Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vì Sao Bạn Ế? - Vạch Trần 27 Định Kiến Sai Lầm Gán Lên Phụ Nữ Độc Thân

CÓ VẤN ĐỀ GÌ VỚI EM VẬY? Chúng tôi gặp nhau trong một quán bar ở Brooklyn – phiên bản hippy của một câu lạc bộ cũ kỹ phong cách Ý. Anh ta khá ưa nhìn, tóc hơi bạc và nặng nề hơn so với ảnh đại diện, nhưng dĩ nhiên là cả tôi cũng thế. Chúng tôi tán gẫu đủ thứ chuyện về khu phố, công viên dành cho chó mà cả hai đều ưa thích, nhà hàng châu Á sắp đóng cửa khiến chúng tôi tiếc nuối – và trao đổi những số liệu thống kê quan trọng – đã sống ở New York bao nhiêu năm, gia đình có mấy anh chị em. “Lần cuối em yêu một ai đó cách đây bao lâu rồi?” Anh ta hỏi rành rọt, y như chuyên gia vệ sinh răng miệng tra hỏi việc dùng chỉ nha khoa của tôi. “3 năm,” tôi nói dối. Sự thật là gần 6 năm rồi. Anh ta ngả người ra sau, nhìn tôi bình thản với vẻ tò mò như thể tôi là một quán ăn vắng khách hay một ngôi nhà rao bán mãi không ai mua. “Có vấn đề gì với em vậy?” Anh ta hỏi. “Em không biết,” tôi đáp. “Nhưng em hấp dẫn lắm mà?” Anh ta hỏi cứ như thể chính mình cũng không dám chắc nữa. Như thể tôi có thể giải đáp cho anh ta vậy. “Phải nói với anh thế nào đây,” tôi nói. “Chính em cũng không biết.” Dĩ nhiên tôi giận sôi lên. Tôi uống nốt ly cocktail gừng, nói rằng sáng mai mình còn phải dậy sớm. Thực ra câu hỏi của anh ta cũng chẳng tồi tệ hơn câu nói tôi vẫn tự vấn hàng ngày là bao. Đây hoàn toàn không phải là sự ghê tởm bản thân, mà đúng hơn là một cảm giác đột ngột dâng trào, sự trống rỗng mà thỉnh thoảng tôi vẫn cảm thấy trong lồng ngực – một chuyến tàu điện ngầm thật dài về nhà sau buổi hẹn hò chẳng có gì đặc biệt; một cuộc tán gẫu qua điện thoại tối Chủ nhật với cô bạn đã có gia đình, rồi cô ấy đột ngột nói rằng phải cúp máy vì chồng cô ấy vừa lấy món thịt nướng ra khỏi lò. Tại sao tôi không thể tìm được điều quan trọng nhất với bản thân mình? Tôi đã cố gắng rất nhiều – nghe theo những lời thúc giục liên hồi “hãy bước ra ngoài kia đi”, tự đào sâu trong tâm thức để xem liệu có chướng ngại cảm xúc nào đang ngăn cản tôi tìm thấy tình yêu của đời mình không. Tôi bỏ ra hàng tiếng đồng hồ đi dự tiệc sinh nhật bạn bè của đồng nghiệp và các buổi diễn đêm muộn do mấy ban nhạc của người quen hồi đại học trình diễn. Tôi đổ không biết bao nhiêu thời gian và tiền bạc vào yoga, gym và các hình thức chăm sóc bản thân khác. Vậy mà chẳng có gì biến chuyển. Tôi vẫn là một phụ nữ gần 40 tuổi độc thân. Sao thế nhỉ? Có vấn đề gì với tôi vậy? Khi nói chuyện với những người dù đã khá nhiều tuổi rồi mà vẫn độc thân – dù đó không phải là lựa chọn của họ – tôi được nghe câu hỏi tai hại này nhiều hơn hết thảy. Họ đều rất thông minh, trưởng thành, có nghề nghiệp – phóng viên, giáo sư đại học, nhà sáng lập doanh nghiệp – những người thường lái xe chở mẹ mình đi khám bác sĩ và chăm sóc các cháu cẩn thận. Họ có nhiều bạn thân, những thói quen rèn luyện cơ thể lành mạnh, và một chân trong hội đồng địa phương. Nhưng vẫn còn thiếu một thứ, và rất nhiều người độc thân không thể vờ coi như nó chẳng có ý nghĩa gì với mình. Dù họ rất muốn sống với lý tưởng độc thân tự chủ hoàn hảo – linh hồn khao khát tự do cháy bỏng không để quan hệ tình cảm kìm hãm – nó lại không phải là thực tại của họ. Họ không muốn lập gia đình ổn định, nhưng họ vẫn muốn có người yêu. Và thế là họ đặt ra câu hỏi Tại sao. Khi nghiêm túc tự vấn bản thân, họ tìm thấy rất nhiều lời giải thích, thông thường là trái ngược nhau: “Mình khó tính quá!” “Mình tỏ ra tuyệt vọng quá!” “Mình độc lập quá!” “Mình lúc nào cũng đòi hỏi được quan tâm!” “Mình đáng sợ quá!” “Mình bi quan quá!” “Mình phi thực tế quá!” “Mình thiếu tự tin quá!” Khi bạn vẫn chịu cảnh độc thân dù không mong muốn, danh sách những “chứng bệnh” như vậy cứ kéo dài vô tận. Ngay cả khi bạn phản bác lại: “Nói tôi độc lập quá nghĩa là sao? Không lẽ tôi phải bỏ việc và quay về sống cùng bố mẹ à?” – chỉ riêng số lượng quá lớn lý do cũng có thể khiến một người độc thân tự tin nhất phải hoài nghi về bản thân mình. Chắc hẳn một trong số đó là sự thật rồi. Chúng ta đang sống ở một đất nước rất coi trọng tính hiệu quả về đời sống riêng tư – nếu có chuyện gì đó không như ý trong đời, chắc chắn điểm bắt đầu và kết thúc của nó nằm ở chính bản thân bạn. Ngay cả những người bị chẩn đoán mắc các chứng bệnh nghiêm trọng vẫn được chỉ định phải duy trì thái độ tích cực, cứ như thể làm vậy sẽ giúp khối ung thư ấy biến mất! Rất nhiều hướng dẫn kiểu này bắt nguồn từ dụng ý tốt – đương nhiên, rõ ràng việc tự lèo lái đời mình tới một tương lai hạnh phúc là ý tưởng hay. Tất nhiên, chúng ta hiểu rằng nếu muốn giành được những phần thưởng của cuộc đời – công việc thú vị, ngôi nhà đẹp, quan hệ xã hội rộng – thì phải cố gắng hết mình. Nhưng điều huyễn hoặc về khả năng chúng ta kiểm soát được 100% cuộc đời lại khiến ta vô cùng khắt khe với bản thân, đặc biệt là những người độc thân nóng lòng muốn giải đáp câu hỏi Tại sao này, họ thường sẵn lòng chấp nhận giả thuyết cho rằng một khiếm khuyết tính cách tai hại nào đó đang ngăn trở họ tìm thấy tình yêu của đời mình. Với tôi, niềm an ủi đến từ nơi mà những phụ nữ độc thân thường tìm tới: Các cô bạn độc thân khác. Chúng tôi sẽ tụ tập vào các tối thứ Sáu và thứ Bảy, chia sẻ những câu chuyện tức cười hay bi thảm về việc hẹn hò thảm hại của mỗi người, tự trấn an nhau về vẻ đẹp, sự thông minh và lòng tốt bụng của các thành viên trong nhóm, tự hỏi tại sao đám đàn ông ngu ngốc không nhìn thấy những điểm đó ở bạn mình. Trong những buổi gặp mặt đó, chúng tôi cố tìm lời giải thích cho mọi chuyện. Tại sao chuyện tình cảm không đến với chúng tôi? Phải chăng những người đã lập gia đình thực sự quyến rũ hơn hay ổn định hơn về mặt cảm xúc? Đôi khi, ai đó sẽ tuyên bố những phụ nữ đã lấy chồng thực ra rất khổ sở, và chính họ mới phải ghen tỵ với chúng tôi. Nhưng lý thuyết này chẳng bao giờ đứng vững được lâu – chúng tôi biết quá rõ những người bạn đã lập gia đình của mình sẽ chẳng bao giờ hoán đổi vị trí với chúng tôi, dù họ có than phiền về các ông chồng nhiều đến mức nào đi chăng nữa. Dĩ nhiên, có rất nhiều cuốn sách và chương trình truyền hình khắc họa chi tiết cuộc sống của những phụ nữ đó, nhưng trong các câu chuyện này, những người đàn ông đáng yêu, khiêm tốn bao giờ cũng gặp nhân vật nữ chính ở công viên hay điểm chờ xe buýt rồi mời cô ta đi ăn tối. Ngay cả trong những trường hợp sóng gió hơn, người phụ nữ độc thân trong chương trình sitcom không bao giờ ở vậy quá lâu. Thay vào đó, cô ta nhảy hết từ anh chàng này tới anh chàng khác, toàn một kiểu đẹp trai nhưng lắm tật. Tôi cùng các bạn mình đều đã từng hẹn hò và có những mối quan hệ tình cảm ngắn ngủi, nhưng phần lớn thời gian là chúng tôi độc thân. Đương nhiên chúng tôi vẫn còn có nhau, nhưng không phải theo kiểu tâm đầu ý hợp hoàn hảo như trên tivi. Chúng tôi không sống cùng một tòa chung cư, không đột ngột tới nhà nhau làm bánh kẹp pho-mát và thịt nướng hay bày cho nhau những chiêu trò phỏng vấn xin việc. Chúng tôi không phải lúc nào cũng có thời gian cùng nhau ăn bữa sáng muộn trong chớp nhoáng hay tham gia chuyến đi tới Jamaica được lên kế hoạch vào phút chót. Ngược lại, chúng tôi đều có cuộc sống riêng độc lập đầy phức tạp, đi theo những con đường khác nhau, kiểu cuộc sống đôi khi buộc chúng tôi phải làm việc tới 16 tiếng/ngày, di chuyển sang các bang khác, chăm lo một mối quan hệ tình cảm đang chớm nở. Chúng tôi gặp nhau theo đúng cách mà những người bận rộn sống trong thành phố vẫn làm – lên lịch hẹn trước mấy ngày hoặc mấy tuần. Nghĩa là, chúng tôi thường xuyên ở một mình dù có thời gian rảnh. Vì tôi tin vào lời khuyên “chính thống” rằng tôi có thể “tự cải thiện bản thân” để “sẵn sàng cho tình yêu”, tôi cố tiếp cận những buổi tối im ắng và các kỳ nghỉ cuối tuần sao cho hiệu quả nhất. Tôi biết nếu cố tìm người có thể khiến mình hạnh phúc, tôi sẽ chỉ thất vọng tột cùng mà thôi. Không ai có thể yêu tôi nếu tôi không học cách yêu bản thân mình. Vậy thì: Bắt tay vào việc thôi! Trên nhiều phương diện, đúng là tôi có “cải thiện” thật. Tôi đã vượt qua nỗi sợ phát biểu trước đám đông, tự học nấu ăn, học cách “trồng cây chuối” trên hai tay. Tôi cũng mở rộng các mối quan hệ của mình – tổ chức những buổi tiệc tối, thuê chung nhà nghỉ mùa hè, tham gia hội nghệ sĩ. Quả thực tôi đã có quãng thời gian rất vui vẻ và gặp gỡ nhiều người bạn mới. Nhưng tôi vẫn chưa sánh đôi với ai, và trong bóng tối đêm thứ Bảy, tôi tiếp tục băn khoăn: “Có vấn đề gì với mình vậy?” Trong buổi hẹn hò đầu tiên với Mark, anh ấy đã hỏi tôi đúng câu hỏi đáng sợ: “Bao lâu rồi?” Tôi nhìn xuống bàn, tay cầm cốc bia. Câu trả lời là 8 năm – điều mà tôi không muốn chia sẻ. Thực tình có nói ra cũng chẳng sao. Tôi và Mark đã làm việc cùng nhau được 2 tháng. Anh ấy thường có mặt ở văn phòng tôi, gửi những bức e-mail tán tỉnh và – điều tôi luôn cảm thấy thật đáng yêu còn anh ấy thì sợ hết hồn – mỗi lần nói chuyện với nhau là mặt anh ấy lại đỏ bừng lên. Hẳn là anh ấy đã mê tôi như điếu đổ rồi. Nhưng tôi vẫn không muốn trả lời. “Lâu rồi,” tôi nói và đảo mắt, hy vọng với anh ấy thì 6 tháng đã “lâu” lắm rồi. Tôi thú nhận với anh ấy vài tuần sau đó, khi chúng tôi trốn việc đi uống cà phê và trao cho nhau những nụ hôn. “Có điều này em phải nói với anh,” tôi nói với vẻ nghiêm trọng, hệt như sắp sửa tiết lộ một căn bệnh chết người hay ông chồng bí mật ở New Jersey. Tôi hít sâu một hơi rồi nói mình đã không có bạn trai suốt gần 10 năm nay, dù tôi đã cố gắng cật lực. Mark nhún vai: “Ồ, anh thật may mắn. Tất cả những gã đàn ông khác đều là lũ ngốc.” Hóa ra là thế. Với Mark, tôi không phải là một vấn đề cần giải quyết, một câu đố cần tìm lời giải. Tôi là cô gái mà anh yêu, cũng như tôi yêu anh ấy vậy. Mark không tìm kiếm một hình mẫu phụ nữ chuẩn mực đáng để cưới – có trời biết cụm từ này nghĩa là gì. Chỉ đơn giản là anh ấy yêu tôi, thế thôi. Gần một năm sau, tôi và Mark chuyển tới sống cùng nhau. Bốn năm sau, chúng tôi kết hôn. Bạn bè tôi tới dự buổi hôn lễ trong một công viên nhỏ ở Brooklyn – có người còn đưa cả chồng tới. Tôi có những người bạn hiện vẫn đang tìm kiếm tình yêu của mình, những người bạn đã lập gia đình, và những người bạn giờ đã ly dị. Tôi nhận thấy sự khác biệt chủ yếu là do ngẫu nhiên chứ không phải ở tính cách. Bởi lẽ sau chừng ấy năm tự dằn vặt bản thân, những người bạn lập gia đình muộn và cả chính tôi đều đã tìm được người đàn ông sẵn sàng yêu thương mình, dù chúng tôi vẫn gàn dở, bốc đồng, dù sự nghiệp vẫn chưa đâu vào đâu, dù thỉnh thoảng lại lớn tiếng hoặc uống rượu say, hay chửi thề khi nghe bản tin trên tivi. Tóc chúng tôi đã ngả muối tiêu, ăn vận lỗi mốt, thái độ thì tồi tệ. Vậy mà họ vẫn yêu thương chúng tôi. Có vấn đề gì với tôi vậy? Có vấn đề gì với bất kỳ ai trong số chúng ta? Thành thực mà nói, câu trả lời có lẽ là “rất nhiều”. Nhưng mấu chốt vấn đề không nằm ở đó. BẠN NGHĨ MÌNH LÀ AI? Vào những năm 1960, khi học giả Phật giáo Tây Tạng Chögyam Trungpa lần đầu tới phương Tây để nghiên cứu Tâm lý học tại Đại học Oxford, ông đã rất ngạc nhiên khi khám phá ra khái niệm “tội lỗi nguyên bản” không chỉ là một niềm tin tôn giáo mà còn là nền móng của những suy nghĩ thế tục. “Trong số các bệnh nhân, lý thuyết gia, chuyên gia trị liệu, dường như tất cả đều lo lắng với ý nghĩ về một tội lỗi nguyên bản nào đó, điều này dẫn tới những đau khổ sau này – một thứ hình phạt cho tội lỗi đó,” ông viết trong cuốn The Sanity We Are Born With (tạm dịch: Sự minh mẫn bẩm sinh). “Việc con người cảm nhận cảm giác tội lỗi hay bị tổn thương diễn ra khá phổ biến. Dù người đó có thực sự tin vào khái niệm tội lỗi nguyên bản hay tin vào Chúa trời không, dường như họ cảm thấy mình đã làm điều gì sai trái trong quá khứ và giờ đang chịu sự trừng phạt.” Ông cũng giải thích rằng Phật giáo Tây Tạng có quan điểm khác hẳn: Mọi sự trên đời về cơ bản đều tốt. Một hình ảnh so sánh dễ hiểu là bức tượng bằng vàng bị chôn trong bùn. Thay vì lo lắng về những khiếm khuyết thâm căn cố đế cần phải loại trừ, chúng ta chỉ cần gột rửa tất cả những gì ô uế đã tự phủ lên mình trước đó – tôi quá thế này, tôi chưa đủ thế nọ. Khi đã lột bỏ những lớp phủ ngoài đen tối đó, chúng ta còn lại một sinh thể đơn giản không cần cải thiện gì thêm. Ý tưởng cốt lõi đó khác hẳn với nền văn hóa chúng ta đang sống, nơi những giọng nói thay nhau động viên và chê trách không ngừng thúc giục chúng ta phải cải thiện bản thân. Tôi không nói điều đó lúc nào cũng sai trái, nhưng theo tôi, đây cũng là một ý niệm nên suy nghĩ, nhất là với những người mắc phải cái bẫy “Có vấn đề gì với mình vậy?” Với mục đích đó, tôi đã viết cuốn sách này xoay quanh các thông điệp mà những người độc thân, đặc biệt là phụ nữ, phải nghe mãi rằng họ là ai và họ phải làm gì. Chúng tới từ các cuốn sách kỹ năng, bài phê bình xã hội, các câu chuyện nổi bật, những chương trình ghép đôi, dịch vụ hẹn hò qua mạng, bạn bè và gia đình – những người luôn mong muốn điều tốt nhất cho chúng ta nhưng thường không biết phải làm gì. Tôi không có ý đả kích các chuyên gia hẹn hò – những người mà nói thật, có thể là những mục tiêu di chuyển chậm chạp; cũng không nhằm kích động sự ác cảm trong bạn với những người quan tâm bạn. Tôi muốn gỡ bỏ hết những lời góp ý khiến người ta phát điên với hy vọng giúp bạn khám phá ra bản năng của mình. Trước khi bắt đầu, có vài điều cần chú ý: Tôi không phải là chuyên gia – tôi không có bằng Tiến sĩ hay sở hữu chương trình truyền hình thực tế. Tôi chỉ là một cây viết tự do đã từng thuật lại những câu chuyện về cân bằng cảm xúc trong nhiều năm, đồng thời là học viên mới nhập môn Phật giáo Tây Tạng. Tôi không dám mạo muội nói về tất cả những người đang độc thân. Đương nhiên là rất nhiều người trong số họ cảm thấy hạnh phúc với tình trạng này, hoặc đang tìm kiếm người yêu mà không bận tâm với câu hỏi “Có vấn đề gì với mình vậy?” Đối tượng tôi hướng tới khi viết cuốn sách này rất cụ thể – những phụ nữ trung lưu có xu hướng tình dục bình thường, da trắng, không con cái. Quan điểm của tôi không đại diện cho tất cả mọi người – không phải mọi điều trong cuốn sách này đều đúng với đàn ông, các ông bố bà mẹ đơn thân, người đồng tính, và người lớn lên trong những gia đình không giống chương trình hài kịch của thập niên 1950 như tôi. Dù vậy, tôi tin rất nhiều người độc thân lâu năm đều có chung một trải nghiệm – một trải nghiệm vượt qua mọi ranh giới về giới tính, chủng tộc hay xu hướng tình dục – và tôi hy vọng cuốn sách sẽ hữu ích với bất kỳ ai đang vật lộn với những vấn đề này. Những người mà tôi đã phỏng vấn khi viết cuốn sách này, dù được trích dẫn câu nói trực tiếp hay mô tả trải nghiệm chung chung, phần lớn đều là những phụ nữ như tôi, sống độc thân trong một khoảng thời gian dài khi đã trưởng thành – một số người đã lập gia đình, những người khác vẫn chưa. Tôi sử dụng cụm từ “lập gia đình” một cách tương đối – ý chỉ những mối quan hệ nghiêm túc giữa hai người, bất kể họ có quyền hưởng phúc lợi xã hội hay bảo hiểm của nhau hay không. Sau cùng, tôi tập trung vào phụ nữ vì họ chính là những người luôn phải nghe nhiều lời khuyên bảo nhất về việc họ phải là người như thế nào, và hãy cùng thành thật với nhau, chúng ta cũng thường tin vào chúng. Tuy vậy, khi câu chuyện đặc biệt của tôi được đăng trên tờ New York Times trong chuyên mục “Tình yêu hiện đại”, tôi nhận ra trải nghiệm của mình lan rộng hơn tôi tưởng rất nhiều. “Tôi là một nam giới 25 tuổi, đang sống ở Sao Paulo, Brazil. Tối qua, khi đi ngủ, tôi nghĩ đến chính xác những điều mà chị đã nhắc tới trong bài viết: ‘Có vấn đề gì với mình vậy?’” “Tôi là một nhà báo Ấn Độ, hiện đang sống và làm việc ở Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Một người bạn ở Mỹ đã gửi bài báo này cho tôi cách đây vài tuần khi tôi đang trong tâm trạng vô cùng bi đát. Tôi đã đọc đi đọc lại nó không biết bao nhiêu lần và chia sẻ cho những cô bạn dù đã lấy chồng hay chưa, tất cả đều cảm thấy y hệt như tôi sao mà đúng với mình thế!” “[Bài báo của chị] ngay lập tức gây ấn tượng mạnh với tôi và những người bạn độc thân của tôi, có rất nhiều người chia sẻ bài viết này sau khi đọc nó trên mạng xã hội ở Trung Quốc.” Gần nơi tôi ở hơn, một nhà đầu tư ngân hàng 33 tuổi viết thư kể rằng cô ấy đã đánh dấu bài viết trên trình duyệt Internet và đọc lại mỗi tuần một lần. Một sinh viên Y khoa 24 tuổi đang học ở Harvard chia sẻ rằng bài viết đã đem lại sự tĩnh tâm cho cô giữa những lời mời dự đám cưới bay đến tới tấp. Một phụ nữ 71 tuổi kể về hôn lễ đầu tiên của mình vào mùa hè năm ngoái. “Ơn trời tôi đã sống đủ lâu!” bà hóm hỉnh nói. Những phụ nữ độc thân nói với tôi rằng họ đã in bài viết đó ra và kẹp trong ví để đọc mỗi khi mất dũng khí. Nhiều nam giới độc thân chia sẻ họ cũng phải vật lộn với vấn đề tương tự mà không có được sự cảm thông từ bạn bè đồng giới (thực ra nhiều phụ nữ độc thân cũng nói vậy). Những phụ nữ đã lập gia đình, giống như tôi, đã tìm thấy người bạn đời sau bao năm cô đơn lẻ bóng cũng có chung trải nghiệm. Sau nhiều năm, thậm chí hàng thập kỷ tự dằn vặt bản thân, cuối cùng họ cũng gặp được người đàn ông thích mái tóc ngắn, lối nói đùa cay độc hay phần thịt thừa 10kg của họ. “Tất cả những điều tôi tưởng đàn ông không ưa (Này, tôi nuôi tận hai con mèo đấy!) thì anh ấy lại rất thích. Tất cả những điều kỳ quặc mà tôi tưởng cần phải xin lỗi, anh ấy đều hiểu được,” một phụ nữ 42 tuổi vừa kết hôn năm ngoái viết thư cho tôi. Điều kinh ngạc nhất ở những lá thư là chúng giống hệt nhau. Dù các độc giả ở độ tuổi và điều kiện sống rất khác nhau, nhưng những gì họ nói lại gần như giống hệt nhau – Cô cũng giống như tôi. Câu chuyện của cô cũng là của tôi. Với một cây viết, không gì mãn nguyện hơn khi khám phá ra mình đã kết nối trực tiếp với nhiều đối tượng đa dạng đến thế. Nhưng tôi nghĩ lý do chính khiến câu chuyện của tôi gây được tiếng vang không phải vì tôi kể ra điều gì đó mọi người chưa biết, mà vì tôi kể những điều họ đã biết. Tôi tin mình đã nhắc nhở họ về giá trị bên trong của họ, vốn bị vùi lấp trong vũng bùn của những lời khuyên và bàn tán. Tôi tin mình đã tái kết nối những người này với chân lý cốt lõi trong chính họ: Tôi không nghĩ mình cần thay đổi. Tôi hoàn toàn xứng đáng được yêu thương khi tôi là chính mình. Cuốn sách này không hướng dẫn bạn cách tìm bạn đời – bởi chính tôi cũng không biết. Nó cũng không phải là kế hoạch hành động làm mới tâm hồn để bạn “sẵn sàng” cho tình yêu; khi bạn cầm cuốn sách này lên, tôi tin bên trong bạn đã có đủ điều đó rồi. Đây cũng không phải cuốn bách khoa thư do một bà biết-tuốt-đã-lập-gia-đình viết – bởi nghiêm túc mà nói, tôi chỉ đơn giản gặp được một người đàn ông, chỉ vậy thôi. Thay vào đó, tôi muốn loại bỏ những rào cản xã hội đã kìm chân chúng ta, khiến chúng ta tự thấy xa lạ với bản năng của chính mình. Dĩ nhiên đây không phải là vấn đề của riêng ai – nó là vấn đề của tất cả mọi người. Nhưng khi bạn độc thân, đúng là cần phải lội qua hàng đống rác. Chỉ khi nào dừng lại việc phân tích tính cách mình, ngừng lật đi lật lại những mối quan hệ trước đó, thì khi ấy bạn mới giải phóng được tâm trí. Khi không để những lời nói bên ngoài khiến mình sợ hãi – “Trói chặt anh chàng đó đi!” “Cậu làm sao trẻ lại được nữa!” “Cậu nghĩ mình là ai?” – bước đầu bạn sẽ hiểu được ai và điều gì hợp với mình. *** NHỮNG LỜI KHEN NGỢI DÀNH CHO "VÌ SAO BẠN Ế?" “Vì sao bạn ế? có vẻ ngoài là một cuốn sách kỹ năng, nhưng thực chất, nó là một tuyên ngôn, một tuyên bố đột phá về những điều vốn chẳng có gì khác thường. Sara Eckel đã làm điều mà chưa một tác giả viết về cuộc sống độc thân nào đủ dũng khí thực hiện. Cô ấy đã chỉ ra quan hệ tình cảm thường chỉ là do may mắn và những lời khuyên phổ biến về tình yêu chẳng thể nào thay thế được chân lý đích thực về cuộc sống – điều mà cô đã thu thập được rất nhiều từ kinh nghiệm sống của mình.” — MEGHAN DAUM, tác giả cuốn My Misspent Youth (tạm dịch: Thanh xuân uổng phí của tôi) “Thật may! Cuối cùng cũng có người nói ra điều này: Sống độc thân không có nghĩa là bạn có vấn đề. Cảm ơn Sara Eckel vì đã lên tiếng đáp trả những kẻ dám chỉ trích người độc thân lớn tuổi đang cố gắng tìm kiếm tình yêu. Vì sao bạn ế? cho người đọc một quãng nghỉ thông minh và hợp lý giữa những lời khuyên nhủ không ngớt đặt người độc thân vào vị trí phải cải thiện bản thân vô thời hạn. Eckel khéo léo giải thích tại sao bạn không cần thực hiện bất cứ điều gì trong số đó, và cô ấy sẽ khiến bạn nhìn nhận chuyện hẹn hò với con mắt hoàn toàn khác. Cuốn sách của cô ấy thật tươi mới, dễ tiếp cận, hài hước và truyền cảm hứng, tôi chỉ bực bội chút xíu vì cô ấy đã không viết nó sớm hơn. Tôi muốn tặng cho cô ấy một cái ôm, và chắc hẳn bạn cũng vậy.” — RACHEL MACHACEK, tác giả cuốn The Science of Single (tạm dịch: Khoa học của sự độc thân) “Bằng cách lật tẩy những điều hoang đường và các lời khuyên có dụng ý tốt mà người ta ném vào những phụ nữ độc thân ngày nay, Vì sao bạn ế? giống như lời hướng dẫn dễ chịu từ người bạn thân dưới dạng một cuốn sách. Dũng cảm, hài hước và thông thái, cuốn sách nhắc nhở những phụ nữ độc thân rằng cách đối mặt tốt nhất với các phản hồi tiêu cực quá phổ biến trong chuyện hẹn hò là lòng trắc ẩn với bản thân.” — AVA CHIN, tác giả chuyên mục “Urban Forager” và cuốn sách Eating Wildly (tạm dịch: Ăn một cách điên cuồng) “Sara Eckel đã đưa ra lời đáp trả đầy khí thế với một thế giới vẫn luôn gắn giá trị người phụ nữ với tình trạng hôn nhân. Vì sao bạn ế? là một sự lật tẩy logic và thấu đáo những lời buộc tội sai trái đổ lên đầu những phụ nữ vẫn chưa (hoặc không bao giờ) tìm thấy người bạn đời của mình. Eckel hài hước, đầy lòng trắc ẩn, đã phản kháng lại một cách chính đáng với những lời dối trá mà phụ nữ phải nghe về những khiếm khuyết đẩy họ vào con đường độc thân như thế nào, đồng thời bác bỏ định kiến cho rằng cuộc sống độc thân là sai trái.” — REBECCA TRAISTER, tác giả cuốn Big Girls Don’t Cry (tạm dịch: Cô gái trưởng thành thì sẽ không khóc) “Sara Eckel đã đối chọi lại những niềm tin hoang đường phổ biến về chuyện hẹn hò và kết hôn, đồng thời vỗ về an ủi và đưa ra lời khuyên vô cùng hữu ích cho những ai phải chịu cảnh độc thân trong thời gian dài. Hơn hết, cuốn sách này đồng cảm với người đọc thông qua cách Sara chia sẻ về trái tim đầy đấu tranh và tổn thương của chính cô ấy.” — GABRIEL COHEN, tác giả cuốn Storms Can’t Hurt the Sky (tạm dịch: Phong ba bão táp không thể xé nát bầu trời) “Vừa là người hướng dẫn về Phật giáo vừa là nhà phê bình xã hội, Sara Eckel nói với phụ nữ độc thân những điều mà người kết hôn muộn ước mình đã nói với bản thân hồi còn trẻ. Cuốn sách là một nghiên cứu khoáng đạt về những phụ nữ nhận ra tiềm năng tuyệt vời nhất của Chủ nghĩa nữ quyền: Chấp nhận một cách thực tế những thách thức và ưu điểm của việc sống theo cách của mình.” — PAULA KAMEN, tác giả cuốn Her Way (tạm dịch: Cách của cô ấy), All in My Head (tạm dịch: Chỉ là do tôi tưởng tượng) và Finding Iris Chang (tạm dịch: Đi tìm Iris Chang) Mời các bạn đón đọc Vì Sao Bạn Ế? - Vạch Trần 27 Định Kiến Sai Lầm Gán Lên Phụ Nữ Độc Thân của tác giả Sara Eckel.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đông Lai Bác Nghị - Dương Tấn Tươi
Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy ! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng : vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên ; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách ! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện ! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây » ! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương : « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên ! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo ? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì : « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn ; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý ! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt – tốt và xấu, thanh với tục – của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu ! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc : « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến ? » Cụ giảng : « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ : Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả ! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách ? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ : « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được ? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ : bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu : « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời » ? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu ? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng ? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó ? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết : « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị ? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo : quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép : « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép : « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên : « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi : « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép : « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời. * Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép, tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-Thu cần có chú-giải. Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy. (Có nhiều học-giả – trong số ấy có thầy của chúng tôi – đọc là : Tả kỳ Minh. Vậy nên theo phần đông đọc Khâu hoặc Khưu hay theo các cụ mà đọc là Kỳ ? Sự chinh lịch nầy do tục cữ tên mà sanh ra. Số là khi có tên Khâu hay Ni (tức Khổng-Khâu, Trọng-Ni, tên của Đức Phu-Tử), hoặc Kha (tức Mạnh-Kha tên của thầy Mạnh) thì sách nho đều ghi ba chữ « nên đọc Mỗ » thành ra Khổng-Mỗ, Trọng-Mỗ và Mạnh-Mỗ. Lâu ngày – theo lời của ông Nhượng-Tống – bản in mòn đi, chữ Mỗ mất hết một nét sổ nên thành chữ Kỳ. Bọn hậu-sanh chúng tôi không phải thiếu lòng thành kính thánh hiền, nhưng thấy cần đọc cho đúng, mà chắc các đấng Phu tử, Mạnh tử, và các cụ cũng đã tha thứ khi chúng tôi đọc đến Ni và Kha. Vì vậy, từ đây nên đọc là Tả Khâu-Minh và đóng lại dấu ngoặc.) Có phải vì đứng gần cụ Khổng, một cây cổ-thọ của văn hóa Trung Hoa nên bị tàn che bóng lấp mà thân thế của Tả Khâu-Minh bị vùi mất trong biển thời gian chăng ? Chỉ còn nhớ là vị quan coi về sử của nước Lỗ noi theo ý chí của Phu tử chép lại những chuyện của kinh Xuân-Thu. Vi Khổng-tử cân nhắc ngòi bút để thưởng phạt như một vì thiên tử, nên được gọi là « Tố vương » – nhà vua không ngôi – và vì đó Tả Khâu-Minh được gọi là « Tố thần ». Nhiệm vụ của tử gia ấy là theo mỗi câu Xuân-Thu để kể chuyện. Và tất nhiên nhắc lại những đoạn không có chép trong kinh, để tỏ sự biếm nhẽ của Phu tử. Theo lối viết sử ngày xưa, mỗi bài đều có luân lý, ở đây là « lời bàn của người quân tử ». Chúng ta chớ lầm tưởng vì là quyển truyện cho nên kể lể dông dài như… bài tựa nầy. Trái lại, vừa đẽo gọt vừa cân nhắc nên câu văn trở nên gọn gàng và cứng rắn. Như tả Lỗ Trang-công đi cùng Tào Uế đánh Tề ở Trường câu : « Ngồi chung xe đến Trường-câu. Trang-công sắp ra lịnh đánh trống thúc quân. Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Chờ quân Tề xong ba hồi trống. Tào Uế bảo : « Đến lúc ! » Thua to, quân Tề chạy. Trang công sắp ra lịnh đuổi theo, Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Xuống, xem dấu xe của Tề, trở lên đứng trông lại. Bảo : « Đến lúc ! « mới có lịnh đuổi theo. Toàn thắng. » Như khi Khuất Hà đánh trận Bồ-tao, vì hoài nghi, hỏi Đấu Liêm : « – Sao không bói thử ? - Bói là để quyết điều nghi. Không nghi cần gì bói ! Rồi đem quân đánh thắng Viên, chiếm Bồ tao, minh hội xong, kéo về. » Câu văn có khi trở nên trục trặc, gút mắt vì bị bóp chặt hay thâu quá ngắn « Cho đánh trống. Tiến quân. Toàn thắng. Tiêu diệt hạ Nhược Ngao ». Trong nhiều đoạn, Tả-Truyện chỉ ghi lại vài cử chỉ mà cũng vẽ được một tâm lý phức tạp của nhân vật. Muốn tả lòng căm tức và chí gấp báo thù của vua Sở khi được tin Thân Vô-Uý bị Tống giết, Tả-Truyện chép : « Vua Sở hay, giũ áo đứng lên, đi chơn vào thất. Vào đến cung, giày đem tới. Ra cửa cung, gươm dưng tới. Đến chợ Bồ tiêu, xa giá đẩy tới. Mùa thu, tháng chín, Sở vây kinh thành Tống. » Dùng câu văn tuy vắn mà sâu để thuật lại những mẩu chuyện tuy đơn sơ mà đầy ý nghĩa có thể làm gương đáng theo hay nên tránh cho muôn đời, Tả-Truyện thành một áng văn tuyệt tác, chẳng những được văn nhân sùng bái mà còn được võ tướng kỉnh mộ. Chính những tay cung kiếm lại mắc phải « bịnh Tả-Truyện », là vì đi đến đâu, trong hổ trướng hay khi điều khiển ở trận tiền đều giữ cận bên mình quyển sử của Khâu-Minh. Nhìn nhận giá trị của văn Tả-Truyện là nhìn nhận sự khó dịch của bộ sử đó. Vì diễn tả một tư tưởng của người bằng tiếng của mình, việc đó còn có thể làm được. Còn chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng nầy qua tiếng nọ thật là một chuyện quá khó. * Lẽ tất nhiên, muốn dịch hai quyển Xuân-Thu và Tả-Truyện, chúng tôi hoàn toàn nhờ nơi Cụ. Từng chữ, từng lời. Cụ kiên tâm giải thích rồi chịu khó kiểm duyệt. Khi nghe các bạn khuyên tôi xuất bản, thản nhiên, Cụ dạy : « Tùy nơi anh ! Nếu thấy có thể giúp ích được thì cứ tự tiện. Còn tôi chỉ là người của thế hệ trước. Đã qua rồi. Theo thế hệ đó, muốn đọc sách thánh hiền cần phải thông Hán học mới trọn hiểu tinh thần. Anh chớ quên : theo chúng tôi, Hán-văn là sự cần thiết, không thể không ; còn phiên dịch là sự bất đắc dĩ… Anh cũng nên nhớ giùm tánh tôi ưa thanh tịnh, ít ham đời nói đến tên… » Lời nhắc nhở ấy – đối với chúng tôi – là một mạng lịnh. Vì sự yêu cầu đó mới có lời phân trần lè nhè nầy. Chớ đâu phải vì chúng tôi. Nào có muốn phô trương thằng tôi khả ố nầy làm gì cho rườm tai độc giả ! Vì công lớn của cụ trong sự phiên dịch ; Vì sự giúp đỡ của các bạn : trước là ông Trương Quan cho sách, sau là các bạn Đỗ-Thiếu-Lăng giúp tài liệu, bạn Nguyễn-Duy-Cần cho xem vài bài Đông-Lai đã dịch từ lâu. Nhứt là anh Lê-Thọ-Xuân, cặn kẽ lúc chỉ bảo, tận tình khi sửa chữa, tỉ mỉ trong ấn loát. Một người « Anh » với nghĩa tốt đẹp của danh từ ; Vì sự lương thiện của trí óc trong khi trước tác ; Vì sự thành thật đối với mình, với đời, với nền văn học ; Chúng tôi trân trọng xin đọc giả nhận rõ điều nầy : Khi gặp những câu dịch gọn gàng, ăn khớp với nguyên văn, bạn nên nhớ đó là công, đó là tài của Cụ, thầy chúng tôi ; Khi thấy câu văn bất thành cú, khi gặp những lỗi lầm, chỗ dịch sai, bạn nên chắc chắn là vì sự dốt nát của DƯƠNG-TẤN-TƯƠI Mời các bạn đón đọc Đông Lai Bác Nghị của bác sĩ Dương Tấn Tươi.
Cổ Nhân Đàm Luận - Cầm Đài & Trần Trung Viên
NHỜI NÓI ĐẦU Người xưa dẫu khuất, truyện cũ còn ghi. Trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng hãy còn chơ chơ. Nói một câu mà muôn đời sử sanh còn chép, luận một nhẽ mà mấy kiếp miệng thế còn chuyền. Nhất ngôn hưng bang nhất ngôn táng quốc, một nhời nói ra mà nước vững nhà yên, một nhời nói ra mà bể dao núi động. Quan-hệ thay là lời nói ! Xét ra các bậc đế-vương, vĩ-nhân, anh-hùng, hào-kiệt ; chí-khí hiên ngang, công-danh cái thế, sự-nghiệp ngang-tàng, non song chung đúc, kể đã bao phen vật đổi sao dời, mà tiếng tăm còn lừng-lẫy, muôn thuở nào quên. Ấy chẳng phải là những người đã dìu-dắt dậy khôn cho hậu-sinh dư ! Gương sáng ví tầy nhật nguyệt, khí thiêng tựa với càn khôn ; những nhời vàng tiếng ngọc đó, ta há nỡ quên sao ? Vậy nên lưu chữ lấy mà mở mang chí-khí, mà nghiền mà nghĩ cho kỹ-càng cho thấm-thía, họa may óc non dổi nên sắt đá, khỏi phải như sáp, mà muốn nận vuông nên vuông, nận tròn nên tròn, mang tiếng nhược-nhu. Vậy thì anh em ta, đang lúc ở vào buổi Âu Á dao thời này, cũng nên đọc mấy câu cổ ngữ sau đây chẳng cũng là một phương thể thao cho tinh-thần dư ? Mong thay ! Mong lắm thay ! Ngày mồng 3 tháng chạp năm Mậu-Thìn (13 Janvier 1929) T. T. V. *** Cống-Chỉnh là một tay dan hùng đời Lê, trước sau không một, chỉ biết lợi mình. Khi bỏ ngoài Bắc vào theo Tây-Sơn, rồi dắt quân Tây-Sơn ra Bắc sâm lấn, làm lắm điều tàn bạo. Chỉnh có một người bạn thân tên là Thế-Long. Một hôm hai người nói truyện việc nước, Chỉnh có ý thương tiếc chúa Trịnh ; Thế-Long nhân dịp muốn toan mưu dúp đỡ nhà Chúa mới nói rằng : « Ông tuy nói thì nhân nghĩa mà bụng ông thì tàn-bạo. Trước ông xuất thân, được danh giá cũng nhờ có chúa Trịnh, nay ông lại dúp Tây-Sơn mà diệt Trịnh, kể tội chúa Trịnh là hiếp vua, sao ông không xét công chúa Trịnh phù Lê hơn 200 năm. Ông theo người mới hại người cũ là bất nghĩa ; kể tội người, không kể công người là bất nhân. Làm đời trượng-phu mà lại đeo tiếng ấy sao ? » Cống-Chỉnh nghe song thẹn nói rằng : « Tôi vì đạo nhớn thiên-hạ mà diệt Trịnh tôn Lê, đó là rất nhân-nghĩa, sao gọi được là tàn-bạo. » Thế-Long nói : « Vua Lê vẫn tôn mà nước vẫn yên, can gì phải nhờ đến ông dúp, chẳng qua ông chỉ mượn tiếng là tranh cướp. Ông đưa quân Tây-Sơn về hại dân hại chúa, cả nước ai cũng cho ông là thú dữ, tôi nói tàn bạo là còn nể ông đấy ông đừng dữ mãi lỗi cáo đội lốt cọp mà rồi nhân tâm ngày một thêm thù oán. Ông sẽ là người có tội với cả nước, thì rồi cả nước dong ông làm sao được, » Cống-Chỉnh nghe xong giận quá, nhưng mà cứ điềm nhiên nói rằng : « Thôi anh đã chót bạn với thú dữ thì nên nghĩ mưu gì hộ thú dữ với ! » Thế-Long nói : « Nay ông dẹp bọn kiêu binh đã song, chỉ nên điều-đình với Tây-Sơn cho rút quân về, rồi tìm người hiền nhà Trịnh lập lên là yên. » Chỉnh nói : « Thế thì anh cứ về xem có người hiền nhà Trịnh nào, sẽ đem nhời ra nói mà kiếm đường tiến thân nhé ! » Thế-Long từ dở ra, Chỉnh nói một mình rằng : « Tên nó là Long, long là rồng, rồng nên cho nó xuống nước mới được, kẻo để trên cạn nó hại người ! » Nói song mật sai người ra đón Long ở ngoài cổng, bắt chói quăng xuống sông Nhị Hà.   Mời các bạn đón đọc Cổ Nhân Đàm Luận của tác giả Cầm Đài & Trần Trung Viên.
Cãi Gì Cũng Thắng - Madsen Pirie
Hiểu biết về ngụy biện cung cấp khả năng phòng thủ cũng như tấn công cho bất kỳ ai. Khả năng phát hiện ra các ngụy biện sẽ cho phép bạn bảo vệ bản thân khi chúng được những người khác sử dụng và khả năng sử dụng các ngụy biện tài tình sẽ cho phép bạn thành công và ở thế công kích khi bạn hướng tranh luận theo cách của mình. Lý luận hợp lý là nền tảng để chiến thắng trong mọi cuộc tranh luận. Cuốn sách này được viết ra như một chỉ dẫn thực tiễn cho những ai mong muốn giành chiến thắng trong tranh luận. Nó dạy bạn cách tạo ra những ngụy biện quỷ quái và hiểm ác một cách có chủ ý ; từ đó bạn có thể nhận ra chúng trong các cuộc tranh luận và biết cách đối phó với nó. Tác giả mô tả từng ngụy biện đi kèm với ví dụ và lý giải vì sao chúng mang tính dối lừa. Sau những đoạn văn miêu tả tổng quát về lịch sử hay sự xuất hiện của một ngụy biện, tác giả đều khuyến nghị người đọc về cách thức và tình huống sử dụng giúp ngụy biện phát huy hiệu quả dối lừa cao nhất. Cuốn sách sẽ dạy người đọc cách tranh luận hiệu quả, thậm chí là không trung thực. Tuy nhiên, trong quá trình học cách tranh luận, và trong quá trình thực hành cũng như đánh bóng các ngụy biện, người đọc sẽ biết được cách xác định và xây dựng hệ thống miễn nhiễm trước các ngụy biện kia. Độc giả sẽ được cung cấp một kho từ vựng để đối thoại với các chính trị gia và những tay bình luận truyền thông. Hiểu biết về ngụy biện cung cấp khả năng phòng thủ cũng như tấn công cho bất kỳ ai. Khả năng phát hiện ra các ngụy biện sẽ cho phép bạn bảo vệ bản thân khi chúng được những người khác sử dụng và khả năng sử dụng các ngụy biện tài tình sẽ cho phép bạn thành công và ở thế công kích khi bạn hướng tranh luận theo cách của mình. Tiến sĩ Ducam Madsen Pirie (sinh ngày 24/08/1940) là một nhà nghiên cứu, một tác giả và một nhà giáo dục người Anh. Ông là người sáng lập và hiện là chủ tịch Viện nghiên cứu Adam Smit. *** Bạn đọc thân mến, Vừa qua, chúng tôi đã ra mắt bạn đọc cuốn sách đầu tiên trong bộ sách về biện luận của Alpha Books, cuốn Viết gì cũng đúng của Anthony Weston. Đây là cuốn sách dẫn nhập cô đọng về nghệ thuật viết và cách đưa ra những lập luận sắc bén, thông qua các nguyên tắc cụ thể được giải thích và minh họa đầy đủ, ngắn gọn. Viết gì cũng đúng được xem như cuốn giáo khoa thư nổi tiếng, đã được dịch sang 8 ngôn ngữ - vẫn là lựa chọn đầu tiên với những ai tìm kiếm một cuốn sách hướng dẫn dễ hiểu về cách đưa ra các lập luận vững chắc.  Cuốn sách tiếp theo trong bộ sách này chính là ấn phẩm bạn đang cầm trên tay, cuốn Cãi gì cũng thắng. Trong cuốn sách dí dỏm và mang tính truyền nhiễm này, Madsen Pirie cung cấp một hướng dẫn đầy đủ cách sử dụng – mà thực ra là lạm dụng – lý luận để giành chiến thắng trong mọi tranh luận. Ông xác định tất cả những ngụy biện thông dụng nhất trong tranh luận với các ví dụ mang sức mạnh hủy diệt. Chúng ta đều cho rằng mình là người có suy nghĩ rõ ràng và hợp lý nhưng sau khi đọc xong cuốn sách này, ta sẽ nhận ra những ngụy biện mà mình sử dụng. Tác giả chỉ cho bạn thấy cách cùng lúc tăng cường sức mạnh cho suy nghĩ của bạn và tìm ra điểm yếu trong những lập luận của người khác. Và tinh quái hơn, Pirie còn chỉ cho bạn cách để trở nên phi lý một cách tinh tế mà không bị phát hiện. Cuốn sách này sẽ biến bạn trở thành một người thông minh đến phát bực: gia đình, bạn bè và các đối thủ của bạn đều sẽ ước ao rằng bạn chưa từng đọc nó. Xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc cuốn sách hấp dẫn này! Hà Nội, tháng 4 năm 2012 Mời các bạn đón đọc Cãi Gì Cũng Thắng của tác giả Madsen Pirie.
Làm Thế Nào Để Chinh Phục Đối Phương - Tako Kagayaki
Nhận thấy cuốn sách "Làm thế nào để chinh phục đối phương" của tác giả Tako Kagayaki - Giáo sư trường Đại học Chi ba - Nhật Bản nhằm trang bị cho các bạn trẻ những kiến thức, những kỹ xảo tâm lý để hiểu lòng người, nhằm đạt hiệu quả mong muốn trong giao tiếp xã hội, đàm phán, hợp tác trong công tác, trên thương trường. . . Những kiến thức tâm lý ấy được ứng dụng vào đời sống qua những ví dụ cụ thể, sinh động thật thú vị và cần thiết cho các bạn trẻ. Cùng với sự hưởng ứng đón nhận nồng nhiệt của các bạn trẻ về mảng sách "Tâm lý học ứng dụng" của Nhà xuất bản Thanh Niên, mà đọng lại là "Nghệ thuật hiểu thấu tâm lý người khác". "Thuật tâm lý gìn giữ tình yêu". "Nghệ thuật ứng xử và sự thành công của mỗi người", "Ấn tượng trong phút đầu giao tiếp", nay chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một tác phẩm nữa thuộc loại này "Làm thế nào để chinh phục đối phương". Hy vọng những kiến thức thu nhận được sẽ giúp bạn trẻ tự tin hơn, để thành đạt trong cuộc sống. Nhà xuất bản Thanh niên *** "Đoán xem tôi là ai" là một tiết mục lý thú của Đài truyền hình NHK (Đài truyền hình Nhật Bản). Tiết mục này quy định 3 người đóng giả và 1 người thật cùng ra sàn diễn, người đoán có thể hỏi các kiểu câu hỏi, sau đó đoán tìm xem ai là người thật, người đoán khó tránh khỏi bị mắc bẫy, đến cả khán giả truyền hình cũng có khi bị lơ mơ. Tôi có dịp mong làm người đoán một lần. Đề tài mà tôi được tham dự là tìm ra một ngôi sao bóng bàn của Nhật trong số bốn người Phụ nữ. Khi đó tôi hỏi họ câu hỏi như thế này: "Hễ là người chơi bóng bàn, hẳn ai cũng biết rõ vận động viên nữ tên là A. Xin hỏi các cô, thời kỳ cô ta đạt phong độ nhất là trước hay sau Đại chiến thế giới II?”. Mọi người chắc đều biết rằng không có vận 1 động viên tên A này, mà chỉ là mồi nhử tôi tưởng tượng ra mà thôi. Đó chỉ là một mẹo nhỏ mà giúp tôi đoán được thân phận thực của họ. Ba trong bốn người đó trả lời một cách rất tự tin rằng "trước" hoặc "sau”; chỉ có một người thì lắp bắp nói cô ta không biết. Tôi đoán ra người này mới là ngôi sao bóng bàn thực sự, kết quả tôi đã đúng. Tôi nghĩ, câu hỏi nhỏ kiểu "Thả con săn sắt bắt con cá rô" của tôi này sở dĩ có thể mò ra được ngôi sao bóng bàn thực là vì câu hỏi của tôi ẩn chứa một kết cấu hai tầng. Trước tiên, tôi tạo cho họ một tiền đề "Ai cũng đều biết", để họ không nghi ngờ và phủ định nội dung tôi đưa ra, kết quả là họ đã tiếp nhận, nên khi tôi để họ chọn là trước hay sau chiến tranh, họ đã sai lầm khi coi nhẹ tiền đề trên, nên đều cảm thấy rằng không A thì B, không B thì A. Như vậy người có thân phận giả tự chui vào tròng, lộ rõ nguyên hình; còn người có thân phận thật thì có thái độ ngượng ngùng về sự không biết của mình. Tất nhiên tôi chỉ nghĩ ra kết cấu này với điều kiện người có thân phận thật trả lời đúng sự mẹo nhỏ này thì e rằng tôi cũng khó mà thu được thắng lợi. Con người ta ai cũng có một mặt tương đối yếu. Chỉ cần hiểu một chút về nhược điểm, khuyết điểm tâm lý và tính mù quáng tâm lý của họ thì có thể dẫn dắt được họ. Chính vì nắm bắt và lợi dụng được nhược điểm về tâm lý của con người, bọn lừa đảo mới làm cho nhiều người từng trải phải bó tay. Tất nhiên, cố ý lừa gạt lấy tiền của người khác, đem lại nỗi bất hạnh lớn cho họ là một hành vi phạm tội. Ở đây tôi chỉ muốn nói rằng, chỉ cần thông thuộc các loại tâm lý của con người, đối xử bằng những phương pháp khác nhau đối với những người khác nhau, thì có thể đạt được hiệu quả mong đợi. Chẳng hạn, đối với học sinh chán học, ông thầy thiếu kinh nghiệm chỉ biết nói: "Em như vậy là không được!”, làm cho học sinh lại càng chán học; còn ông thầy thông minh chắc chắn sẽ nói: "Chỉ cần em chịu học thì chắc chắn sẽ tiến bộ", dùng cách đó để kích thích lòng tự tôn của học sinh, kết quả học sinh đã chăm hẳn lên. Trong cuốn sách này, điều tôi muốn bàn đến chính là kỹ xảo tâm lý để khéo léo chinh phục, người khác. Trong việc ứng xử giữa người với người nếu bạn muốn tránh gây phản ứng của người khác, không muốn làm anh ta cáu, lại không muôn tự chuốc họa vào mình, thì không thể thiếu được những kỹ xảo tâm lý nhất định. Thậm chí có khi trong bạn bè thân thiết, cẩn thận một chút tốt hơn là thiếu cẩn thận, vận dụng một số kỹ xảo tâm lý cũng không phải là việc xấu. Tất nhiên, thế giới không thiếu những con người lòng dạ khó mà đoán biết được, miệng nam mô bụng bồ dao găm. Những kỹ xảo tâm lý trong cuốn sách này sẽ giúp bạn nhận ra bộ mặt thật của loại người này để bạn khống chế họ, chiến thắng họ. Tako Kagayaki Mời các bạn đón đọc Làm Thế Nào Để Chinh Phục Đối Phương của tác giả Tako Kagayaki.