Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhà Chử

Tái hiện truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung. Câu chuyện dân gian về chàng trai nghèo Đồng Tử và cuộc gặp gỡ định mệnh trên bãi Tự Nhiên với nàng công chúa con Vua Hùng được kể lại sinh động và nhiều cảm xúc. *** Tô Hoài (tên khai sinh: Nguyễn Sen; 27 tháng 9 năm 1920 – 6 tháng 7 năm 2014) là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.   Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc. Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi. *** Chiếc độc mộc cứ trùi trũi truồi xuôi. Nhập nhoạng tối, về đến một quãng sông êm ả. Chử nằm ngủ, ghếch đầu lên mạn thuyền. Suốt đêm ấy đẫy giấc. Đã qua những vùng lủa tủa đá lẫn với sóng. Không cần phải thấp thỏm đâm vào đá thác. Bỗng nhiên, đương hây hẩy gió may, chuyển ra gió giật. Giữa ban ngày, nổi bão cạn. Trời tạnh mây mà đùng đùng, ù ù như sấm rền. Hai bên sông, gió hung hăng bốc bay từng mảng rừng. Dòng nước đương miên man, chợt nổi từng con sóng úp, sóng ngửa cao bằng đầu, rồi xoáy sâu xuống sâu tròn lông lốc. Thuyền quay veo veo như chiếc lá tre được gió. Chử nhỏm dậy. Lật đật, chân chèo, chân lái, chân đốc, chân mũi. Không lại. Cái độc mộc như cây gỗ lăn xoay chong chóng. Chử đành nằm bám sạp thuyền, mà vẫn lúc lắc, điên đạo. Bụng xoắn lại, nảy đom đóm mắt. Bão cạn ba hôm liền. Rồi lại chui vào một vùng trời nước phẳng lặng như không. Ngày ngày ròng rã, ngẩng mặt lên, chỉ thấy xa xa một khoảng đất lở cách quãng viền cây xanh mờ. Chử đoán đất dễ thường là bến. Chử tạt độc mộc vào. Cái bến vắng chơ vơ không có cả đến một đàn le le hay lặn hụp bắt cá măng quanh thuyền quanh lưới ở những quãng thường có người lội. Mấy nhà chài đương co ro đẩy mảng vào trong đồng xa. Chử gọi lại hỏi mới biết từ dạo vỡ nước, cả bến đã chạy vào chân núi. Nhưng cũng hỏi thăm được. - Đã đến bến Tự Nhiên chưa, chư ông ơi? - Ở đây cũng chỉ mang máng nghe có người nói cứ xuôi đến hôm nào gặp vòng trăng tròn, hẵng hỏi thăm nữa. Còn xa. Chử lại lặn lội trên dòng sông quằn quại đỏ xuộm. Có hôm thuyền va phải xoáy trôi vào vùng nước quẩn. Sóng múa lên bốn phía, đánh thuyền lật mai. Chử tuồi xuống nước, ngoi theo thuyền. Rồi tay chân quặp bụng thuyền, như ôm cây gỗ. Mặc cho sóng dìm xuống, nhồi lên. Người và con thuyền chìm nổi quanh những làn sóng bầm đỏ, dài dằng dặc. Chẳng còn thấy bờ phía nào. Không đạp ra khỏi được lớp sóng quẩn. Không nhìn đâu ra có cái ăn. Chợt thấy lao xao, bàng bạc như cá đàn lượn qua. Rồi sóng lại oà đi. Đấy là những cánh sóng chen nhau, không phải cá. Chử buộc chão ngang lưng rồi lặn xuống. Hoạ may đáy sông tĩnh mịch, có con ốc nhồi, ốc tai voi... Nhưng cũng chỉ thấy bóng nước vàng mờ trong mắt. Cánh bãi ngập nước, những dây rợ cây hẹ nước, đám ngổ cạn, búi cói hoa mới chìm xuống, cá không vào đến đây. Mà giả thử có lạc loài bọn cá nào đến tìm ăn, thì những con lềnh đềnh to bằng chiếc thúng úp trắng bạch trên mặt nước, đôi mỏ dài như cặp đũa cả chăm chắm chúc xuống rình khua khoắng, không một nhách cá thoát nổi. Chử lại phải ngoi lên, lật mai, bò vào lòng thuyền, ngồi thở hồng hộc. Một lúc sau mới thuần mắt, nhìn ra. Nước lên đã ngập tận chân núi trước kia. Khác hẳn trên ngược, dòng chảy rúc vào gờ đá, mất hút vào đá, ở đây chỉ thấy mênh mang. Những con nước đuổi nhau, đè lên nhau, như những đàn ngựa, đàn voi đỏ thẫm chồm dựng đứng. Chử định thần nhìn kỹ bờ núi. Nhưng bơi vào, xa quá. Biết đâu chẳng lạc sang dòng khác. Những con nước đã tràn khắp nơi, nhoà hết các ngả sông, cửa sông rồi. Có chắc được phía nước cờn kia là triền sông Cái? Mà phải ra sông Cái, phải bám được sông Cái mới khỏi lạc. Cho đến hôm nào thấy được trăng lên. Chử định thần nhìn kỹ bờ núi. Nhưng bơi vào, xa quá. Biết đâu chẳng lạc sang dòng khác. Những con nước đã tràn khắp nơi, nhoà hết các ngả sông, cửa sông rồi. Có chắc được phía nước cờn kia là triền sông Cái? Mà phải ra sông Cái, phải bám được sông Cái mới khỏi lạc. Cho đến hôm nào thấy được trăng lên. Cái thuyền chỉ còn là cây gỗ trôi sông, thỉnh thoảng Chử thò tay ra đẩy tránh ngọn sóng. Đôi khi, chợt thoáng thấy một con vờ, một con cá lành canh, Chử quơ nắm lấy, đưa lên miệng nhai cho đỡ đói lòng. Chẳng còn biết kén chọn cá mú thế nào. Có lúc vớ nhầm, nuốt vội cả đám bọt rêu rễ cây sam nước. Thình lình, một ngọn sóng ập xuống. Chiếc độc mộc ngược lên ngang lưng sông rồi đổ xuống. Nhưng Chử đã biết quấn chão quanh bụng người, bụng thuyền từ hôm xuống đợt thác đầu tiên. Độc mộc lại úp mai xuống. Sóng phá dữ quá, không lật lên được. Chử đành lại ngâm mình trong nước, toài hai chân ếch, nhào ra. Cả người và chiếc độc mộc hũm xuống, lọt thỏm vào xoáy lũ mới. Có đến mấy ngày đêm mới trở ra được dòng cả. Sóng không lôi độc mộc trôi quanh nữa, mà người và thuyền vừa chạm vào mép sóng, đã bị nước xiết cuốn vun vút. Nước vẫn đương lên ào ạt, chẳng trông thấy bờ bến nào hai bên. Suốt đêm, Chử bơi bám thuyền, mắt mở căng. Giữa dòng bao la, có mỗi một con người và một cây gỗ. Nếu như nước thong dong bình thường, Chử chỉ việc làm như mọi khi. Lật cái độc mộc lại, chúm tay tát nước ra, lòng thuyền đã khô ráo cho người ngồi. Nhưng con nước đương hung hăng. Chử và cái độc mộc đành úp sấp, lăn lộn trong dòng nước lớn. Người bám vào cây gỗ rỗng, như con nhái bén, lao lên lao xuống. Trông ra trước mặt, cả sau lưng, cả hai bên mông mênh. Nhưng, như thế, Chử lại vẫn yên tâm. Dòng chảy xiết, cá sấu không thể đuổi theo. Giả thử có đánh hơi được mùi người cũng không làm gì nổi. Nhưng còn con giải, con thuồng luồng - những giống trăn nước ấy không sợ sóng, toài nhanh hơn sóng. Không thể trằm mình dưới nước mãi, để làm mồi cho giải, cho thuồng luồng. Ngồi trong độc mộc, Chử có thể rút dao lưng ra đâm thủng đầu cả thuồng luồng, cả giải. Lội trong nước thế này, vướng víu như chân tay phải trói, không đối phó được. Nhưng mà cơn nước đương triền miên lên, cũng không biết ra sao. Chử trông quanh quất, rồi lôi độc mộc rẽ sóng tạt về một bên. Đến chỗ nước phẳng, sóng lớn chưa xô tới, Chử đội độc mộc lên rồi lật ngược, với tay té ù nước ra, nhảy vào thuyền. Mặt trời lên đóng giữa đỉnh đầu, trông thấy một vệt xanh xanh bên mép nước trước mặt. Chử khoả hai tay, cắm cúi bơi dấn về phía ấy. Nhược lắm rồi. Cứ lên bờ ẩn, đợi cho cơn nước nguôi rồi mới lại tính chuyện đi nữa được. Mà phải kiếm ra cái ăn. Vào nơi ẩm thấp cũng dễ kiếm. Ở bùn, có ếch, có chạch, có ốc hương, có trai. Trong bụi cây niễng có rắn hổ mang, hổ lục, hổ bành - những thứ ấy đều ăn ngon. Chỉ ngại nơi đầm lầy cá sấu thường ra núp rình mồi dưới bùn, khó nhìn ra. Nhưng Chử đã có con dao vẫn giắt trên vành dây khố. Phải, nghỉ cái đã. Hôm nào nước lặng, hẵng đi, đi cho đến hôm nào gặp trăng lên. Ồ mà quên hôm trước không hỏi kỹ người bến trên. Một vòng trăng hay mấy vòng trăng. ° ° ° Bến Tự Nhiên! Bến Tự Nhiên! Bến Tự Nhiên ở đâu? Những ngày còn lên năm, lên bảy, bố mẹ thường kể chuyện về bến quê. Chử mơ màng tưởng cái bến Tự Nhiên ở trên khoảng trời cao xanh, chỗ bóng gốc cây đa giữa mặt trăng. Đến năm mười ba, mười lăm, trong câu chuyện về bến Tự Nhiên của bố mẹ, Chử nhìn thấy một vùng sông bãi, phía nào cũng đông đúc đêm ngày thuyền bè vào bến ra bến, trên bờ đợt đợt nhấp nhô những mô cát vàng lẫn phù sa trắng hồng. Xa nữa, xanh rờn bãi ngô, bãi khoai lang, củ từ, những bãi lúa và những bụi chuối ken khít thành rừng. Vào mùa chuối chín, chim các nơi bay về liền cánh, rợp cả trời bến. Những đàn gấu, đàn voi trong rừng sâu lũ lượt kéo ra bẻ chuối. Rồi Chử lại nghe lời bố mẹ tha thiết: - Con ạ, ông con vẫn ở bến Tự Nhiên dưới kia. Chử hỏi: - Ông ở bến quê với ai? - Ông ở một mình. Chử chưa bao giờ được gặp ông, lại tưởng tượng ra như đã nhìn thấy ông. Tóc ông Chử bạc xoá, lơ thơ trên hai vai lực lưỡng. Mặt ông Chử đỏ bồ quân. Ông Chử vác cỗ lưới đay. Ông Chử xách chiếc bê chèo, bước xuống thuyền. Con thuyền đánh cá rời bến, thả ra giữa trời nước lồng lộng. Gió bay, râu tóc ông Chử càng trắng phơ. Bố Chử nói: - Ngày trước, cả nhà ta đều ở bến dưới ấy. Đời con người trên sông nước, mặt trời mọc ở một nơi, đến lúc mặt trời lặn đã lại đổi bến khác, lại khi sớm tối chống sào đẩy thuyền đi thì sao đã đổi ánh. Nhọc nhằn thế chỉ vì cả đời đuổi theo con cá, con mú, không lúc nào ở yên, mà vẫn chưa biết đến chỗ nào cùng. Nhưng ông nói: có khó nhọc mới biết bay nhảy, thế mới là đời người, các con ạ. Bố trò chuyện với mẹ: mới sinh ra đã đi đường nước rồi, song vẫn chưa tường dòng chảy này có bao nhiêu ngọn nguồn đổ vào nhau thành sông Cái, con sông Cái từ đâu đến đây. Ờ nhỉ, phải rồi, dẫu cho trong thế gian có nơi nước dữ nước hiền khác nhau, nhưng nơi nào cũng có cá, có tôm, chúng mình hãy đi dò xem cho biết tận gốc con nước này. Mẹ tần ngần nhìn ra cửa bến, rồi nói: vợ chồng ta hãy đi hỏi ông. Mời các bạn đón đọc Nhà Chử của tác giả Tô Hoài.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Bác Học Mù - Lê Mai
Gián điệp là người đi thu lượm tin tức một cách bí mật khiến người bị theo dõi không biết rằng mình đang bị theo dõi. Yếu tố quan trọng của gián điệp là hoạt động bí mật vì nếu người bị theo dõi khám phá ra thì họ sẽ tìm cách thay đổi môi trường để không bị lộ mật. *** Một lần chót, Lệ Lan kiểm điểm lại mọi vật dụng và thực phẩm đựng trong một túi lớn được đan bằng sợi ni lông, rồi tắt lửa trên bếp hơi và ra khỏi phòng. Nàng khóa cửa rồi đứng nhìn đám trẻ nhỏ ngoài đường đang chạy đua ra bãi biển. Lúc đó chồng nàng là Yên Lịch vẫn mãi mê thảo luận với bác sĩ Giang Điền trong phòng khách. Đã ba tuần, Yên Lịch không ra khỏi nhà, chàng phải giam mình cả ngày lẫn đêm trong phòng nghiên cứu. Bác sĩ Giang Điền - y sĩ trưởng của Trung Tâm, đã nhiều lần thúc giục chàng nên đi hóng gió ngoài trời vài ba giờ. Mãi tới hôm nay Yên Lịch mới bằng lòng đi. Lợi dụng khoảng thời gian trống trong khi chồng nàng và Giang Điền chưa chấm dứt câu chuyện, Lệ Lan trong bộ trang phục thể thao ngắn gọn, đứng soi gương coi lại cách trang điểm của mình - đó là động tác thông thường của bất kỳ thiếu phụ nào, nhất là đối với một người trẻ đẹp và duyên dáng như nàng. Lúc ấy, tiếng bác sĩ Giang Điền lọt ra khỏi phòng khách: - Tôi không cho điểm ấy là quan trọng hơn hết. Vũ trụ tuyến là vấn đề sinh tử phải giải quyết. Lớp vỏ ngoài bằng nhôm của hỏa tiễn không đủ sức chống lại vì quá mỏng. Cần phải đặt những tấm bình phong bằng thép dày 5 xăng ti mét hay hơn nữa. Yên Lịch đáp: - Không được! Như vậy hỏa tiễn sẽ trở nên quá nặng. - Dĩ nhiên! Nhưng từ độ cao 30 ki lô mét trở lên, người nào không được trang bị thật đầy đủ và kỹ càng để che chở thân thể thì sẽ chết, vì trên đó sức tấn công của vũ trụ tuyến mạnh gấp 25 lần sức chịu đựng trung bình của cơ thể. Phải sớm tìm ra một giải pháp cho vấn đề trước khi chế tạo một "hành tinh nhân tạo" chở người theo. Yên Lịch cười rộ và tiếp lời bạn bằng một giọng khôi hài: - Dạ, thưa bác sĩ! Chúng tôi còn ở giai đoạn chế tạo một "Nguyệt cầu tí hon" không đủ sức và không có chỗ để mang theo một con mèo. ... Mời các bạn đón đọc Nhà Bác Học Mù của tác giả Lê Mai.
Mối Chúa - Đãng Khấu
Thông qua cuộc tìm kiếm li kỳ nhân vật quyền lực đứng đằng sau tất cả các dự án động trời, các hợp đồng béo bở, tiểu thuyết Mối Chúa tái hiện những vấn đề nóng bỏng của xã hội đương thời: công nghiệp hóa và sự tan vỡ của nông thôn, hình ảnh những bố già quyền lực, thế lực bóng tối, lòng tham và sự bất chấp pháp luật, đạo lý, thân phận của những người nông dân thấp cổ bé họng… Những trang văn trần trụi của tác giả không khỏi mang lại cảm giác ớn lạnh và chua chát, và đặt ra câu hỏi: chúng ta có thể làm được gì? *** Kính cẩn tưởng niệm: Ba mươi năm ngày mất của Bà nội Hai mươi năm ngày mất của Mẹ Mười lăm năm ngày mất của Bố Và để kính lễ Đức Ngài linh thiêng, người luôn trở lại thế gian trong những giấc mơ của tôi. Lời tác giả cho lần xuất bản đầu tiên Từ bé tôi luôn đau khổ với cái tên Đãng của mình. Cô giáo chủ nhiệm hồi tôi học lớp năm thì bảo tôi có một cái tên khi gọi thấy đau hết cả miệng! Nó luôn bị biến thành Đăng, thành Dũng, ngay cả khi tôi đã cẩn thận đánh vần cho người gọi, người đọc, người chép nào đó từng âm tiết một, nói rõ luôn cả dấu ngã. Vậy mà có tới 99 phần trăm sau đó vẫn cứ nhầm! Nhưng nếu chỉ thế thì cũng chưa phải quá bi kịch. Tôi suýt còn gặp nạn lớn chỉ vì cái tên có âm trúc trắc đó. Tôi đã kể điều này trong một bài viết có đầu đề Nhớ lại để cười, thuật lại căn nguyên ra đời của truyện ngắn Người khác đầy tai ương. Đôi khi tôi nghĩ, đời mình khốn nạn ngay từ cái tên. Muôn sự chỉ tại bố. Bố tôi là người luôn muốn sơ lược hóa tối đa mọi chuyện. Đặt tên con, có gì mà phải cầu kỳ, khi nó chỉ như một thứ ký hiệu để gọi và phân biệt người này với người kia. Tên anh họ tôi là Vinh, ra đời trước mấy tháng, thì tên anh ruột tôi còn phải chọn đâu xa mà không là Quang (Vinh Quang), sau Quang là Đãng (Quang Đãng), quá thuận miệng và dễ nhớ. Chấm hết. Chả cần phải mang theo nghĩa bóng nghĩa gió nào cả. Nào ngờ, khi đọc bộ Lịch sử triết học Trung Quốc của Phùng Hữu Lan, tôi sướng phát điên khi thấy cái tên mình, khô khốc và khó phát âm thế, hóa ra cũng có nghĩa nếu luận theo tiếng Hán. Đãng, được Phùng Hữu Lan giải thích là trừ hại. Ô kìa, chả lẽ chó ngáp phải ruồi là chuyện có thật! Một cái tên đặt cốt cho có, hoàn toàn ngẫu hứng dựa theo một cái tên khác, lại mang một ý nghĩa không đến nỗi nào. Từ đó tôi cứ thấy âm ỉ một thứ khoái cảm rất trẻ con. Nhưng phải mới đây, nhờ Cục xuất bản in và Phát hành, tôi mới nhận ra giá trị hiển nhiên của cái tên bố đặt cho, gọi là tên cúng cơm. Cục nhắc Nhà xuất bản bằng một công văn có số má đàng hoàng [1], yêu cầu Nhà xuất bản nghiêm khắc nhắc tôi không được tiếp tục dùng cái tên Tạ Duy Anh khi ký biên tập, mà nhất định phải là Tạ Viết Đãng, như ghi trong chứng chỉ hành nghề. Đã là luật thì không có chuyện du di, chiếu cố. Vốn cũng là người thượng tôn pháp luật có phần còn thái quá, bản tính lại nhát, tôi răm rắp chấp hành mà không dám có ý kiến gì. Thế là bạn bè bắt buộc phải làm quen với cái tên Đãng bị chính tôi biến thành ra lạ hoắc với cuộc đời chả ra gì của mình. Để chuộc lỗi bất kính với cụ thân sinh, đồng thời cho bạn bè thấy, rằng cái tên Đãng cũng xứng đáng là cái tên đặt cho người, chứ không chỉ là một ký hiệu vô hồn, tôi quyết định lấy tên cúng cơm của mình, ghép thêm chữ Khấu, thành Đãng Khấu, làm tên tác giả cho lần in đầu tiên của cuốn sách này, vốn được viết để tưởng niệm ông bà hai bên, bố và mẹ, gọi là báo đáp công sinh thành, dưỡng dục, che chở, phù trợ của các cụ. Ngoài chút tình riêng ấy, chẳng vì bất cứ điều gì khác. Nay xin kính báo bạn đọc xa gần và mong mọi người rộng lòng thứ lỗi cho sự rắc rối không do cố ý này. Hà Nội tháng 3 năm 2017 Đãng (Tạ Duy Anh) [1] Công văn số 102/CXBIPH-QLXB ngày 19 tháng 02 năm 2016. Mời các bạn đón đọc Mối Chúa của tác giả Đãng Khấu.
Lệ Dung - Nguyễn Công Hoan
Độc giả thân mến. Nhắc đến Nguyễn Công Hoan, chắc Quý Vị không còn xa lạ gì nhà văn ấy. Trong thời tiền chiến, ai mà chẳng đọc qua các quyển: Tắt lửa lòng, Bước đường cùng, Tấm lòng vàng, Cô giáo Minh, Trên đường sự nghiệp, Lệ Dung, Nợ nần, Bơ vơ, v. v... Hơn nữa, một số tác phẩm của ông đã được và Đoàn Kịch nghệ nổi tiếng thời ấy phóng tác thành tuồng cải lương, lưu diễn từ Nam chí Bắc và được đồng bào các giới tán thưởng nồng nhiệt! Ông sáng tác đủ mọi chiều hướng: Trữ tình, Xã hội, Tranh đấu, Giáo dục,... nhưng có một điểm nổi bật hơn hết là mỗi tác phẩm của ông đều mang một sắc thái đặc biệt... đánh dấu một bước tiến mới cho bộ môn tiểu thuyết thời ấy. Nhưng, từ 20 năm qua... những tác phẩm của ông hầu hết bị thất lạc, bị mai một vì nạn Đất Nước qua phân! ... cho đến bây giờ, một số tác phẩm của ông đã được tuyển chọn làm Tài liệu Tham khao Văn chương cho Chương trình Đại học Văn khoa. Vì vậy, để giúp cho các sinh viên Đại học có đầy đủ tài liệu tham khảo cũng như sưu tập và bồi dưỡng lại những áng văn hay của nền văn học nước nhà, chúng tôi cho tái bản một số tác phẩm chọn lọc của ông. Ngoài ra, nhắc và nói đến ông, chúng tôi không vì mục đích chính trị hay một tham vọng nào khác. Ở đây, chúng tôi chỉ nhắc và nói đến ông: con người Nguyễn Công Hoan của thời xa xưa chứ hiện tại, ông là một nhà văn đang phục vụ cho chính quyền Miền Bắc thì, dù muốn dù không, ngòi bút của ông cũng không thể phục vụ thiết thực và hữu ích cho nền văn học hiện đại. Và, sống dưới chế độ đảng trị, với lối suy tưởng một chiều, chúng ta không tin rằng ông sẽ sáng tác được những tác phẩm tương đối có một tầm giá trị sâu rộng; và được quần chúng ưa chuộng như những tác phẩm mà ông đã sáng tác trong thời Tiền chiến. Saigon, ngày 1 tháng 4 năm 1967. *** Tiểu thuyết xoay quanh bốn số phận khác nhau, đáng thương và đáng trân trọng. Lệ Dung trong truyện cùng tên, là cô con gái xinh đẹp, may mắn sống trong sự giáo dục chu đáo của gia đình và nền học vấn tiến bộ. Cô có một tình yêu đằm thắm với người bạn học Liêm Khê. Nhưng đến ngày cưới thì Liêm Khê bị bắt, để lại Lệ Dung với nỗi buồn đau tuyệt vọng, không tin tức. *** Hai năm sau. Vào ngày cuối tháng Một, nhà ông Tú có một quang cảnh vui vẻ, ngày vu quy của Lệ Dung. Nàng kết hôn với Hải Ngọc. Từ ngày Hải Ngọc chữa cho ông Tú khỏi bệnh thương hàn, thì chàng đi lại nhà ông thân mật hơn trước. Có một lần, ông đã về chơi quê chàng. Ông Tú quý chàng và yêu chàng, nên coi chàng như người nhà. Lại thấy chàng cũng là con nhà nho, nên có lần ông nói chuyện riêng với bà rằng: - Giá anh ta hỏi con Lệ Dung, thì dù con bé không bằng lòng, tôi cũng ép. Nhưng ông không phải ép tí nào. Vì chính Lệ Dung cũng đã hiến trái tim cho chàng từ lâu. Hai người tha thiết yêu nhau trong ngót một năm, yêu nhau bẳng tấm tình của người lớn, và cùng hẹn nhau là khi nào tòa báo có cơ sở vững vàng, hãy làm lễ thành hôn. Thì đến nay, Hải Ngọc đã trở nên một kiện tướng ... Mời các bạn đón đọc  Lệ Dung của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Giọt Máu Chung Tình - Tân Dân Tử
Giọt máu chung tình viết về tình yêu chung thủy, son sắt của cặp trai tài, gái sắc. Võ Đông Sơ là con trai của Hoài Quốc công Võ Tánh (một danh tướng thời Nguyễn), còn Bạch Thu Hà là tiểu thư con quan tổng trấn Bạch Công. Cặp trai anh hùng, gái thuyền quyên gặp rất nhiều trắc trở để có thể đến với nhau. Khi họ đã có thể hẹn ước chung tình, sau đó vẫn vấp phải quá nhiều sóng gió. Anh trai của Bạch Thu Hà là Bạch Xuân Phương vốn là một công tử độc ác, ghen ghét, đố kỵ với Võ Đông Sơ, tìm nhiều cách hãm hại anh. Khi Đông Sơ được phong làm Đô úy, lãnh quân đi dẹp giặc Tàu ô, ở nhà, Bạch Thu Hà bị gia đình bắt phải lấy một tên vô lại vốn là bạn của Bạch Xuân Phương. Thu Hà trốn nhà, phiêu bạt đi tìm người yêu. Thân gái dặm trường gặp bao trắc trở, cám dỗ, Thu Hà vẫn quyết tìm cho được Đông Sơ. Trùng phùng chưa được bao lâu, Võ Đông Sơ lại nhận lệnh cầm binh lên Lạng Sơn đánh giặc xâm lăng. Chiến trường khốc liệt, trải qua nhiều trận đánh, Võ Đông Sơ tử trận. Bạch Thu Hà nhận tin khóc thảm thiết. Bên linh cữu Võ Đông Sơ, nàng quyên sinh để giữ trọn chung tình. Ngay khi ra mắt, Giọt máu chung tình trở thành một tác phẩm ăn khách. Cuốn tiểu thuyết có đời sống phong phú khi lần lượt được chuyển thể, tạo cảm hứng cho những tác phẩm nghệ thuật khác ra đời, trở nên nổi tiếng. *** Xưa nay những nhà văn chương hễ có xúc cảnh quan tình thì hay ngâm thi vịnh phú, hoặc đặt ra những trường thiên đoản cú, cho đặng tỏa cái tình tứ ức uất ưu sầu. Song các sách ấy, duy tiểu-thuyết là một truyện có tình-tứ cao xa, có tư tưởng rộng rãi hơn hết, chẳng những đọc đến thì đặng khiển muộn tiêu sầu mà thôi, lại cũng đặng mở mang trí thức thêm nữa. Vì vậy trong lúc mưa Âu gió Mỹ, thời đợi văn-minh nầy, tiểu-thuyết cũng đặng chiếm một địa vị cao đẳng, để làm phương châm mà chỉ vẽ những việc phải quấy của thế thới nhơn tình ; và làm cái gương khuyến trừng cho đám dân đoàn xã-hội. Nên những nhà tiểu-thuyết đại danh bên Tây-Âu, và các tay Hồng nho danh sĩ bên Đông-Á, mỗi năm xuất bản cũng đã sa số hằng hà. Như : Victor Hugo, Alexandre Dumas là nhà tiểu-thuyết đại danh bên Pháp-quốc ; như Bồ-tòng-Linh, Trần-Cầu là nhà trước tác đại danh bên Trung-Hoa. Còn Việt-Nam ta thì có Nguyễn-Du, Nguyễn-đình-Chiểu, và các ông khác nữa. Những truyện sách của các ông ấy, để đến ngày nay hãy còn miệng thế nhắc nhở bia truyền, người tuy mất mà phương danh chẳng mất. Nay Tân-dân-Tử đại nhơn ra quyển tiểu-thuyết nầy chẳng phải dám đối với các bực tiền triết trên đây, song nhơn lúc phong triều tiểu-thuyết đã phấn phát nơi cõi Á-Đông nên đem sự tích của một công-tử là con của một vị tướng quân đã vị quốc vong xu trong lúc Hoàng-triều Gia-Long phục nghiệp, ngõ đặng xem đến sự tích công-tử, thì nhớ tới lịch sử của tướng quân ngày xưa, cho khỏi tiếng mai một những người anh-hùng trong xứ sở. Quyển tiểu-thuyết nầy dùng theo thể cách Tây-Âu mà bố trí một sự tích hoàn toàn ước gần hai trăm trương, đem những sự tử biệt sanh ly của gái sắc trai tài, mà diễn nên một pho tình sử, rất thanh tân tao nhã, như mấy lối bi tình thảm trạng, cũng khiến cho kẻ đọc xót dạ, mà ủ mặt châu mày ; như mấy cơn hân hạnh kỳ phùng, cũng khiến cho người xem được vui lòng, mà chơn xoan tay múa. Vậy nếu quyển tiểu-thuyết nầy, may mà đặng hậu thế ham mộ ban hành, và đem mà khai diễn nơi các võ-đài trong xứ ta thì cũng chẳng khác chi truyện sách của các đứng tiền triết trước đây, chừng ấy cái danh dự của tác-giả có lẽ cũng đặng chút thơm rơi trong đất Việt. Thủ-đức Châu-sơn : NGUYỄN-ĐĂNG-CAO Mời các bạn đón đọc Giọt Máu Chung Tình của tác giả Tân Dân Tử.