Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Miền Thơ Ấu

Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Miền Thơ Ấu là câu chuyện về cậu bé 7 tuổi trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú. Đó là không gian ngôi làng bùn lầy nước đọng vùng chiêm trũng Bắc Bộ giữa thập niên 1940 vừa xác xơ nghèo khổ lại vừa lung linh, trong trẻo. Đó là một ngôi nhà ba gian bằng gỗ cũ kỹ và hằng in dấu vết của các thế hệ từ đời cụ kỵ. Là bà cô ngoan đạo  – người phụ nữ trung niên không chồng, lạnh lùng, gia trưởng và luôn tỏ ra mình là người khó tính, keo kiệt. Là anh cu Lớn, anh cu Nhỏ - những người bạn cùng câu cá, cùng chơi chung, cùng khóc cười. Là những câu chuyện ma tưởng tượng. Những lần lén lấy gạo cho một người sắp chết đói. Là những cuộc ngã giá ở cái chợ quê mà phiên nào cũng đầy các sản vật bản địa được người dân trong vùng mang tới… Và, đó còn là những chi li yêu ghét của những người quê tủn mủn nhưng thiệt thà. Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ sở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi… Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! VỀ TÁC GIẢ: Tác giả Vũ Thư Nguyên sinh năm 1933 tại Hà Nội. Bút danh khác: Kim Ân Năm 1988, ông nhận giải A Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Miền Thơ Ấu. Mã hàng 8936144200162 Tên Nhà Cung Cấp Phanbook Tác giả Vũ Thư Hiên NXB NXB Đà Nẵng Năm XB 2018 Trọng lượng (gr) 320 Kích Thước Bao Bì 13 x 20.5 Số trang 300 Hình thức Bìa Mềm Sản phẩm bán chạy nhất Top 100 sản phẩm Tiểu thuyết bán chạy của tháng Giá sản phẩm trên Fahasa.com đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như Phụ phí đóng gói, phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh,... Miền Thơ Ấu Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Miền Thơ Ấu là câu chuyện về cậu bé 7 tuổi trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú. Đó là không gian ngôi làng bùn lầy nước đọng vùng chiêm trũng Bắc Bộ giữa thập niên 1940 vừa xác xơ nghèo khổ lại vừa lung linh, trong trẻo. Đó là một ngôi nhà ba gian bằng gỗ cũ kỹ và hằng in dấu vết của các thế hệ từ đời cụ kỵ. Là bà cô ngoan đạo  – người phụ nữ trung niên không chồng, lạnh lùng, gia trưởng và luôn tỏ ra mình là người khó tính, keo kiệt. Là anh cu Lớn, anh cu Nhỏ - những người bạn cùng câu cá, cùng chơi chung, cùng khóc cười. Là những câu chuyện ma tưởng tượng. Những lần lén lấy gạo cho một người sắp chết đói. Là những cuộc ngã giá ở cái chợ quê mà phiên nào cũng đầy các sản vật bản địa được người dân trong vùng mang tới… Và, đó còn là những chi li yêu ghét của những người quê tủn mủn nhưng thiệt thà. Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ sở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi… Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! VỀ TÁC GIẢ: Tác giả Vũ Thư Nguyên sinh năm 1933 tại Hà Nội. Bút danh khác: Kim Ân Năm 1988, ông nhận giải A Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Miền Thơ Ấu. *** LỜI NÓI ĐẦU Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay, tôi không dám tin rằng sẽ có ngày nó được thấy ánh sáng mặt trời. Nó ra đời như một may mắn không ngờ, như nhờ một phép màu. Đối với tôi, nó có ý nghĩa đặc biệt. Một thời, nó đã là người bạn tâm tình, là cái nạng cho tôi vịn vào mà đi trên con đường vô định. Mùa đông năm 1967 là một mùa đông giá buốt, ít nhất là cho tôi, trong cái xà lim không có sưởi và không có quần áo ấm. Trong mùa đông ấy, không hiểu vì sao, tôi cảm thấy nhớ quê hương nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cái đầu tiên gợi nhớ đến quê hương là mùi khói cay nồng từ những đống lá mà phu quét đường đốt lên để sưởi, ở bên kia bức tường đá của nhà tù. Ở quê tôi người ta thường đốt những đống rấm như thế để khói ngăn sương muối sà xuống những vườn rau. Mùi khói thoang thoảng lọt vào xà lim gây nên một nỗi nhớ cồn cào, da diết. Gối đầu trên đôi tay, tôi nằm dài trên phản xi măng lạnh ngắt mà thả hồn về quá khứ, tự hứa thể nào rồi mình cũng phải viết một cuốn sách về cái làng bùn lầy nước đọng quê hương. Cái làng nhỏ nhoi và nghèo khổ ấy gắn liền với thời thơ ấu của tôi, cái thời không mấy hạnh phúc nếu đứng ngoài nhìn vào, nhưng tuyệt đẹp đối với tôi, mà cũng có thể đối với bất cứ ai từng có một cái quê để mà nhớ. Lúc ấy tôi không nghĩ rằng cuốn sách tôi định viết sẽ được thực hiện không phải ở nơi nào khác, mà trong nhà tù. Ở Hỏa Lò tù nhân bị cấm đủ thứ, nhất là viết, hoặc đọc. Một mẩu giấy báo bị quản giáo phát hiện trong xà lim cũng là một cái tội, người tù giấu nó sẽ bị kỷ luật cùm chân, bị cắt "tiếp tế". Trong năm tù đầu tiên tôi chưa có đủ kinh nghiệm để biết rằng khi cần thiết người tù có thể làm được những việc anh ta không bao giờ ngờ tới. Ở trại quân pháp Bất Bạt (Sơn Tây) sự sống trong xà lim còn tệ hơn ở Hỏa Lò. Tôi hoàn toàn bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Nếu ở Hỏa Lò người tù xà lim còn có thể đoán biết được một sự kiện nào đó xảy ra bên kia những bức tường và hàng rào dây kẽm gai nhờ nghe ngóng được động thái của bạn đồng cảnh ở các xà lim cùng khu, thì ở Bất Bạt cái đó hoàn toàn không có. Những người bị giam ở đây, bên cạnh xà lim tôi, thường đã qua thời kỳ hỏi cung (thẩm vấn). Họ yên tâm nằm chờ, tháng này qua tháng khác, mà cũng có thể năm này qua năm khác, nhưng họ có cái để mà chờ: đó là ngày chắc chắn sẽ được ra tòa lĩnh án. Án có thể ngắn, có thể dài, nhưng họ sẽ được trở về khi mãn hạn. Những người tù chính trị, lại là thứ có tên gọi mỹ miều là “xử lý nội bộ”, thì không thể có xử, cứ việc nằm đấy, không chờ. May cho tôi, ở trại này trong một lần "tiếp tế" vợ tôi lén lút giúi cho tôi một cây bút bi Trung Quốc hai màu. Tôi có một đam mê khó hiểu đối với những cây bút. Vợ tôi biết người ta chẳng đời nào cho tù nhận thứ đồ quốc cấm ấy nhưng đã mang nó cho tôi, tôi sẽ có cách giấu. Tôi vờ xin đi vệ sinh, ở đó tôi kín đáo phá nát cây bút quý giá ấy, chôn những mảnh vỡ của nó xuống đất, rồi luồn hai cái ruột bút bi vào nẹp áo bông để mang vào xà lim. Cuốn sách bắt đầu từ ấy, mùa thu năm 1969. Tôi mải mê viết những trang đầu tiên trên vỏ bao thuốc lá, trên giấy kẹo, trên những riềm báo cũ mà gia đình bọc đồ "tiếp tế" (đến lúc đó nhà cầm quyền đã rộng lượng cho phép chúng tôi được giữ lại một số tờ giấy có in chữ, nhưng phải là thứ cũ, hết sạch thời gian tính). Viết phải rất cẩn thận, không được lãng phí những mẩu giấy hiếm hoi, lại phải canh chừng lính gác năm phút mươi phút một lần lượn lờ qua phòng giam để kiểm tra. Những mẩu "bản thảo" lắt nhắt không thể xếp thành trang, phải đánh số rõ ràng để không lẫn lộn, được gom lại, được cất giấu bằng mọi cách trong cái xà lim nhỏ hẹp. Sau đó là những ngày chờ đợi đến lần được gặp gia đình kế tiếp thì tuồn cho mẹ tôi, vợ tôi mang ra. Khi viết được nhiều, bản thảo tích lại khá dày cũng gây ra mối lo. Mà những cuộc gặp lại khôngcó kỳ có hạn, gia đình muốn gặp thì làm đơn, khi nào người ta rộng lượng cho gặp thì được gặp. Được cái từ năm tù thứ ba trở đi đám quản giáo coi nhà tiếp tế không còn khám xét kỹ mỗi lần tôi được gặp gia đình nữa. Vả lại, chẳng cần khám làm gì - chúng tôi đâu có biết ngày nào tháng nào được gặp vợ con đâu mà chuẩn bị. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng, cho nên lần nào gặp gia đình cũng chuyển ra ngoài được một ít bản thảo. Về sau này, trong xà lim trại Tân Lập (Phú Thọ), việc viết không còn khó như trước, mặc dầu vẫn phải canh chừng để không bị phát giác. Sau nhiều lần yêu cầu kiên trì, chúng tôi thậm chí còn được người ta chiếu cố cho phép gia đình mang cho giấy bút và vài cuốn tiểu thuyết ngoại quốc để đọc. Cuốn sách hình thành dần dần, từng ít một. Một lần các nhân viên công an nghi ngờ tôi chuyển gì ra, họ chặn mẹ tôi và vợ tôi lại để khám, nhưng hai người đã mang được những mẩu giấy của tôi ra ngoài trót lọt. Khi những bản thảo đã gom được kha khá, các em tôi - Vũ Chí Dũng, Vũ Thu Hương và Vũ Thu Hòa - hì hục chép lại. Năm 1976, sau chín năm tù, tôi trở về thì đã có một bản thảo hoàn chỉnh. Các em tôi còn đánh máy ra làm mấy bản sạch sẽ để những người thân đọc. Mẹ tôi đọc xong, bảo: - Mẹ thích. Nhưng sách không in được đâu. Một là, tên của con bị cấm. Hai là, chuyện một nhà, một làng, liệu mấy ai quan tâm? Bố tôi nhận xét: - Dù sao thì nó cũng ghi lại dấu vết một thời kỳ của nông thôn Việt Nam vùng Thiên Chúa giáo. Cứ để đấy, nó sẽ có ích sau này. Cho những nhà nghiên cứu chẳng hạn. Tôi không có ý định viết cho những nhà nghiên cứu. Họ chẳng cần đến tôi. Tôi cũng chẳng có ý định viết để in. Tôi viết vì đó là công việc duy nhất mà tôi có thể làm trong sự ăn không ngồi rồi bất đắc dĩ. Tôi viết vì tôi thèm được làm công việc mà tôi yêu thích. Tôi viết, ít nhất thì cũng để cho các con tôi, chúng không biết thời thơ ấu của tôi đã trôi qua thế nào. Mà chắc gì sẽ có ngày tôi kể được cho các con tôi nghe? Hồi ở trại Bất Bạt tôi không nghĩ tới ngày về. Không ít người đã nằm lại trong các nghĩa trang nhà tù. Những nghĩa trang ấy, thường ở sườn đồi, nếu có đồi, hoặc ở một bãi hoang giữa rừng. Trong cái sự tù của chúng tôi nghĩ tới ngày về là ý nghĩ ngu ngốc. Ý nghĩ viết cuốn sách để lại cho các con đã làm cho cuốn Miền Thơ Ấu có một sắc thái riêng. Nó là hồi ký, nhưng trong lần in đầu tiên nhà xuất bản đặt nó vào loại tiểu thuyết. Trên bìa sách cũng đề rõ Miền Thơ Ấu - tiểu thuyết. Hồi ấy ở Việt Nam chỉ có loại hồi ký là hồi ký cách mạng, do các lãnh tụ kể cho các nhà văn ghi. Người thường không ai viết hồi ký, không được viết hồi ký. Để nó vào dạng tiểu thuyết thì dễ in hơn. Còn có một lẽ nữa, là cuốn sách có hình thức giống tiểu thuyết trong cách viết, trong cách miêu tả nhân vật, dựng lại đối thoại. Tuy nhiên, tên người, tên đất trong cuốn này được giữ nguyên, không thay đổi. Người trong họ ngoài làng sẽ nhận ngay ra người quen khi đọc. Mà người làng tôi thì không quan tâm đến chuyện cuốn sách mà họ đọc thuộc thể loại gì. Tôi cho rằng có thể chép cuộc đời vào sách và tạo ra cho nó một dáng vẻ nghệ thuật, nếu ta nhìn đời theo cách nghệ thuật. Cuốn sách nằm lâu trong đống giấy má vàng úa của một thời chữ nghĩa. Tôi cũng chẳng có thời giờ để ý tới nó vì còn bận đánh vật với những thí nghiệm, chạy đi chạy lại các cơ quan nhà nước kiếm hợp đồng làm hàng gia công, là việc có ích cho sự kiếm sống. Từ khi ra tù tôi làm đủ mọi thứ nghề tạp nham, trong đó việc sản xuất hàng hoá liên quan tới hóa chất cho các tổ hợp thủ công nghiệp đem lại nhiều tiền hơn cả. Mãi tới năm 1987, anh bạn Lê Phát, biên tập viên đài Tiếng nói Việt Nam, một người tò mò thích văn chương, đã khui nó ra trong đống giấy má bừa bộn của tôi. Lê Phát đọc một lèo, anh thích nó, bèn đưa cho nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, nơi nhà văn Hà Mậu Nhai làm giám đốc. Hà Mậu Nhai cũng đọc một lèo, rồi nhắn tôi đến chơi. Anh tỏ ý muốn in cuốn sách. Tôi ngăn anh: - Anh không biết có một chỉ thị cấm in tôi sao? - Tôi biết. - Vậy mà anh vẫn quyết định in? Hà Mậu Nhai nói: - Chừng nào chưa có trước mặt tôi một văn bản pháp luật trong đó ghi rõ quyết định của tòa án cấm không được in Vũ Thư Hiên thì tôi vẫn in. Tôi không ngán những lệnh miệng và những chỉ thị nội bộ. Tôi in, và còn in tên Vũ Thư Hiên to hơn bình thường nữa kia. Tôi ngần ngừ. Tôi không muốn vì cuốn sách của mình mà bạn mình mang vạ. Hà Mậu Nhai nói chỉ cần tôi đồng ý cho in. Tôi miễn cưỡng đồng ý. Cuốn sách được in ra. Tên tác giả được in to hơn bình thường, đúng như Hà Mậu Nhai nói. Hà Mậu Nhai là một nhà văn nhưng không có chân trong Hội Nhà Văn. Anh chỉ có chân trong Xã Hội Những Người Tử Tế. Năm sau Miền Thơ Ấu được giải thưởng loại A của Hội nhà văn Việt Nam, tức là giải nhất, cho sách dành cho thiếu nhi, mặc dầu nhà xuất bản không đưa nó vào danh sách tác phẩm dự thi. Trong chuyện này Hà Mậu Nhai nghĩ như tôi, sách được in ra là tốt rồi, mong gì được giải. Việc trao giải thưởng năm ấy là sự kiện lớn. Đã nhiều năm chuyện xét và trao giải thưởng văn học bị xếp lại, vì chiến tranh, và vì văn chương là cái sự không ra gì, một thứ xướng ca vô loài, dưới mắt các nhà lãnh đạo. Chủ tịch Hội đồng xét giải là nhà văn Tô Hoài. Phùng Quán cũng được giải thưởng, loại B, với tiểu thuyết ba tập Tuổi Thơ Dữ Dội. Hai tên tội đồ, một Xét Lại Hiện Đại, một Nhân văn-Giai phẩm, chiếm hai giải thưởng nhất nhì trong một cuộc thi văn chương, là quá lố. Nhưng đã là năm 1988, hai năm sau khi Đảng cộng sản tuyên bố "đổi mới" và "cởi trói". Nếu là những năm trước, việc làm ngang bướng của Hà Mậu Nhai ắt bị trừng trị. Anh vẫn ngồi yên trên ghế giám đốc cho tới khi qua đời, ba năm sau. Giải thưởng này đối với tôi là bất ngờ, không kém gì việc nó được in ra. Khi mọi người cho tôi biết các báo đều đã đăng tin, tôi mới biết. Việc cuốn sách kể chuyện tầm phào về một làng quê khỉ ho cò gáy mà được giải, lại giải cao, là điều khó tin. Tô Hoài hiển nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc trao giải lần này. Uy tín của nhà văn già đã thắng tính bảo thủ của các cơ quan lãnh đạo tư tưởng của đảng cộng sản. Sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đọc Miền Thơ Ấu trong chương trình "Đọc truyện đêm khuya", nhà xuất bản Kim Đồng ở Hà Nội tái bản một lần, rồi hai lần... So với bản thảo, cuốn Miền Thơ Ấu trong lần in đầu tiên được rút gọn còn một nửa theo yêu cầu của nhà xuất bản. Vì không có giấy. Giấy vào những năm ấy đắt khiếp đảm. Lần xuất bản sau ở hải ngoại không thiếu giấy nhưng lại thiếu những trang bản thảo bị bỏ ra nọ. Chúng nằm lại ở Việt Nam, cách tôi quá xa, không phải xa theo khoảng cách địa lý, mà bởi những khó khăn. Tôi cũng không tìm cách bổ khuyết. Cuốn sách đã có cuộc sống riêng của nó, diện mạo của nó. Chưa chắc gì một sự thay đổi sẽ làm cho nó đẹp hơn. Những gì bị bỏ ra ngoài trong lần xuất bản đầu tiên rồi sẽ được đặt vào một lần xuất bản khác, hoặc một chỗ khác. Câu chuyện về một chú bé trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú đã tìm được độc giả của nó. Thì ra quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Tôi bao giờ cũng nhớ về tuổi thơ của mình với tất cả niềm thương yêu dịu dàng, bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ xở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi. Bạn đã bao giờ cho chuồn chuồn ngô cắn rốn chưa? Nếu bạn đã được một con chuồn chuồn ngô cắn rốn một lần để được sặc sụa một lần trong dòng sông quê hương thì bạn là người hạnh phúc đấy. Tôi đã đọc những dòng viết ấm áp và chân thành, và lạ thay, bao giờ cũng đầy nuối tiếc, về tuổi thơ trong sáng của mình nơi Lev Tolstoi, Maxim Gorky hay Paul Vaillant-Couturier. Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô dạy: "Hãy như con trẻ!" Tôi chưa được nghe lời nào thông thái hơn. Nếu tất cả những con người sống trên mặt đất này biết nâng niu gìn giữ trái tim con trẻ trong mình thì chúng ta đã không phải chứng kiến những gì xấu xa mà chúng ta phải chứng kiến: chiến tranh, nhà tù, và mọi sự hành hạ mà con người hàng ngày gây ra cho đồng loại. Bằng cuốn sách bé nhỏ này, tôi muốn chia sẻ với bạn đọc tình cảm trìu mến đối với những gì quý báu nhất trong cuộc đời, những gì bạn và tôi đều có nhưng chóng quên, ở một miền thơ ấu của mỗi chúng ta. VTH.   Mời các bạn đón đọc Miền Thơ Ấu của tác giả Vũ Thư Hiên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Màu Khác
Orhan Pamuk tiểu thuyết gia đã rất thành công với Tên tôi là Đỏ, Pháo đài trắng hay Cuốn sách đen, nhưng vì là một nhà văn tham vọng, “phổ màu” của ông còn muốn bao trùm rộng lớn hơn nữa, lên chính trị, hội họa cổ điển, những tản văn ngắn, và lên sự đọc. Những màu khác minh chứng cho tham vọng ấy khá rõ. Cuốn sách là sự nối dài đầy ngoạn mục, những “ngoại truyện” bổ sung cho các tiểu thuyết của ông, những thêm thắt về cảm giác vốn đã huy hoàng trong cuốn hồi ký tuyệt vời Istanbul, và nhất là ở đây, ta được chứng kiến Pamuk trong tư cách một người đọc cự phách; người đọc ấy hào phóng dẫn dắt ta đến với thế giới những tác giả mà ông sùng mộ nhiều chục năm nay: Camus, Flaubert, Dostoyevsky, Nabokov… những thế giới của sự đọc ấy mở rộng nhiều lần đường biên giới của sự viết ký tên Pamuk. Nhận định: “Những màu khác bao gồm nhiều bài viết khác nhau, từ báo chí và từ nhiều nguồn khác, được biên tập lại và đôi khi được viết lại, để làm nên một bức chân dung nhất quán về một văn nhân… Ngoài sự thông minh đầy quyến rũ và những quan sát đầy thông tuệ, Những màu khác còn là kêu gọi chúng ta hãy lùi lại mà suy ngẫm kỹ về những nguyên nhân lịch sử và tâm lý đã dẫn đến những vấn nạn đáng lo của thế giới ngày nay.” - Roger Kaplan, Washington Post Book World “Ông là nhà thơ của mê cung những suy tư và tưởng tượng của chính ông, về cái thần kỳ và về cái mập mờ lưỡng nghĩa.” - Colin Thubron, The New York Review ”Từ Những màu khác vang lên một giọng nói một phần tinh nghịch một phần u tối, cái thực tại soi chiếu trong đó là thực tại mà một con họa mi trong đời thường phải đâm ganh tị.” - Richard Eder, Los Angeles Times Book Review *** Đây là một cuốn sách làm từ các ý tưởng, hình ảnh và phân mảnh của cuộc đời chưa tìm thấy lối vào một trong các tiểu thuyết của tôi. Tôi đặt chúng cùng nhau ở đây trong một mạch tự sự. Đôi khi tôi ngạc nhiên thấy mình đã không thể đưa vào tác phẩm hư cấu tất cả những ý nghĩ tôi cho là đáng khám phá: những khoảnh khắc kỳ cục của cuộc đời, những cảnh đời thường nho nhỏ mà tôi muốn chia sẻ với người khác, và những lời lẽ phát ra từ tôi với sức mạnh và niềm vui khi có dịp say mê. Một vài phân mảnh mang tính tự truyện; có bài tôi viết rất nhanh; có bài bị gạt qua một bên khi tôi dành sự chú ý cho việc khác. Tôi quay trở lại với chúng rất giống như khi quay trở lại những tấm ảnh cũ, và - mặc dù hiếm khi đọc lại tiểu thuyết của mình - tôi thích thú đọc lại những bài viết này. Cái tôi thích nhất là những khoảnh khắc các bài này vượt lên được khỏi tính nhất thời, khi chúng không chỉ đáp ứng được yêu cầu của tờ tạp chí hay tờ báo đặt hàng, mà còn bày tỏ những mối quan tâm, niềm nhiệt tình của tôi nhiều hơn là tôi dự định tại thời điểm viết. Để mô tả những khoảnh khắc vụt hiện đó, những khoảnh khắc kỳ lạ khi chân lý bằng cách nào đó được rọi sáng, Virginia Woolf từng dùng cụm từ “những khoảnh khắc hiện hữu”. Trong khoảng thời gian từ 1996 đến 1999 tôi viết những bài viết ngắn hằng tuần cho Oküz (Bò đực), một tạp chí chuyên về chính trị và hài hước; và tôi cũng vẽ minh họa cho những bài ấy. Đây là những bài tản văn ngắn trữ tình được viết một mạch, trong đó tôi rất ưa nói về con gái tôi và bạn bè của tôi, thăm dò các vật thể và thế giới bằng cặp mắt tươi mới, và nhìn thế giới bằng từ ngữ. Càng ngày, tôi càng bớt xem tác phẩm văn chương là kể về thế giới, mà là “nhìn thế giới bằng từ ngữ”. Từ thời điểm bắt đầu dùng từ ngữ như dùng màu trong hội họa, nhà văn có thể bắt đầu thấy thế giới thật diệu kỳ và lắm vẻ ngạc nhiên đến thế nào, và anh ta đào sâu vào ngôn ngữ để tìm ra giọng điệu riêng của mình. Để làm điều này anh ta cần giấy, bút, và sự lạc quan của một đứa trẻ nhìn thế giới lần đầu tiên. Tôi tập hợp những bài viết này để tạo thành một cuốn sách hoàn toàn mới lấy yếu tố tự truyện làm trung tâm. Tôi bỏ nhiều bài và cắt ngắn một số bài khác, chỉ lấy trích đoạn từ hàng trăm bài báo và đưa một số tiểu luận đến những vị trí xa lạ trong cuốn sách, những vị trí xem ra phù hợp với kết cấu của câu chuyện đó. Ví dụ, ba bài diễn văn được in thành một tập riêng ở Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều ngôn ngữ khác dưới nhan đề Cái vali của cha tôi (gồm diễn từ Nobel cùng tên, cũng như bài “Ở Kars và Frankfurt”, bài diễn văn tôi đọc nhân dịp Giải thưởng Hòa bình Đức, và bài “Tác giả ngầm ẩn”, bài diễn văn tôi đọc tại Hội nghị Puterbaugh) xuất hiện ở đây trong các phần tách biệt để phản ánh cùng một câu chuyện tự truyện ấy. Ấn bản Những màu khác này được dựng nên từ cùng bộ khung của cuốn sách cùng tên xuất bản lần đầu ở Istanbul năm 1999, nhưng cuốn sách trước mang hình thức của một tập hợp, trong khi cuốn sách này được định hình như một chuỗi các phân mảnh mang tính tự truyện, những khoảnh khắc, những ý nghĩ. Nói về Istanbul, hay bàn luận về các cuốn sách, tác giả, bức tranh yêu thích nhất của tôi, với tôi luôn luôn là một cái cớ để nói về cuộc đời. Những mẩu chuyện New York được viết năm 1986, khi tôi viếng thăm thành phố lần đầu tiên, và tôi viết chúng để ghi nhận những ấn tượng đầu tiên của một người nước ngoài, dự định dành cho độc giả Thổ Nhĩ Kỳ. “Nhìn ra cửa sổ”, câu chuyện ở cuối sách, mang tính chất tự truyện mạnh đến nỗi tên nhân vật rất có thể là Orhan. Nhưng người anh trong câu chuyện, như tất cả các người anh trong các câu chuyện của tôi, xấu xa và bạo tàn, không liên hệ gì với người anh của tôi ngoài đời thực, Şevket Pamuk, sử gia kinh tế xuất sắc. Khi soạn cuốn sách này, tôi bàng hoàng nhận ra tôi có mối quan tâm đặc biệt và khuynh hướng thiên về các thảm họa tự nhiên (động đất) và thảm họa xã hội (chính trị), và do vậy tôi đã gạt ra kha khá bài viết u ám về chính trị. Tôi luôn luôn tin rằng ắt phải có một kẻ cuồng viết tham lam và gần như không thể lay chuyển thường trú trong tôi - một sinh vật không thể bao giờ viết cho đủ, kẻ lúc nào cũng biến cuộc sống thành từ ngữ - và để cho hắn ta vui lòng tôi cần phải tiếp tục viết. Nhưng khi soạn cuốn sách này, tôi khám phá ra rằng kẻ cuồng viết đó sẽ vui hơn nhiều, và bớt đau đớn vì căn bệnh viết lách của hắn, nếu hắn làm việc với một biên tập viên trao cho những bài viết của hắn một trung tâm, một bộ khung, và một ý nghĩa. Tôi mong độc giả nhạy cảm hãy chú ý đến việc biên tập sáng tạo của tôi cũng nhiều như chú ý đến nỗ lực mà tôi đặt vào bản thân việc viết. Tôi hầu như không đơn độc trong việc là người ngưỡng mộ nhiệt thành nhà văn, nhà triết học Đức Walter Benjamin. Nhưng để chọc tức một người bạn quá mức sùng bái ông (dĩ nhiên cô là một người trong giới học thuật), đôi khi tôi hỏi, “Ông nhà văn này có gì mà quá vĩ đại? Ông ấy chỉ hoàn thành có vài cuốn sách, và nếu ông nổi tiếng, ấy không phải nhờ những tác phẩm ông đã hoàn thành mà là nhờ những tác phẩm ông chưa bao giờ hoàn thành nổi.” Bạn tôi trả lời rằng toàn bộ các tác phẩm của Benjamin, như bản thân cuộc đời, không có ranh giới và do đó có tính chất phân mảnh, và đó là lý do tại sao nhiều nhà phê bình văn chương đã rất cố gắng mang lại ý nghĩa cho các tác phẩm đó, như họ làm với cuộc đời. Và mỗi lần như thế tôi mỉm cười nói, “Một ngày nào đó tôi sẽ viết một cuốn sách cũng chỉ tạo thành từ các phân mảnh.” Đây là cuốn sách ấy, được đặt trong một cái khung để gọi ra một trung tâm mà tôi cố gắng che giấu: tôi hy vọng độc giả sẽ thích thú với việc tưởng tượng sao cho cái trung tâm ấy thành hiện hữu. Mời các bạn đón đọc Những Màu Khác của tác giả Orhan Pamuk & Lâm Vũ Thao (dịch).
Nguyện Ước Tháng Năm
Đỏ là một cây cổ thụ một trăm mười sáu tuổi và đồng thời là cây nguyện ước của khu phố nơi mọi người đến buộc điều ước của mình vào ngày mùng một tháng Năm hằng năm. Đỏ đã chứng kiến rất nhiều chuyện, đã lắng nghe rất nhiều điều ước, và năm nay, khi một gia đình người Hồi giáo chuyển tới sinh sống trong khu, Đỏ đã nhận được một điều ước đặc biệt từ cô bé Samar: cô bé ước có một người bạn. Khi Đỏ hay tin mình sắp sửa bị đốn hạ, cậu đã dùng hết khả năng của một cây cổ thụ để giúp Samar biến ước nguyện thành sự thật. *** Trò chuyện với cây cối không phải là việc dễ dàng, bởi chúng tôi hơi kiệm lời. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi không thể làm được những chuyện đáng kinh ngạc, những chuyện mà loài người có lẽ chẳng bao giờ làm. Che chở cho những nhóc cú sơ sinh. Biến thành những ngôi nhà cây chắc chắn. Và quang hợp nữa. Nhưng trò chuyện với con người ấy hả? Không nhé. Và chắc chắn không ai có thể kì vọng một cái cây kể chuyện cười cho nghe. Cây cối chỉ trò chuyện với một vài người bạn, những người chúng tôi biết là đáng tin cậy ấy mà. Chúng tôi tán gẫu với lũ sóc liều lĩnh, đám sâu chăm chỉ, những cô bướm đỏm dáng, và cả những chú ngài bẽn lẽn nữa. Đám chim như thế nào à? Lúc nào cũng vui tươi. Họ nhà ếch thì sao? Mặt mũi quàu quạu, nhưng rất tốt tính. Rắn nữa? Chuyên gia buôn chuyện đấy. Còn cây? Chà, tôi chưa gặp cái cây nào khó ưa cả. À thì, chỉ có mỗi cây đinh hương ở góc đường thôi. Í éo í éo í éo cả ngày, chính là nó đấy. Vậy cây cối có bao giờ nói chuyện với loài người không? Lên tiếng thực sự - một khả năng rất “người” ấy? Câu hỏi hay đấy. Thật ra mối quan hệ giữa cây cối và loài người rất phức tạp. Chỉ vừa ôm ấp bọn tôi xong mà ngay sau đó các bạn đã có thể biến chúng tôi thành vài cái bàn gỗ, hoặc mấy que đè lưỡi được rồi. Có thể bạn đang tự hỏi sao vụ cây biết nói này không được nhắc đến trong mấy lớp Khoa học nhỉ, mấy cái tiết gì mà “Mẹ Thiên nhiên là bạn thân của loài người” ấy? Chà, đừng vội trách móc thầy cô của bạn nhé. Chẳng qua là họ không biết cây có thể nói chuyện thôi. Hầu hết loài người đều không biết điều này. Nhưng dù sao thì, nếu một ngày đặc-biệt-may-mắn nào đó, bạn tình cờ đứng cạnh một cái cây trông đặc-biệt-thân-thiện, thì hãy thử lắng nghe xem. Cây cối không giỏi nói đùa lắm. Nhưng chúng tôi chắc chắn biết kể những câu chuyện hay. Và nếu bạn chỉ nghe được tiếng lá cây rì rào, thì cũng đừng buồn. Chỉ vì đa số cây cỏ tụi tôi đều là những kẻ rụt rè hướng nội thôi. Mời các bạn đón đọc Nguyện Ước Tháng Năm của tác giả Katherine Applegate & Hoàng My (dịch).
Người Quét Dọn Tâm Hồn
Người Quét Dọn Tâm Hồn là những ghi chép của Hiroshe Kamata, người đã có 15 năm cống hiến cho việc giữ sạch công viên giải trí Disneyland Nhật Bản. Vì điều này mà những diễn biến trong tập sách đều là câu chuyện có thật, xảy ra tại nơi được mệnh danh là vương quốc của những giấc mơ. Điểm thú vị là những nhân vật của Hiroshe Kamata đều đang ở những vị trí khá thấp. Đó là những người quét dọn, người giữ sạch Disneyland Nhật Bản, giữ cho những thứ đồ chơi trong công viên này long lanh để phục vụ du khách… Có người yêu thích, có người không yêu công việc họ đang làm. Cũng có người yêu thích, nhưng vẫn nhiều mặc cảm khi ở trong bộ đồng phục lao công, chiếc chổi trên tay... Nhưng, qua những tính cách thú vị tiềm ẩn ở mỗi nhân vật, người đọc sẽ khám phá ra ánh hào quang tỏa ra từ những con người thầm lặng, đang làm đẹp cho Disneyland. Người tạo cảm hứng để Hiroshe Kamata viết nên tập sách này là Chuck Boyajian, người được biết đến với danh hiệu "Thần quét dọn" trụ sở Disneyland ở Mỹ. Chỉ bằng biểu cảm của ông trong việc lao dọn nhà vệ sinh, ông đã giúp tác giả Người quét dọn tâm hồn tìm thấy niềm vui, niềm tự hào trong công việc. Để rồi từ đó, Hiroshe Kamata luôn cố gắng để lan tỏa tinh thần của “Thần quét dọn” đến tất cả nhân viên của mình.  Thông điệp của tập sách đơn giản nhưng lại hết sức ấn tượng: Dù bạn là ai, đang làm công việc gì, chỉ cần tìm thấy tình yêu và chân giá trị của công việc, bạn cũng sẽ tỏa sáng. Đôi nét về tác giả Hiroshe Kamata: Ông sinh năm 1950 tại Miyagi. Sau 15 năm làm việc tại Disneyland, từ vị trí giám sát bộ phận quét dọn bạn đêm đến vị trí giám sát ban ngày và cuối cùng là quản lý bộ phận giáo dục, ông quyết định rời Disneyland và thành lập một công ty cố vấn với mục tiêu truyền đạt tất cả kiến thức của ông về bồi dưỡng nguồn nhân lực đến thật nhiều doanh nghiệp. *** T rong cuộc đời mỗi người đều có những khoảnh khắc không bao giờ quên. Đến tận bây giờ, mỗi khi nhắm mắt lại, trong tâm trí tôi vẫn hiện rõ một hình ảnh sẽ theo tôi đến cuối cuộc đời. Đó là vào ngày mùa đông lạnh giá 28 năm trước, trong những cơn gió lạnh buốt, dữ dội, một điều kỳ diệu đã xảy ra tại văn phòng làm việc tạm thời ở khu vực xây dựng Disneyland Tokyo, thành phố Urayasu. Thời gian đó, tôi bị bủa vây bởi rất nhiều mối lo và áp lực. Tôi luôn tự động viên mình: “Cố lên nào! Nếu tiếp tục cố gắng, mình sẽ có được một công việc ở Disneyland”. Cuối cùng, sau 5 lần ứng tuyển, tôi cũng được nhận vào làm việc tại Disneyland. Tôi cảm thấy hạnh phúc với vị trí Night Custodial, tức “người hướng dẫn kiêm giám sát nhân viên quét dọn ca đêm”. Đó là nhiệm vụ rất đáng phấn khởi đối với những nhân viên được nhận vào vị trí này. Công việc này không trao cho tôi quyển hộ chiếu dẫn vào một tiền sảnh đầy hoa với những tiếng vỗ tay náo nhiệt hay một thế giới của những giấc mơ tuyệt đẹp, song lại đưa tôi vào một thế giới tĩnh lặng và chắc chắn không có những vị khách như chú chuột Mickey hay nàng chuột Minnie ghé thăm. Chúng tôi lặng thầm quét dọn tới, lui khu vực bãi đỗ xe trong đêm khuya tĩnh mịch. Hầu như nhân viên quét dọn không mấy ai cảm thấy vui vẻ khi nghĩ đến điều này, thậm chí nhiều người còn không muốn thừa nhận mình đang làm công việc quét dọn. Hơn nữa, vì công việc lúc trước của tôi không liên quan gì đến công việc hiện tại, nên tôi cũng chỉ là một nhân viên nghiệp dư. Trong nhóm đồng nghiệp của tôi cũng có người cảm thấy mệt mỏi và khó chịu trước cuộc sống sinh hoạt đảo lộn giữa ngày và đêm. Riêng tôi cũng có nhiều suy nghĩ lẫn lộn. Tôi nhận thấy mọi người ai ai cũng trăn trở và cảm giác như đang lầm đường lạc lối, khiến tôi luôn tự hỏi, “Tôi nỗ lực hết sức để làm công việc này để làm gì?”. Ngay thời điểm ấy, một nhân vật đã xuất hiện – một người đàn ông trung niên được mệnh danh là “Thần quét dọn” đến từ trụ sở Disney ở Mỹ. Vài ngày sau khi đến, ông tập hợp chúng tôi tại một nhà vệ sinh hôi hám trong một văn phòng tạm thời. Chúng tôi đứng quây quần ở một khoảng cách nhất định đủ để quan sát ông. Phải, chúng tôi không muốn vào trong một nhà vệ sinh mà khắp nơi chỉ toàn những vũng nước bẩn và vết dơ, vết ố mà bất kỳ ai đi ngang đều muốn nhanh chân bước qua. Không nói gì, ông chậm rãi mang găng tay cao su, lẳng lặng bước về phía nhà vệ sinh vốn không khác gì một nơi bị ma ám đó. Mọi người đều lùi lại và đưa mắt nhìn nhau. Rồi ông bắt đầu cẩn thận cọ rửa bồn cầu một cách hết sức tự nhiên, hệt như đang ôm ấp đứa con của mình. Âm thanh chà xát vang lên, đập vào tai chúng tôi theo nhịp điệu của miếng bọt biển để chà bồn. Những vết bẩn cứng đầu bám dính trong các đường rãnh trên sàn nhà hay những đường viền xung quanh bồn cầu bắt đầu biến mất. Nhờ bàn tay của ông, bồn vệ sinh đó như được tiếp thêm sinh khí và lấy lại vẻ sáng bóng vốn có. “Chuyện này là sao!?”. Những gì tôi vừa chứng kiến khác hoàn toàn với công việc quét dọn mà tôi thường nghĩ. Hình như tôi đang nhìn thấy mọi việc ở một góc độ khác. Tôi chăm chú dõi theo từng hành động của ông, và rất muốn cử động đôi tay mình theo nhịp đôi tay ông đang làm. Tôi chưa bao giờ cảm thấy hứng thú với công việc dọn dẹp nhà vệ sinh như lúc này. Những đồng nghiệp của tôi cũng vậy, tất cả họ đều bắt đầu cử động cơ thể. Và sau khi toàn bộ nhà vệ sinh ngập tràn vẻ lấp lánh, sáng bóng, ông quay mặt về phía chúng tôi và mỉm cười – một nụ cười hao hao giống với nụ cười của Walt Disney, người sáng lập thế giới Disney. Lúc đó tôi cảm nhận được một sự khoan khoái không thể diễn tả thành lời. Ông không chỉ quét dọn những vết bẩn trong nhà vệ sinh, mà còn quét sạch thứ cảm giác thấp kém và sự chối bỏ công việc mà chúng tôi đang mang trong mình. Và như thế, ông đã thần kỳ biến chúng tôi từ những con người đang chán ngán công việc trở thành những nhân viên yêu thích và tự hào công việc quét dọn hơn bao giờ hết. Ông tên là Chuck Boyajian, người được ông Walt đặt trọn niềm tin, và thường được biết đến với danh hiệu “Thần quét dọn” của thế giới Disney. Lúc đó, tôi không hề biết rằng sự hiện diện của ông có ý nghĩa lớn lao đối với cuộc đời tôi đến vậy. Ông là một người thầy đáng kính đã dạy bảo tôi rất nhiều bài học quý báu. Nếu được quay trở lại khoảnh khắc đó một lần nữa, tôi vẫn muốn được chiêm ngưỡng phép thuật của ông, một thứ phép thuật thay đổi cuộc đời tôi, một thứ phép thuật mãi mãi không bao giờ biến mất. Ngay lần đầu ghé thăm Disneyland ở Anaheim, California, tôi đã bị làm cho mê mẩn. Đó là “nơi tâm hồn mọi người hòa làm một”, “nơi có thể gặp những nhân vật cổ tích có thật trong trái tim của bất cứ ai” và là nơi duy nhất không thể tìm thấy được ở đâu khác trên thế giới. Tôi đã ấp ủ ước mơ được trở thành một phần của thế giới tuyệt vời này ngay từ lúc đó. Vì vậy, nghe tin Disneyland Tokyo sắp mở cửa, tôi cảm thấy như định mệnh ưu ái sắp đặt sẵn một cánh cửa cho tôi bước gần tới ước mơ hơn. Ngay lập tức, tôi đã từ bỏ công việc cũ để nộp đơn xin vào đây mà không cần suy nghĩ. Từ lúc bước vào cánh cửa đó, tôi liên tiếp nhận được những điều kỳ diệu đến không tưởng. Vì mọi thứ quá rực rỡ, quá màu nhiệm, đôi khi tôi cứ ngỡ đây chỉ là một giấc mơ. Quyển sách này là những câu chuyện thực tế mà tôi đã trải nghiệm thời trẻ khi gắn bó với Disneyland. Từng câu chuyện tạo nên một cuốn tiểu thuyết huyền ảo, đan xen giữa mơ và thực. Có thể, bạn sẽ cảm thấy lạ lẫm và mới mẻ, vì quyển sách này không lập tức mang đến cho bạn nhiều thông tin như sách về Disney, nhưng qua những đặc điểm tính cách thú vị tiềm ẩn ở mỗi nhân vật trong từng câu chuyện, bạn sẽ tự khám phá ra “Ánh hào quang tỏa ra từ những con người làm việc tại Disneyland”, giống như trong trò chơi tìm kiếm chú chuột Mickey ẩn mình trong bãi đỗ xe vậy. Như một phép nhiệm màu, thông qua công việc quét dọn đầy giá trị trân quý ở Disneyland, tôi đã tìm ra “chân giá trị về công việc giúp bản thân và người khác hạnh phúc”. Và tôi hy vọng phép màu ấy cũng giúp bạn tự mình tìm ra niềm vui trong công việc và cuộc sống. 0 giờ, ngày 4 tháng 1 năm 1983 là ngày bắt đầu công việc của tôi – một người nhân viên quét dọn ca đêm. Kể từ đêm đó, cánh cửa dẫn đến “thế giới của giấc mơ và những cuộc phiêu lưu” đã mở ra cho bản thân tôi. Thật sự lúc ấy tôi vẫn chưa hiểu hết mọi nỗi nhọc nhằn, khó khăn, vất vả trong công việc cũng như cách nối kết những mối quan hệ nơi làm việc. Thỉnh thoảng tôi vẫn phân vân không biết liệu mình có thật sự muốn làm công việc hiện tại không. Tôi cố gắng tìm kiếm cơ hội để trải nghiệm những điều hay ho và mới mẻ. Và tôi đã tích lũy được nhiều bài học để đời quý giá qua việc quét dọn tại bãi đỗ xe trong màn đêm vắng lặng cũng như qua những gì học tập được từ Thần quét dọn. Vì vậy, qua quyển sách này, tôi muốn gửi đến cho các bạn báu vật “những bài học đáng suy ngẫm và đầy cảm động về chân giá trị của công việc”. Dưới đây là phần tiếp theo của câu chuyện. Mong rằng các bạn có thể có những phút giây vui vẻ qua những trang sách. Bây giờ, xin chào mừng bạn đến với thế giới quét dọn lạ thường của thế giới Disney! Hãy cùng tôi lần giở những trang sách này thật chậm nhé! Tháng 9 năm 2011 Hiroshi Kamata   Mời các bạn đón đọc Người Quét Dọn Tâm Hồn của tác giả Hiroshi Kamata & Hạnh Phan & Nhóm Sóc Xanh (dịch).
Họp Mặt
Chín đứa con còn sống sót của nhà Hegarty họp mặt tại Dublin dự tang lễ của Liam, một người con vừa chết đuối. Veronica, người em gái, đã tới canh cái xác, bầu bạn với nó, và canh cả bí mật cô từng cùng anh chia sẻ: một chuyện đã xảy ra trong nhà bà ngoại họ mùa đông năm 1968, một bí mật tăm tối đã khiến cuộc đời họ vĩnh viễn biến hình. Trong lúc Enright lần theo những con đường của sự phản bội và cứu chuộc qua ba thế hệ, bà đã cho thấy ký ức có thể thay đổi đến đâu, và những bí mật có thể gây ra chừng nào đau đớn. Ở tác phẩm này, cũng như mọi tác phẩm khác mà Enright từng viết, trí tuệ đặc biệt của bà đã vặn xoắn thế giới một chút rồi trả lại nó cho chúng ta trong ánh sáng mới và không thể lãng quên. *** Đôi nét về tác giả Anne Enright Anne Enright sinh năm 1962 ở Dub­lin, học tiếng Anh và triết ở Trin­ity Col­lege, Dub­lin, và học tiếp lấy bằng thạc sĩ về sáng tác ở Đại học East Anglia. Bà có lúc làm nhà sản xuất chương trình truyền hình. Cuốn sách đầu tiên của bà là tập truyện The Port­able Vir­gin (Tượng Mẹ đồng trinh xách tay), ra đời năm 1991, và đoạt giải Rooney của văn học Ireland. Hai tập truyện kế đó, Tak­ing Pic­tures (Chụp hình) và Yesterday’s Weather (Thời tiết hôm qua) được xuất bản năm 2008. Các tiểu thuyết của bà là The Wig My Father Wore (1995; Mái tóc giả cha tôi đội); What Are You Like? (Trông bạn ra sao?) đoạt giải Encore Award 2001; The Pleas­ure of Eliza Lynch (2002; Niềm vui của Eliza Lynch); và The Gath­er­ing (2007; Họp mặt) đoạt giải Man Booker cho truyện năm 2007. *** Lời khen tặng dành cho Họp mặt “Trí tuệ đến liều lĩnh, khiếu hài hước hoang dại, chậm rãi trong diễn tiến, không một chút ủi an: tiểu thuyết của Enright rất tăm tối, nhưng đó cũng là điều khiến nó lấp lánh.” – New York Times Book Review “Tiết chế đến kinh ngạc và cách nhìn không tì vết.” – Los Angeles Times “Giọng kể của cuốn sách phảng phất âm hưởng nỗi đau lạnh lùng đầy giận dữ kiểu Joan Didion, nhưng lòng trắc ẩn ấm áp có lẽ gợi nhớ Người Dublin của James Joyce.” – Washington Post “Enright đã viết một tiểu thuyết nghiệt ngã mà trang nhã tuyệt vời, đưa chủ đề Ireland quen thuộc là sự bất thường trong gia đình và thói đỏng đảnh của ký ức vào vùng lãnh địa được đắp thêm thịt da bằng một sự khách quan chính xác tới mức khiến nó lại gần như tràn đầy lòng thương…” – Los Angeles Times “Một cái nhìn trực diện vào một gia đình đau thương… một tiểu thuyết rất đáng đọc và đáng hài lòng.” – Ngài Howard Davies, Chủ tịch Ban Giám khảo giải Man Booker “Mê hoặc, lạnh lùng, sâu sắc. Họp mặt là một cái nhìn ám ảnh vào một gia đình tan vỡ, bị bóp nghẹt bởi hàng thế hệ đau thương, thất vọng, vật lộn thỏa hiệp với điều không thể thay thế.” – Entertainment Weekly *** Tôi muốn ghi lại những gì đã xảy ra tại nhà bà ngoại tôi hồi mùa hè năm tôi tám chín tuổi gì đó, nhưng tôi không chắc liệu nó có thực sự xảy ra không. Tôi cần làm chứng cho một sự kiện không chắc chắn. Tôi cảm thấy nó kêu gào trong tôi - cái điều có thể đã không xảy ra này. Thậm chí tôi không biết gọi tên nó là gì. Chắc có thể gọi nó là một tội lỗi về xác thịt, nhưng xác thịt đã từ lâu tan rã và tôi không chắc nỗi đau nào có thể còn day dứt trong xương. Anh Liam của tôi thích chim và, giống như mọi cậu trai khác, anh thích xương những con thú chết. Tôi không có con trai, vì vậy khi đi ngang qua bất kỳ cái đầu lâu hay bộ xương nhỏ nào tôi cũng đều chậm bước và nghĩ về anh ấy, về chuyện anh ấy từng mê thích những nét phức tạp của chúng. Đôi cánh già nua của một con ác là thò ra khỏi mớ lông bù xù; chắc mập và nhẹ và sạch. Đó là từ chúng ta dùng cho xương: Sạch. Tôi bảo các con gái mình tránh xa cái sọ chuột trong rừng hoặc con chim sẻ chết đang trải nắng mưa cạnh bức tường khu vườn, dĩ nhiên. Tôi không chắc tại sao. Dù vậy, đôi khi chúng tôi tìm thấy, trên bãi biển, một cái mai mực trắng tinh khiết đến độ tôi phải tuồn nó vào túi áo, và tôi an ủi tay mình bằng cách mân mê cái vòm cong trắng bí mật của nó. Bạn không thể phỉ báng người chết, tôi nghĩ, bạn chỉ có thể an ủi họ. Vì vậy tôi tặng Liam bức tranh này: hai đứa con gái của tôi đang chạy trên rìa cát bãi biển lổn nhổn đá, dưới bầu trời vần vũ sà xuống thấp, vai áo khoác hất ra sau. Sau đó tôi xóa nó. Tôi nhắm mắt và buông mình lăn theo tiếng tĩnh điện ầm ĩ của biển cả. Khi tôi mở mắt ra, đó là để gọi mấy đứa con gái trở lại xe. Rebecca! Emily! Điều đó không quan trọng. Tôi không biết sự thật, hoặc tôi không biết cách kể sự thật. Tôi chỉ có những câu chuyện, những ý nghĩ về đêm, những niềm tin bất ngờ đẻ ra trong tình trạng không chắc chắn. Tôi chỉ có những lời cuồng loạn, giống vậy hơn. Bà yêu ông ấy! Tôi nói. Bà hẳn đã yêu ông ấy! Tôi chờ cái ý nghĩa mà bình minh mang đến, khi bạn không ngủ. Tôi ở lại dưới nhà trong khi cả gia đình thở đều ở phía trên và tôi viết ra điều này, tôi trải chúng ra thành những câu đẹp, tất cả những xương trắng, sạch của tôi. Mời các bạn đón đọc Họp Mặt của tác giả Anne Enright & Phạm Viêm Phương (dịch) & Huỳnh Kim Oanh (dịch).