Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Không Có Bữa Ăn Nào Miễn Phí - Alan Phan

Nhờ vai trò lịch sử trong 2 cuộc chiến tranh Pháp – Mỹ, Việt Nam đã có tiềm năng để nổi tiếng và tạo thiện cảm với nhân dân thế giới. Tuy nhiên sau 37 năm từ ngày chấm dứt chiến tranh, hình ảnh Việt Nam đã mờ dần trong trí nhớ của những thế hệ trẻ sau này. Sự thiếu vắng những thành quả ấn tượng trên mọi lãnh vực từ kinh tế đến khoa học, từ nghệ thuật đến thể thao đã bào mòn thương hiệu Việt Nam. Trước 1990, không mấy ai trên thế giới suy nghĩ nhiều về tài sản “mềm”, mà đo lường sự thịnh vượng thành công của 1 công ty hay 1 con người qua các đồ chơi sờ mó được như bất động sản, khoáng sản, thực phẩm, xe cộ, điện máy… Nhưng bây giờ đã khác. Tài sản mềm mang giá trị quan trọng nhất trong lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế tương lai. Nhìn lại Việt nam, liệu chúng ta có thể đánh giá được những tài sản mềm? Vai trò của chúng sẽ ảnh hưởng như thế nào trong chiến lược kinh tế khu vực và toàn cầu? Tiến sĩ Alan Phan là doanh nhân Việt kiều đầu tiên đưa công ty tư nhân của mình lên sàn chứng khóan Mỹ vào năm 1987. Năm 1999, Tập đoàn Hartcourt của ông đạt mức thị giá lên đến 670 triệu USD, hiện nay đã tách thành năm công ty (HRCT, SRRY, ETLK, ENVI và SPXP) và tiếp tục niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ. Ông cũng là người đầu tiên giới thiệu hệ thống bán cổ phiếu qua mạng và giáo dục online tại Trung Quốc vào năm 1997. Trước đó, ông đã có nhiều năm kinh nghiệm làm việc trong các công ty đa quốc gia tại Mỹ, châu Âu và Trung Quốc. Ông cũng là cổ đông lớn tại 6 công ty đại chúng ở Trung Quốc và Hoa Kỳ. *** Tiến sĩ Alan Phan là người bạn lớn, bạn tốt, bạn chân thành của tôi. Cũng theo quy luật của trời đất “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, chúng tôi gặp nhau và trở thành bạn. Tôi biết ơn vũ trụ cho chúng tôi gặp nhau để rồi đồng hành trong hàng chục chương trình dành cho doanh nhân, sinh viên và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tiến sĩ Alan Phan không chỉ là một học giả với hai bằng tiến sĩ và các chương trình giảng dạy tại đại học. Anh là một doanh nhân đáng nể. Anh lăn lộn khắp năm châu, bốn bể để tìm kiếm cơ hội và lập nghiệp, để kinh doanh và đầu tư. Anh đã hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau và ở đâu anh cũng để lại những dấu ấn đáng kể. Tiến sĩ Alan Phan và tôi có khá nhiều điểm tương đồng, nhất là tâm huyết cho thế hệ trẻ. Bất cứ chương trình nào dành cho giới trẻ, nhất là sinh viên là chúng tôi luôn bên nhau, nếu có thể. Chúng tôi đều mê đọc sách và cho rằng đọc sách là điều kiện tiên quyết để thành công. Chúng tôi nghiên cứu, thực hành và chia sẻ nhiều về tri thức. Chúng tôi luôn hướng về tương lai, về thế hệ nối tiếp chúng tôi. Tiến sĩ Alan Phan nói chuyện rất hài hước. Cách nói chuyện dí dỏm và tự nhiên của anh làm say mê lòng người, nhất là giới trẻ. Có lẽ nhờ điều này nên tôi luôn thấy anh trẻ, và đặc biệt trẻ trong tâm hồn của mình. Tiến sĩ Alan Phan rất tâm huyết với dự án “10 triệu máy tính bảng cho sinh viên”. Tôi nghe đến dự án này và cảm nhận được tâm huyết của anh. Tôi, với thâm niên 12 năm làm việc tại FPT, doanh nghiệp về công nghệ thông tin lớn nhất Việt Nam, nên luôn mong muốn góp sức cùng anh. Và hôm nay, khi nhận được bản thảo cuốn sách của Tiến sĩ Alan Phan, tôi rất vui và đọc liền một mạch. Cuốn sách gồm những bài viết rất sâu sắc và lắng đọng, ý nghĩa và thực tế, về những câu chuyện cũ nhưng rất mới, về quá khứ mà như nói cho tương lai, về những câu chuyện mộc mạc mà như những bài giảng quý. Tôi đưa bản thảo của anh cho vài người bạn doanh nhân đọc và ai cũng khuyên nên xuất bản ngay, càng sớm càng tốt. Thế là sau 42 năm làm ăn tại Mỹ và Trung Quốc, Niêm yết sàn Mỹ, Một tư duy khác về kinh tế và xã hội Việt Nam, Không có bữa ăn nào miễn phí là một cuốn sách nữa của Tiến sĩ Alan Phan được Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc và Thái Hà Books xuất bản. Tôi tin tưởng rằng những ai muốn tìm hiểu về kinh tế và quản trị, về làm giàu và đầu tư, về tri thức và ứng dụng, nhất là những ai đang hâm mộ Tiến sĩ Alan Phan sẽ có thêm một cuốn sách hay cho bộ sưu tập của mình. Đây là một cuốn sách có giá trị, bổ sung vào kho sách tri thức của Thái Hà Books – những cuốn sách không lý thuyết mà chuyên về ứng dụng, rõ ràng và hoàn chỉnh, ngắn gọn mà đầy đủ. Đây là cuốn sách lôi cuốn bạn khi đọc, là cuốn sách mà khi đọc bạn phải nghĩ. Nếu nói một vài từ, tôi xin thưa rằng “lôi cuốn và hấp dẫn”. Xin trân trọng cảm ơn các bạn của tôi tại Thái Hà Books và Nhà xuất bản đã làm việc miệt mài để cuốn sách sớm ra đời; xin chân thành chúc mừng bạn đọc đã có duyên lành được cầm trên tay cuốn sách này của bạn tôi - Tiến sĩ Alan Phan. TS. Nguyễn Mạnh Hùng  Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Thái Hà Books *** Bộ sách Góc Nhìn Alan gồm có: Không Có Bữa Ăn Nào Miễn Phí Đừng Hoang Tưởng Về Biển Lớn Dành Tặng Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu 42 Năm Làm Ăn Tại Mỹ Và Trung Quốc Một Tư Duy Khác Về Kinh Tế Và Xã Hội Việt Nam ... *** Tài sản mềm của Việt Nam Trước 1990, không mấy ai trên thế giới suy nghĩ nhiều về tài sản “mềm”, mà đo lường sự thịnh vượng thành công của một công ty hay một con người qua các đồ chơi sờ mó được như bất động sản, khoáng sản, thực phẩm, xe cộ, điện máy… Khi tôi còn làm cho hãng Eisenberg và Hartcourt vào những năm đầu mở cửa của Trung Quốc (1975-1990), chúng tôi được tiếp đón nồng hậu và được mời đầu tư vào những công ty mà chính phủ Trung Quốc cho rằng là “hòn ngọc” giá trị nhất của họ. Đó là những đại công ty có nhà máy lớn như sân vận động, hàng chục ngàn nhân công, cơ sở văn phòng bề thế… tọa lạc phần lớn tại các vùng khỉ ho cò gáy (kế hoạch tránh các phi vụ ném bom trong chiến tranh). Những doanh nghiệp nhà nước này mang rất nhiều tính chất xã hội và quản lý theo kiểu “cha chung”… nên thua lỗ thường trực. Giá trị của tài sản mềm Do đó, khi Hartcourt đem tiền đầu tư chuyên vào các công ty IT hay truyền thông, nhiều tư vấn Trung Quốc cho rằng chúng tôi ngu, đem tiền đi đổ sông Ngô. Ngay đến hôm nay, phần lớn doanh nhân Việt vẫn không nhận ra giá trị mềm của công ty họ. Khi họ chào bán hay mời mọc, họ vẫn khoe nhiều về nhà máy hoành tráng, diện tích đất bao quanh lớn, văn phòng tráng lệ ngay tại trung tâm thành phố và chiếc xe Rolls Royce họ đang lái… Tôi có đến thăm tập đoàn Foxconn ở Thâm Quyến hai năm về trước. Nhà máy hiện đại với hơn 30 ngàn nhân công, hệ thống dây chuyền sản xuất và các phòng “sạch” (clean room) rộng lớn, rất ấn tượng. Sản phẩm chính họ gia công là Iphone, Ipad, Ipod cho Apple. Trong khi Apple làm chủ bản quyền trí tuệ và thương hiệu nên kiếm lời khoảng 140 đô la mỗi đơn vị Iphone, lợi nhuận của Foxconn khoảng 7 đô la một sản phẩm. Hãng Nike có thương vụ lớn nhất toàn cầu về giày dép và trang phục thể thao. Họ không sở hữu bất kỳ nhà máy nào trên thế giới. Tài sản quý giá nhất là thương hiệu đã xây dựng suốt 50 năm qua cùng với những trung tâm thiết kế và các phòng thí nghiệm hiện đại nhất về công nghệ và sản phẩm. Những công ty có thị giá cao nhất trên thế giới đều là những công ty mà giá trị mềm vượt trội: Google, Microsoft, Facebook, Pfizer, Oracle, IBM… Không một công ty bất động sản nào nằm trong Top 100 (100 công ty hàng đầu). Tài sản mềm mang giá trị quan trọng nhất trong lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế tương lai. Nhìn lại Việt Nam, liệu chúng ta có thể đánh giá được những tài sản mềm? Vai trò của chúng sẽ ảnh hưởng như thế nào trong chiến lược kinh tế khu vực và toàn cầu? Hãy kiểm điểm. Tài sản con người Hai yếu tố tạo mũi nhọn cho đội ngũ nhân lực là sáng tạo và năng động. Đây là phạm trù của tuổi trẻ và Việt Nam thường hãnh diện với 65% người dân dưới 30 tuổi, trên 50 triệu người. Thêm vào đó, học sinh, sinh viên Việt Nam thường tỏa sáng tại các trường trung, đại học trên toàn thế giới. Mặt khác, Việt Nam có 3,8 triệu kiều bào có kinh nghiệm nghề nghiệp cao, trong đó 32% tốt nghiệp đại học. Nói chung, so với 9 quốc gia còn lại trong khối ASEAN, Việt Nam dẫn đầu về tiềm lực nhân tài, trên cả Indonesia với gần 250 triệu dân. Tuy nhiên, sự yếu kém của nền giáo dục lý thuyết từ chương đã làm hạn chế tiềm năng này. Công ty Intel đã không tìm ra đủ 180 nhân viên trung cấp cho nhà máy 1 tỷ đô la của họ ở Thủ Đức và phải nhập khẩu một số lớn chuyên viên từ Malaysia và Philippines. Các công ty FDI khác tại Việt Nam đều có những than phiền tương tự. Thêm vào đó, tư duy sao chép nguyên bản các tư tưởng truyền thống, các công thức khoa học lỗi thời và chính sách dùng người hạn chế đã thui chột nhiều sáng kiến, nhiều đổi mới, nhiều tiến bộ. Dù Việt Nam có số lượng giáo sư, tiến sĩ cao nhất ASEAN (gần 10 ngàn người), nhưng trong các năm qua, chỉ có 5 bằng sáng chế nộp tại Âu Mỹ. Năm 2011, Singapore với 5 triệu dân đã đăng ký 648 bằng sáng chế, số lượng bằng sáng chế của Việt Nam với 90 triệu dân là zero. Thương hiệu quốc gia Các tên tuổi mà mạng truyền thông Việt không ngừng vinh danh như Vinamilk, Trung Nguyên, Kinh Đô, Bitis… đều chưa có thương hiệu tầm cỡ khu vực và thế giới trong khi việc hội nhập càng sâu vào thị trường quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi tư duy về thương hiệu và phải có tầm nhìn dài hạn và chiến lược marketing tổng thể. Ngay cả Vietnam Airlines đáng lẽ phải là một đầu cầu để phát triển các thương hiệu khác cho Việt Nam trên khắp điểm đến của thế giới cũng chưa hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nhờ vai trò lịch sử trong hai cuộc chiến tranh với Pháp và Mỹ, Việt Nam đã có tiềm năng để nổi tiếng và tạo thiện cảm với nhân dân thế giới. Tuy nhiên, sự thiếu vắng những thành quả ấn tượng trên mọi lĩnh vực từ kinh tế đến khoa học, từ nghệ thuật đến thể thao đã bào mòn thương hiệu Việt Nam. Nhật Bản phải mất gần 40 năm mới tạo dựng cho Made in Japan một thương hiệu đồng nghĩa với chất lượng sản phẩm và sáng tạo. Trung Quốc cố gắng tạo một thương hiệu quốc gia suốt 35 năm qua. Tuy nhiên, lấy lại lòng tin của khách hàng vì sự mất uy tín của thương hiệu là cuộc chiến đấu quyết liệt ở Trung Quốc vì chạy theo lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp đã bất chấp cả sức khỏe và sinh mệnh của người tiêu dùng, điều ấy đã tạo ra sự phản cảm, dẫn đến sự công phẫn của công luận trong và ngoài nước với không ít sản phẩm Made in China. Nhưng nhiều doanh nghiệp Việt đã và đang đi lên bằng kinh nghiệm dày dạn, sáng kiến đột phá cùng khát vọng ở tầm chiến lược, từng bước chinh phục thị trường thế giới. Vị thế trên thị trường Mọi nền kinh tế cũng như doanh nghiệp đều có thể tạo cho mình một thế mạnh trong các thị trường ngách, mà không cần đến các yếu tố cạnh tranh trên. Thí dụ, Thụy Sĩ hay Singapore không có một nền tài chính lớn mạnh như Mỹ, Anh… cũng không có đội ngũ hay công nghệ gì sáng tạo hơn; nhưng họ biết biến quốc gia nhỏ bé của họ thành một trung tâm tài chính thế giới qua chính sách mở rộng mà kín đáo, hiệu năng và minh bạch. Việt Nam có thể tìm một lợi thế cạnh tranh theo phương thức trên. Dù công nghiệp Việt không thể sánh với Trung Quốc trên rất nhiều phương diện, nhưng các nhà sản xuất Hàn, Nhật đã đầu tư nhiều vào Việt Nam để tránh rủi ro khi bỏ tất cả trứng vào cái giỏ Trung Quốc. Về du lịch, dù không thể cạnh tranh với Thái Lan hay ngay cả những quốc gia nhỏ như Singapore và Malaysia, Việt Nam có thể đào sâu vào một chiến lược đặc trưng như sinh thái, thám hiểm hay hưu trí để tạo thị trường. Hai ngành nghề tôi tin là Việt Nam có thể dẫn đầu tại ASEAN nếu biết phát triển đồng bộ và sáng tạo. Thứ nhất là nông nghiệp công nghệ cao. Tạo ra những sản phẩm xanh, sạch, an toàn được đảm bảo bởi những cơ quan kiểm phẩm nổi danh thế giới là bước đầu. Việc giáo dục huấn luyện cho các nông dân những công nghệ mới, những quy trình dùng IT để điều hòa và tiếp liệu, sử dụng đội ngũ tiếp thị trẻ và bén nhậy từ thành phố có thể tạo nên một làn sóng thay đổi bộ mặt của nông thủy sản Việt Nam. Người tiêu dùng tại các nước Á Châu, nhất là tại các nơi có thu nhập cao như Hồng Kông, Nhật, Singapore… đang có nhu cầu rất lớn về an toàn thực phẩm. Thứ hai là ngành IT (công nghệ thông tin) tại các thành phố lớn bao quanh bởi các trường đại học tiên tiến và hiện đại. Giáo trình học phải thay đổi và các trung tâm IT phải có những cơ sở hạ tầng tối tân nhất để giúp tính sáng tạo của đội ngũ phát huy đúng mức. Trên hết, luật về bản quyền trí tuệ phải được thắt chặt và nghiêm túc thực thi trên mọi cấp bậc của thị trường. Văn hóa gia đình và xã hội Người Việt Nam gắn bó thân tình chặt chẽ với gia đình, làng xóm và đất nước, nên sự đùm bọc và tiếp sức tạo một thế đoàn kết mạnh hơn chủ nghĩa cá nhân của Âu Mỹ. Nhưng đây cũng có thể là một bất lợi vì tầm nhìn bị giới hạn, tính cộng đồng rất cao và quá gần nhau thì cũng dễ gây ra xích mích, mâu thuẫn. Một mặt khác, một bộ phận thanh niên trong xã hội đang bị tha hóa về đạo đức và xuống cấp tinh thần trầm trọng, tinh thần công dân trở nên tệ hại với những vấn nạn về tham lam, vô cảm, thói gây ô nhiễm và tư duy ích kỷ. Nói tóm lại, cơ hội để tạo dựng những tài sản mềm cho Việt Nam hiện diện trên nhiều lĩnh vực và tiềm năng của các tài sản này có thể là cú hích đưa kinh tế Việt bắt kịp các láng giềng giàu ở ASEAN trong một hay hai thập kỷ sắp đến. Ba đòi hỏi quan trọng nhất trong quy trình đột phá này: 1. Tư duy của đại đa số người dân phải thay đổi để hiểu rằng cái giá phải trả cho sự thịnh vượng tương lai là can đảm vứt bỏ ngay lập tức những thói quen tai hại, những tư tưởng lỗi thời và những định kiến sai lầm về kinh tế, xã hội và văn hóa. Một cuộc đổi mới toàn diện từ trí tuệ của trí thức, nông dân, công nhân, trẻ già, giàu nghèo là ưu tiên số một. 2. Thành phần ưu tú và đang được hưởng thụ những thành quả từ sự thay đổi cơ chế phải nắm lấy cơ hội để tạo cho doanh nghiệp mình đang làm chủ hay làm công lĩnh hội được những kiến thức, công nghệ hiện đại, những kỷ cương đạo đức dài hạn, những sáng tạo đột phá trên thị trường và phải bắt đầu xây dựng thương hiệu bền vững. 3. Ghi nhận quyền tự do kinh doanh trong Hiến pháp là nền tảng quan trọng cho việc hình thành và phát triển của pháp luật về tổ chức và vận hành thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hãy “cởi trói” cho người dân để họ tự lực cánh sinh và đừng áp đặt thêm những gánh nặng không cần thiết qua chính sách thuế khóa công bằng và thủ tục hành chính đơn giản, minh bạch. 21 tháng 09 năm 2012 Mời các bạn đón đọc Không Có Bữa Ăn Nào Miễn Phí của tác giả Alan Phan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cải Thiện Trí Nhớ Trong 7 Ngày
Đã bao nhiêu lần bạn “QUÊN” những thứ lãng xẹt nhưng những hệ quả kéo theo thì lại vô cùng to lớn? Bạn nhiều lần than trách bản thân rằng: “Sao còn trẻ mà đầu óc đãng trí thế không biết?” Hay đã bao nhiêu lần bạn bị bạn bè đồng nghiệp gọi là “đãng trí”; “đầu óc trên mây trên gió”. Nếu bạn không thể nhớ hết nổi số lần bạn “QUÊN” thì việc bạn cần làm ngay bây giờ là học cách để “NHỚ” thông qua cuốn sách Alpha Books sắp giới thiệu sau đây Luyện trí nhớ. Không thể phủ nhận “mặt mạnh” duy nhất của việc quên đó là bạn có thể đổ lỗi mọi việc cho nó, bạn làm sai một điều gì đó và chỉ đơn giản nói “em xin lỗi, em quên mất”. Tuy nhiên, ngoài mặt mạnh duy nhất đó ra, chắc hẳn việc quên đã không ít lần làm bạn phải khốn đốn, quên làm bài tập về nhà, quên mất để món đồ này ở đâu, quên không làm việc gì, quên, quên … Có rất nhiều thứ trong cuộc sống hàng ngày mà bạn buộc phải nhớ khiến cho đầu óc của chúng ta bị quá tải. Hệ quả của việc đó là chúng ta trong phút chốc bỗng không thể nhớ hết nổi những việc chúng ta cần làm, những thứ chúng ta cần ghi nhớ. Chỉ cần 10 phút mỗi ngày hãy luyện tập ghi nhớ những việc sau: Ghi nhớ ngôn ngữ Ghi nhớ nội dung bài học Ghi nhớ lịch trình và đường đi Và còn nhiều nhiều điều nữa, bạn có thể học cách ghi nhớ trong cuốn Luyện trí nhớ. Nếu bạn thấy nhiều đây vẫn chưa đủ cho bạn để bạn có thể bỏ thói “QUÊN” thì Alpha xin mách nhỏ với bạn một cách cũng vô cùng đơn giản, đó là hãy dành ra 5 phút trước khi ngủ để nhớ lại toàn bộ mọi việc một cách chi tiết trong suốt cả một ngày của bạn. Mời các bạn đón đọc Cải Thiện Trí Nhớ Trong 7 Ngày của tác giả Alpha Books biên soạn.
Biến Cuộc Đời Ngắn Ngủi Trở Nên Tuyệt Vời
Hãy tỉnh thức và sống trọn vẹn! Ngay bên trong bạn luôn ẩn chứa một sức mạnh giúp bạn biến cuộc sống ngắn ngủi này trở nên thật tuyệt vời - sức mạnh để vượt qua nghịch cảnh và đạt được hạnh phúc, sự hài hòa, sức khỏe và thịnh vượng. Cuốn sách sẽ đưa ra những gợi ý, lời khuyên giúp bạn: • Giữ cân bằng trên nhiều phương diện trong cuộc sống • Giảm thiểu áp lực và lo lắng • Phát triển một lối sống lành mạnh • Giao tiếp hữu hiệu nhất với người khác • Trở thành người có sức thu hút, lôi cuốn • Chế ngự cảm xúc của bạn *** Dale Breckenridge Carnegie (24 tháng 11 năm 1888 – 1 tháng 11 năm 1955) là một nhà văn và nhà thuyết trình Mỹ và là người phát triển các lớp tự giáo dục, nghệ thuật bán hàng, huấn luyện đoàn thể, nói trước công chúng và các kỹ năng giao tiếp giữa mọi người. Ra đời trong cảnh nghèo đói tại một trang trại ở Missouri, ông là tác giả cuốn Đắc Nhân Tâm, được xuất bản lần đầu năm 1936, một cuốn sách thuộc hàng bán chạy nhất và được biết đến nhiều nhất cho đến tận ngày nay. Ông cũng viết một cuốn tiểu sử Abraham Lincoln, với tựa đề Lincoln con người chưa biết, và nhiều cuốn sách khác. Carnegie là một trong những người đầu tiên đề xuất cái ngày nay được gọi là đảm đương trách nhiệm, dù nó chỉ được đề cập tỉ mỉ trong tác phẩm viết của ông. Một trong những ý tưởng chủ chốt trong những cuốn sách của ông là có thể thay đổi thái độ của người khác khi thay đổi sự đối xử của ta với họ. Các tác phẩm của Dale Carnegie: 40 Gương Thành Công Đắc Nhân Tâm 90 Giây để thu hút bất kỳ ai Quẳng Gánh Lo Đi và Vui Sống Bằng Hữu Chi Giao 10 Bước Để Có Cuộc Sống Trọn Vẹn Thay Đổi Để Thành Công Chiến Thắng Nỗi Lo Và Sự Căng Thẳng Thay Đổi Để Thành Công Nghệ Thuật Nói Trước Công Chúng Tâm Lý Vợ Chồng Trở Thành Người Lãnh Đạo Hiệu Quả ... Mời các bạn đón đọc Biến Cuộc Đời Ngắn Ngủi Trở Nên Tuyệt Vời của tác giả Dale Carnegie & Hoàng Huấn (dịch).
Khởi nghiệp 4.0 - Kinh Doanh Thông Minh Trong Cách Mạng Công Nghiệp 4.0
Khởi Nghiệp 4.0 Internet và nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi căn bản mọi mặt đời sống thường nhật cũng như thế giới công việc. Trước đây, trong một xã hội mà internet chưa có sự phủ sóng sâu rộng, sẽ rất khó để một start-up nhỏ cạnh tranh được với các doanh nghiệp lớn, và đến một giai đoạn nhất định, doanh nghiệp non nớt sẽ bị chững lại. Tuy thế, thị trường giờ đã thay đổi. Nền kinh tế đang chuyển dịch sang một môi trường tự kinh doanh, tự chủ và chúng ta có thể làm việc ở bất kì nơi nào. Với sự trợ giúp của công nghệ hiện đại và mạng internet, một mình bạn có thể thách thức cả thế giới - đó chính là thông điệp chính được truyền tải trong "Khởi nghiệp 4.0". Tác giả Dorie Clark, với kinh nghiệm của một nhà tư vấn marketing chiến lược và chuyên gia xây dựng thương hiệu, đã đưa đến cho bạn một bản hướng dẫn tổng quan cách tự khởi nghiệp thông qua việc kết hợp các công cụ kinh doanh truyền thống và hiện đại. Ban đầu, bạn có thể chỉ làm vì sở thích, như đăng tải video trên YouTube, tạo lập và chia sẻ các blog, podcast... Nhưng lâu dài, bạn có thể sẽ nhận được vô số lời mời đến diễn thuyết tại các sự kiện doanh nghiệp, doanh nhân tầm cỡ toàn cầu - các lời mời trị giá hàng nghìn đô. Đây không chỉ là giả tưởng, mà là một hiện thực bạn có thể nắm bắt thông qua đam mê bền bỉ (đương nhiên), và một chiến lược vững chắc. Cuốn sách này - "Khởi nghiệp 4.0" - sẽ trực tiếp chỉ ra cho bạn lộ trình đó. Từ tìm kiếm một chủ đề hấp dẫn, xây dựng lượng khán giả ủng hộ đến chi tiết cách định giá sản phẩm và thương hiệu bạn cung cấp;từ A đến Z mọi điều cần biết để khởi nghiệp thời công nghệ sẽ có trong tác phẩm đầy sức hút này. Cuốn sách cũng phân tích chân thực những khó khăn mà các doanh nhân khởi nghiệp trẻ thường vấp phải trên hành trình tạo dựng sự nghiệp, từ đó đưa ra lời khuyên giúp bạn cân bằng các vấn đề thời gian, tài chính... trong thời kì bước ngoặt. Trong một thế giới còn hoài nghi và đánh giá thấp tiềm năng của các cá nhân bắt đầu kinh doanh từ những công cụ online và mạng xã hội, "Khởi nghiệp 4.0" chắc chắn sẽ vừa là động lực, vừa là cẩm nang hướng dẫn giúp bạn định hình tương lai nghề nghiệp và tự chủ tài chính. Hãy làm theo các hướng dẫn trong sách - từng bước một, sử dụng các vật dụng bạn đã có sẵn trong tay, ngay trước mắt bạn, để tạo ra nguồn thu nhập dồi dào và bền vững. *** Chúng ta đang chuyển dịch sang một nền kinh tế tự kinh doanh, tự chủ và làm việc ở bất cứ đâu. Kinh doanh sinh lời từ việc mình thích giờ không còn là một giấc mơ viển vông mà là thực tại ngay trước mắt bạn. Từ khi Internet bắt đầu bùng nổ, thế giới đã có những thay đổi nhanh đến chóng mặt. Chúng ta khó mà tưởng tượng nổi điều gì mới lạ sẽ đến vào tuần sau hay tháng tới. Thế giới công việc cũng đang thay đổi, có những công việc đã biến mất và có những công việc mới xuất hiện. Chúng ta đang chuyển dịch sang một nền kinh tế tự kinh doanh, tự chủ và làm việc ở bất cứ đâu. Kinh doanh sinh lời từ việc mình thích giờ không còn là một giấc mơ viển vông mà là thực tại ngay trước mắt bạn. Tác giả Dorie Clark, với kinh nghiệm của một nhà tư vấn marketing chiến lược và chuyên gia xây dựng thương hiệu, đã đưa đến cho bạn một bản hướng dẫn tổng quan cách tự khởi nghiệp thông qua việc kết hợp các công cụ kinh doanh truyền thống và hiện đại. Ban đầu, bạn có thể chỉ làm vì sở thích, như đăng tải video trên YouTube, tạo lập và chia sẻ các blog, podcast... Nhưng lâu dài, bạn có thể sẽ nhận được vô số lời mời đến diễn thuyết tại các sự kiện doanh nghiệp, doanh nhân tầm cỡ toàn cầu - các lời mời trị giá hàng nghìn đô. Cuốn sách Khởi nghiệp 4.0 sẽ mở ra con đường rộng mở nhất, ngắn nhất dẫn bạn đến thực tại đó. Cuốn sách đem đến một “cuộc cách tân” về tư duy kinh doanh trong thời đại mới, một bản hướng dẫn chi tiết cách tiếp cận, vận dụng và điều phối những công cụ online cũng như truyền thống để mang về cho bạn lợi nhuận dồi dào hơn bao giờ hết. Chứa đựng phương châm kinh doanh độc lập, chuyên nghiệp, kết hợp với những kiến thức sâu sắc và lời khuyên về xây dựng thương hiệu cá nhân, đây chắc chắn sẽ là lời giải đáp hoàn hảo cho tương lai của bất cứ “cái tôi bé nhỏ nuôi dưỡng hoài bão kinh doanh to lớn” nào. Về tác giả Dorie Clark là nhà tư vấn chiến lược marketing, cựu phát ngôn viên của chiến dịch tranh cử tổng thống, người viết bài thường xuyên cho các tạp chí Harvard Business Review, Forbes, Entrepreneur, và blog của Diễn đàn kinh tế thế giới. Cô được đánh giá là “chuyên gia phát triển thương hiệu”, và là người phát ngôn cho các đối tác như Google, Microsoft, Đại học Yale, Fidelity và Ngân hàng thế giới. *** VÌ SAO TÔI VIẾT CUỐN SÁCH NÀY? Không phải ai cũng biết mặt tối của nền kinh tế ngày nay. Dù bạn xuất sắc, nổi tiếng và được tôn trọng, nhưng chỉ vậy thôi thì chưa đủ. Internet và nền kinh tế toàn cầu hóa cho chúng ta khả năng tiếp cận với hàng triệu người, làm việc độc lập và tận hưởng tiềm năng thu nhập vô hạn. Nhưng đối với rất nhiều chuyên gia, điều này thật phi thực tế. Thay vào đó, chúng ta đang sống trong một  giới nơi “thành công” luôn bị tách khỏi thu nhập. Qua những chuyến đi, tôi đã gặp nhiều chuyên gia xuất sắc trong mọi lĩnh vực nhưng họ vẫn gặp khó khăn trong việc kiếm tìm thành quả xứng đáng với bản thân mình. Bạn có thể tài giỏi, có thể được coi trọng, nhưng nếu không thận trọng với những quyết định mà bạn đưa ra thì rất có thể thành quả bạn nhận được sẽ không xứng đáng với công sức bạn bỏ ra. Tại sao lại như vậy? chúng ta nên làm gì để đảo ngược xu hướng tiêu cực này và gặt hái thành quả to lớn của việc kinh doanh? Để trả lời cho câu hỏi đó, tôi đã phỏng vấn hơn 50 doanh nhân thành công, những doanh nhân độc lập hoặc kinh doanh quy mô nhỏ với thu nhập lên tới sáu, bảy thậm chí tám con số. Cuốn sách này đúc kết những điều mà tôi học được - những lời khuyên thiết thực về việc làm thế nào để kinh doanh sinh lời từ chuyên môn của bạn và xây dựng một doanh nghiệp bền vững, phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế mới. Dù bạn là ai, nhà khởi nghiệp, doanh nhân đầy khát khao hay một chuyên gia tuyển dụng đang tìm cách tối đa hóa các lựa chọn của mình, bạn cũng sẽ tìm thấy cho mình những chiến thuật giúp tăng thu nhập cũng như tiếp thêm động lực cho công việc bạn đang theo đuổi, đồng thời mở ra nhiều cơ hội mới cho bản thân. Con đường giúp tôi viết cuốn sách này được mở ra năm 2006, khi tôi bắt đầu marketing cho chiến lược tư vấn kinh doanh của riêng mình sau một thời gian làm nhà báo, phát ngôn viên cho chiến dịch tranh cử Tổng thống và giám đốc điều hành phi lợi nhuận. Trước đó, tôi chỉ thích làm việc tại nhà và làm cho chính mình. Mục tiêu chủ yếu của tôi lúc đó là kinh doanh và đem lại doanh thu đủ sống; vì vậy tôi nhận hầu hết các khách hàng ở mọi tầm cỡ và mọi lĩnh vực. Tôi từng viết bài phát biểu cho giám đốc một tổ chức phi lợi nhuận với giá 500 đô, lập kế hoạch truyền thông với giá 1.000 đô cho cơ quan chính phủ, cộng với vô số lần bay xuyên nước Mỹ để tổ chức các buổi đào tạo cuối tuần để nhận được 600 đô, cộng thêm tiền vé máy bay (khách hàng của tôi trả rẻ đến mức mỗi lần bay như vậy, tôi phải bay tới hai chặng). Thật không ổn chút nào! Năm đầu tiên tôi làm việc hối hả, dành nhiều giờ gặp gỡ trực tiếp và tìm kiếm các doanh nghiệp cũng như phục vụ khách hàng qua mạng. Tôi giảm bớt những dự án trăm đô để tập trung xây dựng doanh nghiệp bền vững cho mình, và trong vòng không đầy một năm tôi đã có thu nhập ổn định ở mức sáu con số. Mặc dù vậy nhưng tôi vẫn mắc kẹt trong những cuộc hẹn gặp khách hàng hoặc tốn thời giờ để tới gặp họ. Tôi mắc kẹt trong cái bẫy mà những doanh nhân hay gặp phải, đó là quá chú tâm vào việc xây dựng doanh nghiệp của mình tới mức không có thời gian làm việc khác ngoài phục vụ khách hàng. Tôi nhận ra rằng nếu cứ tiếp tục đi trên con đường như hiện tại, tôi có thể tiếp tục phát triển việc kinh doanh của mình trong nhiều năm tới và có một cuộc sống tuyệt vời. Tôi sẽ trở thành người cố vấn được tin tưởng thay vì là người cố vấn “trẻ tuổi và có tài”, và có thể có khách hàng là những doanh nghiệp làm ăn có lãi ở địa phương. Điều đáng buồn là tôi không được đi du lịch như mình mong muốn, mà ngược lại, tôi luôn bị kìm hãm bởi những cuộc gặp mặt khách hàng cũng như kỳ vọng của khách hàng vào việc tôi luôn sẵn sàng (giá như tôi có thể giảm bớt cái này) trả lời mọi cuộc điện thoại của họ. Vì vậy, kể cả khi làm việc cho chính mình, tôi vẫn không hề cảm thấy thoải mái. Tôi muốn đạt được hai điều: thứ nhất, nâng tầm khách hàng của mình, làm việc với các công ty lớn hơn, có nhiều vốn hơn; thứ hai, giải thoát bản thân khỏi áp lực về mặt trách nhiệm hằng ngày với khách hàng và xây dựng một doanh nghiệp kiểu mẫu không ràng buộc về vị trí. Làm được điều đó thật không hề đơn giản, việc bước lên một tầm cao mới sẽ dễ dàng nếu nó ở ngay trước mắt bạn, nhưng với tôi thì không. Tôi vẫn phải tin tưởng dù cho không chắc chắn. Việc kinh doanh của tôi ở mức độ này vẫn chỉ là tư vấn marketing thông thường cho những công ty địa phương mà tôi có chút quen biết qua lại, dù là trực tiếp hay thông qua giới thiệu. Tôi biết sẽ rất khó để tiến xa hơn với mức độ này - tiếp cận những khách hàng ở tầm cao hơn - bằng cách bước từng bước chắc chắn trên con đường hiện tại. Tôi cần làm gì đó khác để thu hút sự chú ý của những người tôi không hề quen biết, và làm mới bản thân cũng như thay đổi vị thế của mình trên thương trường. Tôi học cách làm điều đó bằng việc phỏng vấn nhiều chuyên gia thành công trong việc thay đổi nghề nghiệp và được mọi người đón nhận. Nhờ đó tôi đã xuất bản cuốn Reinventing you (tạm dịch: Đổi mới bản thân) năm 2013, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế trong quản lý thương hiệu cá nhân và những sự đổi mới bản thân ngoạn mục. Đồng thời cuốn sách cũng giải đáp câu hỏi: Làm thế nào để tạo ra sự thay đổi lớn và theo đuổi sự nghiệp bạn mong muốn? Cuốn sách thật sự là kim chỉ nam giúp các chuyên gia tạo ra sự thay đổi mà họ mong đợi. Nhưng dù cho bạn đã chuyển sang lĩnh vực bạn mong muốn, tôi nhận ra vẫn còn một vấn đề khác cần giải quyết, đó là: Làm thế nào để bạn đi tới thành công và đảm bảo mọi người sẽ công nhận điều đó? Tôi đã cố gắng tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này trong cuốn sách thứ hai của mình stand Out (tạm dịch: Trở nên nổi bật). Tôi phỏng vấn các chuyên gia hàng đầu  giới, kể cả các doanh nhân nổi tiếng như Seth Godin, David Allen, Robert Cialdini, Tom Peters... để học cách phát triển ý tưởng cũng như xây dựng xu hướng cho những người xung quanh. Trong cuốn sách này, tôi đã lập ra một bản thiết kế chi tiết về cách những chuyên gia thường tuân theo các bộ quy tắc này để đảm bảo mọi người chú ý đến tài năng của họ. Sau đó tôi sớm nhận ra, ngày nay, việc trở thành những chuyên gia nổi tiếng không phải lúc nào cũng đưa tiền về cho bạn. Vấn đề mà mọi người thường tránh nói ra về việc kinh doanh hiện đại, đó là cho dù có là những người làm chủ cuộc chơi thương trường, họ không phải lúc nào cũng kinh doanh sinh lời thành công. Học cách kinh doanh sinh lời đúng chuyên môn thật ra lại là một kỹ năng hoàn toàn khác so với những gì cần thiết để trở nên xuất sắc trong công việc, hay nổi tiếng ở một lĩnh vực nào đó (đây là hai điều quan trọng đáng để phê bình mà tôi đã đề cập tới trong Reinventing you và Stand Out, nhưng như thế vẫn chưa đủ để có thu nhập khủng). Vì vậy tôi viết cuốn Khởi nghiệp 4.0 để hoàn thành bộ ba tác phẩm một cách khoa học và đúc rút những kết luận cần thiết nhất. Khởi nghiệp 4.0 trả lời cho câu hỏi mà tôi cho là quan trọng nhất: Làm thế nào để kinh doanh một cách ổn định, lâu dài mà vẫn đem lại cho bạn niềm vui tinh thần, trí tuệ và tài chính? Tôi muốn thấy nhiều người tài giỏi chia sẻ về ý tưởng của họ. Nhưng nếu họ không thể tự mình tạo lập được sự nghiệp thành công thì điều đó là không thể. Vì vậy trong cuốn sách này, tôi sẽ chia sẻ những ý tưởng, chiến thuật và những bài học thực tiễn về việc kiếm tiền mà qua đó, tôi mong rằng con đường hướng tới thành công của mọi người sẽ trở nên rõ ràng hơn. Tôi cố gắng thực hiện những gì mình viết ra và nghiên cứu kĩ tiểu sử của các doanh nhân, cũng như những người đam mê kinh doanh mà tôi đề cập trong cuốn sách này. Quãng thời gian viết Khởi nghiệp 4.0 là lúc tôi có được nhiều thứ nhất từ trước tới nay, và đó là minh chứng rõ ràng cho việc thử nghiệm những phương pháp tôi viết trong đây. Năm đó thu nhập của tôi vượt mức 200 nghìn đô, tiếp tục thử những chiến thuật và kênh thông tin mới. Kinh doanh thành công cũng giống như người phi công bay cao, chứ không phải chỉ tới một vạch đích. Những thay đổi tôi trải qua đã giúp tôi có được việc kinh doanh ở New York như tôi mong muốn, (nhưng tất nhiên tôi có thể ở bất cứ đâu mình muốn) và tôi còn có cơ hội tới nhiều thành phố thú vị khi đi công tác. (Tôi bắt đầu viết lời nói đầu trên chuyến bay tới Aspen và kết thúc trang bản thảo cuối cùng khi trở về New York từ Amsterdam). Mô hình kinh doanh hiện tại của tôi với bảy nguồn thu nhập hoàn toàn khác nhau - không tự nhiên mà có. Đó là một chuỗi những lựa chọn thận trọng có chủ đích. Mong rằng sau khi đọc những chia sẻ về nhiều điều tôi học được từ những doanh nhân thành đạt trong cuốn sách này cũng như câu chuyện về hành trình của tôi, bạn sẽ tìm được đáp án cho việc kinh doanh và cho cả cuộc đời của bạn một cách chính xác nhất. Hãy bắt đầu nào. *** CƠ HỘI KINH DOANH Thành công rồi! Tôi đang duỗi dài trên khoang hạng nhất trên chuyên bay trở về từ Châu Á và ngắm nghía bó hoa trinh nữ được tặng. Tôi vừa kiếm được 35 nghìn đô sau hai tuần giảng dạy tại một trường đại học nước ngoài. Khá căng thẳng khi phải đứng lớp sáu tiếng một ngày trong khi bị cúm nặng. Nhưng số tiền kiếm được trong hai tuần đó gần bằng lương cả năm của tôi trước khi bắt đầu kinh doanh, với tư cách một nhà tư vấn chiến lược marketing vào năm 2006. Trong suốt một thập kỷ khó khăn, tôi nhận ra mình khá hợp với ngành kinh doanh. Trong vòng một năm sau khi bắt đầu kinh doanh, tôi đã cảm thấy thỏa mãn với thu nhập sáu con số cho việc tư vấn những khách hàng tiềm năng như Google, trường đại học Yale và Dịch vụ vườn Quốc gia Hoa Kỳ. Và cũng từ đó, tôi tập trung phát triển việc kinh doanh của mình một cách thận trọng, như cách tôi hình dung về cuộc sống tươi đẹp của riêng mình. Ngay sau khi chuyến bay từ châu Á của tôi hạ cánh, tôi nhận được một email khiến tôi suy nghĩ về việc rốt cuộc mình đang làm gì. Email đó là của John Corcoran, luật sư và blogger sống ở Vịnh San Francisco, hoạt động trong lĩnh vực marketing trực tuyến nhiều năm. Anh ấy gửi cho tôi nhiều bài viết và những nội dung khác có giá trị qua email cho tôi vài lần một tuần, và đương nhiên tôi rất thích những gì mình nhận được qua những email đó. Cùng tháng đó, anh quảng bá cho hai khóa học kỹ thuật số được những chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực marketing trực tuyến thiết kế. Corcoran đã ký một kiểu “liên kết”, rằng anh sẽ được chia hoa hồng mỗi khi bán được sản phẩm. Liên kết marketing là phương án đôi bên cùng có lợi, đem lại khách hàng mới cho người thực hiện và không tốn chi phí của khách hàng. Trước lúc bay, tôi đã gửi email hỏi thăm xem hoạt động quảng bá của anh thế nào. “Tôi đã mời được 32 khách”, anh trả lời tôi. “Tôi kiếm được khoảng 28 nghìn đô chỉ với năm hay sáu email, một bài đăng trên blog và một đoạn phim trong một tháng. Nêu tính cả thu nhập từ những blog khác hay podcast thì tôi kiếm được 33 hoặc 34 nghìn đô chỉ từ blog trong tháng vừa rồi. Phải nói thật là tôi ngạc nhiên quá mức. Anh nói thêm: “So với tháng trước đó thì tôi cũng không làm thêm giờ chút nào.” Trước đó, tôi luôn nghĩ marketing trực tuyến tựa như một trò lừa đảo - như  giới của những hoàng tử Nigeria và email rác marketing tuyên truyền thuốc Viagra giảm giá. Các thông điệp của họ gào lên rằng “HÃY KIẾM TIỀN QUA MẠNG ĐI!” - những thông điệp được rêu rao ầm ĩ kiểu như vậy, và tôi thường xóa tất cả chúng đi. Nhưng Corcoran khiến tôi nhận ra mình đang bỏ lỡ một điều gì đó to lớn. Marketing trực tuyến đúng đắn không có nghĩa là phải bóc lột hay giành giật một cách thô tục. Ngược lại, nó có thể đem lại điều gì đó đầy mạnh mẽ, điều mà tôi đã bỏ qua trong suốt thời gian qua: cách thức tăng trưởng và đa dạng hóa lợi nhuận cũng như giảm thiểu tối đa rủi ro trong nguồn thu nhập của tôi. Đúng vậy, tôi đã làm việc với nhiều khách hàng và cả tá những công việc khác nhau như tư vấn, diễn thuyết, huấn luyện đội ngũ lãnh đạo và giảng dạy tại các trường kinh tế. Nhưng giờ nhìn lại, tôi vẫn thấy mình chưa đa dạng hóa đủ. Hầu hết các doanh nhân đều tập trung quá nhiều vào việc tăng lợi nhuận thông qua một hoặc hai hoạt động nào đó (như tư vấn và diễn thuyết) mà bỏ qua những cơ hội giúp họ thoát khỏi cảnh bán thời gian để kiếm tiền. Hơn nữa, cơ hội không chỉ dành cho những doanh nhân: dù bạn đang làm việc toàn thời gian và không có ý định tự kinh doanh, thì việc phát triển kinh doanh ngoài lề cũng đem lại nguồn thu nhập bổ sung và những cơ hội phát triển bất ngờ. Lenny Achan bắt đầu sự nghiệp với vai trò một y tá và dần trở thành quản lý bệnh viện Mount Sinai ở New York. Sự nghiệp của anh thực sự khởi sắc khi giám đốc biết anh đang âm thầm phát triển một ứng dụng. Achan đã khá lo lắng khi bị triệu tập tới văn phòng giám đốc: Anh đã vi phạm quy định gì mà anh không biết ư? Hay họ nghi ngờ anh làm việc khác trong giờ làm? Nhưng hóa ra giám đốc rất ngưỡng mộ những sáng kiến của anh và đề bạt anh lên chức vụ điều hành mảng truyền thông xã hội, cũng như bộ phận truyền thông của cả bệnh viện. Tương tự như vậy, Bozi Nar, người gốc Serbia và hiện đang sinh sống tại Mỹ, đã có sự nghiệp thành công tuyệt vời với vai trò giám đốc marketing cấp cao cho một công ty khoa học đời sống thuộc danh sách Fortune 500.1 Năm 2013, anh bị cuốn hút trước những tiềm năng khởi nghiệp kinh doanh và đã bỏ ra 45.000 đô để xây dựng và phát triển ứng dụng. Việc này không mang lại lợi nhuận nhưng đã dạy cho anh bài học về quy trình marketing, bán hàng và chiến thuật kinh doanh. Một năm sau, anh thử đầu tư ở lĩnh vực khác: khóa học trực tuyến hướng dẫn cách để được thăng chức trong công ty. Khóa học của Dar thành công hơn ứng dụng trước đó của anh rất nhiều và kiếm về cho anh 25 nghìn đô chỉ trong vòng một năm. Có những ngày thu nhập của anh cao đến mức anh có thể tự hào nói rằng “công nghệ và kỹ thuật số rất có triển vọng. Chúng cho phép tôi tự hoàn thiện bản thân mình.” Anh gọi mình là người “nội tâm”, cải tiến công ty từ bên trong. Anh cảm thấy việc tiếp tục ở một doanh nghiệp lớn, nơi có đội ngũ nhân lực hùng hậu cùng nguồn tài trợ lớn có thể giúp anh tiếp tục “những ý tưởng mà một doanh nhân khó có thể thực hiện.” (Tôi sẽ đề cập tới câu chuyện của Dar cùng với các mẹo xác định chuyên ngành của bản thân của anh ở cuối chương 2.) Dù là tự mình kinh doanh hay làm việc cho người khác, chúng ta đều phải tìm những cách thức nhằm đa dạng hóa những nguồn lợi nhuận của mình. Điều này sẽ giúp chúng ta giới hạn sự không chắc chắn, nâng cao tầm tác động của mình và kiếm được nhiều tiền hơn. Nhiều doanh nhân được đề cập trong cuốn sách này làm việc trong các lĩnh vực marketing, lãnh đạo hoặc truyền thông. Đó là thế giới tôi hiểu rõ nhất, và là thế giới mà tôi tin rằng nó sẽ là mũi tên nhọn ngắm đến con đường tái thiết công việc cũng như tạo ra những chiến lược kinh doanh sinh lời mới. Tất nhiên cuốn sách cũng sẽ đề cập tới nhiều ví dụ tình huống (case study) về những doanh nhân thành công trong các lĩnh vực thực phẩm, thời trang, tài chính cá nhân và nhiều hơn nữa. Bất kể bạn đang hoạt động trong lĩnh vực nào thì những quy tắc nền tảng của tôi cũng có thể áp dụng một cách rộng rãi. Mục tiêu của tôi là giúp bạn hiểu thấu con người mình và tìm ra những khả năng đang ẩn khuất trong các câu chuyện của bạn. Trong Khởi nghiệp 4.0, bạn sẽ tìm thấy nhiều thông tin về những công nghệ hoạt động trên nền tảng internet, từ podcast đến blog và những công cụ truyền thông trực tuyến. Đó là bởi đây đều là những cách thức tân tiến để kiếm tiền, bởi vậy cũng là những cách thức các chuyên gia tài năng vẫn chưa khám phá ra hay làm chủ. Cho dù bạn không có dự định sẽ đi sâu khai thác  giới trực tuyến, nhưng những công nghệ này vẫn đáng để bạn học hỏi để có thêm nhiều lựa chọn trong tương lai. Dù bạn là một doanh nhân nhiệt huyết, người làm việc tự do toàn hoặc bán thời gian, hoặc là người đang muốn tìm kiếm một công việc ngoài lề thì mong muốn của tôi vẫn là giúp bạn có một kế hoạch chi tiết để kinh doanh sinh lời cả trên mạng lẫn ngoài đời. Việc đầu tiên bạn cần học là tăng tiềm năng kinh doanh sinh lời bằng một “danh sách công việc.” Lý do chúng ta đều cần có danh sách công việc Trí khôn thông thường mách bảo chúng ta cần đa dạng hóa những hoạt động đầu tư, bởi lẽ đặt cược tất cả tiền bạc vào một chỗ là một việc làm ngu xuẩn. Nhưng ngược lại, chúng ta lại bất cẩn hơn khi tin tưởng vào ông chủ của mình trong cả quá trình, tôi cũng đã từng như vậy. 15 năm trước chuyến bay định mệnh trở về từ châu Á, tôi tốt nghiệp và trở thành phát ngôn viên chính trị cho một tuần báo. Một buổi chiều thứ Hai, trưởng phòng nhân sự cho gọi tôi; và tôi nghĩ rằng họ đang định thay đổi kế hoạch của chúng tôi. Nhưng không, tôi bị sa thải - và là nạn nhân đầu tiên trong sự sụp đổ của nền kinh  tế báo chí. Phòng nhân sự yêu cầu tôi dọn đồ và trả tôi một tuần lương để thôi việc. Lúc đó tôi không biết mình sẽ làm gì ngoài việc rời đi thật nhanh. Sáng hôm sau - ngày 11 tháng Chín năm 2011 - tôi tỉnh dậy và bật tivi lên. Ngày tôi bắt đầu phải đi kiếm việc cũng là ngày nước Mỹ thay đổi. Hàng không dừng hoạt động, thị trường chứng khoán ngừng lên sàn, và tất nhiên là không ai muốn thuê một người đưa tin thất nghiệp như tôi cả. Lúc đó tôi bắt đầu hiểu sự bấp bênh của việc chỉ có đúng một nguồn thu nhập, và nó có thể biến mất bất cứ lúc nào. Tôi mất hằng tháng trời kiếm cho mình một công việc trong ngành báo chí, nhưng không ai thuê tôi cả. Tôi bỏ sang làm cộng tác viên tự do, kiếm được khoảng 800 đô một tuần là nhiều nhất, đôi khi chỉ được nửa số đó. Cuối cùng tôi làm phát ngôn viên cho một chiến dịch tranh cử thống đốc và kiếm được 3.000 đô một tháng cho đến khi chúng tôi thất bại. Tôi lại làm việc tự do thêm sáu tháng nữa và rồi lại thành phát ngôn viên cho chiến dịch tranh cử Tổng thống cho đến khi tiếp tục thất bại. Tôi nhận ra thất nghiệp có khi lại an toàn. Làm việc mà không có đến một nguồn lương “đảm bảo” là một nỗi sợ đối với tôi, tôi chỉ toàn thấy những rủi ro hơn là cơ hội. Sau đó tôi chẳng còn lựa chọn nào cả, tuy nhiên tôi vẫn không nhiệt thành gì với việc trở thành một trong những doanh nhân tiên phong phát triển một danh sách công việc - kết hợp với việc làm tự do và phát triển việc kinh doanh riêng với nhiều nguồn thu nhập khác nhau.   Mời các bạn đón đọc Khởi nghiệp 4.0 - Kinh Doanh Thông Minh Trong Cách Mạng Công Nghiệp 4.0 của tác giả Dorie Clark.
Vì Sao Chúng Ta Làm Việc
Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.