nghĩa, vô nhân của một cuộc chiến tranh vô vọng. Những “Afghan” – những người Nga tham gia chiến tranh ở Afghanistan 1979 – 1989, những người ra đi trên danh nghĩa làm “nghĩa vụ quốc tế” rồi rút về trong thất bại, không bao giờ được biết niềm tự hào của thế hệ cha ông trong cuộc chiến tranh Vệ Quốc vĩ đại. Người “may mắn” nằm lại trong những chiếc quan tài kẽm, số khác thân xác lang bạt nơi chiến trận. Kẻ sống sót trở về cũng không bao giờ có thể quay lại cuộc sống của một người bình thường bởi những sang chấn khủng khiếp mang tên hội chứng Afghanistan. Người ngoài cuộc nhìn nhận họ như những kẻ sát nhân, kẻ bại trận, còn chính họ cũng quên mất phải sống bình thường là thế nào! Hơn năm trăm cuộc phỏng vấn đã được Svetlana Alexievich thực hiện để tạo nên bức tranh toàn cảnh về những góc khuất của chiến tranh. Cũng chính những trang tư liệu về nỗi đau của những nỗi đau này, ngày 20 tháng 1 năm 1993, cuốn sách của Svetlana Alexievich bị đưa ra tòa xét xử bởi những người cung cấp tư liệu đâm đơn kiện với lý do phỉ báng danh dự và ngụy tạo lời kể. Phiên tòa kéo theo sự chú ý của chính quyền và công chúng tạo thành làn sóng dư luận ở cả hai phía, ủng hộ và chống đối Svetlana Alexievich. Ở những lần tái xuất bản sau, Svetlana Alexievich đã đồng ý thêm vào toàn bộ biên bản vụ kiện cùng những sự kiện có liên quan. Vậy, vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Có lẽ câu trả lời sẽ nằm trong suy nghĩ mỗi người khi bước vào thế giới của Những cậu bé kẽm. “Tôi tự hỏi Svetlana Alexievich có cần phải viết một cuốn sách về những điều kinh khủng của chiến tranh không? Có! Những bà mẹ có cần phải bảo vệ con trai mình không? Có! Và những “người Afghan” có cần phải bảo vệ đồng đội mình không? Lại một lần nữa - có! …Các đạo diễn và nhạc trưởng, các chính khách và nguyên soái, những kẻ tổ chức cuộc chiến tranh này, không có mặt trong phòng xử án. Ở đây chỉ toàn những phía bị hại: là tình yêu, không chấp nhận sự thật cay đắng về chiến tranh; là sự thật, cần phải được nói ra mặc cho tình yêu thế nào chăng nữa; là danh dự, không thể chấp nhận tình yêu lẫn sự thật...” Pavel Shetko Một “cựu Afghan” Tác giả Nhà văn Svetlana Alexievich tại Ukraine trong một gia đình công chức. Năm 2015, bà được trao giải Nobel Văn học. Theo Viện Hàn lâm Thụy Điển, giải thưởng này được trao cho bà để “tôn vinh những dòng văn phức điệu của bà. Văn của bà là tượng đài tri ân sự đau khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta.” Sau khi tốt nghiệp khoa Báo chí Đại học Tổng hợp Quốc gia Belarus, bà làm việc cho tờ Báo nông nghiệp và tạp chí Neman ở Minsk. Trong suốt vài thập niên bà đã viết biên niên tư liệu – nghệ thuật Những giọng không tưởng – gồm năm quyển sách (Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ - 1983, Những nhân chứng cuối cùng - 1985, Những cậu bé kẽm - 1989, Lời nguyện cầu từ Chernobyl - 1997, Thời second-hand - 2013) và để những “con người nhỏ bé” đích thân kể về số phận của mình. Thực chất, đây là một thể loại đặc biệt, một loại tiểu thuyết chính trị đa giọng, trong đó những câu chuyện nhỏ bé hợp thành một lịch sử lớn. Các tác phẩm của Svetlana Alevievich đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng, là nền tảng cho hằng trăm bộ phim điện ảnh, kịch sân khấu và truyền thanh trên khắp thế giới, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. *** LỜI GIỚI THIỆU “Văn chương đang ngạt thở trong những biên giới của mình”. Với tâm tình đó, nữ nhà văn Svetlana Alexievich đã quyết định chọn hình thức “truyện vừa tư liệu” cho cuốn sách Những cậu bé kẽm, được in lần đầu tiên năm 1989. Hai mươi sáu năm sau, cuốn sách đã góp phần đưa bà đến giải Nobel văn học năm 2015, cùng với bốn quyển sách khác trong loạt sách Những giọng nói không tưởng: Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ (1983), Những nhân chứng cuối cùng (1985), Lời nguyện cầu từ Chernobyl (1997) và Thời second hand (2013). Nhưng cũng chính thể loại truyện vừa tư liệu của Những cậu bé kẽm đã khiến bà phải ra tòa (phần cuối quyển sách đã giới thiệu tiến trình tố tụng này). Phiên tòa mà, từ một phía bà bị cáo buộc là “xúc phạm danh dự và phẩm giá” của những người lính đã chết trong cuộc chiến tranh Afghanistan, của những người mẹ vẫn còn đang ngồi bên mộ chí con mình. Còn từ phía những người ủng hộ nữ nhà văn, đó là phiên tòa “xử án văn chương”, “xử án một quyển sách”, “xử án sự thật”. Cuộc tranh cãi đó, cuối cùng được cố gắng ngã ngũ ở việc thế nào là thể loại truyện vừa tư liệu; vẫn chưa giải đáp được câu hỏi “sự thật là sự thật nào”, khi chính nữ nhà văn cũng hoài nghi như Pilatus đặt câu hỏi về sự thật trong phiên tòa xử Chúa. Phiên tòa đã khép lại đầu những năm 1990. Nhưng cuộc tranh cãi về sự nghiệp của nữ nhà văn Belarus viết bằng tiếng Nga một lần nữa được nhắc lại nhân Nobel 2015. Nếu bà được ngợi khen trên báo chí phương Tây như một “bậc thầy xuất sắc trong lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật tư liệu”(Frankfurter Allgemeine), thì nhà phê bình Nga Olga Tukhanitsa, lại nhận xét vào tháng 12-2015: “Một mặt, Alexievich khăng khăng biện hộ mình không phải là nhà văn nhưng lại chứng minh những gì bà đang làm trong thế giới hiện đại là văn học chân chính; mặt khác, bà - như một nữ sinh, đoàn viên Komsomol, cố nhồi vào thông điệp của mình tất cả những khuôn mẫu định kiến về nước Nga…” Dẫu sao, chúng ta sẽ không thể tranh luận với cả hai ý kiến trên nếu chưa đọc hết Những cậu bé kẽm. Bản dịch tiếng Việt dựa trên nguyên bản tiếng Nga đã được tác giả hiệu đính và NXB Vremya (Moskva) phát hành năm 2017. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả, và thành thật cảm ơn bà Marina Vladimirovna Sharoiko (Giảng viên Bộ môn Lý luận Văn học Nga, Đại học Tổng hợp Kuban) và bà Irina Letiagina (cựu biên tập viên NXB Cầu vồng, và NXB Tiến bộ - Liên Xô cũ) đã giúp chúng tôi hoàn thành bản dịch này. Phan Xuân Loan 10-2017 *** LỜI MỞ ĐẦU Tôi đi một mình. Giờ đây tôi sẽ phải đi một mình. Nó giết người. Con trai tôi. Bằng cái rìu nhà bếp tôi dùng xẻ thịt. Nó quay về từ trận chiến và giờ thì giết người. Buổi sáng nó mang cái rìu đặt về chỗ cũ, trong tủ bếp, nơi tôi cất chén dĩa. Hình như ngày hôm đó tôi còn làm cho nó món sườn hầm. Một lúc sau ti vi và báo buổi chiều đưa tin các ngư dân vớt được một thi thể từ dưới hồ. Từng mảnh. Bạn tôi gọi điện: - Chị đọc báo chưa? Một vụ giết người chuyên nghiệp. Kiểu Afghanistan. Con trai tôi đang ở nhà, nằm đọc sách trên xô pha. Tôi không biết và cũng chẳng đoán ra gì, nhưng chẳng hiểu sao sau những lời ấy tôi lại nhìn nó. Trái tim người mẹ. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Không à? Còn tôi thì nghe đấy, vừa bắt đầu kể chuyện này là tôi đã nghe tiếng chó sủa. Lũ chó đang chạy. Ở đó, nơi con trai tôi đang ngồi tù có những con bẹc giê lớn. Và mọi người mặc toàn đen, rặt một màu đen. Tôi trở về Minsk, đi ngang qua cửa hàng bánh mì, qua vườn trẻ, tay cầm ổ bánh mì với sữa và nghe thấy tiếng sủa. Tiếng sủa chói tai. Nó làm tôi như đui mù. Có lần tôi suýt lọt vào gầm xe. Tôi sẵn sàng ở rịt bên mộ con mình, sẵn sàng nằm cạnh nó. Nhưng tôi không biết… không biết sẽ sống thế nào với chuyện này. Đôi khi tôi sợ xuống bếp, sợ nhìn thấy cái tủ bếp đó, nơi cất cái rìu. Cô không nghe thấy gì hết à? Không à? Giờ đây tôi không biết nó sẽ ra sao, con trai tôi. Tôi sẽ đón nó về thế nào sau mười lăm năm nữa. Nó bị tuyên mười lăm năm khổ sai. Tôi đã nuôi dạy nó thế nào? Nó mê khiêu vũ. Tôi và nó đã đến bảo tàng Hermitage ở Leningrad. Chúng tôi đã đọc sách cùng nhau. (Khóc.) Chính Afghanistan đã cướp mất con trai tôi. …Tôi nhận được điện tín từ Tashkent: “Hãy đón chuyến bay số…” Tôi lao ra ban công, gào to hết sức: - Còn sống! Con tôi còn sống! Cuộc chiến khủng khiếp này kết thúc với tôi rồi. Rồi tôi ngất đi. Dĩ nhiên chúng tôi đã ra sân bay trễ, chuyến bay đã hạ cánh từ lâu, tôi tìm thấy con trai mình trong vườn hoa. Nó nằm trên đất và níu lấy cọng cỏ, ngạc nhiên sao cỏ xanh đến thế. Nó không tin mình có thể trở về. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi tối những người láng giềng kéo sang nhà chúng tôi, họ có một cô con gái nhỏ, bé thắt một cái nơ xanh trên tóc. Nó đặt con bé ngồi lên gối, ôm vào lòng và khóc, nước mắt cứ thế lã chã tuôn rơi. Bởi ở đó chúng đã giết người, cả nó. Mãi sau này tôi mới hiểu ra. Ở biên giới, hải quan đã “tỉa” quần lót của nó. Hàng Mỹ. Không được phép. Vì thế nó về nhà mà không có đồ lót. Nó mang về cho tôi cái áo choàng, cái áo cũng bị tịch thu. Nó mang cho bà ngoại cái khăn trùm đầu, họ cũng lấy mất. Nó đành về với những bông hoa lay ơn. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi sáng thức dậy nó còn bình thường: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”. Đến chiều mặt nó tối dần, khóe mắt nặng trĩu. Tôi không thể tả nổi điều đó. Lúc đầu nó chẳng uống giọt nào. Nó ngồi quay vào tường rồi bật dậy khỏi xô pha, với lấy cái áo khoác. Tôi đứng ngay cửa: - Con đi đâu, Valyushka? Nó nhìn tôi như nhìn vào thinh không. Rồi bỏ đi. Tối muộn tôi đi làm về, nhà máy ở xa, lại làm ca hai, tôi gọi cửa nhưng nó không mở. Nó không nhận ra giọng tôi. Chuyện đó thật kỳ quặc, ừ thì giọng bạn bè có thể không nhận ra, nhưng đây là giọng mẹ nó! Hơn nữa, lại là “Valyushka” - chỉ có tôi mới gọi nó như thế. Dường như lúc nào nó cũng đang đợi ai đó, sợ sệt. Tôi mua cho nó cái sơ mi mới, ướm thử và thấy trên tay nó có những vết cắt. - Cái gì đây? - Chuyện nhỏ mà mẹ. Sau đó tôi mới biết. Sau phiên tòa. Trong thời gian huấn luyện nó đã cắt cổ tay. Trong một giờ diễn tập, nó là nhân viên điện đài, nhưng không kịp ném điện đài xách tay lên cây đúng lúc, không hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định nên thượng sĩ phạt nó múc 50 thùng chất thải từ nhà vệ sinh diễu qua đội hình. Nó đã xách và ngất xỉu. Bệnh viện chẩn đoán: chấn động tâm thần nhẹ. Đêm đó nó đã cắt ven tay. Lần thứ hai là ở Afghanistan. Trước cuộc bố ráp, họ kiểm tra và điện đài không hoạt động. Thiếu một số phụ kiện khan hiếm khi đó. “Kẻ nào đã lấy trộm chúng. Ai?” Chỉ huy cáo buộc nó hèn nhát giấu các chi tiết đó đi để không phải hành quân cùng mọi người. Mà ở đó trộm cắp như rươi, thậm chí các bộ phận ô tô cũng bị tháo rời đem bán cho các dukan*. Để mua ma túy, thuốc lá, thức ăn. Họ lúc nào cũng đói. Trên truyền hình đang có chương trình về Edith Piaf*, chúng tôi luôn xem cùng nhau. - Mẹ, - nó hỏi, - mẹ có biết ma túy là gì không? - Không. - Tôi nói dối, còn chính mình bắt đầu dõi theo nó: nhỡ nó hút thì sao? Tôi không phát hiện ra dấu vết nào. Nhưng ở đó họ sử dụng ma túy - tôi biết điều này. - Ở Afghanistan thế nào hở con? - Có lần tôi hỏi. - Thôi mà mẹ! Khi nó đi khỏi nhà, tôi đọc lại hết những bức thư từ Afghanistan của nó, tôi muốn đào xới, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với nó. Tôi không tìm thấy gì đặc biệt, nó viết buồn nhớ cỏ xanh, bảo bà ngoại chụp hình trên nền tuyết rồi gởi cho nó. Nhưng tôi đã nhận ra, cảm thấy đã có gì đó xảy ra với nó. Họ đã trả về cho tôi một con người khác. Đó không phải là con tôi. Mà chính tôi đã đưa con vào quân ngũ, nó vốn được hoãn nghĩa vụ. Tôi muốn nó thành người dũng cảm. Tôi thuyết phục con và chính mình rằng quân đội sẽ trui rèn nó tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Tôi tiễn nó đi Afghanistan với tiếng ghi-ta cùng một bữa tiệc ngọt chia tay. Nó mời bạn bè và các cô gái… Tôi nhớ đã mua tới mười cái bánh kem. Chỉ có một lần nó nói về Afghanistan. Vào một buổi tối. Nó ghé vào bếp, lúc tôi đang làm thịt thỏ. Cái bát đầy máu. Nó nhúng các ngón tay vào máu rồi nhìn cái bát. Nhìn chằm chằm. Rồi nói với chính mình: - Họ chở cậu ấy về với cái bụng bị thủng. Cậu ấy đề nghị mình bắn. Và mình đã bắn. Những ngón tay đầy máu thỏ. Với những ngón tay dính máu đó nó vớ lấy điếu thuốc rồi bỏ ra ban công. Tối hôm đó nó không nói thêm với tôi một lời nào. Tôi tìm tới các bác sĩ. “Hãy trả lại con trai cho tôi! Xin cứu giúp!” Tôi kể lại tất cả… Họ kiểm tra nó, thăm khám, nhưng ngoài chứng đau thần kinh tọa, họ chẳng phát hiện gì. Một lần nọ về nhà, tôi thấy bốn cậu trai lạ ngồi sau bàn. - Mẹ, họ từ Afghanistan về. Con gặp họ ở nhà ga. Họ chẳng có chỗ nào để qua đêm cả. - Tôi sẽ nướng một cái bánh ngọt cho các cậu. Nhanh lắm. - Chẳng hiểu sao tôi lại mừng rỡ. Chúng sống ở nhà tôi một tuần lễ. Tôi không đếm, nhưng tôi nghĩ chúng uống cỡ bốn thùng vodka. Mỗi tối tôi lại gặp ở nhà năm người lạ, người thứ năm là con tôi. Tôi không muốn nghe những câu chuyện của chúng, tôi sợ lắm. Nhưng vì ở chung một nhà nên tôi tình cờ nghe thấy. Chúng kể suốt hai tuần mai phục, chúng được phát thuốc kích thích để bạo gan hơn. Nhưng tất cả những chuyện đó được giữ kín. Vũ khí nào giết người hiệu quả hơn. Từ khoảng cách nào… Sau này tôi mới nhớ lại những câu chuyện đó, khi sự việc đã xảy ra. Chỉ sau đó tôi mới nghĩ ra, hoảng hốt nhớ lại. Còn trước đó chỉ có nỗi sợ: “Ôi,” tôi nói thầm, “chúng điên làm sao. Tất cả đều dở người”. Ban đêm. Trước cái ngày nó giết người. Tôi nằm mơ thấy mình đang đợi con nhưng mãi vẫn không thấy nó. Thế rồi người ta đưa nó về. Bốn “người Afghan” đó đưa về. Và họ ném nó xuống sàn xi măng dơ dáy. Cô hiểu không, sàn xi măng trong gian bếp chúng tôi ấy…* Cái sàn như sàn nhà tù. Lúc đó nó đã vào học khoa dự bị trường Đại học Kỹ thuật Phát thanh. Nó viết tốt bài luận. Nó hạnh phúc và mọi việc đều ổn. Tôi đã nghĩ nó đang nguôi ngoai. Sẽ đi học. Rồi cưới vợ. Nhưng cứ tối đến, tôi sợ những buổi tối, nó ngồi và nhìn chằm chằm vào vách rồi thiếp ngủ trên ghế bành. Tôi muốn nhào tới, lấy thân mình che chở và không thả cho nó đi đâu nữa hết. Bây giờ tôi nằm mơ thấy nó còn nhỏ và đòi ăn. Lúc nào nó cũng đói. Nó chìa hai tay. Trong mơ lúc nào tôi cũng thấy nó nhỏ bé và bị hạ nhục. Còn trong đời thật? Mỗi tháng hai cuộc gặp. Bốn tiếng chuyện trò qua lớp kính. Mỗi năm hai lần thăm nuôi, đó là khi tôi được mang gì đó cho nó ăn. Và tiếng chó sủa. Tôi nằm mơ thấy tiếng chó sủa. Chúng đuổi theo tôi khắp chốn. Có một người đàn ông tán tỉnh tôi. Tặng cả hoa. Khi ông ta mang hoa tới, “Ông tránh xa khỏi tôi,” tôi bắt đầu hét, “tôi là mẹ của tên giết người”. Thời gian đầu tôi sợ gặp những người quen, tôi trốn trong nhà tắm và chờ những bức tường đổ sập xuống người. Tôi ngỡ như người ngoài đường đều nhận ra tôi, chỉ trỏ nhau xem rồi xầm xì: “Nhớ vụ ghê rợn đó không? Chính con trai bà ta giết người đấy. Chặt làm tư. Kiểu Afghanistan”. Tôi chỉ ra đường vào buổi tối, tìm hiểu hết những loài chim đêm. Tôi nhận biết chúng qua tiếng hót. Vụ án được điều tra. Vài tháng trôi qua. Nó im lặng. Tôi đến quân y viện Burdenko ở Moskva. Ở đó tôi tìm được vài cậu trai từng phục vụ trong đội đặc nhiệm như nó. Tôi bộc bạch cùng họ. - Các cháu này, vì cái gì mà con trai bác giết người? - Hẳn là có chuyện gì đó. Tôi phải thuyết phục mình rằng con tôi có thể đã làm điều đó. Giết người. Tôi gặng hỏi họ rất lâu để hiểu ra rằng: nó có thể! Tôi hỏi họ về cái chết. Không, không phải về cái chết, mà về việc giết chóc. Nhưng cuộc trò chuyện đó không gợi được ở họ những cảm xúc đặc biệt nào, những cảm xúc mà bất kỳ việc giết chóc nào cũng đều có thể gợi lên ở một con người bình thường chưa từng thấy máu. Họ nói về chiến tranh như nói về một công việc, một công việc cần phải giết người. Sau đó tôi đến gặp những cậu trai cũng từng ở Afghanistan, và khi Armenia động đất họ đã tới đó cùng những đội cứu hộ. Tôi muốn biết, tôi bị ám ảnh vì chuyện đó: họ có sợ không? Họ cảm giác thế nào khi chứng kiến cái chết? Không, họ chẳng thấy sợ gì cả, thậm chí lòng thương hại ở họ cũng đã cùn mằn. Những hộp sọ vỡ tung, bẹp dí, những khúc xương người… Nhiều trường học bị vùi trong lòng đất. Những lớp học. Bọn trẻ ngồi học và cứ thế mà đi vào lòng đất. Còn họ thì nhớ và kể lại những chuyện khác, nào là họ đã đào được những kho rượu vang béo bở ra sao, họ đã uống những loại vang nào, loại cô nhắc nào. Họ đùa cợt: phải chi có thêm động đất ở đâu đó. Nhưng phải ở chỗ nào ấm áp cơ, nơi nho có thể mọc và làm được vang ngon. Họ sao thế? Tâm lý họ có bình thường không vậy? “Con căm thù cái đứa bị giết đó.” Nó viết cho tôi như thế cách đây không lâu. Sau năm năm. Chuyện gì đã xảy ra ở đó? Nó câm nín. Tôi chỉ biết, cậu trai đó tên Yura, khoác lác rằng đã kiếm chác được nhiều chi phiếu ở Afghanistan. Nhưng sau đó hóa ra cậu ta phục vụ ở Ethiopia, là chuẩn úy. Cậu ta đã nói dối về Afghanistan. Tại phiên tòa, chỉ một mình luật sư biện hộ nói rằng chúng ta đang xử án một người bệnh. Trên ghế bị can không phải là tội nhân, mà là bệnh nhân. Anh ta cần được điều trị. Nhưng đó là bảy năm về trước, khi sự thật về Afghanistan chưa được hé lộ. Và chúng ta đã gọi tất cả là anh hùng. Những chiến sĩ làm nghĩa vụ quốc tế. Còn con trai tôi là kẻ giết người. Bởi nó làm cái việc mà họ từng làm ở đó. Vì việc đó mà họ được trao mề đay và huân chương. Nhưng tại sao họ lại buộc tội mình con tôi? Tại sao không buộc tội những kẻ đẩy nó vào nơi đó? Dạy nó giết người! Tôi đâu có dạy con mình việc đó. (Bùng nổ và gào thét.) Nó giết người bằng cái rìu bếp của tôi. Rồi buổi sáng nó mang đặt cái rìu lại vào tủ bếp. Như một cái muỗng hay một cái nĩa bình thường. Tôi ganh tị với những bà mẹ có con trở về cụt cả hai chân. Cứ để nó căm thù mẹ mình sau khi đã nốc say. Căm thù cả thế giới. Cứ để nó lao vào bà ta, như lao tới kẻ thù. Bà ta sẽ trả tiền cho gái mại dâm, để nó không phát rồ. Bản thân bà ta từng một lần trở thành tình nhân cho nó, bởi nó đã trườn ra ban công và muốn lao xuống từ tầng mười. Tôi chấp nhận tất cả. Tôi ganh tị với tất cả những bà mẹ, kể cả những ai có con đã nằm trong huyệt mộ. Tôi sẽ ngồi bên mộ chí của con và hạnh phúc. Tôi sẽ mang hoa tới. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Nó đuổi theo tôi. Tôi nghe thấy chúng. Một bà mẹ Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả của tác giả  Svetlana Alexievich & Phan Xuân Loan (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Các Hung Thần Lên Cơn Khát
Anatole France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, ông sinh ở Paris ngày 16 tháng 4 năm 1844, ngày 13 tháng 10 năm 1924 ở Tours, Indre-et-Loire, Pháp. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực"… Đến năm 1922, sách của ông đã nằm trong danh sách cấm của Giáo Hội Công Giáo La Mã, bởi trước tác của ông chống lại sự mê hoặc tôn giáo, giáo điều chủ nghĩa; dưới ngòi bút châm biếm đả kích, trào lộng, A. France mỉa mai những luận điệu thần thánh, những thiết chế Nhà nước, những thối nát của nhà thờ cùng với sự đớn hèn của loài người. Các hung thần lên cơn khát là một thiên hùng ca bi tráng về thời kỳ Công xã Paris. Nhân vật chính của câu chuyện là Évariste Gamelin, một họa sĩ trẻ tràn trề sức sống và lý tưởng, một người con hiếu thảo sống cùng mẹ già nghèo khó, một người bạn vô hại dễ thương, một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với Cách mạng được bổ nhiệm làm hội thẩm của Tòa án Cách mạng Pháp. Tư tưởng cực đoan và sự sùng bái cá nhân của Gamelin đối với các nhà lãnh đạo công xã Robespierre, Marat,... và cơn ghen cuồng điên trong mối tình si chớm nở đã từng bước đưa anh từ một nghệ sĩ mộng mơ thành một tên giết người hàng loạt. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, và nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Điều gì sẽ đến khi lý tưởng trở thành ngọn hải đăng tỏa sáng dẫn đường, khi lý tưởng trở thành vị thần được tôn thờ mù quáng, khi lý tưởng được sùng bái một cách bất khả tư nghị? Và chuyện gì sẽ xảy ra khi con người trở thành nô lệ của dư luận, khi suy nghĩ bị dẫn dắt bởi đám đông. Đó là khi máy chém sẽ trở thành vị chủ tế, mạng sống và máu của con người được xem như vật hiến sinh, những buổi hành hình trở thành lễ hội náo nhiệt. Khi sự phi lý trở nên bình thường, khi quyền lực trao tay những kẻ vô tri, con người trở thành điên rồ và khát máu. Các hung thần lên cơn khát, một kiệt tác của A.France không chỉ là một tiểu thuyết lịch sử cách mạng. Dưới ngòi bút của một thiên tài, một xã hội thị dân Paris với đầy đủ các cung bậc cuộc sống, tình yêu, dục vọng, với ghen tuông được tái hiện. Các hung thần lên cơn khát còn là một bản trường ca về sự giao hòa giữa lý tưởng và tình người, về cách mạng và nhân văn, giữa duy tâm với duy vật, cả thánh thiện và tàn ác, về chiến thắng và chiến bại, về sự sống cùng cái chết, tất cả đã được Anatole France dệt thành một câu chuyện đa sắc sinh động. *** Anatole France (1844-1924) là một nhà văn vĩ đại của nước Pháp, thành viên Viện Hàn lâm và nhận giải thưởng Nobel Văn học năm 1921. Sự nghiệp văn chương của ông thực đồ sộ và mang dấu ấn những quan điểm của ông trong từng thời kỳ. Khi còn trẻ, với các tác phẩm “Sách của bạn tôi”, “Tội ác của Sylvestre Bonnard”, “Bông huệ đỏ”, “Khu vườn của Epicure”,… Anatole France nổi tiếng là một nghệ sĩ đơn thuần, một nhà nhân văn cá nhân chủ nghĩa ít quan tâm đến cuộc đời. Nhưng khi đã đứng tuổi, ông bắt đầu chú ý đến những vấn đề thời đại, những nỗi băn khoăn, lo lắng của con người. Ông tham gia bảo vệ Dreyfus, một sĩ quan Pháp bị kết án oan về tội làm gián điệp. Trong số các tác phẩm ông viết trong thời kỳ này ta có thể kể: “Chiếc vòng thạch anh xanh”, “Ông Bergerer ở Paris”,… Đặc biệt trong các cuốn “Thiên thần nổi loạn” và “Các hung thần lên cơn khát”, ông đã tố cáo bạo lực và chuyên chế, phản đối những hành động quá khích phát sinh từ cách mạng. Luôn luôn tranh đấu cho một xã hội công bằng và nhân đạo, Anatole France đứng vào hàng ngũ các chiến sĩ cực tả. Ông quan niệm tự do là tài sản quý nhất của con người, nhưng không thể có tự do khi một giai cấp còn bị một giai cấp khác nô dịch. Ông mơ ước một nhà nước thực sự dân chủ không vi phạm quyền của mỗi công dân và bảo đảm hạnh phúc cho từng cá nhân trong xã hội. Là người vô thần, ông phản đối cả cuồng tín tôn giáo lẫn cuồng tín chính trị; là nghệ sĩ, ông luôn luôn để lòng mình rung động xen lẫn xót xa trước những niềm vui mong manh, giúp ta trong giây phút quên đi nỗi đau đớn của thân phận con người. Tiểu thuyết “Các hung thần lên cơn khát” (1912) là một trong những tác phẩm hàng đầu của Anatole France. Câu chuyện xảy ra trong thời kỳ thứ ba của Cuộc cách mạng 1789 Pháp, “Thời kỳ chuyên chính Jacobin” bắt đầu từ tháng sáu năm 1793 đến hết tháng bảy năm 1794. Đó là thời kỳ cuộc cách mạng nằm trong tình thế thù trong giặc ngoài cực kỳ hiểm nghèo. Để đối phó, một mặt Quốc ước tung quân chống ngoại xâm, dẹp bạo loạn trong nước, mặt khác, bên cạnh những biện pháp nhằm ổn định đời sống, đã dùng Tòa án Cách mạng làm công cụ thực hiện quốc sách khủng bố các phe phái, cá nhân chống đối. Và vì bản thân phái Jacobin cũng phân hóa, khủng bố lan tràn vào ngay nội bộ những người cách mạng trung kiên nhất. Đó là thời kỳ rối ren nhất, đẫm máu nhất trong cuộc Cách mạng 1789. Có thể gọi “Các hung thần lên cơn khát” là một tiểu thuyết lịch sử: Một loạt sự kiện được mô tả khá đầy đủ, chính xác đến từng ngày, nhiều nhân vật lịch sử được nhắc đến trong đó một số lãnh đạo vĩ đại của Cách mạng, như Robespierre, như Marat, được phác họa bằng ngòi bút tài tình khiến người đọc có thể hình dung được cả hình dáng lẫn tâm hồn họ. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Anatole France đưa lên sân khấu cả một đám thị dân Paris bình thường, để cho họ sinh hoạt, yêu đương, chơi bời, hy vọng, đau khổ… cả bọn đục nước béo cò thời nào cũng có. Khi nói đến những con người bình thường, tính hoài nghi cố hữu của ông thường kết hợp với sự cảm thông sâu sắc với nỗi đau nhân thế. Và mỗi lần như vậy, bút pháp bình dị của ông tự nhiên sống động, ấm áp hẳn lên. Đó là nỗi khổ đau triền miên của bà cụ Gamelin sống giữa người con trai đã mất tính người và người con gái tội lỗi đang lẩn trốn; bà cụ sợ từng tiếng động nhỏ, “vì địa vị thấp kém,… coi hèn nhát là một nghĩa vụ.” Chúng ta phải buồn cười với cô Élodie đa tình quyết tâm “đi nửa quãng đường, hoặc hơn nữa” để chinh phục người yêu. Để mô tả tâm hồn trong trắng của một cô gái điếm, tác giả đã để cho “mặt trăng lên cao rọi vào gian phòng sát mái một tia bạc làm bừng sáng mớ tóc bồng bềnh, từng chiếc mi vàng, cái mũi thanh tú, cái miệng tròn và đỏ của Athénaïs đang ngủ ngon giấc, hai bàn tay nắm chặt.” Ông đã dùng những lời lẽ thực trang trọng, đầy xúc động khi nói đến Fortuné Trubert, người chiến sĩ được giao trọng trách không hề cảm thấy “sự nhỏ bé của các phương tiện sẵn có” vì “đời sống của anh hòa nhập với đời sống của một dân tộc vĩ đại”. Nhưng ông đã dành nhiều trang nhất để diễn tả hai nhân vật trung tâm, hai con người có cá tính thực đặc biệt. Một người là họa sĩ Évariste Gamelin, người con hiếu thảo, hội thẩm Tòa án Cách mạng. Anh là một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với cách mạng. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Anh nghĩ, mỉa mai thay, làm thế để mai đây “mọi người Pháp sẽ ôm hôn nhau trong hạnh phúc”. Người kia là ông già Brotteaux nguyên là nhà quý tộc, yêu thiên nhiên, luôn luôn xúc động trước cảnh đẹp, môn đệ của Épicure. Tác giả đặt ông vào bao nhiêu tình huống, cho ông gặp bao nhiêu con người để ông có dịp nêu lên những ý nghĩ, những tình cảm của mình, của một người vô thần nhưng không cuồng tín, chống mọi hình thức chuyên chế hay bạo lực. Những ý nghĩ, những tình cảm đó được bộc lộ đôi khi mơ mộng, thường thường nhẹ nhàng, châm biếm, có lúc lố bịch, che giấu một tấm lòng cực kỳ nhân hậu, nhạy cảm, vị tha. Thế là rõ, Anatole France đã gián tiếp nêu lên quan điểm của mình. Đó là một quan điểm và còn có những quan điểm khác: bao nhiêu sử gia và nhà nghiên cứu đã viết và còn viết để đánh giá cuộc cách mạng Pháp. Giới thiệu với bạn đọc cuốn tiểu thuyết này, chúng tôi cũng mong góp phần nhỏ bé kỷ niệm một cuộc cách mạng vĩ đại mà những lý tưởng vẫn luôn luôn thôi thúc loài người. Người dịch Trần Mai Châu ***   Sáng sớm hôm đó, Évariste Gamelin, họa sĩ, học trò của David*, thành viên phân khu Cầu mới, trước đây là phân khu Henri IV, đến nhà thờ dòng Barnabites. Từ ngày 21 tháng 5 năm 1790 cách đây ba năm, nhà thờ này được dùng làm trụ sở các đại hội của phân khu. Nó vươn cao trên một quảng trường hẹp và tối, gần hàng rào Tòa án. Mặt tiền nhà thờ có hai cây cột kiến trúc cổ điển với những công-xôn đảo ngược và bình lửa cháy đã dầu dãi với thời gian và bị con người xúc phạm. Người ta đã lấy búa đập các biểu tượng tôn giáo và thay bằng những châm ngôn Cộng hòa với dòng chữ đen tô đậm trên cửa chính: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái hay là Chết”. Évariste Gamelin bước vào gian giữa: các vòm nhà thờ trước kia bao lần vang lên lời ca của các tu sĩ bận áo thụng trắng thuộc giáo đoàn Saint Paul thì nay chứng kiến các công dân yêu nước đội mũ chụp đỏ hội họp bầu các thẩm phán của thành phố và thảo luận về công việc của phân khu. Các vị thánh đã bị lôi ra khỏi bệ; thay vào đó là tượng bán thân của Brutus, Jean-Jacques và Le Peltier. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền đặt sừng sững trên bàn thờ để trống. Jacques-Louis David (1748-1825): là họa sĩ thời cách mạng Pháp, đứng đầu trường phái Tân cổ điển. Chính tại gian giữa này, mỗi tuần hai lần, từ năm giờ chiều đến mười một giờ đêm, tiến hành các hội nghị công khai. Giảng đài có trang trí một lá quốc kì, được dùng làm diễn đàn kêu gọi quần chúng. Đối diện với giảng đài là một chiếc bục sơ sài làm bằng gỗ thô dành làm chỗ đứng cho đàn bà, trẻ con, thường đến khá đông, dự các buổi họp. Sáng hôm ấy, đứng trước một chiếc bàn kê ngay ở chân giảng đài là công dân Dupont-anh, mình mặc áo vét ngắn, đầu đội mũ chụp đỏ, làm nghề thợ mộc ở quảng trường Thionville, hiện là một trong mười hai ủy viên của ủy ban Giám sát. Trên bàn có bày một cái chai, mấy cái ly, một hộp bút và một quyển vở trong viết sẵn một kiến nghị đòi Hội đồng Quốc ước* trục xuất hai mươi hai đại biểu bất xứng. Hội đồng Quốc ước: là nghị viện cách mạng thay thế Quốc hội lập pháp từ ngày 21-9-1792 và cai trị nước Pháp cho đến ngày 26-10-1795. Évariste Gamelin cầm bút ký. “Tôi biết chắc, công dân Gamelin, cậu thế nào cũng ký, - ông ủy viên kiêm thợ thủ công nói. - Cậu là một phần tử trung kiên. Nhưng dân ở đây không nhiệt tình, lại thiếu đạo đức. Tôi đã đề nghị ban Thanh tra không cấp chứng chỉ ái quốc cho những người không ký.” “Tôi sẵn sàng dùng máu của mình ký vào kiến nghị đặt ra ngoài vòng pháp luật bọn phản quốc theo chủ nghĩa liên bang*. Họ đã muốn Marat* chết thì chính họ phải bị tiêu diệt.” Trong thời cách mạng Pháp, đây là những người chống lại những kẻ thù của tự do. Jean-Paul Marat (1743-1793): đại biểu phái Montagne trong Hội đồng Quốc ước, kịch liệt lên án và đòi chém đầu Louis XVI, bị một phụ nữ là Charlotte Corday ám sát năm 1793. “Điều nguy hiểm đối với ta chính là chủ nghĩa bàng quan. Phân khu này gồm chín trăm công dân có quyền bỏ phiếu nhưng chưa tới năm mươi người đi họp. Hôm qua lại chỉ có hai mươi tám người.” “Vậy phải bắt họ đến, nếu không thì nộp phạt.” “Này, này, - anh thợ mộc nhíu mày đáp, - nhưng nếu họ đến cả, công dân yêu nước chúng ta sẽ bị thiểu số… Công dân Gamelin, cậu có muốn làm một chén rượu chúc mừng những người cách mạng chân chính không?…” Trên tường nhà thờ, phía bên Phúc âm*, có những dòng chữ sau đây, kèm theo hình một bàn tay màu đen, ngón trỏ chỉ đường ra hành lang: Ủy ban dân sự, Ủy ban thanh tra, Ủy ban cứu trợ. Đi qua vài bước là cửa một phòng trước đây còn là gian nhà áo*, trên có ghi: Ủy ban quân sự. Gamelin đẩy cửa và thấy anh thư ký Ủy ban thanh tra đang ngồi viết trước một chiếc bàn bừa bộn sách vở, giấy tờ, thỏi thép, vỏ đạn và những mẩu đất chứa diêm tiêu. Côté de L’Évangile: Phía bên Phúc âm. Phía bên trái bàn thờ, đối với vị chủ tế. Nhà áo: là nơi các linh mục chuẩn bị trước khi làm lễ. “Công dân Trubert, chào cậu. Cậu khỏe không?” “Mình ấy à?… Mình rất khỏe…” Fortuné Robert trả lời những ai quan tâm đến sức khỏe của mình bằng một câu bất di bất dịch, muốn cho người ta biết về tình trạng của mình thì ít, mà muốn cắt đứt câu chuyện về đề tài đó thì nhiều. Anh ta mới hai mươi tám tuổi mà da đã khô, tóc thưa, gò má đỏ, lưng còng. Làm nghề bán kính ở bến Kim hoàn, anh là chủ nhân một tiệm có từ lâu đời, nhưng năm 1791 anh đã nhượng lại cho một viên thầy ký già để có thể toàn tâm làm nhiệm vụ của anh trong thành phố. Mẹ anh, một phụ nữ duyên dáng, chết lúc hai mươi tuổi mà các cụ già trong khu phố vẫn còn nhớ lại những kỷ niệm xúc động, đã để lại cho anh đôi mắt dịu dàng, đắm đuối, nước da xanh xao, tính tình rụt rè, nhút nhát. Còn tính chính xác, cần cù thì anh đã kế thừa của cha anh, kỹ sư quang học, người cung cấp vật dụng cho hoàng gia, qua đời cùng một căn bệnh khi chưa đầy ba mươi tuổi. Vẫn tiếp tục làm việc, anh hỏi: “Còn cậu, công dân, cậu thế nào?” “Tớ khỏe. Có gì mới không cậu?” “Không, không có gì mới. Cậu thấy đấy: Ở đây, tất cả đều yên tĩnh.” “Thế còn tình hình?” “Tình hình vẫn thế.” Tình hình thực khủng khiếp. Đạo quân tinh nhuệ nhất của nền Cộng hòa phải đưa vào cố thủ Mayence; Valenciennes bị bao vây; dân Vendée* chiếm Fontenay; Lyon làm loạn; Cévennes nổi dậy, biên giới với Tây Ban Nha bỏ trống; hai phần ba các quận bị xâm lăng hay nổi dậy; còn Paris không tiền bạc, thiếu cả bánh mì thì nằm trong tầm đại bác của bọn Áo. Một số dân vùng Vendée và những nơi khác chống lại cách mạng vì chính sách dân sự hóa Giáo hội và bắt lính hàng loạt của chính quyền cách mạng. Fortuné Trubert vẫn yên lặng ngồi viết, chiếu theo quyết định của Công xã* giao cho các phân khu trách nhiệm động viên mười hai nghìn người để cứu viện Vendée, anh đang thảo các chỉ thị về việc tuyển quân và cung cấp vũ khí thuộc phạm vi phân khu Cầu Mới. Tất cả súng trường sẽ được giao cho những người được trưng dụng. Đội Vệ quốc của phân khu chỉ còn súng săn và giáo mác. Công xã: là chính quyền thành phố Paris thời kỳ Cách mạng. Từ ngày 10-8-1792, công xã áp dụng chính sách khủng bố. Gamelin nói: “Mình mang lại cho cậu báo cáo về tình trạng các quả chuông phải gửi đi Luxembourg để đúc đại bác.” Mặc dầu không có một xu trong túi, Évariste Gamelin vẫn được ghi vào danh sách những thành viên tích cực của phân khu: luật chỉ ban đặc quyền đó cho các công dân tương đối giàu, đã đóng góp số tiền bằng ba ngày lao động; và muốn là ứng cử viên thì phải đóng góp mười ngày. Nhưng muốn phát huy quyền bình đẳng và giữ vững tính tự trị, phân khu Cầu Mới cho phép các công dân nào chịu bỏ tiền túi sắm đồng phục Vệ quốc được quyền bầu cử và ứng cử. Đó là trường hợp Gamelin, công dân tích cực, thành viên ủy ban quân sự. Trubert đặt bút xuống nói: “Công dân Évariste, cậu hãy qua bên Quốc ước đề nghị họ gửi cho chúng ta chỉ thị đào xới các hang động, lọc đất đá để sản xuất diêm tiêu. Có đại bác đâu đã đủ, còn cần thuốc súng nữa.” Một chàng gù bé nhỏ, bút giắt tai, tay cầm giấy tờ, bước vào. Đó là công dân Beauvisage, trong ban Thanh tra. Anh ta nói: “Này các công dân, chúng ta vừa nhận được tin xấu. Custine đã rút khỏi Landau.” “Custine là tên phản bội!” Gamelin thét lên. “Phải chém cổ hắn,” Beauvisage nói. Bằng một giọng hơi hổn hển, Trubert bình tĩnh phát biểu: “Quốc ước đâu có thành lập ủy ban cứu quốc để chơi. Hành động của Custine sẽ được đem ra xét xử. Bất lực hay phản bội, cũng phải thay y bằng một vị tướng có quyết tâm chiến thắng. Rồi sẽ ổn cả thôi!” Anh lật các giấy tờ và đọc lướt bằng cặp mắt mệt mỏi: “Muốn cho binh sĩ của ta hoàn thành nhiệm vụ, không rối loạn, không chùn bước, cần làm cho anh em hiểu rằng đời sống những người thân của họ được bảo đảm. Nếu cậu đồng ý, công dân Gamelin, trong phiên họp tới, cậu sẽ cùng mình đề nghị ủy ban cứu trợ phối hợp với bên quân sự giúp đỡ những gia đình khó khăn có con em tại ngũ.” Anh mỉm cười và ngân nga: “Sẽ ổn cả! Ổn cả!…” Như vậy là làm việc từ mười hai đến mười bốn giờ mỗi ngày trước một chiếc bàn mộc, để bảo vệ Tổ quốc lâm nguy, viên thư ký tầm thường của một ban trong phân khu không hề cảm thấy sự chênh lệch giữa mức độ to lớn của nhiệm vụ và sự nhỏ bé của phương tiện: anh cảm thấy sức mình hòa với nỗ lực chung của các công dân yêu nước, anh và đất nước là một, đời sống của anh hòa nhập vào đời sống của một dân tộc vĩ đại. Anh thuộc hạng người nhiệt tình và kiên nhẫn, sau mỗi thất bại lại chuẩn bị cho chiến thắng dường như không thể có được nhưng lại chắc chắn vô cùng. Họ phải thắng! Những con người chẳng là gì cả đó, những người đã đạp đổ vương quyền, cái anh Trubert, kỹ sư quang học tầm thường, cái anh Gamelin, họa sĩ vô danh, không thể chờ đợi sự khoan dung của kẻ thù. Họ chỉ có thể lựa chọn giữa chiến thắng và chết. Do đó họ đầy nhiệt tình và cũng vô cùng thanh thản.   Mời các bạn đón đọc Các Hung Thần Lên Cơn Khát của tác giả Anatole France & Trần Mai Châu (dịch).
Bốn Mùa - Lịch Thiên Nhiên
K. Paustovski trong Bông hồng vàng đã viết về Mikhail Prisvin: “Nếu như thiên nhiên có thể cảm thấy sự biết ơn đối với con người vì con người đã đi sâu vào đời sống bí ẩn của thiên nhiên và ca ngợi vẻ đẹp của nó, thì trước hết sự biết ơn đó phải dành cho Mikhail Prisvin”. Mikhail Prisvin là một trong những nhà văn Nga viết về thiên nhiên nổi tiếng nhất. Đầu thập niên 1970, ông đã từng “đến” và để lại trong lòng bạn đọc Việt Nam những ấn tượng rất sâu sắc qua tập sách Bốn mùa Lịch thiên nhiên. *** Mikhail Mikhailôvich Prisvin (1873—1954), nhà văn Liên—xô nổi tiếng, sinh tại thị trấn Eletxơ cổ kính của nước Nga. Ông đã sống nửa đời người trong điều kiện của nước Nga Sa hoàng cũ. Những tác phẩm đầu tay của ông thuộc vào thời kỳ này — ông bắt đầu viết từ năm 1906. Nhưng thời kỳ hưng thịnh sức sáng tác của nhà văn đã diễn ra trong những năm chính quyền xô—viết, trong một nước đang được cuộc cách mạng tái sinh. Prisvin là một người có số phận phức tạp và thú vị. Là tổ viên của những tiểu tổ cách mạng đầu tiên trong nước Nga chuyên chế, nhà nông học về mặt học vấn, hội viên Hội địa lý toàn Nga, nhà nhân chủng học, nhà vật hậu học, người đi săn say sưa và nhà du lịch, ông đã trở thành nhà văn nổi tiếng, đã viết được vài chục cuốn sách đủ loại (tiểu thuyết, truyện vừa, truyện cổ tích, truyện ký, ký sự, v. v.). Prisvin đã nồng nhiệt đáp lại những giọng nói muôn hình vạn trạng của cuộc sống. Dường như nhà văn muốn được tham gia vào tất cả những công việc đang tiến hành trong Tổ quốc thân yêu, và không chỉ là tham gia, mà còn muốn với đôi chân của mình đi qua khắp hàng nghìn cây số đường sá, rừng núi và cánh đồng của Tổ quốc, với đôi tay của mình sờ mó, vuốt ve những cành lá mềm mại cả của cây bạch dương vùng trung bộ nước Nga lẫn của cây bá hương vùng Xibêri. Nhưng đời sống con người quá ngắn ngủi, dù số phận có hào hiệp, rộng lòng kéo dài ra chăng nữa, như đối với Prisvin — nhà văn từ trần hưởng thọ trên tám mươi mốt tuổi. Đời sống của con người quá ngắn ngủi, và vì thế mỗi người sinh ra trên đời này phải chọn cho mình cái gì là chủ yếu nhất. Đối với Prisvin cái chủ yếu nhất là Thơ. Ông không bao giờ làm thơ. Trái lại, tất cả những cái gì ông đã viết ra, thì đó là văn xuôi «thông thường› nhất. Ông rất thích sự chính xác. Ông không bao giờ bị cám dỗ bởi sự bịa đặt, mà muốn kể lại cho bạn đọc của mình sự thật rất bình dị. Nhưng «sự thật rất bình dị› ấy trong các tác phẩm của Prisvin thực ra hết sức tinh vi, rất phức tạp và nên thơ cao độ, vì Prisvin viết về một trong những mặt phức tạp nhất và nên thơ nhất của cuộc sống — viết về thiên nhiên. Prisvin đã dành trên năm mươi năm hoạt động sáng tác của ông vào việc nghiên cứu, mô tả và ca ngợi thiên nhiên. Là một người biết rất rõ về phong cảnh miền bắc nước Nga, Prisvin đã viết nhiều sách, và mỗi cuốn dường như là bài ca hùng tráng về đất đai Nga thân yêu của ông. Cả Lịch thiên nhiên, cả Nước nhỏ giọt trong rừng, cả Kho mặt trời, Nhân sâm, Bốn mùa, Rừng thông cao vút, và cả những sách khác của nhà văn đều như thế cả. Những tác phẩm của Prisvin được xuất bản hàng triệu bản, cho đến nay đã và đang được nổi tiếng rất rộng rãi. Bạn đọc của Prisvin rất đông đảo và đa dạng. Những người thuộc các nghề nghiệp, các khuynh hướng, các trạc tuổi rất khác nhau đã đánh giá Prisvin là một nhà thơ chân chính của đất nước mình. Trong cuốn sách này, chúng tôi giới thiệu với bạn đọc Việt Nam hai tác phẩm trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của Prisvin— Bốn mùa và Lịch thiên nhiên. Hai tác phẩm ấy là một loạt chuyện kể về thiên nhiên Nga, không có một chủ đề nhất định. Đúng hơn đó là những nét phác họa diễn đạt rất hình ảnh, những bức tranh truyền cảm, có khi là những cảnh rất nhỏ — chỉ trong vài câu, — những quan sát trực tiếp của nhà vật hậu học nghiệp dư, của nhà tự nhiên. Mùa xuân, Mùa hè, Mùa thu, Mùa đông — nhà văn đã gọi tên các chương trong hai tác phẩm của mình như thế. Không ai có thể kể lại như Prisvin về vẻ đẹp tuyệt vời của ngày hè nóng bức, về tiếng reo vui tươi của con suối rừng, về câu chuyện bí ẩn của đàn gà lôi non, về những mạng nhện hạ xuống trên cánh đồng, những lá vàng mùa thu kêu sột soạt dưới chân người đi săn, những giọt mưa lấp lánh sa xuống đất. Vẻ hùng vĩ của rừng núi Nga mùa thu, những đường viền đăng ten của nàng mỹ nữ mùa đông, vẻ kiều diễm của đất đai đã thức dậy trong mùa xuân, vẻ tươi sáng trang trọng của bầu trời hè trong vắt — đây chính là Thơ ca chân chính rất gần gũi và dễ hiểu đối với trái tim của nhà văn. Bí mật của sức hấp dẫn lạ thường của Prisvin chính là ở cái nhìn tinh vi của ông, ở niềm vui không bờ bến của những phát hiện thường xuyên của ông. Trong mỗi chi tiết nhỏ nhặt, Prisvin tìm thấy được điều thú vị và quan trọng. Trong mỗi ngọn cỏ, trong mỗi lá cây, nhà văn thấy được nội dung sâu sắc của cuộc sống trên trái đất, và kể lại một cách rất hay đến nỗi bạn đọc cảm thấy thế giới quen thuộc của thiên nhiên chung quanh dường như sống lại và tràn đầy âm thanh. Ngôn ngữ của Prisvin rất bình dân. Nhưng chính trong tính chất bình dân đó có cả một sự chính xác kỳ lạ lẫn tính muôn màu muôn vẻ. Thật đúng là Prisvin đã dùng ngôn ngữ để vẽ, chẳng khác gì họa sĩ sử dụng cây bút lông. Văn xuôi của ông lấp lánh muôn nghìn màu sắc của chính thiên nhiên, chan chứa thanh tươi và ánh sáng. Prisvin trân trọng quý báu vốn tiếng Nga nhịp nhàng, du dương, như trân trọng quý báu tính chất nên thơ của đất đai Nga thân yêu của ông. Những tác phẩm Bốn mùa và Lịch thiên nhiên của Prisvin đều chứa đựng một tinh thần yêu nước sâu sắc. Những sách ấy giáo dục tình yêu vô hạn đối với đất nước, thiên nhiên và những con người của đất nước. Những con người trong hai tác phẩm ấy của Prisvin là những chủ nhân chân chính của đất nước mình. Trong đó bạn đọc sẽ thấy cả những nhà khảo cổ học, cả những nông dân ở các làng lân cận, cả những cậu bé hiếu học, cả những người đi săn say mê. Và đối với tất cả những người đó, cũng như đối với bản thân tác giả, tài nguyên thiên nhiên của đất nước họ thật là vô cùng quý báu. Đất đai cho con người để mà sống — đó chính là tư tưởng chủ yếu của Prisvin. Một nhà văn Liên—xô nổi tiếng khác, người đồng thời của chúng ta vừa mới từ trần, Cônxtantin Pauxtôpxki, đã nói về điều đó một cách rất đúng và rất hay: Nếu như thiên nhiên có thể cảm thấy lòng biết ơn đối với con người, vì con người đã đi sâu được vào bí mật cuộc sống của nó và đã ca ngợi vẻ đẹp của nó, thì lòng biết ơn ấy trước hết phải dành cho nhà văn Mikhain Mikhailôvich Prisvin.   Mời các bạn đón đọc Bốn Mùa - Lịch Thiên Nhiên của tác giả Mikhail Prisvin.
Tù Nhân Của Thiên Đường
Năm 1957 tại Barcelona. Chỉ còn một tuần nữa là đến Giáng Sinh, Daniel Sempere đã lập gia đình và có một cậu con trai kháu khỉnh, trong khi đó người bạn thân của anh, Fermín, cũng đang bận rộn chuẩn bị lễ cưới chính mình vào năm mới. Mọi việc tưởng chừng rất êm đẹp, bỗng một ngày nọ xuất hiện kẻ lạ mặt với bộ dạng khó nhìn, chân đi khập khiễng bước vào hiệu sách của Daniel. Quyển sách ông ta muốn mua là một bản Bá Tước Monte Cristo có minh họa cực kì đắt tiền, kèm theo lời đề tặng: “Tặng Fermín Romero de Torres, Người từ cõi chết trở về Và nắm giữ chìa khóa đi vào tương lai” Ông ta là ai và muốn gì ở Fermín? Câu trả lời nằm trong một bí mật kinh hoàng đã bị chôn giấu hơn hai mươi năm. Daniel và Fermín sẽ phải dấn thân vào một hành trình tìm kiếm quá khứ và chính bản thân họ, khi các mảnh ghép bắt đầu lộ ra và hướng mọi thứ đến trung tâm của Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên. *** Bộ sách Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên gồm có: Trò chơi của thiên thần (tiền truyện) Bóng hình của gió Tù nhân của thiên đường *** "Bóng hình của gió" và "Tù nhân của thiên đường" lần lượt là phần 1 và 3 trong 4 phần của bộ "Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên" mà các bạn có thể đọc tác phẩm để biết rõ hơn về cái "nghĩa trang" đầy sự thú vị này. Mình cũng không hiểu Nhã Nam đã làm gì với phần 2. Where is my part 2. Mặc dù lời đề tựa tác giả có nói cả 4 cuốn đều có thể được đọc một cách độc lập mà không cần phải đọc cuốn trước đó, nhưng đây là một câu chuyện liền mạch xuyên xuốt chỉ một cốt chuyện chính. Các phần ghép lại với nhau thành một mảnh ghép hoàn chỉnh hướng về "Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên"      Nói về bóng hình của gió. Cái "nghĩa trang" kì quặc kia đã xuất hiện ngay ở trang đầu tiên của tác phẩm. Tên của nó làm cho mình có một sự hưng phấn và thích thú đặc biệt bởi đó chính là nơi cất dấu những cuốn sách cũ, những cuốn sách đã bị lãng quên. Tông màu chủ đạo của tác phẩm đều u tối. Gần như hầu hết những phân cảnh quan trọng của truyện đều trong tình trạng mưa, buổi tối, xương mù, mùa lạnh. tạo cho chúng ta một không khí u ám, tối tăm, lạnh lẽo về một thành phố đổ nát sau chiến tranh thế giới. Nhân vật chính bảo vệ một cuốn sách, và nó tên là "Bóng hình của gió" đồng thời cũng là cuốn cuối cùng còn lại, làm cho mình, khi cầm chính cuốn "bóng hình của gió" trên tay như nhập hồn vào chính nhân vật đó để trải qua cuộc phiêu lưu của cậu ta, cùng cậu ta khám phá những bí mật u tối của quá khứ như thể chính mình đang ở trong tác phẩm vậy. Những cược phiêu lưu để tìm về quá khứ của con người, của những cuốn sách đáng lẽ ra đã bị chon vùi nhiều năm về trước thực sự cuốn hút và không thể dời mắt khỏi tác phẩm. Tình yêu được viết dưới ngòi bút của một nhà văn Tây Ban Nha khác hẳn với tình yêu của các tác giả khác mình đã từng đọc. Nó là một thứ tình yêu nồng cháy, lãng mạn đến tan chảy, và cũng rất nông nổi bồng bột, thứ tình yêu của tuổi trẻ, của nam nữ đôi mươi còn chưa chín chắn và hành động theo tiếng gọi của con tim. Một tác phẩm không thể tuyệt hơn để đọc vào những ngày mùa đông lạnh giá âm u.      9/10      Tù nhân của thiên đường tiếp tục liền mạch nói về những năm tiếp theo của các nhân vật chính. Có thể đọc mà không cần phần 2. Tác phẩm này thực lòng không thể sánh được với bóng hình của gió. Nó tập chung vào quá khứ của một nhân vật. Không gian truyện eo hẹp và đơn giản hơn nhiều so với phần 1. Nhưng nội dung cởi nút rất nhiều bí mật, những bí mật mà chính mình không nhận ra khi đọc xong phần một. Sự tò mò về số phận các nhân vật sẽ đi về đâu và họ sẽ sống tiếp cuộc sống của họ ra sao làm mình không thể trì hoãn việc đọc tác phẩm này, và nó đã không làm mình thất vọng. Nếu "Bóng hình của gió" là một kiệt tác thì "Tù nhân của thiên đường" như là bản vá giải đáp những bí mật mà người đọc thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của chúng khi đọc phần 1. Để rồi thốt lên "Ồ" khi gấp lại. Nêu đã đọc "Bóng hình của gió" bạn không thể bỏ qua tác phẩm này. Mình dám chắc      7.5/10 *** Carlos Ruiz Zafón được xem là một trong những nhà văn Tây Ban Nha thành công nhất hiện nay. Các tác phẩm của Zafón đã bán được hơn 38 triệu bản, dịch ra hơn 40 thứ tiếng và luôn nằm trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại. Năm 2001, cuốn sách Bóng hình của gió vừa được xuất bản đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình và đông đảo độc giả trên toàn thế giới. Tù nhân của thiên đường là phần tiếp theo của cuốn sách, trong khi Trò chơi của thiên thần lại là phần tiền truyện trong loạt tiểu thuyết này. Cuốn sách cuối cùng trong bộ tác phẩm trên ra mắt năm 2017 với tựa đề The Labyrinth of Spirits. Đây cũng là tác phẩm cuối cùng của Carlos Ruiz Zafón, trước khi ông phát hiện mình mắc căn bệnh ung thư năm 2018. *** Barcelona, tháng Mười hai, 1957 Năm ấy vào mùa Giáng sinh, mỗi buổi sớm mai được bao phủ trong làn sương giá dưới bầu trời xám xịt. Sắc xanh nhạt bao phủ lên thành phố và người ta đi qua đi lại, quấn kín đến tận tai và vẽ nên những đường hơi nước bằng hơi thở của họ trong tiết trời giá lạnh. Chẳng mấy ai nán lại để nhìn vào hiệu sách 'Sempere & Con trai', lại càng ít người đánh bạo bước vào để hỏi cuốn sách đã chờ đợi họ suốt cuộc đời mà việc nó bán được, ngoài đem lại niềm vui thi ca, sẽ góp phần làm vơi nhẹ tình trạng tài chính đang khốn khó của cửa hàng. “Con nghĩ hôm nay sẽ là ngày đó. Hôm nay vận may của chúng ta sẽ thay đổi,” tôi tuyên bố khi đang nhâm nhi ly cà phê đầu tiên trong ngày, với một niềm lạc quan thuần khiết ở trạng thái lỏng. Cha tôi, người đã chiến đấu với cuốn sổ cái từ tám giờ sáng, xoay xoay cây bút chì và cục tẩy, ngước lên từ quầy và theo dõi đám khách hàng khó với đang mất hút vào con phố. “Chúa nghe được lời con, Daniel, vì cứ thế này, nếu chúng ta không bù được lỗ trong mùa Giáng sinh, ta sẽ không đủ sức trả hóa đơn tiền điện tháng Giêng đâu. Chúng ta sẽ phải làm gì đó.” “Hôm qua Fermín có một ý,” tôi ướm thử. “Anh ta nghĩ đó là một kế hoạch thông minh và sẽ cứu hiệu sách này khỏi vụ phá sản sắp xảy ra.” “Chúa phù hộ chúng ta.” Tôi dẫn lại lời Fermín, từng chữ một: “Nếu nhỡ tình cờ người ta bắt gặp tôi đang mặc quần lót chỉnh lại mấy tấm kính của cửa hàng, một số quý cô đang cần những cảm xúc văn chương mạnh mẽ sẽ bị hút vào và bị xui khiến phải chia tay với một mớ tiền mặt. Theo ý kiến chuyên gia, tương lai của văn chương phụ thuộc vào phụ nữ, và Chúa chứng giám, chỉ có phụ nữ chưa sinh ra mới có thể cưỡng lại sức cám dỗ nguyên sơ của cái vóc dáng kỳ diệu này,” tôi thuật lại. Nghe sau lưng mình cây bút chì của cha rơi xuống sàn, tôi liền quay lại. “Fermín đã nói vậy đấy,” tôi thêm vào. Tôi nghĩ cha sẽ mỉm cười trước đề nghị của Fermín, nhưng nhận thấy ông vẫn yên lặng, tôi lén nhìn ông. Chẳng những Sempere Bố không thấy gợi ý này có chút gì hài hước, mà ông còn mang cái vẻ suy tư, cơ hồ đang cân nhắc điều đó thật nghiêm túc. “Chà, chà... có lẽ Fermín đã vô tình chạm đúng nguyên nhân rồi,” ông lẩm nhẩm. Tôi nhìn ông mà không tin nổi. Có lẽ tình trạng hiếm khách diễn ra mấy tuần vừa rồi cuối cùng đã ảnh hưởng đến óc xét đoán đáng tin của cha tôi. “Bố đừng nói là sẽ cho phép anh ta mặc quần chẽn* đi quanh hiệu sách đấy nhé.” • Nguyên văn: Y-fronts, quần chẽn của đàn ông với đường may nổi và mở ra ở phía trước, may theo hình chữ Y lộn ngược. “Không, dĩ nhiên là không. Là về mấy tấm kính hiệu sách. Con nhắc đến làm bố nghĩ ra một ý... Có lẽ rốt cuộc vẫn còn cơ hội để chúng ta cứu mùa Giáng sinh này.” Ông biến mất vào phòng sau, rồi xuất hiện trở lại, vận bộ trang phục mùa đông quen thuộc: chiếc áo khoác, chiếc khăn, và chiếc mũ mà tôi nhớ ông đã mang từ hồi tôi còn bé. Bea ngờ rằng kể từ năm 1942 cha tôi chẳng hề mua quần áo mới và mọi thứ dường như chứng minh vợ tôi đúng. Khi xỏ găng tay, cha bất giác mỉm cười, mắt ông hấp háy niềm phấn khích như trẻ nhỏ, dáng vẻ mà chỉ những công việc trọng đại mới gợi lên được ở ông. “Bố để mình con trông hiệu sách một lát,” ông tuyên bố. “Bố định làm một việc vặt.” “Con có thể hỏi bố định đi đâu được không ạ?” Cha nháy mắt với tôi. “Một điều bất ngờ. Rồi con sẽ thấy.” Tôi theo ông ra cửa, và thấy ông rảo bước về phía Puerta del Ángel, lại thêm một dáng người nữa trong làn sóng xám xịt những khách bộ hành đang băng qua một mùa đông dài khác của bóng tối và tro bụi. Mời các bạn đón đọc Tù Nhân Của Thiên Đường của tác giả Carlos Ruiz Zafón.
Phù Thủy Hắc Ám Trở Lại
“Đến tuổi nào đó, bạn sẽ đủ ‘chín’ để bắt đầu đọc truyện cổ tích trở lại.” - C.S.Lewis Phù Thủy Hắc Ám Trở Lại, tập tiếp theo của bộ truyện Lạc Vào Miền Cổ Tích, kể về chuyến phiêu lưu lần thứ hai của cặp sinh đôi Alex, Conner vào thế giới cổ tích. Và lần này, hai chị em phải đối mặt với kẻ thù đáng sợ nhất, hùng mạnh nhất của vùng đất, để giải cứu mẹ mình cũng như mọi người dân ở đây. Với lối viết truyện hấp dẫn, duyên dáng của tác giả, bộ truyện đã mở ra một thế giới phiêu lưu kỳ bí và đầy mê hoặc cho độc giả từ 8 tuổi trở lên. Phù Thủy Hắc Ám Trở Lại gồm có: TRỖI DẬY VÀ TRỞ LẠI DÒNG SUY NGHĨ TRÊN TÀU LỬA CHUYỆN BẮT ĐẦU TỪ MỘT CHÚ CHÓ BỮA TRƯA Ở THƯ VIỆN VĂN PHÒNG HIỆU TRƯỞNG LỜI CẦU HÔN TRẬN ĐỊA THẦN LÙN NGỖNG NGÔI NHÀ NHỎ CUỘC HỌP MẶT TRONG RỪNG MÓN NỢ CỦA ĐỒ BỎ XÓ NỮ HOÀNG VÀ CHÀNG ẾCH MỘT BUỔI CHIỀU KHÔNG MẤY THÚ VỊ LỌ LINH HỒN ĐŨA THẦN HUYỀN DIỆU BA HẠT ĐẬU THẦN BÀ NGOẠI BAY BÀ CHÚA TUYẾT BÀ MẸ KẾ ĐỘC ÁC LÂU ĐÀI TRÊN MÂY HÌNH ẢNH PHẢN CHIẾU MỤ PHÙ THỦY BIỂN TROLLBELLA, NỮ HOÀNG QUỶ TINH CHÚ LÙN THỨ TÁM PHU NHÂN CỦA PHƯƠNG ĐÔNG ĐÁ, RỄ CÂY, VÀ LÒNG CĂM GIẬN THỨ QUÝ GIÁ NHẤT CỦA PHÙ THỦY HẮC ÁM GIẤC MƠ PHÉP MÀU VĨ ĐẠI NHẤT DÙ HAY HAY DỞ TẠM BIỆT LỜI CẢM ƠN Bộ truyện Lạc Vào Miền Cổ Tích gồm có: Bùa Ước Phù Thủy Hắc Ám Trở Lại Lời Cảnh Báo Của Anh Em Nhà Grimm ... *** Hầm ngục là một nơi vô cùng thảm đạm. Ánh sáng hiếm hoi chập chờn hắt xuống từ những ngọn đuốc đóng đinh trên tường đá. Thứ nước hôi thối từ con hào bao quanh lâu đài bên trên rỉ xuống hầm ngục. Những con chuột to xù rượt đuổi nhau sục tìm thức ăn. Quả không phải chỗ dành cho một nữ hoàng. Vừa quá nửa đêm, tất cả chìm trong im lặng, chỉ thi thoảng mới có tiếng dây xích sột soạt. Xuyên qua cái tĩnh mịch nặng nề đó, tiếng bước chân dội vang khắp sảnh khi có người đi xuống những bậc thang xoắn ốc, tiến vào hầm ngục. Một phụ nữ trẻ xuất hiện cuối bậc thang, cả người được phủ kín bằng tấm áo choàng dài màu ngọc bích. Nàng thận trọng lần bước giữa dãy phòng giam, gây hiếu kỳ cho các tù nhân trong đó. Với mỗi bước đi, nhịp chân nàng lại chậm hơn và nhịp tim đập lại thêm gấp gáp. Tù nhân được xếp chỗ theo tội lỗi đã phạm. Nàng càng dấn bước sâu vào trong hầm ngục lại càng gặp phải những tù nhân độc ác và nguy hiểm hơn. Cái đích mà nàng đang hướng đến là phòng giam ở cuối hành lang, nơi đó, viên cai ngục to lớn đang canh giữ một tù nhân đặc biệt. Nàng đến đây để tìm lời giải đáp cho một câu hỏi. Câu hỏi đơn giản thôi, nhưng nó đã xâm chiếm suy nghĩ của nàng mỗi ngày, khiến nàng thao thức hàng đêm và là thứ duy nhất hiện ra trong giấc mơ của nàng mỗi khi nàng có thể thiếp đi giây lát. Chỉ có một người có thể cho nàng câu trả lời cần biết và người đó đang ở bên kia chấn song phòng giam phía trước. “Tôi muốn gặp bà ta,” người phụ nữ khoác áo choàng bảo viên cai ngục. “Không ai được phép vào thăm bà ta cả,” viên cai ngục đáp, có vẻ thích thú với lời đề nghị lạ lùng. “Tôi đang chấp hành mệnh lệnh nghiêm ngặt của hoàng gia.” Người phụ nữ này liền hạ mũ trùm đầu xuống để lộ gương mặt. Nàng có làn da trắng như tuyết, tóc đen như gỗ mun và đôi mắt xanh như rừng thẳm. Vẻ đẹp của nàng nổi tiếng khắp vương quốc và câu chuyện về nàng lại còn vang xa hơn thế. “Nữ hoàng, xin hãy thứ lỗi cho thần!” viên cai ngục kinh ngạc tạ lỗi. Anh ta vội vã gập người cúi chào thật thấp. “Thần không trông đợi có người từ cung điện đến đây.” “Không cần tạ lỗi đâu,” nàng nói. “Nhưng làm ơn đừng tiết lộ việc ta đến đây tối nay.” “Dĩ nhiên rồi ạ,” viên cai ngục gật đầu. Người phụ nữ đến trước chấn song, chờ viên cai ngục nâng chúng lên nhưng anh ta lại ngập ngừng. “Người có chắc là muốn vào đó không, thưa Nữ hoàng?” Viên cai ngục hỏi. “Chẳng liệu được bà ta có thể làm chuyện gì đâu.” “Ta phải gặp bà ta,” nàng kiên quyết. “Bằng mọi giá.” Viên cai ngục bắt đầu quay tròn tay đòn bẩy và chấn song phòng giam được nhấc lên. Người phụ nữ hít một hơi thật sâu và tiếp tục bước qua đó. Nàng tiến vào một hành lang dài hơn, tối hơn; từng chấn song, từng rào chắn lần lượt được nhấc lên và hạ xuống khi nàng vượt qua chúng. Cuối cùng, nàng đã đến cuối hành lang, chấn song cuối cùng được nâng lên và nàng bước vào phòng giam. Tù nhân ở đây là một phụ nữ. Bà ta ngồi trên một chiếc ghế cao giữa phòng giam, ngước nhìn chằm chằm lên khung cửa sổ nhỏ hẹp. Mất ít phút để tù nhân nhận ra có vị khách viếng thăm đằng sau. Đó là người đầu tiên đến thăm bà ta từ bấy đến nay, chẳng cần nhìn bà ta cũng biết là ai; chỉ có thể là một người duy nhất đó thôi. “Xin chào, Bạch Tuyết,” tù nhân khẽ nói. “Xin chào người, Mẹ Kế,” lời đáp của Bạch Tuyết run rẩy và lo lắng. “Hy vọng mẹ vẫn khỏe.” Mặc dù Bạch Tuyết đã chuẩn bị trước những điều muốn nói, giờ đây nàng vẫn cảm thấy khó thốt nên lời. “Ta nghe nói giờ ngươi là nữ hoàng,” người mẹ kế tiếp. “Đúng vậy,” Bạch Tuyết đáp. “Con đã kế thừa ngôi vị như dự định của cha.” “Vậy thì sao ta lại có vinh hạnh này đây? Ngươi đến để xem ta héo hắt đi chăng?” người mẹ kế gằn giọng. Giọng nói ấy đầy quyền uy và sức mạnh; người ta kháo nhau rằng nó làm cho ngay cả người đàn ông mạnh mẽ nhất cũng phải tan chảy như nước đá. “Trái lại,” Bạch Tuyết đáp. “Con đến để tìm hiểu.” “Hiểu gì mới được chứ?” người mẹ kế cay nghiệt đáp trả. “Hiểu vì sao…” Bạch Tuyết ngập ngừng. “Vì sao mẹ lại phải làm những việc đó.” Khi cuối cùng cũng nói lên được lời này, Bạch Tuyết cảm thấy như có một gánh nặng vừa cất khỏi vai mình. Rốt cuộc nàng cũng hỏi được điều bấy nay vẫn đè nặng trong tâm trí. Khó khăn thế là cũng qua một nửa rồi. “Có nhiều chuyện về thế giới này mà ngươi không hiểu đâu,” người mẹ kế nói và quay lại nhìn đứa con của chồng mình. Đó là lần đầu tiên Bạch Tuyết nhìn thấy gương mặt mẹ kế sau một quãng thời gian dài. Đó là gương mặt một người phụ nữ đã từng mang vẻ đẹp hoàn hảo, người phụ nữ từng là hoàng hậu. Vậy mà giờ đây, người ngồi trước mặt nàng chỉ còn là một tù phạm, mà vẻ đẹp đã phai thành một gương mặt cau có, buồn bã. “Có lẽ là thế,” Bạch Tuyết đáp lời. “Nhưng mẹ có thể trách con vì cố gắng tìm hiểu lý do đằng sau hành động của mẹ không?” Những năm vừa qua trong đời Bạch Tuyết là giai đoạn gây xôn xao tranh cãi nhất trong lịch sử hoàng tộc của vương quốc. Ai ai cũng biết câu chuyện nàng công chúa xinh đẹp trú ẩn nơi ngôi nhà của Bảy Chú Lùn, trốn tránh mụ dì ghẻ ganh ghét. Ai ai cũng biết về quả táo tẩm độc nổi tiếng và vị hoàng tử quyết đoán đã đem Bạch Tuyết trở về từ cõi chết. Câu chuyện thật đơn giản, nhưng hậu truyện không như thế. Ngay cả khi bận bịu với việc triều chính và cuộc hôn nhân mới mẻ, Bạch Tuyết vẫn nhận thấy mình thường xuyên tự hỏi liệu lời đoán định về sự ích kỷ của mẹ kế nàng có đúng không. Điều gì đó bên trong vị nữ hoàng trẻ tuổi này vẫn không tin một người lại có thể độc ác đến vậy. “Mẹ có biết ngoài kia người ta gọi mẹ là gì không?” Bạch Tuyết hỏi. “Bên ngoài những bức tường nhà giam này, nhân gian gán cho mẹ là Hoàng hậu Độc Ác.” “Nếu thế gian đã gán cho ta tên gọi đó, vậy thì đó là cái tên mà ta sẽ học cách để sống cùng,” Hoàng hậu Độc Ác đáp. “Một khi thế gian này quyết định, không có nhiều thứ người ta có thể làm để thay đổi cách nghĩ của nó.” Bạch Tuyết lấy làm ngạc nhiên trước sự dửng dưng của người mẹ kế, nhưng Bạch Tuyết cần bà phải để tâm. Nàng cần biết trong bà vẫn còn chút nhân tính. “Họ muốn xử tử mẹ sau khi tra rõ tội lỗi mẹ đã phạm với con! Cả vương quốc này muốn mẹ phải chết!” Giọng Bạch Tuyết nhẹ dần, chỉ còn là lời thì thầm yếu ớt khi nàng cố chống lại những cảm xúc dâng trào. “Nhưng con sẽ không cho phép điều đó xảy ra. Con không thể…” “Vậy ra ta phải cảm ơn ngươi vì tha chết cho ta sao?” Hoàng hậu Độc Ác hỏi vặn. “Nếu ngươi trông chờ ai đó phủ phục xuống chân ngươi và bày tỏ lòng biết ơn, ngươi đã vào nhầm phòng giam rồi đấy.” “Con không làm thế vì mẹ đâu. Con làm thế vì bản thân con,” Bạch Tuyết đáp. “Dù sao đi nữa, người là người mẹ duy nhất con từng biết. Con quyết không tin mẹ lại là quái vật vô lương tâm như người ta nói. Bất kể điều đó có đúng hay không, con tin rằng sâu thẳm trong mẹ còn có một trái tim.” Nước mắt lăn dài trên gương mặt trắng trẻo của Bạch Tuyết. Tuy đã hứa với lòng mình sẽ vững tâm, nàng vẫn không kiềm chế được cảm xúc khi đứng trước người mẹ kế. “Vậy thì ta e rằng ngươi đã sai rồi,” Hoàng hậu Độc Ác nói. “Lương tâm duy nhất ta có đã chết từ lâu và trái tim duy nhất mà ta sở hữu là một trái tim bằng đá.” Hoàng hậu Độc Ác đúng là có một quả tim đá, nhưng không phải trong người bà ta. Một hòn đá có hình dạng và kích thước hệt như trái tim người được đặt trên cái bàn nhỏ ở góc phòng giam. Đó là vật duy nhất Hoàng hậu Độc Ác được phép giữ bên mình khi bà ta bị bắt. Bạch Tuyết nhận ra hòn đá đó từ những ngày thơ ấu. Nó bao giờ cũng rất quý giá đối với mẹ kế nàng, Hoàng hậu Độc Ác chưa bao giờ để nó ra khỏi tầm mắt. Bạch Tuyết chưa từng được phép chạm vào hay cầm lấy nó, nhưng bây giờ thì không gì có thể ngăn cản nàng. Nàng bước ngang qua phòng giam, cầm vật đó lên và tò mò nhìn. Nó gợi lại biết bao nhiêu hồi ức. Mọi sự thờ ơ và nỗi buồn mẹ kế đã gây cho nàng khi nàng còn là một đứa trẻ ùa về. “Cả đời này con chỉ muốn một điều duy nhất,” Bạch Tuyết nói. “Tình yêu thương của mẹ. Khi còn là một cô bé, con từng dành hàng giờ lẩn trốn trong lâu đài, những mong mẹ sẽ nhận thấy thiếu vắng con, nhưng mẹ chưa từng nhận ra. Mẹ ở trong phòng hết ngày này qua ngày khác với tấm gương, kem dưỡng da của mẹ và hòn đá này. Mẹ dành nhiều thời gian cho những người lạ mặt với các bí quyết chống lão hóa hơn là cho con gái của mẹ. Nhưng vì sao chứ?” Hoàng hậu Độc Ác không trả lời. “Bốn lần mẹ cố gắng giết con, ba lần chính tay mẹ thực hiện,” Bạch Tuyết tiếp, lắc đầu không tin được. “Khi mẹ phục sức như một bà già và đến tìm con nơi nhà của các chú lùn, con biết đó là mẹ chứ. Con biết mẹ rất nguy hiểm, nhưng con vẫn để mẹ vào nhà. Con vẫn hy vọng rằng mẹ sẽ thay đổi. Con đã để mẹ làm tổn thương con.” Bạch Tuyết chưa bao giờ tiết lộ điều này với bất cứ ai, nàng chỉ biết vùi mặt vào tay khóc sau khi thốt nên lời. “Ngươi nghĩ ngươi biết thế nào là tan nát cõi lòng ư?” Hoàng hậu Độc Ác nói với vẻ gay gắt đến độ khiến người con riêng của chồng giật mình. “Ngươi chẳng biết gì về nỗi đau cả. Ngươi không bao giờ nhận được chút trìu mến nào từ ta nhưng từ khi được sinh ra, ngươi đã được cả vương quốc này yêu mến. Người khác, trái lại, không được may mắn thế. Với Người khác, Bạch Tuyết à, đôi khi tình yêu duy nhất của đời họ cũng bị tước đi.” Bạch Tuyết không biết phải nói gì. Bà ấy đang nói về tình yêu nào đó? “Mẹ đang nói về cha con sao?” Bạch Tuyết hỏi. Hoàng hậu Độc Ác nhắm mắt lại và lắc đầu. “Tính ngây thơ quả là một phẩm chất được nhiều ưu ái,” bà ta nói. “Tin hay không thì tùy, Bạch Tuyết à, ta từng có cuộc đời của riêng ta trước khi bước vào cuộc đời ngươi.” Bạch Tuyết lặng đi và hơi xấu hổ. Dĩ nhiên nàng biết mẹ kế từng có một cuộc đời khác trước khi kết hôn với cha nàng, nhưng nàng chưa bao giờ nghĩ tới những gì có trong cuộc đời đó. Mẹ kế của nàng luôn rất kín đáo, Bạch Tuyết chẳng có lý do gì để nghĩ sâu xa cả. “Tấm gương của ta đâu?” Hoàng hậu Độc Ác gặng hỏi. “Nó sẽ bị phá hủy,” Bạch Tuyết đáp lời bà. Đột nhiên, hòn đá của Hoàng hậu Độc Ác trong tay Bạch Tuyết trở nặng. Bạch Tuyết không rõ liệu có thật vậy không hay nàng chỉ tưởng tượng thế thôi. Cánh tay cầm hòn đã trở nên mỏi nhừ và nàng phải đặt nó xuống. “Có quá nhiều điều mẹ không nói cho con,” Bạch Tuyết nói. “Có quá nhiều điều bao nhiêu năm nay mẹ giấu con.” Hoàng hậu Độc Ác cúi đầu và nhìn chằm chằm xuống đất. Bà giữ im lặng. “Con có lẽ là người duy nhất trên thế gian dành cho mẹ lòng thương cảm. Làm ơn nói con biết rằng lòng thương đó không phải là vô ích,” Bạch Tuyết van xin. “Nếu có chuyện gì trong quá khứ tác động đến những quyết định gần đây của mẹ, hãy cho con biết.” Vẫn không có câu trả lời nào. “Con sẽ không rời khỏi đây đến chừng nào mẹ kể con nghe!” Bạch Tuyết kêu lên, lần đầu trong đời nàng lớn tiếng. “Được thôi,” Hoàng hậu Độc Ác nói. Bạch Tuyết liền ngồi xuống một chiếc ghế cao khác trong phòng giam. Hoàng hậu Độc Ác nấn ná trong giây lát trước khi bắt đầu và Bạch Tuyết càng thêm chờ đợi. “Người ta sẽ mãi mãi lãng mạn hóa câu chuyện của ngươi,” bà ta bảo Bạch Tuyết. “Sẽ không có ai đoái hoài đến câu chuyện của ta. Ta sẽ tiếp tục bị hạ nhục, biến thành một kẻ độc ác ghê tởm cho đến muôn đời. Tuy nhiên, điều mà thế giới không thể nhận ra là một nhân vật phản diện chỉ là một nạn nhân mà chuyện của họ vẫn chưa được kể. Tất cả những gì ta đã làm, sự nghiệp cả đời ta và tội lỗi của ta chống lại ngươi, tất cả là vì ông ấy.” Bạch Tuyết cảm thấy trái tim mình trở nên nặng nề. Đầu óc nàng choáng váng và sự tò mò chiếm lĩnh toàn bộ con người nàng. “Ai cơ?” nàng vội hỏi đến độ quên kiềm chế sự nóng vội trong giọng nói. Hoàng hậu Độc Ác nhắm mắt lại và để những ký ức trở lại. Hình ảnh những nơi chốn, những người bà đã biết trong quá khứ hiện ra từ thẳm sâu tâm trí như ánh đom đóm trong hang động. Có rất nhiều điều bà đã chứng kiến trong những năm tháng thanh xuân, quá nhiều thứ bà ước rằng mình nhớ và quá nhiều thứ bà muốn quên đi. “Ta sẽ kể ngươi nghe về quá khứ của ta, hay ít nhất là quá khứ của người từng là ta,” Hoàng hậu Độc Ác nói. “Nhưng ta cảnh báo ngươi. Chuyện của ta không phải là một câu chuyện có kết thúc hạnh phúc mãi mãi.”   Mời các bạn đón đọc Phù Thủy Hắc Ám Trở Lại của tác giả Chris Colfer.