Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Nàng Cửa Hàng Tiện Ích

“Sáng ra tôi lại là một nhân viên bán hàng, một bánh răng trong vòng quay của thế giới. Chỉ điều này mới biến tôi thành một con người bình thường.” Furukura Keiko bị coi là một phụ nữ lập dị, vì ở tuổi 36 cô độc thân và làm một công việc khá đáng ngại, nhân viên part time của cửa hàng tiện ích Smile Mart trong suốt 18 năm trời. Cô luôn phải vật lộn từ nhỏ để đóng vai một người bình thường. Keiko thấy bình yên khi ở cửa hàng tiện ích, nơi cô được công nhận, nơi mọi quy tắc đều rõ ràng. Cho đến một ngày, người đàn ông kỳ quặc tên Shiraha xuất hiện, và sự va chạm giữa hai con người khác thường như một tia sét nổ do va chạm điện cực, đẩy Keiko khỏi quỹ đạo quen thuộc, buộc cô nhìn thẳng vào những áp lực cô luôn lẩn tránh… “Khác với các cô gái trẻ trung phấn khởi của Banana Yoshimoto, Keiko gần như bước ra từ một cuốn sách Kafka, chân thành tuyệt đối trong những hoàn cảnh hết sức nghịch dị...”      - Japan Times “Một bản khảo sát khôi hài, tăm tối, gây chấn động sâu sắc về đời sống đương đại, về sự xa lánh, về chủ nghĩa tư bản, ý thức cá nhân, và sự quy hàng các ước lệ xã hội. Dù ở Nhật Bản hay đâu khác, chúng ta đều đã từng đặt chân vào cửa hàng này.”      - Viet Thanh Nguyen, tác giả cuốn The Sympathizer thắng giải Pulitzer Prize *** Một cuốn tiểu thuyết kỳ lạ, về một người phụ nữ hư cấu hết sức kỳ quặc, của một tác giả được xem là một trong những nhà văn thú vị nhất trong nền văn học đương đại Nhật Bản. “Cô nàng cửa hàng tiện ích” (tựa gốc “Konbini Ningen”, tựa tiếng Anh “Convenient Store Woman”) là cuốn tiểu thuyết thứ 10 của Murata Sayaka, ra mắt năm 2016, sách đã giúp cô đạt giải Akutagawa – một giải thưởng văn học danh giá trao cho các tác giả trẻ có những tác phẩm mang giá trị văn học cao. Trong cùng năm, sách cũng mang lại danh hiệu “Người phụ nữ của năm” do tạp chí Vogue bình chọn cho nữ văn sĩ người Nhật này, khiến tên tuổi của Murata Sayaka trở thành cơn sốt tìm kiếm trên mạng xã hội. Như tựa đề, cuốn sách là một câu chuyện lạ kỳ xoay quanh một người tên là Furukura Keiko… Một người phụ nữ 36 tuổi khiếm khuyết về logic trước cuộc đời, không biết gì về các mối quan hệ lãng mạn, đã làm nhân viên bán thời gian ở cửa hàng tiện ích 18 năm và không có dấu hiệu thay đổi – Đó là lý do Keiko bị phán xét khi trưởng thành. Thế nhưng kể từ lúc nghỉ việc để kết hôn và tìm một công việc mới, Keiko hoàn toàn mất phương hướng trong cuộc sống. 18 năm, cô ăn ngủ nghỉ và giữ sức khỏe vì cửa hàng. Nghỉ việc rồi, cô không hiểu mình tiếp thu năng lượng để làm gì nữa. Nhắm mắt lại, âm thanh cửa hàng lại văng vẳng bên tai. Tìm việc khác, cô thực sự hiểu rõ bản thân không giỏi bất kỳ lĩnh vực nào, ngoại trừ là nhân viên cửa hàng tiện ích. Có lẽ nào trên đời lại tồn tại một người phụ nữ dị biệt đến thế Keiko sinh ra dưới hình hài là một con người, nhưng mọi suy nghĩ lại hoàn toàn khác biệt với tiêu chuẩn “bình thường” của con người. Tác giả đã tạo nên một “Ningen” mang tên Furukura Keiko – không có toàn thân màu trắng hay chiều cao gần 30m, nhưng nội tâm là một động vật máu lạnh, tư duy logic khác biệt, không yêu thương, không giận dữ, không cảm xúc. Keiko không biết yêu thương. Hồi còn học mẫu giáo, khi thấy một chú chim nhỏ chết ở công viên, thay vì khóc thương và chôn chú chim đó như những đứa trẻ khác, thì Keiko lại đề nghị với mẹ rằng ăn con chim đó đi. Dù mẹ cô bé khuyên con phải biết tội nghiệp, phải buồn khi chú chim, cũng là một “người bạn” chết đi, nhưng Keiko vẫn không thể lý giải được: “Ai cũng nói con chim đáng thương rồi khóc lóc nhưng lại quay sang giết những bông hoa quanh đó. Cái cảnh tượng mọi người nói ‘Hoa đẹp quá! Chắc con chim nhỏ thích lắm đây!’ trông thật điên rồ.” Lúc mới lên tiểu học, Keiko đã ngăn một vụ ẩu đả bằng cách “nhanh nhất” là lấy một chiếc xẻng dụng cụ làm vườn phang thẳng vào đầu thằng bé đang gây gổ. Nhận thấy hiệu quả ngay tức thì – thằng con trai đó ôm đầu ngã lăn đùng rồi nằm im bất động – Keiko lại giơ cái xẻng lên định ngăn nốt thằng kia. Sau thảm cảnh, dù thầy giáo đã bảo rằng không được dùng vũ lực, nhưng Keiko vẫn không thể hiểu. Cô bé lễ phép giải thích cho vị thầy giáo đang nổi-cáu-một-cách-vô-lý: “Nhưng các bạn bảo ngăn lại cơ mà. Em thấy làm như thế thì bạn Yamazaki và bạn Aoki sẽ dừng ngay thôi ạ.” Đến khi mẹ Keiko cúi gập người xin lỗi trước buổi họp hội đồng, Keiko mới nghĩ có vẻ việc mình làm là sai, nhưng vẫn không thể hiểu vì sao lại sai. Một lần khác, khi thấy cô giáo nổi cáu mất kiểm soát, vừa đập sổ điểm danh vừa gào thét, còn bọn học sinh trong lớp thì bắt đầu khóc lóc… Keiko lập tức chạy tới gần cô, thật nhanh tụt cả váy lẫn quần lót để mong cô ngừng gào thét. Cô giáo bật khóc rồi im lặng. Keiko giải thích rằng, cô bé xem trên tivi thấy con gái bị tụt quần áo thì sẽ im lặng. Trường lại mở cuộc họp hội đồng, mẹ lại phải xin lỗi. Trên đường về, mẹ ôm Keiko thì thào tội nghiệp: “Tại sao, sao con không hiểu hả Keiko…” “Hình như tôi lại làm gì đó sai nhưng vì sao sai thì tôi vẫn không hiểu.” Mọi trường hợp đều kết thúc bằng suy nghĩ như thế trong lòng Keiko. Bố mẹ lo lắng nhưng vẫn thương Keiko, làm mọi cách để “chữa” cho con, thậm chí là tìm bác sĩ tư vấn tâm lý. Dần nhận thức được sự khác biệt của bản thân, dẫu không thể lý giải được, nhưng để bố mẹ không phải buồn, không phải xin lỗi hết người này sang người khác, và để được xem là một người “bình thường”, cô bé Keiko quyết định sẽ chẳng nói chuyện với bất kỳ ai khi ra khỏi nhà, luôn hành động theo hai cách: bắt chước hoặc làm theo chỉ thị. Keiko cứ như vậy mà trưởng thành, cho đến khi làm công việc part-time của cửa hàng tiện ích Smile Mart từ thời còn sinh viên, và yên vị ở đấy 18 năm, không có ý định thay đổi. Vì ở đấy, mọi việc đều nằm trong quy tắc và khuôn khổ, điều đó khiến Keiko cảm thấy bản thân cũng là một mắt xích trong vòng quay thế gian, cũng là một bộ phận của thế giới, quay liên tục, an toàn và không lạc lõng. Ở đấy, cô được hóa thân thành “nhân viên” – loài sinh vật tồn tại vì cửa hàng tiện ích. Keiko là một nhân viên lý tưởng: luôn đi làm đúng giờ, độc thân, không có con, làm việc xuyên suốt kỳ nghỉ và không bao giờ mất bình tĩnh trước khách hàng. Mọi việc đều ổn khi nhìn từ bên ngoài. Thế nhưng, sâu thẳm tận tâm hồn, Keiko 36 tuổi vẫn không thể hiểu vì sao mình phải “tới chơi với cháu mình nhiều hơn” như lời em gái cô nói. Với Keiko, trẻ nhỏ cũng như mèo hoang, nhìn tuy có khác đôi chút nhưng đều thuộc động vật có tên “em bé” mà thôi. Keiko 36 tuổi, khi nhìn thấy em gái dỗ dành đứa con trai bé nhỏ đang khóc, đã nghĩ rằng: “Tôi vừa nhìn con dao nhỏ dùng để cắt bánh đặt trên bàn vừa nghĩ, muốn thằng nhỏ trật tự thì rất đơn giản thôi, vậy mà em tôi vất vả quá. Em gái tôi vẫn cố ôm chặt con vào lòng.” Keiko cũng chẳng biết giận dữ, cô coi những sai phạm của người khác là chuyện bình thường, kiên trì nhắc nhở chứ không bao giờ cáu gắt thực sự – nếu có, đó chẳng qua là sự bắt chước cảm xúc từ những người xung quanh, để bản thân không bị coi là “hàng dỏm”, cô luôn cố gắng để hòa nhập. Rõ ràng là Furukura Keiko không bị thiểu năng trí tuệ, không có vấn đề gì về năng lực suy nghĩ, nhưng logic của cô lại không giống như một “con người” bình thường, không có hỉ nộ ái ố, mà lại căn bản như một động vật máu lạnh –  có thể bắt chước, có thể làm theo chỉ thị, có thể thực hiện theo quy tắc – nhưng không thể lý giải được những suy nghĩ, tình cảm đơn giản của người bình thường. Theo thời gian điều đó vẫn không thay đổi. Cho đến khi cuộc đời Keiko vấp phải gã hèn mọn Shiraha Cuộc đời Keiko và Shiraha va vào nhau vì một quan niệm của xã hội, rằng trưởng thành là phải kết hôn, sinh con. Shiraha là một gã đàn ông tuổi tầm 35, cao cỡ 1m80, gầy đét, dáng đi khúm núm, lòng khòng như cái móc áo, đeo cặp kính trông như sợi dây thép bám lấy mặt, đôi mắt trũng lõm sâu, làn da khô quắt… Shiraha là một tổng thể của mâu thuẫn. Gã xin được làm việc ở cửa hàng tiện ích nhưng lại kỳ thị chính cái nghề này. Gã cho rằng cuộc sống bản thân khó khăn là do quan niệm xã hội về tiêu chuẩn một cuộc sống thành công, nhưng lại lấy chính cái lý luận đó để khinh thường Keiko. Gã ghét cay ghét đắng những cổ hủ của thời Jomon (thời kỳ đồ đá mới ở Nhật Bản) nhưng lại luôn lảm nhảm về nó, thậm chí lấy nó để ngụy biện cho những hành vi sai trái của mình. Khác với Keiko, Shiraha hoàn toàn bình thường, gã có thể hiểu và lý giải mọi logic tình cảm của con người. Nhưng vì bản tính lười biếng, gã không tiền tài, không nghề ngỗng, không chỗ ở. Gã luôn đổ lỗi cho xã hội thay vì cố gắng để đạt được cái mình muốn bằng năng lực của bản thân. Gã luôn giậm chân tại chỗ và ôm cái ý nghĩ “tôi không làm việc nhưng tôi có tầm nhìn, chỉ cần khởi nghiệp là bọn con gái sẽ bám theo cả đàn.”  Rồi khi bám được vào cuộc sống của Keiko, được cô cho ăn ở miễn phí, gã thu mình trong phòng tắm, dự định mọc rễ ở đấy, không ra ngoài, không gặp ai nữa. Gã, thực sự là một gã hèn đúng nghĩa. Dù chưa phải nam chính, nhưng nhờ sự xuất hiện của Shiraha và sau đó là chuỗi ngày cuộc sống đảo trộn vì gã, Keiko đã hiểu được giá trị tồn tại của bản thân trên thế giới này. Bi kịch của cá nhân khi bị đóng khung trong cái nhìn của xã hội  “Thế giới bình thường rất nguyên tắc, nó âm thầm loại bỏ dị vật. Người không ra gì sẽ bị đào thải.” Bi kịch của Keiko và Shiraha diễn ra vì họ không theo đúng quy chuẩn mà xã hội đã áp đặt lên mọi người, cái quy chuẩn tạo nên khuôn khổ của một con người bình thường, một con người thành công, mà nếu như không đi theo quy chuẩn đó, con người sẽ bị lên án, bị kỳ thị, bị đào thải. Sự khác biệt giữa Keiko và Shiraha rất rõ ràng. Dù Keiko bẩm sinh đã khiếm khuyết khả năng lý giải logic tình cảm của con người bình thường, nhưng cô chấp nhận che đậy cái kỳ lạ của bản thân và hóa thân vào một con người bình thường, cố gắng hòa nhập, cuối cùng tìm được giá trị đích thực của bản thân. Còn Shiraha dẫu sinh ra có vẹn toàn cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhưng với tính cách tích hợp giữa trịch thượng và tự ti, trên tất cả là sự lười biếng và không cầu tiến, gã tự biến mình thành đồ bỏ đi của xã hội. Cửa hàng tiện lợi trong “Konbini Ningen” là tấm gương phản chiếu cuộc sống đời thực, các bộ phận thay đổi, nhưng toàn bộ vẫn giữ nguyên. Và có lẽ con người vẫn bị mắc kẹt trong mô hình xã hội lỗi thời, mặc dù con người hiện đại cảm thấy bản thân tiến hóa hơn người thời đại trước. Có một cuốn cẩm nang được truyền lại từ đời này sang đời khác, là kết hôn, sinh con, và kiếm càng nhiều tiền càng tốt. Bất cứ ai không đáp ứng theo tiêu chuẩn đó sẽ được thuyết phục đi đúng đường hoặc bị tẩy chay. Đó là một xã hội chứa đựng ảo tưởng về những thứ mà nó gọi là bình thường, và những thỏa thuận ngầm của con người về một cuộc sống có thành công hay không. Người ta dựa vào cẩm nang đó, rồi tự cho bản thân cái quyền đánh giá, phán xét về đời tư của người khác. Thế nhưng, thành công và hạnh phúc là khái niệm trừu tượng không thể quy ra bằng tiêu chuẩn kết hôn, sinh con, nhiều tiền. Sống chăm chỉ bằng đồng tiền lương thiện do công sức mình bỏ ra không có gì là sai trái, dẫu đó có là công việc bán thời gian ở cửa hàng tiện lợi. Sống độc thân, và cảm thấy tự do, thỏa mãn, đủ đầy thì cũng không có gì đáng trách cả. Vì sao gọi là dư luận? Vì “luận” nhiều quá cho nên “dư”! Người ta nói nhiều nhưng người ta có sống giùm bản thân người được đâu? Sống mà cứ phải để ý đến ánh mắt người đời thì khó mà hạnh phúc được. Cứ lương thiện mà làm công việc người thích, sống theo cách khiến người thoải mái. Mỗi người đều tìm được an yên trong lòng thì xã hội sẽ bớt “đáng sợ” hơn cái xã hội trong “Konbini Ningen”, hay cũng chính là xã hội ngày nay của con người. Nhà văn Nguyễn Thanh Việt – tác giả cuốn The Sympathizer thắng giải Pulitzer Prize – đã có lời nhận xét về tác phẩm “Konbini Ningen”: “Một bản khảo sát khôi hài, tăm tối, gây chấn động sâu sắc về đời sống đương đại, về sự xa lánh, về chủ nghĩa tư bản, ý thức cá nhân, và sự quy hàng các ước lệ xã hội. Dù ở Nhật Bản hay đâu khác, chúng ta đều đã từng đặt chân vào cửa hàng này.” Giải mã tựa đề gốc của tác phẩm – “Konbini Ningen”  “Konbini” bắt nguồn từ chữ “Konbiniensu sutoa”, tức là “Convenient store” trong tiếng Anh, được người Việt biết đến với phiên âm “Combini” – Cửa hàng tiện ích kiểu Nhật Bản: mở cửa 24 giờ một ngày, bán các loại thực phẩm và vật dụng cá nhân hàng ngày, bao gồm cả đồ ăn nhanh, đồ gia dụng và tạp chí, theo kiểu tự phục vụ, với khu vực kệ hàng chiếm hơn 50% tổng diện tích. “Ningen” là cách phiên âm Romaji, nghĩa tiếng Việt là “con người”. Ngoài ra, ít ai biết rằng “Ningen” còn là tên của một loài sinh vật biển hình người ở Nam Cực. Tương truyền, thủy thủ các tàu đánh cá voi nghiên cứu do chính phủ quản lý đã mục sở thị loài sinh vật được gọi là “Ningen” này, kể lại rằng chúng có cơ thể màu trắng với chiều cao ước chừng 20 đến 30 mét. Những người chứng kiến mô tả “Ningen” có hình dáng giống người, có chân, có tay và bàn tay năm ngón. Đặc điểm về khuôn mặt có thể nhìn thấy là mắt và miệng. (Theo Pink Tentacle) Suốt nhiều năm, ở Nhật Bản lan truyền lời đồn đại về sự tồn tại của sinh vật biển to lớn hình người sống ở Nam Cực, giới khoa học không nghi ngờ gì việc Nhật Bản đang âm thầm nghiên cứu “Ningen” và đặt ra nghi vấn: Bao giờ thì người Nhật tiết lộ “Ningen”? Vậy thì, “Ningen” thể hiện xuyên suốt  trong “Konbini Ningen”, với nghĩa “con người” (hay “cô nàng” như bản dịch tiếng Việt, thậm chí là “woman” trong bản dịch tiếng Anh) có đủ để lột tả được nhân vật mà Murata Sayaka xây dựng hay không? Hay nhân vật chính Furukura Keiko – “Ningen” trong tựa đề của tác giả – đích thị là một cá thể dị biệt trong xã hội loài người? Murata Sayaka – một trong những nhà văn đương đại thú vị nhất Nhật Bản  Nữ văn sĩ Murata Sayaka là một nhà văn, đồng thời cũng là một nhân viên bán thời gian tại cửa hàng tiện lợi. Có lẽ vì thế mà trong tác phẩm “Konbini Ningen”, cô đã cho độc giả cái nhìn rõ nét và chân thực hơn về công việc nhân viên cửa hàng tiện ích nói riêng và cuộc sống của người Nhật Bản nói chung. Sayaka sinh năm 1979 tại thành phố Inzai, tỉnh Chiba. Năm 2003, tiểu thuyết Jyunỹu (Breastfeeding) của cô đã đoạt Giải thưởng Gunzo dành cho nhà văn trẻ. Đến năm 2013, cô giành giải thưởng Mishima Yukio nhờ tác phẩm Shiro-iro no machi no, sono hone no taion no (Of Bones, Of Body Heat, of Whitening City). “Konbini Ningen” là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Sayaka được dịch sang tiếng Anh. Sách đã bán được hơn một triệu bản tại Nhật Bản và sau đó được dịch ra 20 thứ tiếng khác nhau trên thế giới. *** [Review Sách] Cô nàng cửa hàng tiện ích – Murata Sayaka “Cô nàng cửa hàng tiện ích” trong tên sách là Furukura Keiko, một người phụ nữ 36 tuổi đã làm việc ở cửa hàng tiện ích suốt 18 năm kể từ ngày đầu khai trương. “Cô nàng cửa hàng tiện ích” trong tên sách là Furukura Keiko, một người phụ nữ 36 tuổi đã làm việc ở cửa hàng tiện ích suốt 18 năm kể từ ngày đầu khai trương. Nhắc đến việc làm ở cửa hàng tiện ích, những người khác đều chỉ coi đó là công việc tạm thời dành cho sinh viên, các bà nội trợ, hay một vài trường hợp chưa tìm được việc làm ổn định. Thế nhưng, với Keiko, công việc ở cửa hàng tiện ích này là mối liên kết duy nhất giữa cô cùng thế giới xung quanh. Từ nhỏ đến lớn, cô chưa bao giờ được coi là một người bình thường; thậm chí, mỗi lần nhắc về cô, mẹ và em gái lại mắt rơm rớm lệ, chỉ mong một ngày nào đó cô “khỏi bệnh” và trở về ra dáng một người bình thường. Hồi nhỏ, khi thấy một chú chim nhỏ chết ở công viên, thay vì khóc thương và chôn chú chim như những đứa trẻ khác, Keiko lại cầm xác của chú chim đến trước mặt mẹ và ngỏ ý muốn đem xác chim về nướng lên ăn. Trước sự ngạc nhiên cùng sợ hãi quá đỗi của người mẹ, cô vẫn không lý giải được tại sao mình phải chôn chú chim nhỏ, phải biết thương tiếc và buồn đau một sinh mệnh vừa lìa đời. Lần khác, Keiko đã ngăn cản vụ bạo lực ở trường tiểu học bằng cách thức “nhanh nhất”: Cô lấy chiếc xẻng làm vườn phang thẳng vào đầu đứa bạn đang gây gổ. Trong khi xung quanh hét lên ầm ĩ, thầy giáo “nổi cáu một cách vô lý”, còn mẹ không ngừng gập đầu nói lời xin lỗi trước hội đồng, Keiko vẫn chẳng hiểu mình đã làm sai điều gì – vì chẳng phải, đứa trẻ kia ôm đầu, ngã xuống, nằm im bất động, và vụ ẩu đả đã kết thúc sao. Lớn lên, cô chứng kiến cảnh cô giáo mất kiểm soát, đám học sinh khóc thút thít, Keiko đã chạy lên tụt cả váy lẫn quần lót trước mặt cô để cô đừng gào thét thêm nữa. Cô làm vậy vì từng xem chương trình trên TV, người ta sẽ im lặng khi con gái bị tụt quần áo. Mẹ Keiko lại bị gọi lên trường một lần nữa, trên đường về, mẹ vừa ôm cô vừa nghẹn ngào trong câu hỏi không có lời hồi đáp: “Tại sao, sao con không hiểu hả Keiko…”. Giữa tiếng nấc nhói lòng của mẹ, Keiko nhận ra mình lại làm điều gì đó sai, nhưng cô vẫn không thể hiểu và nhận định được mình đã sai ở đâu. Cô dần dần hình thành nhận thức, suy nghĩ về sự khác biệt giữa mình và mọi người. Cô quyết định lựa chọn lặng im không lên tiếng, bởi cô nghĩ nếu không nói sẽ không có sai lầm nào xảy ra, bố mẹ sẽ không phải đi xin lỗi những người khác thêm nữa. Từ nay, Keiko sẽ sống theo 2 cách: Bắt chước hoặc làm theo chỉ thị. Chính lựa chọn cách sống như vậy, cô tìm thấy môi trường sống lý tưởng cho mình, chính là cửa hàng tiện ích. Ở trong không gian được bao bọc bởi 4 lớp kính, sinh vật được gắn mác “nhân viên cửa hàng tiện ích” bắt buộc phải làm mọi thứ theo chỉ thị và khuôn mẫu. Mọi việc diễn ra trong chiếc hộp kính này đều có khuôn khổ và quy tắc rõ ràng, đến cả biểu cảm và cách trò chuyện cũng được xếp đặt sẵn. Nếu lúc trước, cô không biết mình phải bộc lộ cảm xúc thế nào trước mỗi câu chuyện mình nghe, thì giờ đây, cô có thể bắt chước học theo video mẫu. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Keiko “được trở thành một bộ phận của thế giới”; trong giây phút ngày mới bắt đầu, thế gian tỉnh giấc, âm thanh hỗn tạp của cửa hàng tiện ích đã “bơm” vào trong cô sự sống – thứ sự sống bình thường mà chưa từng len lỏi trong máu, trong tế bào của cô. Giống như kệ đồ tạp hóa, máy pha cà phê,… Keiko thấy mình chính là một phần của cửa hàng này. Mặc cho vẻ ngoài đã được điểm tô đôi chút bởi dáng dấp của người bình thường, sâu trong Keiko vẫn không có nổi một cảm xúc “bình thường” nào. Cô đi làm đúng giờ, làm việc cả kì nghỉ, không bao giờ tức giận trước khách hàng, càng chưa một lần mất bình tĩnh trước bất cứ ai. Cô có thể bắt chước cách ăn vận và nói năng từ những người đồng nghiệp, có thể giả bộ trở thành một phần trong những buổi nói chuyện của bạn bè, nhưng cô vẫn như vậy: Cô không biết tại sao phải tốn công dỗ đứa bé không khóc nữa, trong khi trên bàn có sẵn con dạo nhọn hoắt. Mọi hành động và phản ứng của cô đều là bản sao cóp nhặt từ nhiều người, để bản thân cô không giống một kẻ ngoài luồng hay bị coi là “hàng dỏm”. Với bản thân, cô cảm thấy mình là một loài động vật máu lạnh, không những chẳng có cảm xúc mà còn chẳng lý giải nổi cảm xúc của người xung quanh. Keiko là một mặt hàng, một thứ đồ vật, một sự tồn tại đang cố gắng bám trụ lại trong xã hội loài người.  Thế nhưng, tất cả đều thay đổi khi gã đàn ông tên Shihara bước vào cuộc đời cô. Gã là một kẻ đớn hèn, không nghề không ngỗng, không biết nỗ lực cố gắng, luôn thù hằn và chỉ trích xã hội một cách không ngừng. Gã giống Keiko ở điểm bị biệt lập bởi những quy chuẩn của xã hội. Gã cho rằng, xã hội hiện đại nào có gì khác xã hội thời Jomon (thời kỳ đồ đá ở Nhật Bản), khi loài người được định nghĩa bởi giống cái - giống đực, khi sự tồn tại của một cá thể chỉ để phục vụ sự sinh sôi nảy nở của bộ tộc, khi chỉ những gã đực rựa săn bắn giỏi mới có được những cô đẹp nhất làng,… Gã khác Keiko ở điểm gã có thể lý giải mọi cảm xúc của con người, gã hoàn toàn không coi mình là mặt hàng, hay đồ vật, hoặc một sinh vật gọi là “nhân viên cửa hàng tiện ích” như Keiko. Vậy mà, gã chỉ được cái miệng luôn nói về lý tưởng khởi nghiệp chắc chắn thành công của mình, nhưng chưa một lần gã thực sự chăm chỉ, phấn đấu cho cái ý tưởng hoàn mỹ của gã.  Shihara lựa chọn cuộc sống ăn bám Keiko, để trốn đi những định kiến xã hội thúc ép gã bấy lâu. Gã đổ mọi tội lỗi lên đầu thứ gọi là “xã hội”, bởi nó là thứ khiến gã buộc phải sống cuộc đời như những người khác: Làm việc, kết hôn, sinh con. Luôn trốn chui trốn lủi những “nghĩa vụ” phải mang, gã hèn mọn đến cùng cực: Một kẻ phẫn hận xã hội loại người, nhưng cũng chính gã lại áp những quy chuẩn ấy lên người Keiko, rồi hả hê đay nghiến, coi thường, và tự nâng vai trò của mình lên. Shihara sinh ra với đủ đầy nhận thức cùng xúc cảm, nhưng gã biếng lười và cố tìm cách đổ lỗi cho mọi sự thành bại, đến cùng cái xã hội gã căm ghét ấy cũng từ chối sự tồn tại của gã. Gã trở thành một kẻ bỏ đi, rồi chính vì sự khước từ đó, gã lại tìm cớ đổ lỗi cho những quy chuẩn của xã hội. Thế nhưng, gã thực sự căm hận cái xã hội ấy sao, hay chăng gã muốn được làm một phần của cái xã hội ấy, nên mỗi câu chửi của gã lại vẽ nên một hình mẫu mẫu mực? Trái ngược gã, Keiko sinh ra với sự khuyết thiếu về mặt cảm xúc, nhưng cô chưa từng ngừng cố gắng hòa nhập, để được trở thành một phần của những người bình thường. Cuối cùng, cô tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình ở cửa hàng tiện ích. Đó là thế giới của những quy chuẩn, nguyên tắc, định kiến,… hoặc, có thể nói là của tất cả những gì gò bó nhất. Đồng thời, đó cũng là thế giới bất ổn định trong mắt những người bình thường đang đeo đuổi một cuộc sống hạnh phúc. Hóa ra, hạnh phúc không nằm ở việc ta có bao nhiêu tiền, con của ta học giỏi nhường nào, xã hội trọng vọng ta ra sao,… Hạnh phúc nằm ở việc ta cảm thấy hạnh phúc, cảm thấy được thuộc về, cảm thấy những cố gắng và nỗ lực của mình là xứng đáng.  Mỗi người có một đích đến hạnh phúc khác nhau, mỗi người có một định nghĩa thành công khác nhau, mỗi người có một nỗi đau khôn nguôi khác nhau, mỗi người có một lẽ sống của riêng mình. Xã hội hiện đại khác với xã hội thời Jomon ở chỗ, rất nhiều cuộc sống và mảnh đời không trùng lặp đang cùng tồn tại. Miễn là chúng ta không bỏ cuộc, rồi một ngày chúng ta sẽ tìm được “cửa hàng tiện ích” của mình, giống Keiko đã tìm ra ở cuối truyện. Mời bạn đón đọc Cô Nàng Cửa Hàng Tiện Ích của tác giả Murata Sayaka & An Vy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trạm Dừng Chân Nơi Nhà Ga Tuổi Trẻ
"Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ" - Asai Ryo (tên tiếng Nhật: Nanimono) đã oanh tạc Nhật Bản như thế nào??? - Được tái bản nhiều lần, có hàng loạt các phiên bản khác nhau (như hình đấy các bạn, mà đó vẫn chưa phải là hết đâu :))) - Phim điện ảnh của cuốn sách cũng càn quét khắp các cụm rạp, gây xúc động mạnh tại xứ sở Phù Tang!!! *** Review Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ – Asai Ryo Ai trong chúng ta rồi cũng đều phải bước qua những năm tháng vô tư, hồn nhiên để đến với cánh cửa mới mang tên “trưởng thành”. Đó là chặng đường mà mỗi người đều nếm trải sự chênh vênh ở cái ngưỡng không còn trẻ mà cũng chẳng trưởng thành, không lạc lối nhưng cũng chẳng thể tìm cho mình một ngã rẽ riêng. Tôi đến với những trang sách của Asai Ryo vào một ngày Hà Nội mới chớm vào thu và khi chính bản thân mình cũng đang ở cái ngưỡng của sự trưởng thành. Đối với tôi, “ Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ ” là một điều gì đó hết sức đặc biệt. Cuốn sách ấy vừa giống như một lời thủ thỉ, tâm tình lại vừa như bức thông điệp truyền cho con người ta những bài học đầy ý nghĩa. “Tuổi trẻ của chúng ta luôn có một giai đoạn, mà lúc đó, chúng ta hoài nghi về chính bản thân mình. Không biết làm gì, không biết đi đâu, càng không biết mình là ai”. Đó chính là tuổi trẻ của những nhân vật mà nhà văn Asai Ryo đã xây dựng trong cuốn sách của mình. Đầu tiên có lẽ phải nhắc đến Takuto – cậu thanh niên ít nói, rụt rè, ngay đến cả lời tỏ tình với người con gái mình yêu cũng không dám nói. Bỏ qua những cơ hội bày tỏ để rồi đến cuối cùng anh và cô gái mình yêu lại trở nên xa cách mãi mãi. Mizuki thì luôn khiến người ta cảm thấy cô nàng đang tự thu mình vào một thế giới riêng mà khó ai có thể bước vào được. Tự ti vì gia cảnh, nghĩ rằng mình không thể nào sánh được với bạn bè, Mizuki tự xa lánh, tách biệt với thế giới xung quanh. Mizuki vui tươi, yêu đời bỗng trở thành một cô nàng chi li, tính toán trong các mối quan hệ. Tận sâu trong trái tim, cô không mong có ai đó sẽ mang đến hạnh phúc cho mình vì chẳng ai muốn dành trọn tình cảm cho một người chỉ biết nghĩ đến bản thân. Còn với Takayoshi – cậu quý tử luôn sống ỷ lại vào cha mẹ, cậu không muốn phải bỏ công sức để làm bất cứ điều gì. Được lớn lên trong căn nhà ấm áp, được chăm sóc tỉ mỉ trong từng bữa ăn,… tất cả khiến cậu thanh niên này trở nên lười biếng và phụ thuộc vào cái lồng yêu thương do cha mẹ tạo ra. Cuối cùng nhân vật mà có lẽ được nhiều người thích nhất là Kotoro – chàng trai với cá tính âm nhạc khác biệt mà mỗi lần lên sân khấu luôn nhận về “những ánh đèn flash của máy chụp hình chớp nhoáng sáng lòa sân khấu”. Đam mê là vậy, nhưng rồi đến khi hồi chuông cuối cùng của thời học sinh vang lên cũng là lúc Kotoro chia tay ban nhạc. Anh bạn phải vụt chạy đi tìm kiếm công việc làm ổn định thay vì cứ mải mê khao khát với ước mơ “rẻ tiền” ấy. Bốn con người với bốn câu chuyện riêng đã được ngòi bút của nhà văn Asai Ryo khéo léo sắp xếp để họ cùng gặp nhau ở một điểm hẹn mới trong cuộc đời. Công cuộc tìm kiếm việc làm của bốn cô cậu sinh viên được miêu tả sống động, chân thực theo đúng với tính cách, tâm lý của mỗi người. Để rồi, khi lướt qua câu chuyện của các nhân vật, có đôi lúc chúng ta lại tìm thấy hình ảnh của chính mình trong đó. Từng trang viết của nhà văn đều phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội, trong đó có cả những chông chênh của tuổi trẻ trong hành trình tìm kiếm bản thân. Thu mình trong lớp vỏ tự ti như Mizuki hay sống mãi với nỗi ân hận muộn màng như Takuto? Chọn lựa một hướng đi mới như Kotoro hay cứ mãi để cuộc đời phụ thuộc vào cha mẹ như Takayoshi? Câu hỏi đặt ra cho các nhân vật nhưng dường như bất cứ độc giả nào khi cầm trên tay cuốn sách cũng đang tự đi tìm câu trả lời cho chính bản thân mình. Khi còn bé ai cũng nhìn cuộc sống qua những lăng kính ngây thơ và hồn nhiên nhất. Cứ nghĩ rằng khi lớn lên rồi tự bản thân mình sẽ làm nên điều tuyệt diệu. Thế nhưng như Asai Ryo đã viết: “Cuộc sống chẳng khi nào là dễ dàng cả. Nếu đang cảm thấy dễ dàng, thì chắc chắn có người đang thay ta gánh chịu phần không dễ dàng ấy rồi”. Ai rồi cũng sẽ trưởng thành và sự trưởng thành đó chưa bao giờ là dễ dàng. Cạm bẫy, lừa lọc, vô cảm và thực dụng, tất cả khiến con người ta dường như trở nên yếu đuối hơn thế nhưng tuổi trẻ của ai chẳng cô đơn, mệt mỏi, thậm chí là bế tắc. Tất cả rồi sẽ bước qua như thế nào? Ngòi bút của Asai Ryo quả thực tài năng khi từng hơi thở, từng con chữ, từng mảnh ghép số phận trong cuộc hành trình tìm kiếm bản thân của những người trẻ đang lạc lối ấy đều được nhà văn góp nhặt và đưa vào câu chuyện của mình. Và có lẽ điều làm tôi thích nhất ở “ Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ ” chính là ở cảm xúc tự nhiên, chân thành mà tác giả mang đến. Không cần phải phê phán, chê bai, cuốn sách vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi những điều đơn thuần nhất. “Khi nỗ lực, người ta không để ý họ làm vì ai, làm vì điều gì. Nỗ lực không phải là lăn lóc trên Internet hay mạng xã hội. Mà nó đang ở ngay đây, trong chuyến tàu sắp sửa vào ga với máy sưởi chạy quá đà, giữa một ngày tháng Hai rét buốt”. Với ý nghĩa nhân văn sâu sắc về những bài học đường đời đầu tiên giành cho tuổi trẻ, tác phẩm của Asai Ryo đã đoạt giải thưởng văn học danh giá nhất Nhật Bản – Naoki lần thứ 148 và chuyển thể thành bộ phim ăn khách Namimono. Cuốn sách đến từ xứ sở hoa anh đào đã trở thành hành trang quý giá trên mỗi chặng đường cho những ai đang và sẽ đi qua những năm tháng thanh xuân rực rỡ. Cảm ơn tác giả, cảm ơn vì những giá trị chân thành mà nhà văn mang đến cho các thế hệ bạn đọc! About The Author Thư Lê Thị *** Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ của Asai Ryo là một cuốn tiểu thuyết gây được tiếng vang lớn ở xứ sở hoa anh đào. Tác phẩm đoạt giải Naoki và đã được chuyển thể thành bộ phim điện ảnh ăn khách Nanimono (Tiếng Anh: Somebody - Ai đó) đang “oanh tạc” thị trường phim Nhật Bản. Ở Việt Nam, bản Việt ngữ cuốn sách được Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành năm 2018. Có nhiều điều gợi lên cho chúng ta từ cuốn sách. Trong kí ức hay hiện tại, với một người đọc đã mang trong mình ít nhiều trải nghiệm, chúng ta thấy hiện về một hành trình đã đi qua, với những thăng trầm, buồn vui của tuổi trẻ, của thanh xuân say mê, sôi nổi đầy hi vọng, chán chường, tuyệt vọng cùng những lựa chọn chủ động và bị động. Có thể, ngay lúc này, chúng ta chợt nhớ đến một Đứa con đi hoang nay đã trở về của Andre Gide, Rừng Nauy của Murakami Haruki, Ở quán cà phê tuổi trẻ lạc lối của Patrick Mondiano… Cũng có thể, chúng ta nhớ đến những ngày trí thức tuổi trẻ với đầy hoài bão, khát vọng trong những truyện ngắn ám ảnh của Nam Cao, Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng hay những câu thơ giục giã đam mê của Xuân Diệu. Cũng có thể, chúng ta nhớ về Lưu Quang Vũ với những câu thơ của tuổi trẻ trong một thành phố chật chội, u buồn. Gần hơn nữa, chúng ta nhớ đến Những thiếu thời lơ lửng của Hạnh Nguyên, Tuổi thanh xuân đôi chuyến tàu đi lạccủa Lương Đình Khoa, Mộ phần tuổi trẻ của Hoàng Trọng Khang, Tôi ngồi đây chờ cơn bão tới của Nguyễn Hải Nhật Huy, những ám ảnh buồn bã trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Đinh Phương… Kí ức đan dệt trong nỗi hoài niệm về tháng ngày thanh xuân đã đi qua khiến cho cuốn sách Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ của Asai Ryo vừa giống như một trải nghiệm trực tiếp, vừa như một nguyên cớ, một vẫy gọi trở về. Chúng ta sẽ nói gì về cuốn sách này khi ngay ở đó, dường như thấp thoáng hình bóng của mình những ngày chưa xa? Tuổi trẻ, những lựa chọn để trưởng thành, cái ngưỡng mà bất cứ ai cũng phải đối mặt chính là ý niệm xuyên suốt của cuốn tiểu thuyết. Qua các nhân vật Takuto, Kotaro, Mizuki, Rika, Sawa, Takayosi,… một thế giới của người trẻ được tái hiện, chân thực và ám ảnh. Họ, những sinh viên đại học và nỗi băn khoăn trước những lựa chọn để dấn thân vào đời. Sự chua chát khởi đầu cuốn tiểu thuyết một cách lạnh lùng bằng những gặp gỡ, những chia rời, ngăn cách, sự bị động của con người trước xã hội, sự dối trá mà họ bắt buộc phải chấp nhận để bước vào cánh cửa trưởng thành. Tìm việc, đó là câu chuyện trung tâm, nhưng từ đó, mọi vận động nông sâu, rõ rệt hay mơ hồ của đời sống những người trẻ tuổi được hé lộ. Bản ES (Một dạng hồ sơ tuyển dụng) đã chứng thực cho những điều gian dối, khi các cô cậu sinh viên cố gắng trả lời một cách không trung thực về khả năng, điểm mạnh, điểm yếu của mình. Chuẩn bị những dối trá, nghĩ, nói và làm những điều dối trá đến một lúc nào đó người ta không còn xem đó là dối trá nữa. Cái xã hội mà những người trẻ sắp dấn thân vào đã dung dưỡng cho thái độ, lựa chọn ấy. Và, trưởng thành là gì nếu không phải là một trạng thái bị hoài nghi trước bao điều dối trá. Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ quả thực đã gợi lên cho chúng ta những ưu tư không hề nông nổi. Tuổi trẻ, học tập, tình yêu, việc làm, sự trưởng thành, những mất mát, nhân cách, cách sống, sự thích nghi, năng lực, kinh nghiệm, lời nói và hiện hữu, sự trống rỗng, mất niềm tin, nỗ lực khẳng định bản thân, sự lựa chọn, sự từ bỏ, hoài nghi và xác tín, bám giữ hay buông xuôi,… chừng ấy có phải là quá nhiều luận đề cho một cuốn tiểu thuyết? Không, đây không phải tiểu thuyết luận đề, mà là một mô tả thật gần, thật trung thực những diễn biến của đời sống giới trẻ, trong trạng thái nguyên bản nhất. Chỉ có đối thoại và những suy tư, rất ít những trường đoạn trữ tình, miêu tả - vốn là đặc sản của tiểu thuyết lãng mạn. Bên cạnh đó, cuốn sách này, thông qua những suy tư và do dự, thông qua những lựa chọn của tuổi trẻ, chúng ta nhận ra đời sống đang hiện diện thế nào. Cuộc sống của các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết chất vấn lại lối sống của thế hệ, của những bao trùm giăng mắc mà họ đang vướng phải. Họ nghi ngờ rằng, có thể, với những gì đang diễn ra, họ thiếu đi phần con người, chỉ rập khuôn như máy móc. Thời đại công nghệ đẩy tuổi trẻ vào những lựa chọn bị động. Việc tham gia vào các mạng xã hội như Facebook, Twiter hay đắm chìm trong Internet đã lấy hết thời gian sống của tuổi trẻ. Họ buộc phải diễn tả mình thật ngắn gọn, bằng những từ khóa, bằng những kí tự giới hạn, họ phải đánh bóng mình bằng những status “chất lừ” trong khi có thể sự thực họ nhạt nhẽo, rỗng tuếch và vô cảm. Một khi, phải lựa chọn những ngôn từ ít ỏi để diễn đạt mình, tuổi trẻ thời công nghệ buộc phải loại bỏ đi nhiều từ ngữ khác. Mà, những từ ngữ bị loại bỏ, xem ra mới là những từ quan trọng làm nên sự hiện diện đích thực của con người. Thế có nghĩa là gì? Những ngôn từ quan trọng thực chất đã bị chôn vùi, đồng nghĩa với một bản thể, một thế hệ có thể đã bị đánh mất, bị lãng quên mặc dù vẫn hiện diện hàng ngày trong đời sống. Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ xác thực một thảm trạng về tính không trùng khít, không vừa vặn của những mảnh ghép tuổi trẻ. Những mảnh ghép không khít cứ bị ấn bừa vào nhau để rồi bung vỡ ở chính trung tâm của nó. Internet, facebook, Twiter… giống như những liều thuốc an thần, là chiếc đệm lười, là vỏ ốc để tuổi trẻ trú ngụ, ấn náu và trốn tránh. Họ - những người trẻ tuổi sẽ trở thành - trưởng thành như thế nào trong một thế giới đầy bị động như vậy? Cuốn tiểu thuyết của Asai Ryo đã mang đến cho người đọc, nhất là giới trẻ những suy tư thực chất, gần gũi với chính họ. Nhưng, không hề khuyên bảo hay dạy dỗ, cuốn sách như một người bạn, một “lời thủ thỉ, tâm tình” mà chạm đến những giật mình sâu kín của thế hệ. Và, sau tất thảy những điều bị động, bất ổn cuốn ta đi, một xác tín được thức tỉnh chính là: Ta chỉ có thể trở thành chính mình. Đó là một thông điệp quan trọng từ cuốn sách rất cần cho tuổi trẻ này. NGUYỄN THANH TÂM   Mời các bạn mượn đọc sách Trạm Dừng Chân Nơi Nhà Ga Tuổi Trẻ của tác giả Asai Ryo.
Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng
Tuyệt vời, ấm áp và đáng đọc" - Mark Twain Cô bé Rebecca 11 tuổi thông minh, nhanh miệng, vui tính và hồn nhiên được mẹ gửi đến ở với hai người dì ở thị trấn Riverboro. Giờ thì cô bé phải bắt đầu làm quen với một cuộc sống mới, trường học, bạn bè, những người hàng xóm mới. Và trên hết là bà dì khó tính lúc nào cũng tìm cách soi lỗi của Rebecca. Liệu những bộ quần áo đẹp và trường học có đáng để cô bé mơ mộng giàu tưởng tượng ấy phải hi sinh, hay sẽ khiến cô bé tìm cách quay trở về Trang Trại Suối Nắng? Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng là cuốn tiểu thuyết thiếu nhi kinh điển sẽ đưa các em vào cuộc khám phá trải nghiệm tuyệt vời về con người và vùng quê nước Mỹ thế kỷ XIX. Đây thực sự là một tác phẩm hấp dẫn và có sức lôi cuốn mạnh mẽ, được nhiều tầng lớp độc giả yêu thích từ nhiều thập kỷ qua. ***   Review Sách "Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng": Tác Phẩm Thiếu Nhi Kinh Điển Và Còn Hơn Thế Nữa Gấp sách lại, tôi thấy tim mình đang đập rất nhanh, đến nỗi đang viết đây mà tay tôi vẫn run lẩy bẩy...   Tôi không thích nói về văn phong về ý nghĩa về trẻ em về giá trị về này kia, tôi chỉ muốn nói về Adam Ladd – “chú Aladdin” của Rebecca, phân tích anh đến tận cùng, thêu dệt nên tất cả những gì tôi có thể thêu dệt về anh, vì đây chính là nhân vật khiến tôi đổ gục ngay từ giây phút đầu xuất hiện. (Tôi sẽ gọi ông chú 34 tuổi này là “anh”, theo như dịch giả gọi, và vì tâm hồn anh phù hợp với nhân xưng ấy). Thật ra là, lúc đọc lời nhà văn Jack London gửi cho Kate Douglas Wiggin: “Tại sao cô bé không phải là con gái tôi? Tại sao người mua ba trăm bánh xà phòng kia không phải tôi? Tại sao, ôi, tại sao chứ?” – tôi cứ ngỡ “người mua ba trăm bánh xà phòng” hẳn phải là một ông bác phúc hậu, kiểu như sẽ là cha đỡ đầu gì đó của Rebecca chứ? Ai mà ngờ được đó lại là một “ông chú” trẻ tuổi ưa nhìn, người mà từ lần đầu xuất hiện đã lập tức trở thành tia nắng sưởi ấm cho cuộc đời Rebecca (hai người gặp nhau lần đầu khi Rebecca 12 tuổi, Adam 29 tuổi).    Lúc đầu, chẳng hiểu sao cái tên chương báo hiệu sự xuất hiện của Adam khiến tôi rất chán – “Chú Aladdin”, như thể tác giả đang giả vờ úp mở rằng một ông chú tốt bụng sắp sửa xuất hiện. Tôi nghĩ, nếu là một ông chú tốt bụng thì chỉ cần bác Cobb là đủ rồi, chả cần thêm. Nhưng thật may, và thật tuyệt, là tôi đã lầm, vì ông chú này không chỉ tốt bụng, mà còn cực kỳ thú vị (và trẻ, và đẹp trai, và giàu có, wow!). Và rồi khi ông chú hào phóng quyết định mua hẳn ba trăm bánh xà phòng (khiến Rebecca kinh ngạc đến nỗi ngã ngửa khỏi hiên, rơi tõm vào lùm cây), tôi đã quyết định, mình thích ông chú này. Cái sự “mua ba trăm bánh xà phòng” nói hào phóng thì cũng hào phóng đấy, nhưng theo lẽ thường, chắc phải lý giải theo kiểu bà bác Miranda của Rebecca (nhân vật khắc nghiệt nhất truyện) thì tôi thấy hợp lý hơn:  "Ba trăm bánh xà phòng!” bà Miranda thốt lên.  “Chao, thật đúng là có một cái loại mùa vụ chưa bao giờ thất thu ở Riverboro này!”“Mùa gì đấy ạ?” cô Lydia lịch sự hỏi. “Mùa ngu.”  (Ha ha ha, đây là đoạn tôi thích nhất truyện. Bác Miranda khắc nghiệt của chúng ta chửi người còn hay hơn hát). Nhưng ba trăm bánh xà phòng ấy chính là cơ duyên cho sự quen biết của Adam và Rebecca. Lần đầu gặp gỡ, anh vì đôi mắt lanh lợi kia mà vung tay mua ba trăm bánh xà phòng (rồi để chất đống trong nhà kho chưa biết xài tới bao giờ), chỉ bởi cô bé bán những bánh xà phòng ấy – Rebecca, là cô bé “đặc biệt và có sức thu hút nhất” mà anh từng thấy. Theo thời gian, anh chứng kiến cô bé ấy từng bước trưởng thành bằng ánh nhìn tán dương và trân trọng, nâng đỡ quan tâm cô theo một cách thật cẩn thận và tinh tế. Ví như, chỉ để “hợp lý hóa” món quà của mình và không gây nên thị phi không đáng có gì ảnh hưởng đến cô bé, vào những dịp mà không ai có thể nói ra nói vào (như Giáng Sinh chẳng hạn), anh tỉ mỉ chọn từng món quà cho cô nhưng luôn không quên tặng một món tương tự cho Emma Jane, bạn thân của Rebecca. Dù cô bé bạn thân nọ anh hầu như không nhớ được tên. Lại ví như, khi gia đình Rebecca gặp khó khăn, anh không trực tiếp ra mặt giúp đỡ, mà ý nhị tổ chức một cuộc thi viết luận với giải thưởng cao. Anh nghĩ thế này:  Bạch Tuyết – Hoa Hồng cần giúp đỡ, mình chẳng có cách nào giúp cô bé mà không gây điều tiếng cả, nên cô bé phải tự đạt được nó, cô gái nhỏ tội nghiệp! Không biết tiền bạc của mình có phải luôn trở nên vô dụng mỗi khi mình cần đến hay không nữa!. Và than ôi, tim tôi đập thình thịch khi đọc những dòng ấy. Cái cách anh muốn giúp nhưng luôn tìm lý do thật đường hoàng để giúp, cách anh trăn trở để sao cho mọi sự quan tâm của mình phải thật tự nhiên và thường tình. Sau lưng, anh không ngại nài nỉ cô giáo Maxwell hãy dùng tài lực của anh để hỗ trợ Rebecca, nhưng trước mặt Rebecca, anh luôn là một ông chú vui vẻ tốt bụng, chưa từng để cô phải khó xử vì điều gì. Có lẽ, thật ra, ngay từ đầu, ông chú chỉ đơn giản là yêu thích cô bé ấy, vì đứa trẻ này đáng yêu quá. Nhưng rồi, theo từng bước chân của cô bé, tận mắt chứng kiến đứa trẻ ấy ngày một trưởng thành và hoàn thiện, thấy viên ngọc ấy ngày một tỏa sáng rạng rỡ, có người nam nào lại giữ lòng được mà không rung động? Adam, có thể lúc nào anh cũng đủ chín chắn để tạo ra hoàn cảnh hợp lý cho mỗi sự quan tâm đối với Rebecca, nhưng một lúc nào đó, một giây nào đó, khi hình ảnh đôi mắt biết cười ấy chợt hiện ra và choán hết tâm trí anh, liệu anh có còn đủ lý trí như vậy không? Sự thật là không. Khi anh mua chiếc ô hồng sặc sỡ và gửi khẩn cho cô bé của anh mà “chẳng chút mảy may băn khoăn”, anh đã để trái tim mình đánh gục lý trí. (Dĩ nhiên một tiếng sau anh đã vội tỉnh táo lại và mua thêm một chiếc ô xanh tặng cho Emma Jane, người bạn của Rebecca, lý do thì bên trên tôi đã đề cập rồi đấy). Ôi! Yêu chết một Adam dễ thương như vậy. Tôi chẳng biết ý định của tác giả là gì, làm sao lại để nhân vật nam yêu thích của tôi hơn cô gái yêu thích của anh đến 17 tuổi chứ (17 tuổi – đúng gấp đôi số tuổi của Rebecca ở cuối truyện, hic). Nhưng tác giả đã xây dựng nên một Adam 34 tuổi mà không phải 54 tuổi, và tình cảm anh dành cho Rebecca là có thật. Dù rằng Rebecca của chúng ta từ đầu đến cuối vẫn ngây thơ như cô bé bán xà phòng ngày nào, ngưỡng mộ và kính trọng anh, đặt anh ở một vị trí rất quan trọng trong tim, nhưng mà yêu thì… thật lòng tôi cũng chẳng biết cái ngày Rebecca nhìn Adam với một ánh mắt khác có bao giờ đến hay không. Điều này dằn vặt tôi dữ lắm, và hẳn cũng đã và sẽ dằn vặt Adam không ít lần. Nhưng tôi vẫn có quyền hi vọng chứ. Tôi sẽ hi vọng vào tương lai của họ theo cách đẹp đẽ nhất mà tôi có thể thêu dệt nên. Vì tác giả đã cho chúng ta cơ hội cơ mà (nói đơn giản là tác giả chả kết thúc đành đoạn gì cả). Ừm, nói cho xôm nhưng tóm lại – Adam Ladd là nhân vật cực kỳ yêu thích của tôi trong truyện này, còn sự yêu thích của anh với Rebecca, mà có lẽ cũng là mọi người đọc dành cho Rebecca, thì hẳn là: “Tôi mừng là đã được gặp cô bé; tự hào vì quen biết cô thiếu nữ, và mong chờ được gặp người phụ nữ tương lai!” *** hiếc xe ngựa chở khách cũ kỹ lóc xóc chạy trên con đường bụi mù từ Maplewood đi Riverboro. Mới giữa tháng Năm mà trời oi nóng như đang giữa mùa hè. Bác Jeremiah Cobb chiếu cố cho lũ ngựa hết mức có thể, song vẫn không quên mình đang đi đưa thư. Đồi còn nhiều. Bác thả lỏng đôi dây cương trong tay, uể oải ngả lưng trên ghế và duỗi một chân gác lên miếng chắn bùn xe cho thoải mái. Chiếc mũ vành đã sờn kéo sụp hẳn xuống che mắt, bác bỏm bẻm nhai một miếng thuốc lá bên má trái. Trên xe có một hành khách - một người nhỏ bé tóc đen mặc váy trúc bâu bóng màu vàng nhạt. Cô bé người mảnh mai quá và ngồi thẳng đừ đến nỗi liên tục bị trượt từ chỗ này sang chỗ khác trên chiếc ghế nệm da, mặc dù cô đã gắng hết sức lấy chân tì sao cho mình ngồi đúng giữa ghế và hai tay mang găng vải bám chặt hai bên để giữ thăng bằng. Cứ lúc nào bánh xe thụt xuống rãnh sâu hơn bình thường, hay bất thình lình nảy xóc lên vì vấp phải hòn đá, là cô bé dù chẳng muốn vẫn cứ bị nảy lên một cái, rồi rơi xuống, thế là lại phải chỉnh lại chiếc mũ rơm nho nhỏ trông rõ buồn cười, rồi nhặt cái dù bé xinh màu hồng lên hoặc đặt lại cho nó ngay ngắn, một việc dường như là nhiệm vụ chính của cô - trừ phi chúng ta tính cả chiếc ví đính hạt cườm, mà cứ chốc chốc, khi điều kiện đường sá cho phép, cô lại dòm vào, và hài lòng ra mặt khi những thứ quý báu trong ấy không mất hay rơi đi tẹo nào. Bác Cobb chẳng biết tí gì về những phiền hà của việc đi lại ấy, bởi công việc của bác là đưa người ta đến nơi họ cần, chứ không nhất thiết phải làm cho họ đi đường được thoải mái. Thậm chí bác còn quên béng sự tồn tại của vị khách bé nhỏ không có gì đáng chú ý này. Khi bác chuẩn bị rời bưu điện ở Maplewood sớm hôm ấy, một thiếu phụ bước từ xe ngựa chở hàng xuống, tới chỗ bác hỏi có phải đây là xe đi Riverboro, và bác có phải bác Cobb hay không. Khi bác trả lời rằng phải, thiếu phụ liền gật đầu với một cô bé đang háo hức đợi câu trả lời, và cô chạy ngay tới chỗ bà như thể sợ bị muộn mất dù chỉ là một tích tắc. Cô bé áng chừng mười, mười một tuổi, nhưng cho dù đã trải qua bao nhiêu mùa hè thì cô vẫn có vẻ nhỏ hơn so với tuổi của mình. Mẹ cô bé giúp con leo lên xe, đặt bên cạnh con một cái bọc và một bó hoa tử đinh hương, quan sát việc chằng buộc cái rương cũ ở phía sau, và cuối cùng tỉ mẩn đếm từng đồng bạc để trả lộ phí. “Tôi nhờ bác đưa cháu đến chỗ mấy chị tôi ở Riverboro,” thiếu phụ nói. “Bác có biết Mirandy và Jane Sawyer không? Họ sống ở ngôi nhà gạch ấy.” Lạy Chúa phù hộ, bác biết họ rõ như thể bác đã sinh ra họ ấy chứ! “Là thế này, con bé sẽ đến đó, và hai chị ấy đang đợi cháu nó. Xin bác để mắt đến cháu nhé! Cháu nó mà thấy có thể ra ngoài bắt chuyện với người lạ hay rủ người ta đi cùng là nó làm ngay đấy ạ. Tạm biệt con, Rebecca; gắng đừng gây chuyện đấy, và phải ngồi yên, như thế thì khi đến nơi con mới chỉnh tề xinh đẹp được. Mà đừng có làm phiền bác Cobb nhé. Bác thấy đấy, nó đang háo hức lắm. Mẹ con tôi đi tàu từ Temperance đến đây từ hôm qua, nghỉ đêm ở nhà bà chị họ tôi và sáng nay mới đánh xe từ nhà chị ấy đến đây - những tám dặm đấy.” “Tạm biệt mẹ, mẹ đừng lo lắng; mẹ biết mà, có phải con chưa đi xa bao giờ đâu cơ chứ.” Thiếu phụ khẽ cười nhạo một tiếng và nói với bác Cobb giọng thanh minh, “Nó mới đến Wareham ngủ lại một đêm; chẳng đáng để mà tự hào là đi xa được!” “Thế là đi xa chứ còn gì nữa mẹ,” cô bé nói giọng hào hứng và bướng bỉnh. “Rời trang trại này, chuẩn bị bữa trưa cho vào giỏ này, đi xe ngựa một lúc và đi tàu hỏa chạy bằng hơi nước nữa này, mình còn mang cả váy ngủ nữa.” “Có nói thì cũng đừng nói cho cả làng nghe thế chứ,” người mẹ lên tiếng, cắt ngang dòng hồi tưởng của nhà du hành giàu kinh nghiệm. “Mẹ chẳng dặn con rồi,” thiếu phụ thì thầm, với nỗ lực thiết quân luật cuối cùng, “không được nhắc đến váy ngủ và tất dài và… những thứ tương tự, bằng giọng ông ổng lên thế, nhất là khi có đàn ông con trai xung quanh.” “Con biết, mẹ, con biết mà, và con sẽ không như thế nữa đâu. Con chỉ muốn nói là…” - đến đây bác Cobb tặc lưỡi một tiếng, quất cương, và đôi ngựa khoan thai bắt đầu công việc hằng ngày của mình - “Con chỉ muốn nói rằng đi xa là khi…” - lúc này chiếc xe ngựa đã bắt đầu đi rồi nên Rebecca phải thò đầu ra ngoài cửa sổ để nói cho hết câu -“Đi xa là khi mà mình mang theo váy ngủ!” Mời các bạn mượn đọc sách Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng của tác giả Kate Douglas Wiggin & Phạm Minh Điệp (dịch).
Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ
Bộ sách Chicago Stars gồm có: It Had to Be You (Vì đó là em) [Chicago Stars #1] - Susan Elizabeth Phillips Heaven, Texas [Chicago Stars #2] - Susan Elizabeth Phillips Nobody's baby but mine [Chicago Stars #3] - Susan Elizabeth Phillips Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ [Chicago Stars #4] - Susan Elizabeth Phillips This Heart of Mine [Chicago Stars #5] - Susan Elizabeth Phillips Mai mối cho tôi nếu em có thể [Chicago Stars #6] - Susan Elizabeth Phillips *** Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ là tác phẩm thứ tư trong serie Chicago Stars/Bonner Brothers của tác giả Susan Elizabeth Phillips với nhân vật nam chính là người em thứ hai trong ba anh em trai nhà Bonner. Đây là tác phẩm duy nhất trong serie không liên quan gì đến bóng bầu dục.   Gabe Bonner là một bác sĩ thú y yêu nghề và tài năng, có một người vợ và một đứa con trai năm tuổi mà anh vô cùng yêu quý. Một tai nạn ô tô đã cướp đi tính mạng của hai người thương yêu nhất trong cuộc đời của anh, đẩy anh xuống tận cùng của sự đau khổ mà dường như chỉ có cái chết mới có thể khoả lấp được.   Rachel Stone là bà vợ goá của nhà truyền giáo qua truyền hình nổi tiếng một thời ở thị trấn Salvation, nhưng thực ra ông ta lại là một kẻ lừa đảo, lợi dụng đức tin của các giáo dân để làm đầy túi tiền của mình. Trong khi trốn chạy pháp luật, ông ta đã chết trong một tai nạn máy bay, để lại người vợ trẻ và đứa con trai hai tuổi không một đồng xu dính túi, bị xã hội khinh bỉ, xa lánh và xua đuổi vì những tội lỗi do ông ta gây nên. Trong ba năm ròng, Rachel đã đưa đứa con trai mà cô yêu hơn cả tính mạng của mình đi khắp nơi để tìm một chỗ dung thân nhưng dường như cô không có đủ lực để xoá bỏ cái quá khứ bẩn thỉu cứ mãi đằng đẵng bám theo mình. Số phận đưa cô quay trở lại thị trấn Salvation, và ở đó cô gặp người đàn ông cục cằn, thô bạo và không còn thiết gì với cuộc sống – Gabe Bonner.   Xuyên suốt truyện là quá trình Rachel Stone vật lộn với những khó khăn để tạo dựng một cuộc sống cho đứa con trai của mình và đồng thời chứng tỏ được bản thân mình là một người phụ nữ mạnh mẽ, cứng cỏi, sẵn sàng đương đầu với cuộc sống với khả năng yêu thương vô hạn. Mối quan hệ của cô và Gabe Bonner từ hai kẻ đồng cảm với tình cảnh khốn khổ của nhau dần đã phát triển thành một tình yêu rất đẹp, tình yêu của hai kẻ sống dưới đáy của sự khốn cùng với âm hưởng chính là sự thấu hiểu, thông cảm và trân trọng nhau trong mọi hoàn cảnh. Cuối truyện, với sự giúp đỡ của Gabe, mẹ con Rachel đã quay trở lại được với xã hội để có một cuộc đời bình thường, còn Gabe đã thoát khỏi được bóng đêm nặng nề của quá khứ để tìm thấy tình yêu và cuộc sống mới.   Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ là một câu chuyện rất nhân văn và vô cùng cảm động, rất nhiều đoạn trong truyện có thể lấy được nước mắt của người đọc. Tình yêu giữa hai nhân vật chính khốn cùng không có chỗ cho những hờn ghen, hiểu nhầm hay lòng kiêu hãnh phù phiếm trong bất kỳ hoàn cảnh trái ngang nào, và đó chính là điểm mê hoặc nhất đối với người dịch. Những đoạn đối thoại nhẹ nhàng, thấu hiểu và cũng đầy chất ngọt ngào, lãng mạn. Sự quan tâm, hi sinh dành cho nhau và cuối cùng là tình yêu mãnh liệt. Ngoài ra, truyện càng thêm nhân văn ở mối quan hệ vô cùng phức tạp và tưởng chừng như không có lối thoát giữa ông bố bị ám ảnh bởi cái chết của đứa con trai yêu quý với một thằng bé năm tuổi, mà đỉnh cao của nó chính là cái cách tác giả gỡ nút thắt trong mối quan hệ đó.   Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ là một giai điệu ngọt ngào về tình yêu đôi lứa, tình thương yêu gia đình, tình người trong xã hội và những quan niệm về tôn giáo. Một tác phẩm rất đáng được đưa vào danh sách những Tiểu thuyết lãng mạn hiện đại hay nhất của thế kỷ.   Bản dịch và graphic truyện là sản phẩm của sự hợp tác giữa shiluo và vndaniel.   Ngày 30/10/2009   shiluo   Mời các bạn đón đọc Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ - Susan Elizabeth Phillips của tác giả Susan Elizabeth Phillips.
Lam Ngọc
Với gấp đôi rắc rối, gấp ba hành động, và gấp bốn tình yêu, trong Lam ngọc, cô nữ sinh trung học Gwendolyn Shepherd càng lúc càng bị cuốn theo vào một bí mật xoắn vào các chiều thời gian xuyên nhiều thế kỷ. Có thể bất thình lình bị ném về quá khứ, hoặc đơn độc, hoặc vẫn đồng hành cùng Gideon mắt xanh đẹp trai choáng váng, có lúc sẽ sém rơi nước  mắt, có lúc sẽ vui, vì giờ đây bên cạnh Gwen gần như đã kè kè con quỷ đá Xemerius ranh mãnh đáng yêu ra đời từ thế kỷ 11. Nhưng mọi chuyện không dễ, vì đội cận vệ cùng ông bá tước nguy hiểm và anh chàng Gideon ra sức tìm cách ngăn cản Gwen tiếp cận những bí mật của họ. Thật không dễ khi Gwen con không tài nào hiểu: liệu Gideon coi cô là kẻ phản bội hay thực sự tin tưởng cô? Và, đôi mắt xanh chết người của hắn nhiều lúc đã làm con tim thiếu nữ ngây thơ của Gwen nhưu quên đập...   ...Tất cả các bà mẹ đều say mê Kerstin Gier, giờ thì con gái họ cũng vậy... *** Kerstin Gier chính là cây bút châu Âu có thể khiến người ta quên ngay Stephanie Meyer bằng một chuyện tình Romeo - Juliet quyến rũ xảy giữa các vùng thời gian, làm xáo động các độc giả hiện đại theo một cách khác biệt! Hồng ngọc (Rubinrot) đã trở thành hiện tượng xuất bản ở Đức trong khoảng 5 năm trở lại đây, được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng và dựng phim năm 2013. *** Khúc dạo đầu London, 14 tháng Năm năm 1602 Những con hẻm của Southwark chìm trong bóng đêm, tối tăm và hiu quạnh. Không khí phảng phất mùi rong rêu, cống rãnh và cá chết. Anh bất giác siết chặt tay cô rồi kéo cô đi tiếp. “Lẽ ra chúng ta cứ đi men theo bờ sông. Trong ngõ ngách hỗn độn này người ta không lạc đường mới lạ,” anh thì thào. “Đúng thế, và ở mỗi góc tối đều có bọn trộm cướp và sát nhân rình rập.” Giọng cô vang lên thích thú. “Tuyệt quá phải không? Còn tốt hơn ngàn lần so với việc ngồi làm bài tập về nhà trong bốn bức tường ngột ngạt!” Cô vén chiếc váy nặng và vội vã đi tiếp. Anh bất giác nhếch miệng cười. Lucy quả là có năng khiếu độc nhất vô nhị, lúc nào cũng tìm ra được mặt tích cực của hoàn cảnh. Ngay cả cái gọi là thời hoàng kim của nước Anh đang bị thực tại tăm tối bóc trần vẻ dối trá cũng không khiến cô kinh sợ, ngược lại là đằng khác. “Tiếc thật, chẳng bao giờ mình có hơn ba tiếng đồng hồ,” cô nói khi anh bắt kịp. “Hamlet chắc sẽ hay hơn nếu không phải xem vào nhiều kỳ.” Cô khéo léo né một vũng bùn kinh tởm, ít nhất thì anh cũng mong đó chỉ là bùn. Rồi cô tung tẩy nhảy vài bước và xoay tròn một vòng. “Lý trí đã biến tất cả chúng ta thành những kẻ nhát gan… tài thật, nhỉ?” Anh gật đầu, cố kiềm chế để không nhếch mép cười lần nữa. Anh luôn như thế bên Lucy. Nếu không cẩn thận thì trông anh sẽ như một thằng ngớ ngẩn! Họ đang trên đường tới cầu London. Lẽ ra đi qua cầu Southwark thì tiện hơn, nhưng rủi thay ở thời này nó còn chưa được xây. Nhưng họ phải nhanh chân lên, nếu không muốn cuộc ngang tắt về thế kỷ 17 của mình bại lộ. Trời ạ, nếu có thể lột phăng cái cổ áo trắng cứng đơ này ra thì giá nào anh cũng trả! Nó đâu khác gì cái vòng nhựa đeo quanh cổ lũ chó sau khi phẫu thuật. Lucy rẽ sang con phố đâm ra bờ sông. Có vẻ như đầu óc cô vẫn vấn vương với Shakespeare. “Anh phải cho ông ta bao nhiêu để được phép vào Globe Theatre thế, Paul?” “Bốn đồng xu to, nhưng anh cũng không biết thế là bao nhiêu.” Anh cười. “Có lẽ bằng cả năm tiền lương của hắn.” “Dù sao cũng đạt mục đích. Chỗ ngồi lý tưởng.” Họ đi như chạy đến cầu London. Cũng như lúc đến đây, Lucy dừng lại, ngắm nghía những ngôi nhà xây trên cầu, nhưng anh kéo cô đi tiếp. “Em có nhớ lời ông George dặn không: Hễ dừng chân quá lâu dưới cửa sổ thì sẽ bị giội bô lên đầu đấy,” anh nhắc. “Hơn nữa em còn đánh động làm người ta để ý!” “Không giống như mình đang đứng trên cầu nhỉ, trông chẳng khác gì một con phố bình thường. Ô, anh nhìn kìa, tắc đường! Đã đến lúc họ phải xây thêm vài cây cầu nữa rồi.” Khác với những ngõ hẻm, trên cầu đông nghịt, song đám xe kéo, võng lọng và xe ngựa đi về phía bờ kia sông Thames không nhích lên được phân nào. Xa xa đằng trước vẳng lại tiếng cười nói, tiếng chửi bới, tiếng ngựa hí, nhưng không ai rõ tại sao lại tắc ứ như vậy. Sát bên họ, một người đội mũ đen ngồi trong xe ngựa thò đầu ra. Cổ áo đăng ten trắng hồ cứng của ông ta uốn cong lên tới tận tai. “Không có đường nào khác đi qua con sông hôi thối này sao?” Ông ta gọi vống lên với người đánh xe bằng tiếng Pháp. Gã xà ích lắc đầu. “Kể cả nếu có thì cũng không quay đầu được nữa, ta đang mắc kẹt ở đây! Tôi sẽ chạy lên phía trước xem có chuyện gì. Chắc là sẽ sớm đi tiếp được thôi, thưa ngài.” Người đàn ông gầm gừ bức bối rồi rụt cái đầu đội mũ cùng chiếc cổ áo vào xe, trong khi xà ích đã trèo xuống, cố len qua đám đông nhốn nháo. “Anh nghe chưa, Paul? Người Pháp,” Lucy thì thào háo hức. “Khách du lịch đấy!” “Ừ. Hay thật. Nhưng mình phải đi tiếp, không còn nhiều thì giờ nữa.” Anh nhớ mang máng đã từng đọc ở đâu đó rằng sẽ có lúc người ta phá cây cầu này và xây lại nó ở cách vị trí cũ mười lăm mét. Đây thật không phải một chỗ tốt để vượt thời gian. Họ bám theo gã đánh xe người Pháp. Nhưng đi được mấy bước thì người và xe chen chúc không làm sao chen qua nổi. “Nghe đâu có một xe chở dầu bị bắt lửa,” người đàn bà phía trước họ nói bâng quơ. “Không cẩn thận khéo lại thiêu rụi cả cây cầu mất.” “Theo như tôi biết thì không phải là hôm nay,” Paul lẩm bẩm và tóm tay Lucy. “Đi nào, chúng ta sẽ trở ngược lại và đợi vượt thời gian ở bờ bên kia.” “Anh còn nhớ mật khẩu chứ? Phòng trường hợp chúng ta không tới kịp.” “Hình như cút đi là vừa thì phải.” “Gutta cavat lapidem[1], ngốc ạ.” Cô khúc khích cười ngẩng lên nhìn anh. Đôi mắt xanh của cô lấp lánh phấn khích. Anh sực nhớ Falk đã nói gì khi anh hỏi về thời điểm hoàn hảo. “Anh sẽ chẳng phí sức lảm nhảm. Anh cứ hành động thôi. Sau đó có thể cô ấy sẽ cho chú một cái tát và thế là chú hiểu ngay.” Đương nhiên Falk muốn biết anh ám chỉ ai. Nhưng Paul không mấy hứng thú với những cuộc tranh luận mở đầu bằng “Chú thừa biết những mối quan hệ giữa dòng họ de Villiers và Montrose chỉ nên mang tính công việc!” và kết thúc, “Hơn nữa đám con gái nhà Montrose đều đanh đá, sau này họ đều thành tinh như quý bà Arista cả.” Đanh đá gì chứ! Các cô Montrose khác thì rất có thể, nhưng Lucy thì chắc chắn không. Lucy, người mỗi ngày đều khiến anh càng thêm yêu thương, người được anh tin cậy gửi gắm những điều anh chưa từng nói với bất cứ ai. Lucy, người mà… Anh hít một hơi sâu. “Sao anh đứng lại?” Lucy hỏi, nhưng anh đã cúi xuống áp môi mình lên môi cô. Suốt ba giây, anh lo sợ sẽ bị cô đẩy ra, nhưng dường như cô đã vượt qua được sự bất ngờ và đáp lại nụ hôn của anh, ban đầu dè dặt, rồi mỗi lúc một nồng nàn hơn. Thực ra đây không hề là thời điểm hoàn hảo và thực ra họ đang quá vội, vì bất cứ lúc nào họ cũng có thể vượt thời gian, và thực ra thì… Điều thứ ba thực ra là gì thì Paul quên khuấy. Giờ chỉ có Lucy là tất cả. Nhưng rồi khi ánh mắt lướt qua một bóng người đội mũ tối màu sùm sụp, anh kinh hoàng nhảy lùi lại. Lucy ngơ ngác nhìn anh một thoáng, rồi cô đỏ mặt cúi gằm xuống chân. “Em xin lỗi,” cô ngượng ngùng lẩm bẩm. “Larry Coleman cũng bảo em hôn giống như xát cả vốc phúc bồn tử gai xanh vào mặt người ta.” “Phúc bồn tử gai?” Anh lắc đầu. “Mà Larry Coleman là thằng quỷ tha ma bắt nào?” Giờ thì cô ngơ ngác thực sự và anh cũng chẳng ngạc nhiên. Bằng cách nào đó anh phải cố trấn áp cơn rối loạn đang hoành hành trong đầu. Anh kéo Lucy ra khỏi vầng sáng của những ngọn đuốc, giữ vai và nhìn sâu vào mắt cô. “Nghe này, Lucy. Thứ nhất: Hôn em giống như là… như là… ăn dâu tây. Thứ hai: Anh mà tóm được thằng Larry Coleman đó, anh sẽ đấm dập mũi hắn. Thứ ba: Em hãy nhớ thật kỹ lúc chúng mình dừng lại. Nhưng bây giờ mình đang có một vấn đề nho nhỏ.” Anh lặng im hất hàm về người đàn ông cao lớn đang ưng dung bước ra từ dưới bóng chiếc xe thồ và cúi xuống bên cửa sổ cỗ xe ngựa của người Pháp nọ. Lucy tròn mắt khiếp đảm. “Xin chào, nam tước,” hắn nói bằng tiếng Pháp. Nghe giọng hắn, Lucy bấu chặt tay Paul. “Rất vui được gặp được ngài. Đường từ Flanders tới đây xa thật.” Hắn gạt chiếc mũ trùm đầu xuống. Trong xe vang lên một tiếng kêu thảng thốt. “Tên bá tước mạo danh! Ngươi làm gì ở đây? Sao lại thế này?” “Em cũng rất muốn biết,” Lucy thì thầm. “Ngài chào hỏi hậu duệ của mình như vậy sao?” Người kia vui vẻ đáp. “Dù sao thì ta cũng là cháu nội của cháu nội cháu nội ngài. Và mặc dù ta vẫn thường bị gọi là kẻ vô danh, ta đảm bảo với ngài là ta có tên đàng hoàng. Thậm chí còn nhiều tên là đằng khác. Ngài cho phép ta lên xe hàn huyên chứ? Đứng đây không được thoải mái cho lắm, và cầu còn tắc lâu.” Không cần đợi câu trả lời hoặc ngoái nhìn xung quanh lấy một lần, hắn mở cửa trèo vào xe. Lucy kéo Paul né sang bên, cách xa ánh đuốc thêm hai bước nữa. “Đúng ông ta đấy! Nhưng trẻ hơn nhiều. Chúng ta nên làm gì bây giờ?” “Không làm gì cả,” Paul thì thầm. “Chúng ta đâu thể tới đó chào hỏi! Đúng ra chúng ta không được phép có mặt ở đây.” “Nhưng sao ông ấy lại ở đây?” “Một sự tình cờ ngu xuẩn. Dù thế nào cũng không được để ông ấy nhìn thấy mình. Đi thôi, chúng ta phải tới bờ sông.” Nhưng không ai nhúc nhích. Cả hai cùng nhìn như bị thôi miên vào ô cửa sổ xe ngựa tối mò, cảm thấy còn hiếu kỳ hơn cả khi nhìn lên sân khấu Globe Theatre ban nãy. “Trong lần gặp trước, ta đã nói rõ cho ngươi biết ta nghĩ gì về ngươi,” giọng nam tước người Pháp vọng ra từ trong xe. “Ồ, đúng là ngài đã làm thế thật!” Tiếng cười khẽ của vị khách khiến Paul nổi da gà, dù anh không nói được vì sao. “Quyết định bất di bất dịch!” Nam tước hơi lạc giọng. “Ta sẽ giao cỗ máy ma quái đó cho bên liên minh, bất kể các ngươi có dùng mưu ma chước quỷ nào để ngăn cản ta. Ta biết ngươi cùng hội cùng thuyền với quỷ dữ.” “Ông ta nói thế nghĩa là sao?” Lucy thì thầm. Paul chỉ lắc đầu. Lại một tiếng cười khẽ vang lên. “Cụ tổ cạn nghĩ và mù quáng của ta ơi! Cuộc đời của ngài - và cả của ta - sẽ thảnh thơi biết bao nếu ngài chịu nghe ta thay vì nghe lão giáo chủ hay những kẻ cuồng tín đáng thương bên liên minh. Giá mà ngài biết dùng trí tuệ thay vì chuỗi tràng hạt, giá mà ngài nhận thức được rằng vai trò của mình còn lớn hơn những gì cha cố của ngài giảng giải.” Có vẻ như nam tước kia đọc “Kinh Lạy Cha” thay cho câu trả lời. Lucy và Paul chỉ nghe thấy ông ta khẽ lẩm bẩm. “Amen!” Người khách thở dài. “Vậy đây là lời cuối của ngài về chuyện này?” “Ngươi là quỷ dữ hiện hình!” Nam tước thốt lên. “Ra khỏi xe ngay và đừng bao giờ xuất hiện trước mắt ta.” “Tùy ngài thôi. Vậy chỉ còn một việc nhỏ. Lâu nay ta chưa nói ra vì không muốn khiến ngài lo lắng không cần thiết. Nhưng chính mắt ta trông thấy trên mộ ngài ghi ngày mất là 14 tháng Năm năm 1602.” “Nhưng đó là…” Nam tước nói. “… hôm nay, chính xác. Từ giờ tới nửa đêm cũng không còn dài.” Một tiếng khò khè vang lên từ phía nam tước. “Ông ấy đang làm gì thế?” Lucy thì thào. “Ông ấy đang phá vỡ luật lệ của chính mình.” Paul nổi da gà tới tận gáy. “Ông ấy nói về…” Anh ngừng bặt vì cảm giác nôn nao quen thuộc lan truyền trong lòng dạ. “Xà ích của ta sẽ quay lại ngay,” nam tước nói, giọng lúc này đã lo sợ thực sự. “Ừ, ta cũng biết thế,” Vị khách đáp khá thờ ơ. “Thế nên ta cũng đang vội đây.” Lucy áp tay lên bụng. “Paul!” “Anh biết, anh cũng cảm thấy rồi. Chết tiệt… Phải chạy thôi, nếu không chúng ta sẽ rơi xuống sông mất.” Anh tóm lấy tay cô kéo đi, thận trọng không để lộ mặt về phía cửa sổ xe ngựa. “Lẽ ra ngài mất tại quê nhà, do một trận cúm đáng ghét biến chứng,” Họ nghe thấy tiếng người khách trong lúc len lén đi qua. “Nhưng hiện giờ ngài lại đang có mặt ở London với sức khỏe dồi dào - nói cho cùng là nhờ những lần thăm hỏi của ta - nên đã có gì đó bị lệch lạc nghiêm trọng. Là con người chu đáo, ta thấy phải có trách nhiệm giúp Thần Chết một tay.” Paul đang mải quan tâm đến cảm giác nôn nao trong dạ và nhẩm tính xem còn bao nhiêu mét nữa là tới bờ, thế nhưng ý nghĩa của những lời nói kia len lỏi vào tâm thức khiến anh khựng lại. Lucy khẽ huých vào sườn anh. “Chạy đi!” cô kêu lên rồi vùng chạy. “Chỉ còn vài giây nữa thôi!” Anh cố nhấc đầu gối bải hoải, và trong lúc chạy, khi bờ sông gần kề bắt đầu nhòe đi trước mắt, anh nghe thấy từ trong xe vọng ra một tiếng thét rùng rợn cố nén, tiếp theo là tiếng khò khè: “Quỷ dữ!” - rồi chỉ còn sự im lặng chết chóc. Mời các bạn mượn đọc sách Lam Ngọc của tác giả Kerstin Gier & Đỗ Phương Thùy (dịch).