Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bóng Đêm

"Bóng đêm" tái hiện lại bức tranh về cuộc đời sinh động được kết hợp rất linh hoạt giữa bút pháp hiện thực với suy tưởng lãng mạn, đôi chỗ có đan cài những chi tiết “sex”, những chi tiết đẹp về tình yêu cũng là cách lựa chọn độc đáo của tác giả để tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm. Nếu ai đó có tham vọng đi tìm sự thật trong "Bóng đêm" so với vụ việc đã xảy ra ngoài đời như thế nào để đánh giá mức độ chân thực của tiểu thuyết thì quả là vô ích. Bởi hiện thực ở đây chỉ là đường viền, là cái khung cho bức tranh tưởng tượng, sáng tạo của tiểu thuyết. Sau tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc đời các chiến sĩ, một hệ luận kiêu hãnh và cũng thật xót xa có thể chín muồi, xuất hiện trong tác phẩm: Những con người mang sứ mệnh đối diện với bóng đêm, chống lại tội ác, có mặt trên đời này không phải để ra lộc ra hoa mà còn để mang thương tích. Trước khi cài hoa trên ngực thì cũng có không ít những Trừng, Nhâm đã đối diện với cái chết, sự mất mát, phải đau đớn dằn vặt về thể xác...  *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Chim Én Liệng Trời Cao Bóng Đêm Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ *** Tươi mát hết xẩy chứ, các chú? Nhưng cẩn thận jish[1] đấy! - Cho to tiếng lên một tí nữa, ông chủ! - Có hiểu tiếng Tây đ. đâu. Chỉ thấy nó la hét như điên như dại thôi! - Khoái hai cái lỗ mát quá! Đúng không bố, hạnh phúc quả là sự thỏa mãn những cái lỗ trên người. - Chú nào nói chí lý đấy! Đàn ông là bảy lỗ, tức thất khổng. Còn đàn bà là cửu khổng, chín lỗ, các chú ạ. - Ông chủ này! Thằng kia trông như Việt Cộng ấy nhỉ! Còn con kia, đàn bà mà hở răng cửa là đại dâm đấy. Ông có thấy nó giống Từ Hy Thái Hậu không? - Khẽ chứ, Gióoc[2] đấy! Lặng lẽ, trong làn sáng ao ảo hắt ra từ mặt chiếc màn hình khổ rộng và cái bóng đèn mờ gắn trên trần, bốn cặp trai gái trong bốn ngăn buồng nhỏ như chuồng chim đang ôm ấp, quặp riết thân thể nhau. Ông chủ của cõi giới nửa thiên đường nửa địa ngục đội lốt quán Karaoke là một lão già đeo cặp kính lão mắt tròn từ thời Sêkhốp, dáng vẻ phong lưu, trí thức. Mặc bộ quần áo lanh nhuộm chàm người Tày, khuy vải, chòm râu cố đạo như một phần của cái cằm vuốt dài ra, săn chắc như một tên áp tải thuốc phiện lậu đường rừng, lão đang nghênh nghênh tai. Hình như lão đang nghe tiếng rao báo từ ngoài phố vọng vào. Mặc lão chủ, tám cặp mắt của bốn đôi trai gái, trong mấy căn buồng nhỏ vẫn hau háu dán vào màn hình. Phim con heo Đài Loan, Hồng Kông hay Pháp, Đức? Chẳng cần biết. Giống nhau tuốt. Nghĩa là chẳng có cốt truyện đếch gì cả. Chàng gặp nàng. Bố già gặp gái tơ. Choai choai gặp chanh cốm. Gã hám của lạ gặp ả nạ dòng. Toàn loại mới thoạt nhìn thì mũ cao áo dài, xiêm y lộng lẫy, ra dáng thượng lưu, công tử, con nhà có giáo dục lắm. Nhưng gặp nhau mới chỉ dăm ba câu giao đãi đã nồng nã lôi nhau lên giường trút áo, tháo váy, cởi xu chiêng, trăm phần trăm trần trụi. Chẳng còn một giới hạn tối thiểu nào cho sự câu nệ, dè dặt, xấu hổ gọi là. Ấy thế, đã chơi phải chơi cho lệch mới xinh! Cuộc trưng bày đùi vế, vú vê thật là có một không hai. Dẫu sao cũng phải công nhận bọn gái làng chơi trong những pha cụp lạc này đẹp mê hồn đi. Toàn loại co quắp ra co quắp. Vú như trái lê, trái táo, mẩy mang, sù sụ. Đùi thì đùi nào đùi nấy vừa rảnh như đùi dế, vừa phộp phạp, vừa săn lẳn, vừa dài muôn muốt. Mà chẳng có mờ mờ ảo ảo gì hết. Cứ trần trùng trục, lồ lộ và cận cảnh ráo. Trắng lốp. Đỏ hoen hoét. Phúng phính. Rậm rì như nửa thú nửa người. Thở hồng hộc. Rên rỉ. La thét thành con cái con đực tuốt. Ngồi ôm một con bé mười sáu tuổi ở ngăn buồng sau cùng, là một gã đàn ông gầy gùa, da như nhuộm chàm, mắt lồi ba góc. Những pha làm tình trên màn hình khiến gã run bần bật. Con bé ngồi trong lòng gã, giữa vòng tay xiết chặt của gã cũng vậy. Đấy là lần đầu tiên gã đến cái động mại dâm trá hình này. Con bé do gã đưa đến. Gã gặp nó ở một quán bia ôm. Nó kêu mới ở nhà quê lên, đang tìm chỗ làm, nhưng thật ra là một con điếm lõi đời. Trên màn hình, một thằng đen vùa đè dập một con trắng xuống đất. Gã cũng lập tức dằn ngửa con bé, vập mặt vào vũng hõm sâu giữa cặp vú cương cứng của con bé và tay quài ra sau lưng tìm cái nút gài của chiếc xu chiêng còn đang vướng víu trên co nó, thì nó đă ưỡn người lên, há mồm ngoạm vào môi gã. - Thích không? - Lỗ nẻ trên đất cũng còn thích nữa là. - Sợ cá không? - Vớ vẩn. - Trông có vẻ nhát nhúa mà tợn quá thế! -Hừ! Con bé như vùng dậy. Sao bỗng dưng thằng đàn ông lại ngẩng đầu lên và hai tay nới lỏng lưng nó. Nó nhoai lên, đưa tay vít đầu gã. Trời! Đầu người gì mà gồ ghề, nổi u nổi cục. Mà da mặt thì như nhuộm chàm, trong khi hai con mắt bỗng dưng trắng dã như phát sáng và như là nhớn nhác thế. Trên màn hình đang diễn ra cuộc làm tình tập thể của hai đứa con gái và một thằng con trai. Ba cái thân hình chuồi chuội, díu vào nhau, tạo nên một quái tượng có ba đầu, sáu tay. Con bé bị kích thích cao độ. Lần này. nó kéo mạnh. Và gã đàn ông gần như ngã đè lên nó. Nhưng nó nhận ra gã đàn ông lại run lẩy bẩy như nhiễm lạnh. Trên màn hình, cảnh đã chuyển. Một thằng da màu đang hôn hít một con da nâu. Con bé da nâu có thân hình thăn lẳn gợi cảm hết sức. Nó quẫy. Nó rít. Môi nó chằm bập. Chà, thì cái con bé đang nằm dưới gã đây có kém gì! Cứ như là nó đang lên cơn động rồ. Vậy thì cơn động dục nhất định phải bùng nổ. Rộn rực nóng ran khắp người, gã cúi xuống há to miệng, cắn vào vai bên trái con bé. Con bé rướn người lên và trong động tác này của nó, lẽ ra gã sẽ trương căng cái vùng bụng dưới và hai bắp đùi mới phải, thì trái lại, bỗng dưng gã như quả bóng xì hơi, bẹp dí và oải ra từng mồi thẻo cơ bắp trên hai cánh tay. - Chèn đét ôi! Mần cái chi mà như ma xó thế! - Phải nói là em đẹp đến dã man. Trong thân hình em, cái gì đáng to thì to, đáng nhỏ thì nhỏ. - Đồ đểu! - Em ơi, giống đực và giống cái là phát minh quan trọng nhất của thiên nhiên đó. Đàn bà phải được đặc quyền hưởng thú vui xác thịt, em à. - Dâm vô tang, đạo vô tích, sợ quái gì!   Mời các bạn đón đọc Bóng Đêm của tác giả Ma Văn Kháng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thầy Lazaro Phiền
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền của tác giả Nguyễn Trọng Quản. Truyện thầy Lazaro Phiền, tác phẩm của Nguyễn Trọng Quản, được cho là cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Cuốn Truyện thầy Lazaro Phiền do nhà J. Linage, Libraire-Éditeur đường Catinat Sài Gòn xuất bản năm 1887. Tác giả là người Công giáo trong thời gian giáo dân còn rất ít, và truyện có rất nhiều chi tiết và nhân vật Công giáo. Truyện tuy ngắn (bản in chỉ trên 50 trang) nhưng có cấu trúc của một cuốn tiểu thuyết Tây phương, và có chủ đề tâm lý nội tâm, là bước đột phá ra khỏi khuôn cấu trúc của truyện xưa. Hồ Biểu Chánh gọi Truyện thầy Lazaro Phiền là một trong ba cuốn tiểu thuyết khiến ông hướng về nghiệp viết văn. (Hai cuốn kia là Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Chánh Chiếu và Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản.) Trong đất thánh làng Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa có một nghĩa địa điêu tàn. Bên cạnh những ngôi mộ các thánh tử vì đạo, có một ngôi với chiếc thánh giá đơn sơ mang tên "Thầy Lazaro Phiền". Thầy Lazaro Phiền quê tại Đất Đỏ. Năm Phiền ba tuổi thì mồ côi mẹ. Khi đó, giáo dân bị cấm đạo, bị bắt bớ tù đày rất nhiều. Khi Pháp đánh tới Bà Rịa thì 300 giáo dân trong nhà lao bị thảm sát, nhà ngục bị thiêu hủy, chỉ còn mười người sống sót, trong đó có Phiền. Phiền được một quan ba người Pháp đem về Gia Định cho một linh mục nuôi ăn học. Học trường d'Adran, Phiền kết bạn với Vêrô Liễu, con một ông trùm họ ở Cầu Kho. Qua Vêrô Liễu, Phiền quen cô em họ của Liễu và đem lòng yêu cô này. Lớn lên, hai người kết vợ chồng, chung sống trong nhà Liễu. Sáu tháng sau, Phiền đi làm thông ngôn tại Bà Rịa. Tại đây, Phiền gặp một cô vợ người Việt của một quan ba Tây. Nàng đem lòng thương yêu Phiền nhưng Phiền cự tuyệt. Nàng ấy bèn viết thư nặc danh tố cáo vợ Phiền tư tình với Vêrô Liễu. Phiền về điều tra, khám phá thư của Liễu hẹn hò với vợ mình. Nhân dịp được lịnh dẫn lính đi phục kích một vụ cướp ghe, và cùng lúc Liễu đi ghe về Sài Gòn, Phiền sắp đặt cho lính "bắn lầm" giết Liễu. Xong, Phiền về nhà, đánh thuốc độc cho vợ chết. Vợ bị thuốc độc hành hạ hơn mười một tháng mới chết. Trước khi tắt thở, vợ thầy bình tĩnh nói: "Tôi biết làm sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin Chúa tha thứ cho thầy!" Giết được "đôi gian phu dâm phụ" nhưng lòng Phiền vẫn không an, chán đời đen bạc, Phiền bỏ việc đi tu tại nhà thờ họ Tân Định. Phải mười một năm sau, thầy Phiền ghé qua Bà Rịa thăm chốn cũ nơi xưa, Phiền mới nhận được thư một phụ nữ. Đó là thư của vợ quan ba Tây năm xưa. Bà thú tội đã vu cáo vợ thầy, giả nét chữ của Liễu và gài thư giả mạo trong áo vợ thầy Phiền. Nhưng vẫn không toại nguyện vì thầy không đến với bà mà lại bỏ đi tu. Đọc xong bức thư thú tội này, thầy Phiền chết đi trong nỗi ân hận không nguôi với tội ác tày trời của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Lazaro Phiền của tác giả Nguyễn Trọng Quản.
Ông Cử
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Ông Cử của tác giả Hồ Biểu Chánh. Truyển kể về ông Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm. Ông vì thương một cô „ả đào“ và vì quá tin vợ nên bị phá sản. Vợ ly dị dẫn theo con bỏ ông và lập gia đình với một người khác. Ông buồn rầu, bỏ quê lên một xóm lao động ở Sài Gòn sống và tìm cách giúp đỡ những người sống chung quanh. Vì vậy ông rát được họ tôn trọng và gọi ông là Ông Cử. Mười năm sau khi cô con gái của ông lớn lên, học xong và muốn lập gia đình. Cô cần một giấy cho phép đính hôn của ông. Qua đó ông Cử có điều kiện gặp lại người vợ cũ, cô con gái bây giờ đã trưởng thành và chàng rể tương lai. Hồ Biểu Chánh xây dựng ở đây một cốt truyện khá cảm động xảy ra giữa vợ chồng, cha con, trong cuộc sống của người dân lao động nhiều tình nghĩa, cuộc sống trần tục và ý muốn thoát ly của ông Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm *** Gần 20 tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh được chuyển thể thành phim: Con nhà nghèo, Khóc thầm, Nợ đời, Chúa tàu Kim Quy, Cay đắng mùi đời..., nhận được sự yêu mến từ khán giả. Tiểu thuyết Ông Cử của Hồ Biểu Chánh là tác phẩm gần nhất mới được chuyển thể thành phim truyền hình với tên gọi Thế thái nhân tình. Câu chuyện phản ánh bức tranh xã hội, con người Nam Bộ những năm 1930-1940. Truyện kể về ông cai tổng Ngô Minh Tâm, vì thương ả đào và quá tin vợ nên bị phá sản. Vợ ly dị và lập gia đình với một người khác. Ông buồn rầu, bỏ quê lên một xóm lao động ở Sài Gòn sống và tìm cách giúp đỡ những người sống xung quanh. Vì vậy ông rất được họ tôn trọng, gọi là Ông Cử. Mười năm sau khi con gái của ông lớn lên, học xong và muốn lập gia đình, cô cần một giấy cho phép đính hôn của ông. Ông Cử có điều kiện gặp lại vợ cũ, con gái đã trưởng thành và chàng rể tương lai. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thường có cốt truyện đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành, rất Nam Bộ từ giọng văn đến miêu tả con người. Khi ông mất, hai nhà thơ Đông Hồ và Mộng Tuyết đã lấy tên những tác phẩm tiêu biểu của ông sáng tác thành hai câu đối độc đáo đến phúng viếng: Cay đắng mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tiểu thuyết viết sáu mươi ba thiên, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được? Cang thường nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt gia gia thiệt, Vườn văn xưa ghé mắt, Đoạn tình còn Ở theo thời. *** Tóm tắt Tiểu thuyết "Ông Cử" của Hồ Biểu Chánh kể về câu chuyện của ông Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm, một người đàn ông hiền lành, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Ông Tâm vốn là một người đàn ông thành đạt, có vợ đẹp, con ngoan. Tuy nhiên, vì quá tin vợ và thương một cô "ả đào", ông đã bị vợ bỏ rơi, dẫn theo con gái đi theo người khác. Ông Tâm đau khổ, buồn bã, bỏ quê lên Sài Gòn sống. Tại đây, ông sống cuộc sống của một người lao động bình thường, làm thuê cho một người chủ giàu có. Ông Tâm cũng tham gia vào các hoạt động thiện nguyện, giúp đỡ những người nghèo khổ, khó khăn. Mười năm sau, cô con gái của ông Tâm lớn lên, học xong và muốn lập gia đình. Cô cần một giấy cho phép đính hôn của ông Tâm. Ông Tâm đồng ý, và vì vậy ông có điều kiện gặp lại người vợ cũ, cô con gái bây giờ đã trưởng thành và chàng rể tương lai. Hai vợ chồng ông Tâm gặp lại nhau, và họ đã tha thứ cho nhau. Ông Tâm cũng chấp nhận cho con gái kết hôn với người mà cô yêu. Review Tiểu thuyết "Ông Cử" là một tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, trong đó có thể kể đến: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Ông Cử" được xây dựng chặt chẽ, hợp lý, có nhiều tình tiết bất ngờ, gây cấn, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Ông Cử" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ông Tâm là một người đàn ông hiền lành, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Ông cũng là một người có tấm lòng nhân hậu, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Ông Cử" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Đánh giá Tiểu thuyết "Ông Cử" là một tác phẩm xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, đặc biệt là cốt truyện hấp dẫn, nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Ông Cử" được xây dựng theo mô típ "tình yêu trắc trở" quen thuộc, nhưng được Hồ Biểu Chánh xử lý một cách khéo léo, mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Ông Cử" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ông Tâm là một người đàn ông hiền lành, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Ông cũng là một người có tấm lòng nhân hậu, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Ông Cử" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Tác phẩm có giá trị lịch sử "Ông Cử" được viết vào đầu thế kỷ 20, khi xã hội Việt Nam đang có nhiều biến đổi. Tác phẩm đã phản ánh được những mâu thuẫn, xung đột trong xã hội đương thời, đồng thời thể hiện tinh thần yêu nước. Mời các bạn mượn đọc sách Ông Cử của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Hai Vợ
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Hai Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh. Trước thời Pháp thuộc, xã hội Việt nam xem xét giá trị hôn nhân trong khuôn khổ văn hóa truyền thống, thứ thường nhấn mạnh sự phục tùng của cá nhân với lợi ích gia tộc, và đi kèm quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.” Khi người Pháp đô hộ Việt Nam, các giá trị hiện đại coi trọng tự do cá nhân khi kết hôn bắt đầu lan rộng. Vấn đề hôn nhân thời thuộc điạ chịu sự giằng xé giữa truyền thống và hiện đại. Tại Nam Kỳ thuộc Pháp, chuyện kết hôn của con cái vẫn phụ thuộc vào cha mẹ. Tuy nhiên, các tranh cãi về tự do luyến ái và sự hình thành luật pháp còn lỏng lẻo về hôn nhân đã dẫn đến sự phóng túng trong việc kết hôn và ly dị. Xã hội do đó cũng theo đuổi dục vọng hơn là cam kết các giá trị nhân bản bằng cách “hô hào” quyền tự do để đi dây giữa truyền thống lễ giáo và lối sống tân thời. Đây dẫu là hệ quả từ quyết định của mỗi cá nhân, song những chuyển biến của thời đại phần nào đã tiếp thêm sức mạnh cho xu hướng theo đuổi tự do luyến ái. Thông qua hai câu chuyện điển hình, Hồ Biểu Chánh đặt ra hai vấn đề. Thứ nhất, ông chỉ ra các động lực đen tối ẩn sau lớp vỏ phong tục hôn nhân và hậu quả của nó. Thứ hai, ông lột tả cách con người khước từ các giá trị nhân bản để theo đuổi dục vọng cá nhân thông qua tập tục cưới hỏi. Đầu tiên, sự ép buộc, tiền bạc và danh vọng ẩn sau lớp áo hôn nhân đều đem lại nỗi đau cho người phối ngẫu. Trong Đóa Hoa Tàn, Cai tổng Bình là một viên chức mới nổi, tham vọng, hám danh lợi. Vì muốn kết thông gia với một gia đình quyền thế, Bình ép gả con gái là Túy Nga cho một chàng trai giàu có nhưng vô trách nhiệm. Vì vậy, cuộc hôn nhân vỏn vẹn hai năm khiến Túy Nga đau buồn vì người chồng lạnh nhạt, thậm chí còn đệ đơn ly hôn cô nhiều lần. Nghiêm trọng hơn, nó khiến Túy Nga rơi vào sự mặc cảm về thân phận gái một đời chồng và nghi ngờ về hạnh phúc trong hôn nhân, đến mức không dám chấp nhận yêu Hải Đường, một kỹ sư tài năng mà cô đem lòng yêu từ lâu. Những chuyện này khiến cha cô ân hận. Câu nói của Túy Nga nói lên điều mà các thế hệ phải nằm lòng: “Theo ý tôi, cưới vợ lấy chồng phải vì tình vì nghĩa, chớ không nên vì quyền thế, vì bạc tiền.” Với trường hợp khác, Hồ Biểu Chánh khắc họa lớp người lợi dụng khuôn khổ hôn nhân truyền thống để theo đuổi tư lợi. Trong Từ Hôn, Tất Đằng là một sinh viên du học Pháp ngành bác vật nhưng không có bằng cấp và thất nghiệp. Là một người ưa thích chủ nghĩa "không làm mà vẫn có ăn," Đằng vừa khích bác tất cả những phong tục và định kiến giới về lao động, vừa mưu cầu cuộc sống nhàn nhã. Cùng lúc, Đằng được người chị đồng hương mai mối cho Bạch Yến, một tiểu thư xinh đẹp và danh giá, hứa hẹn cuộc sống giàu sang cho Đằng. Để cưới được Yến, Đằng phải nói dối về nghề nghiệp và dựng màn kịch hoàn hảo về con đường công danh xán lạn. Nhờ thế, Bạch Yến và mẹ cô nhanh chóng xiêu lòng trước Đằng. Trớ trêu thay, sự dối trá và ích kỷ lại dằn xé tâm trí Đằng, vì anh cũng đem lòng yêu Bạch Yến và không thể nói dối người mình yêu. Cuối cùng, Đằng từ hôn và bỏ khỏi Sài Gòn, để lại nỗi đau không nguôi cho Yến. Trong khi cai tổng Bình che đậy lòng tham sau lớp áo choàng hôn nhân buồn thảm của con gái ông, thì Tất Đằng lại khước từ sự thật và để cho lời nói dối lẫn tiền bạc phủ bóng mối quan hệ tốt đẹp ngay từ đầu. Ở hai trường hợp, nhơn nghĩa đều phải chào thua thiên kim; động lực hôn nhân đều là toan tính vật chất, và nhận về cái kết đau thương. Hồ Biểu Chánh hàm ý rằng người lạm dụng hôn nhân để thỏa mãn dục vọng sẽ bị phán xét, không phải bởi miệng đời hay luân lý xã hội, mà trước hết trước tòa án lương tâm của họ và cái giá mà người họ yêu thương họ phải gánh chịu. Mời các bạn mượn đọc sách Hai Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Hai Thà Cưới Vợ
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Hai Thà Cưới Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh. Lại là một trở lại với một tác phẩm mới, những đứa con tinh thần của nhà văn Nam Bộ tài năng Hồ Biểu Chánh. Câu chuyện lần này nhân vật chính là một chàng trai 35 tuổi tên là Hai Thà. Hai Thà mồ côi cha đã 10 năm rồi, một mình lo tảo lo tần, lo nuôi mẹ già, lo dựng sự nghiệp, đã mướn lại của Thôn Sáu mà làm hai dây ruộng đồng trên Bình-Lạc, lại còn mướn thêm ba thiên đất rẫy công điền Bình Thành mà làm nữa, làm mấy năm trong nhà có dư lúa ngàn, đã cất được một cái nhà ngói nhỏ ba căn xông vách ván, coi vẻ-vang mà lại còn có ba con trâu, một cặp trâu lớn với một con trâu tơ mới giựt dàm mùa nầy. Thấy Hai Thà tính tình chân chất, lại gia tư phú phong, năm rồi làng có muốn cử làm Thôn Trưởng, Hai Thà từ chối, viện lẽ mắc nuôi mẹ già và mắc lo ruộng rẫy. Người trong làng ai thấy hai Thà làm ăn xân-xẩn cũng đoán anh ta sẽ giàu to. Sau một trận đau đẻ dữ dội kia, vợ Hai Thà không may qua đời, để lại mình anh cùng hai đứa con thơ 6 tuổi và 8 tháng tuổi. Mẹ già con thơ, Hai Thà phải tiếp tục sống ra sao đây khi thiếu đi bàn tay săn sóc của một người vợ? *** Tóm tắt Tiểu thuyết "Hai Thà Cưới Vợ" của Hồ Biểu Chánh kể về câu chuyện của Hai Thà, một chàng trai hiền lành, chịu thương chịu khó, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Hai Thà mồ côi cha từ nhỏ, một mình lo nuôi mẹ già và dựng sự nghiệp. Anh đã thành công trong việc làm ăn, có ruộng vườn, trâu bò, nhà cửa khang trang. Nhưng rồi, vợ anh không may qua đời, để lại anh cùng hai đứa con thơ. Hai Thà rất đau buồn vì mất vợ. Anh phải lo lắng cho mẹ già và hai đứa con nhỏ. Anh thuê người giúp việc, nhưng vẫn không thể bù đắp được tình cảm của một người mẹ, người vợ. Một hôm, Hai Thà gặp lại Thị Lệ, một cô gái xinh đẹp, hiền lành. Hai Thà và Thị Lệ yêu nhau và quyết định kết hôn. Thị Lệ là một người phụ nữ đảm đang, hiền hậu. Cô đã giúp Hai Thà chăm sóc mẹ già và hai đứa con nhỏ. Hai Thà và Thị Lệ sống hạnh phúc bên nhau. Review Tiểu thuyết "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, trong đó có thể kể đến: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng chặt chẽ, hợp lý, có nhiều tình tiết bất ngờ, gây cấn, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Hai Thà là một người hiền lành, chịu thương chịu khó, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Thị Lệ là một người phụ nữ đảm đang, hiền hậu, luôn yêu thương chồng con. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Đánh giá Tiểu thuyết "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, đặc biệt là cốt truyện hấp dẫn, nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng theo mô típ "tình yêu trắc trở" quen thuộc, nhưng được Hồ Biểu Chánh xử lý một cách khéo léo, mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Hai Thà là một người hiền lành, chịu thương chịu khó, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Thị Lệ là một người phụ nữ đảm đang, hiền hậu, luôn yêu thương chồng con. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Tác phẩm có giá trị lịch sử "Hai Thà Cưới Vợ" được viết vào đầu thế kỷ 20, khi xã hội Việt Nam đang có nhiều biến đổi. Tác phẩm đã phản ánh được những mâu thuẫn, xung đột Mời các bạn mượn đọc sách Hai Thà Cưới Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh.