Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mục Dã Quỷ Sự

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuyên Gia Giải Mã Giấc Mơ Ở Giới Giải Trí
VĂN ÁN: Sau khi tỉnh lại, bạn có còn nhớ những gì đã diễn ra trong giấc mơ của mình không? Mơ thấy ác mộng, mộng xuân, mơ về tương lai, giấc mơ lặp lại, mơ trong mơ… Giấc mơ của hung thủ lẫn người bị hại đều cất giấu vô số bí mật không muốn người ngoài biết. MC: Gần đây Ngô ảnh đế vừa quay xong một bộ phim, anh có lời nào muốn nói không? Ngô ảnh đế: À, tôi muốn mời Cơ Thập Nhất giải mã giấc mơ. MC chương trình: Lâm ảnh hậu, cô định tấn công sang ngành điện ảnh nước ngoài, kế hoạch tiếp theo của cô là gì? Lâm ảnh hậu: Tôi dự định sẽ mời Cơ Thập Nhất giải mã giấc mơ. Trương thiên vương: Thật trùng hợp, tôi cũng vậy. Cơ Thập Nhất: Thờ ơ. Nhân vật chính: Cơ Thập Nhất, Tô Minh Chu. Câu giới thiệu vắn tắt: Phá án thông qua việc giải mã giấc mơ, có chút hồi hộp. *** GIẢI MỘNG SƯ Ở GIỚI GIẢI TRÍ Tác giả Khương Chi Ngữ Thể loại ngôn tình,3s,hiện đại,huyền huyễn, xuyên không,thần quái,showbiz,he,... Nhân vật Tô Minh Chu×Cơ Thập Nhất 186 chương/hoàn Mọi cuộc gặp gỡ trên đời đều có lý do của nó. Dù có hợp tan chóng vánh hay sẽ là cầu nối làm sát gần hai số phận, ta sẽ chẳng thể biết trước, cũng chẳng có cơ may được chọn lựa. Chỉ biết rằng, hữu duyên mới nên nỗi tương ngộ.   Tô Minh Châu và Cơ Thập Nhất gặp gỡ và quen biết nhau trong cô nhi viện. Có lẽ ta sẽ thấy đây cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ hết sức bình thường, chẳng có sự trùng hợp hay ngẫu nhiên nào ở đây cả, bởi lẽ, họ đều là những đứa trẻ trưởng thành trong cô nhi viện.   Gặp nhau một lần, hai lần hay ba lần thì cũng đành thôi, ta vẫn có thể xem đó là tình cờ, là ngẫu nhiên, nhưng dần dà, số lần họ gặp nhau cứ ngày một tăng dần lên, cậu thiếu niên Tô Minh Châu cũng dần ỷ lại vào cô.   Vốn dĩ họ sẽ như hai đường thẳng song song chẳng có lấy một giao điểm nào, ấy vậy mà, chẳng hay con đường nào dẫn lối, để họ được trở thành “người thân” của nhau.   Thuở niên thiếu, Tô Minh Châu không có nhà, anh cũng chẳng có gia đình, rồi Cơ Thập Nhất đã đến, cô trở thành nhà, thành gia đình của anh.   Cơ Thập Nhất bảo vệ Tô Minh Châu khỏi bị ức hiếp bởi mấy cậu nhóc choai choai “đầu gấu” trong cô nhi viện, cô cho Tô Minh Châu vài chiếc bánh nhỏ để khỏa lấp cơn đói cồn cào đang bủa vây anh. Anh không chỉ được cô bảo vệ, mà ở cô, anh còn nhìn thấy ánh sáng của hy vọng, ánh sáng của tương lai. Cứ thế, cô trở thành sắc màu rực rỡ nhất trong hành trình trưởng thành của cậu thiếu niên tên Tô Minh Châu.   Theo thời gian, sắc màu ấy không những không phai nhạt đi mà nó còn trở thành màu sắc duy nhất, chiếm vị trí độc tôn trong cuộc đời anh. Cuộc đời này, Tô Minh Châu chỉ có Cơ Thập Nhất, duy nhất một mình cô.   …   Giữa một ngày thu lồng lộng gió chiều, Cơ Thập Nhất nhớ mãi hình ảnh cậu thiếu niên gầy nhom đang loạng choạng chạy về phía cô. Tuy mang danh phận cao quý là thế, vậy mà, khi nhìn cô, ánh mắt của thiếu niên ấy chưa bao giờ đổi khác, vẫn là vẻ cố chấp khư khư, một lòng một dạ, có chứa cả thứ tình cảm mà cô luôn xem là “tình thân”, và hôm nay, ánh mắt ấy còn cất giấu cả những hoang mang vô định, một nỗi sợ hãi mà không một từ ngữ nào có thể diễn tả được.   Đó là nỗi sợ vẫn luôn ở mãi trong anh, anh sợ mình sẽ bị bỏ rơi một lần nữa…   Khi ấy, dù đã quay trở về với thân phận cậu chủ nhỏ nhà họ Tô, thế nhưng, dẫu cho thân phận của anh có lớn đến mấy thì mỗi khi đối diện với Cơ Thập Nhất, Tô Minh Châu vẫn sẽ là một cậu em trai nhỏ chứ chẳng phải là ai khác.   “Người thân duy nhất của chị chính là em, không lo lắng cho em thì biết lo lắng cho ai?”   Bao nhiêu năm ròng rã qua đi, họ ở bên nhau, cùng nhau trải qua không biết bao sóng gió, nếm trải bao hương vị đắng cay ngọt bùi của thế gian này… Họ là người thân cận nhất của đối phương, “thân” hơn cả mối quan hệ máu mủ ruột thịt.   Cậu thiếu niên năm ấy đã trưởng thành tự lúc nào chẳng hay. Vẫn là cậu chàng của năm ấy, vẫn thích tỏ vẻ dễ thương trước mặt “chị” của mình, nhưng giờ đây anh đã là một người đàn ông, anh đã có một bờ vai vững chãi và anh cũng đã nhận ra tình cảm đang hằng nhen nhóm trong lòng mình.   Trước đây, tình thân là lớp cửa sổ giấy mỏng tang mà cả anh và cô đều không dám chọc thủng. Nhưng nếu bây giờ anh đã thấu tỏ tình cảm trong mình, Tô Minh Châu nghĩ, liệu rằng chuyện sẽ ra sao nếu anh vượt qua thứ rào cản cách ngăn này?   Thế gian này tốt đẹp muôn phần, mà Tô Minh Châu chỉ muốn thích Cơ Thập Nhất mà thôi.   …   Mối quan hệ giữa Cơ Thập Nhất và Tô Minh Châu có tiền đề quá sức vững chắc, thế nên, khi đọc “Giải mã giấc mơ giới giải trí”, bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng sẽ bắt gặp tình tiết hiểu lầm lẫn nhau, vì giữa hai người luôn có sự tin tưởng hoàn toàn tuyệt đối vào đối phương. Tuy vậy, cũng vì “thân nhau quá” mà hành trình Tô Minh Châu theo đuổi Cơ Thập Nhất hơi dài. Bởi lẽ, để cô bước ra khỏi vị trí hiện tại và chấp nhận tình cảm từ anh không phải là một điều dễ dàng.   Song song với hành trình theo đuổi đầy nỗ lực vượt khó của Tô Minh Châu là những vụ án có liên quan trực tiếp đến việc giải mã giấc mơ. Phá án thì có vô số cách, nhưng với mình, mình vẫn thấy phá án nhờ vào việc giải mã giấc mơ là một ý tưởng rất mới lạ, nó tạo ra một tổng thể truyện mới lạ không kém.   Thật ra, trên đây chỉ là một góc độ rất rất nhỏ mà mình muốn thể hiện. Mình đánh giá “Giải mã giấc mơ giới giải trí” rất rất cao, cả về motif truyện, mạch truyện lẫn cách xây dựng nhân vật.   Nếu bạn yêu thích truyện trinh thám nhưng không quá mức xoắn não, khó hiểu, thích truyện có tình tiết đơn giản ấm áp nhưng được đầu tư chỉn chu, thích motif truyện mà tình cảm giữa nam nữ chính có khởi nguồn là tình thân, thì có lẽ bạn sẽ thích bộ truyện này, mình cũng sẽ cực lực đề cử “Giải mã giấc mơ giới giải trí”.   ____   “…”: Trích từ bản chuyển ngữ mà reviewer đã đọc: Team Quả Dứa Trắng   *Cover chỉ mang tính chất minh họa cho bài viết Mời các bạn mượn đọc sách Chuyên Gia Giải Mã Giấc Mơ Ở Giới Giải Trí Tác giả Khương Chi Ngư.
Trái Tim Độc Ác
Mỹ nhân đoạt mạng - Gretchen Lowell trốn tù thành công và vẫn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Không chỉ là một kẻ giết người hàng loạt, ả còn là ngôi sao nổi tiếng trong những bài báo giật gân nhằm tăng doanh số. Hình ảnh Gretchen Lowell xuất hiện khắp mọi nơi, thậm chí có cả hội người hâm mộ. Archie Sheridan vẫn tự nhốt mình trong bệnh viện tâm thần. Cho đến khi xuất hiện một thi thể cùng kí hiệu quen thuộc của Gretchen, anh quyết định rời bệnh viện để tiếp tục cuộc truy bắt Gretchen Lowell.  Mỹ nhân đoạt mạng đã trở lại? Hay là ác quỷ được tạo ra từ chính những kẻ hâm mộ? *** TRÁI TIM ĐỘC ÁC – CÚ PLOT TWIST ĐẾN TỪ NHÀ PHÁT HÀNH (Các bạn đừng đọc bìa sau kẻo bị đánh lừa) Mỹ nhân đoạt mạng – Gretchen Lowell trốn tù thành công và vẫn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Không chỉ là một là một kẻ giết người hàng loạt, ả còn là ngôi sao nổi tiếng trên những trang báo giật gân nhằm tăng doanh số. Hình ảnh của Gretchen Lowell xuất hiện khắp mọi nơi từ tạp chí, quần áo cho đến cả những chuyến tham quan những nơi ả từng sát hại các nạn nhân, thậm chí còn có cả hội người hâm mộ. Thanh tra Archie Sheridan đang nhốt mình trong bệnh viện tâm thần. Cho đến khi xuất hiện một thi thể bị cắt mất lá gan, móc mắt và điều quan trọng là có cùng kí hiệu quen thuộc của Gretchen, anh quyết định rời bệnh viện để tiếp tục cuộc truy bắt Gretchen Lowell. Liệu cuối cùng anh có bắt được ả không? So với hai cuốn trước, cuốn này tình tiết hấp dẫn, phức tạp, hồi hộp hơn trước bội phần. Nhưng ấn tượng nhất xuyên suốt series ba tập Trái tim đau khổ, trái tim ngọt ngào và trái tim độc ác chính là các nhân vật được xây dựng rất thú vị. Trong cuốn này thanh tra Archie Sheridan đã thể hiện được thông minh, can đảm, chấp nhận đương đầu với kẻ thù để cứu người mà anh quý. Nhà báo Susan Ward thể hiện được sự thông minh, can đảm, sắc sảo thậm chí sẵn sàng từ bỏ sự nghiệp của mình để đi theo lẽ phải. Còn về Mỹ nhân đoạt mạng Gretchen, ả ta tuy chỉ xuất hiện phần cuối truyện nhưng lại cho mình thấy khả năng dẫn dắt, chi phối người khác, đặc biệt là những người có những cú sốc lớn về tinh thần. Sau khi đọc xong bộ ba trái tim của Chelsea Cain, mình khá thích cách xây dựng tình huống và cách tạo dựng nhân vật. Mỗi nhân vật dần hoàn thiện tính cách của mình qua từng tập. Và với những bạn nào thích kẻ phản diện là một tên sát nhân biến thái như Hannibal Lector thì không nên bỏ qua bộ ba trái tim này. Điểm: 7,75/10 NPH: Phúc Minh Minh Sơn *** Trạm dừng chân trên đường 84 bên phía Oregon của sông Columbia thật kinh khủng, ngay cả với tiêu chuẩn tồi tàn của một trạm nghỉ. Những bức vẽ graffiti phủ kín bức tường trắng của đường tàu điện ngầm, hộc đựng giấy vệ sinh và khăn giấy trống hoác còn mớ giấy thì vương vãi khắp sàn bê tông. Hai cánh cửa ngăn bằng kim loại bị kéo ra khỏi bản lề, chỉ còn treo vắt vẻo ở đó. Không gian có mùi như hầm đậu xe chỗ dưới gầm cầu thang, quyện với mùi nước tiểu và xi măng. Nhà vệ sinh gần nhất cách đây mười tám dặm và họ vừa tới một trạm dừng chân bị côn đồ phá hoại. Chẳng có cách nào khác. Amy chống tay lên hông và nhìn chằm chằm vào cô con gái mười một tuổi của mình. “Thôi nào, Dakota”, con bé nói. Đôi mắt xanh của Dakota mở to. “Con không vào đó đâu”, con bé đáp. Suốt quãng đường, con bé luôn như thế. Hàng năm, vào mùa hè, họ sẽ lái xe từ Bakersfield đến gặp gia đình Erik ở Hood River, việc này đã bắt đầu từ khi Dakota còn là một đứa trẻ mới biết đi. Thế nhưng, năm nay nó đã dành cả chuyến đi để nhắn tin cho bạn bè và nghe nhạc trên chiếc iPod. Nếu Dakota không quá hư đốn như hai ngày qua thì có lẽ Amy sẽ dễ chịu hơn một chút. “Con ngồi xổm trên bệ là được mà”, Amy nói. Dakota cắn môi, để lại vệt son hồng trên răng cửa. “Mùi ghê lắm”, cô bé nói. “Hay để mẹ xem phòng vệ sinh nam có sạch hơn không nhé?” Amy hỏi. Má của Dakota ửng hồng. “Không được đâu”, con bé trả lời. “Chính con đòi đi cơ mà”, Amy nói. Thực ra, sau khi bỏ qua nhà hàng mà lẽ ra họ sẽ vào đó ăn tối, chẳng mấy chốc Dakota đã quả quyết rằng bàng quang của nó sẽ vỡ tung và nếu chuyện ấy xảy ra thì nó sẽ yêu cầu quyền tự do cho trẻ vị thành niên theo luật California. Amy thậm chí còn chẳng biết đó là cái gì, nhưng nghe có vẻ nghiêm trọng. Vì vậy họ ở đây, tại một trạm dừng chân giữa chốn đồng không mông quạnh. Có tiếng đập mạnh vào cửa. “Hai người đang làm gì trong đó vậy?” Erik gọi. Họ chỉ còn cách nhà chị gái anh hai mươi phút lái xe. Amy hiểu rằng nếu họ không đến đó sớm thì Erik sẽ bỏ lỡ chuyện kia. Suốt quãng đường mười dặm vừa rồi, anh ấy đã nắm chặt vô lăng đến trắng bệch cả tay. Cô đang đùa với ai vậy chứ? Người bỏ lỡ là cô mới phải. “Con bé không muốn dùng nhà vệ sinh ở đây”, Amy nói to cho chồng mình nghe thấy. “Thế thì ra ngoài này và đi đằng sau cái cây ấy”, Erik đáp lại. “Bố!” Dakota kêu lên. Amy đẩy cánh cửa buồng vệ sinh cuối cùng. Nó sạch hơn những gian khác, hoặc ít nhất cũng đỡ bẩn hơn. Trong hộc vẫn còn giấy. Không có chất thải của con người. Thế cũng tốt lắm rồi. “Còn phòng này thì sao?” Amy hỏi con gái. Dakota bước vài bước ngập ngừng tới phía sau cô và nhìn vào bồn cầu. “Trong đó có cái gì ấy”, nó nói và chỉ vào thứ nước màu hồng nhạt trong bồn cầu. Amy không còn thời gian để giải thích cho con bé về ảnh hưởng của củ cải đỏ đối với việc đi tiểu. “Con chỉ cần xả nước là được”, Amy nói. Cô xoay người đi tới dãy bồn rửa màu trắng rồi chờ đợi. Cô nghe thấy tiếng xả nước trong buồng vệ sinh và cảm thấy một chút căng thẳng gặm nhấm đôi vai. Họ sẽ lên đường sớm thôi. Chị gái của Erik sẽ uống rượu chờ họ. Chị ấy vẫn luôn làm thế. “Mẹ!” Amy nghe thấy tiếng con gái gọi. Lại chuyện gì nữa đây? Amy quay lại và thấy con gái mình đang đứng trong buồng vệ sinh, cánh cửa kim loại bật mở. Khuôn mặt Dakota trắng bệch, hai tay siết chặt thành nắm đấm. Buồng vệ sinh bị tràn, nước dềnh qua nắp cống trên sàn tạo thành một vũng nước trông như thủy triều dâng. Trong nước có một thứ gì đó. Nó xoay giữa làn nước với những sợi nhỏ màu đỏ giống như máu. Và trong một giây, Amy nghĩ: Hay là Dakota đến tháng? Dòng nước ấy chảy dọc ra ngoài bồn cầu trắng, lan xuống sàn, tràn dưới đôi giày thể thao của Dakota và hướng về nơi Amy đang đứng bất động. Có cái gì đó trong bồn cầu, nó nổi lên và trôi dần đến miệng bồn cầu. Thịt sống. Tựa như những kẻ điên đã dìm chết một con chuột. Nó bám trên mép bồn cầu một lúc rồi trượt xuống sàn, trôi về phía trước, lướt qua đôi giày thể thao của Dakota và biến mất sau buồng vệ sinh tiếp theo. Dakota thét lên, lao ra khỏi buồng vệ sinh, sà vào vòng tay của Amy, con bé thậm chí còn chẳng ngoái đầu lại khi chiếc iPod tuột khỏi tay, rồi rơi xuống chân bồn cầu với một tiếng tõm chết chóc. Amy buộc phải nuốt xuống cơn lợm giọng đang dâng trong cổ họng, tự khiến mình không phải bụm miệng lại. Đó không phải là chuột. Chắc chắn không phải là chuột. “Mẹ!” “Ừ!” Amy thì thầm. Chiếc iPod vẫn đang chạy. Amy có thể nghe thấy tiếng nhạc pop khe khẽ phát ra từ chiếc tai nghe màu trắng nửa nổi nửa chìm. Sau đó nó cứ vậy tắt lịm. “Con không cần đi vệ sinh nữa đâu”, Dakota nói. Mời các bạn mượn đọc sách Trái Tim Độc Ác của tác giả Chelsea Cain & Đinh Quỳnh Anh (dịch).
Căn Hộ Số 203
“Cũng không có gì quá to tát cả.” Đầu dây bên kia, người môi giới nhà đất cười khô khốc. “Chỉ là cô gái ở đó hồi trước bùng tiền nhà rồi chuồn mất thôi. Cô gái trẻ Okimura Kiyomi lên Tokyo học đại học và vô cùng háo hức với cuộc sống mới tự lập, xa gia đình. Nhưng liên tục có những việc kỳ lạ xảy ra trong căn hộ Kiyomi thuê khiến cô sợ hãi mà không thể nào lý giải được: Mùi hôi kỳ lạ bay khắp phòng, liên tục nghe thấy tiếng chân chạy rầm rập khắp nơi, khi ngủ, cô luôn gặp ác mộng bị một người đàn ông đuổi theo đánh đập, là mơ nhưng thức dậy, Kiyomi vẫn thấy người đau ê ẩm… Kiyomi đang đối mặt với thế lực bí ẩn gì? Liệu cô có thoát được khỏi căn phòng đó hay không? Đây là cuốn sách có thể khiến bạn không bao giờ muốn đọc lại lần thứ hai. *** Cô đơn không phải chỉ là ở một mình, mà là ở giữa rất nhiều người nhưng không tìm được ai hiểu tiếng nói của mình. Kiyomi nằm lặng yên trong căn phòng số 203. Không nhìn. Không thấy gì. Không thèm quan tâm. Không nhìn. Cánh cửa sổ bị cong. Rèm cửa đung đưa. Côn trùng lúc nhúc tại góc nhà. Không thấy gì. Sàn nhà ấm một cách lạ thường. Mùi hôi thối xộc lên vào mũi. Tiếng kẽo kẹt. Tiếng rì rầm. Tiếng cãi nhau. Không thèm quan tâm. Đôi chân hàng đêm xuất hiện trong giấc mơ. Tiếng hét khản đặc không thoát ra khỏi cổ họng. Bóng đèn chập chờn không sáng. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại trong đầu Kiyomi, cô tự nhủ rằng nếu mình không để ý đến những điều ấy, mọi thứ rồi cũng sẽ biến mất. Giống như cách con người tìm ra lời giải thích cho những điều bất thường xảy đến với họ. Chuột chạy. Ống nước bị rò. Gió thổi. Hàng xóm cãi nhau. Nhưng cứ mỗi khi Kiyomi nhắm mắt, cô cảm thấy có cái gì đó cứ bóp nghẹt trái tim, “có cái gì đó đen tối, khó chịu cứ bám riết lấy tâm hồn cô”. Người đàn ông bí ẩn đêm nào cũng đến cãi cọ với cô, đánh đập cô đến ê ẩm nhưng không bao giờ Kiyomi nhìn thấy mặt hắn. Tất cả cứ chập chờn thoắt ẩn thoắt hiện khiến cô không biết đâu là thực, đâu là mơ. Căn hộ số 203 của tác giả Kamon Nanami hội tụ đầy đủ các yếu tố ghê rợn thường thấy của truyện kinh dị Nhật Bản. Được ví như Dark Water của nhà văn lừng danh Suzuki Koji, tác giả của Ring, cuốn sách một phần nào thể hiện nỗi cô đơn mòn mỏi của loài người, mỗi khi gặp trắc trở, họ không có ai tin tưởng để chia sẻ. Giống như Kiyomi, cô không thể kể cho bố mẹ, vì họ sẽ cười vào thói tự lập cố chấp của cô, cũng không thể kể cho bạn bè, khi họ chỉ coi những điều cô nói là hoang tưởng. Cuốn sách cũng giải thích nguyên nhân tại sao những điều kỳ quái thường xảy ra với các cô gái trẻ. Sống một mình, nhạy cảm trên mức cần thiết, lạc lõng giữa xã hội là những điểm chung mà mọi người thường nhìn vào họ. Cho dù có quyết liệt chống trả nhưng phút huy hoàng lại nhanh chóng bị dập tắt, nếu không mang một tâm lý vững vàng, các cô gái sẽ chẳng thể vượt qua được nỗi sợ hãi của chính mình. Căn hộ số 203 không mang quá nhiều chi tiết giật gân, mà thay vào đó gieo rắc nỗi ám ảnh một cách từ từ, chậm rãi, len lỏi sâu vào tâm trí người đọc. Bản thân mỗi chúng ta cũng giống như Kiyomi, mù mờ không biết gì mà theo chân cô dần dần lật mở những điều bí ẩn. Chỉ có điều ta làm điều đó vì tính tò mò, còn Kiyomi phải chiến đấu vì sự sống của chính mình. Vốn không dành cho những ai yếu tim, nhưng với những ai đủ dũng cảm để đọc, Căn hộ số 203 sẽ khiến bạn khó mà buông tay nhưng cũng không dễ đọc lại lần hai. *** Mở khóa, Okimura Kiyomi chậm rãi nhìn vào trong phòng. Từ cửa sổ, ánh mặt trời rọi vào căn phòng trống. Kiyomi nheo mắt, nhìn ngắm khung rèm như muốn xác nhận điều gì đó, rồi khẽ gật đầu: “Mình muốn đặt một cái giường ở chỗ đó.” Chỉ cần chọn rèm màu nhạt một chút, có họa tiết nhã nhặn một chút là ổn. Cô nở một nụ cười nơi khóe miệng. Bất chợt, ở phía phòng tắm, từng giọt nước rơi xuống bồn rửa tạo ra những âm thanh lạnh lẽo… *** Cô chọn sống một mình khi vào đại học. Đó không phải là vì cô bất hòa với bố mẹ hay anh chị em, mà chỉ là đến tuổi này, cô không muốn phải mệt mỏi vì sự can thiệp quá mức của gia đình vào cuộc sống riêng. Thêm nữa, mong muốn được lên thành phố một lần cứ thôi thúc cô, cô không muốn mãi chôn chân ở nơi mình sinh ra. Ấy thế mà, thay vì thích thú, cô lại thấy sốt ruột vì phải đổi mấy lượt xe buýt lẫn tàu điện mỗi khi rời khỏi thành phố này. Cùng một hãng sản xuất mà sao đồ bán ở đây lại có vẻ khác với đồ bán ở Tokyo nhỉ? Mỗi lần nghĩ đến điều đó, trong lòng Kiyomi lại nhen lên cảm giác khao khát và ghen tị. Không phải cô có mối quan tâm đặc biệt gì với hàng hiệu, chỉ là những nhãn hiệu ở Tokyo quả thật có sức hấp dẫn khó cưỡng. Cô từng tới Tokyo một lần trong chuyến tham quan hồi trung học nhưng chẳng ấn tượng gì với tòa nhà quốc hội. Những gì đọng lại trong ký ức cô chỉ là sự đông đúc tấp nập của mấy khu mua sắm Harajuku và Shinjuku. Từ ga Harajuku nhìn xuống, con đường Takeshita lúc nào cũng như được nhuộm màu đen bởi những đầu người đang di chuyển. Ở ga Shinjuku và khu vực xung quanh, người đi trên đường và sân ga nhiều tới mức không nhìn ra nổi chỗ trống nào trên mặt đất nữa. Cảnh tượng ấy khiến Kiyomi liên tưởng đến đàn kiến bò lổm ngổm trên chiếc bánh xốp. Những cửa tàu điện hay lối ra vào trung tâm thời trang như đang nhịp nhàng nuốt vào, nhả ra dòng người nối đuôi nhau đi vào và đi ra khỏi đó. Kiyomi bị cuốn hút bởi những con người, những dãy phố ấy. Cô nhớ mình từng nôn nao và đau đầu như thể đang bị xuất huyết não nên phải dừng lại một chỗ chỉ vì Shibuya quá đông người. Đúng là con đường gần khu trung tâm có khác. Những người đi trên đường ai nấy đều trông có vẻ hơn tuổi Kiyomi dù họ đều là những nam thanh nữ tú chưa tới hai mươi tuổi. Họ đi theo nhóm vài người một, hầu hết đều nhuộm tóc màu nâu nhạt, ăn vận chải chuốt theo phong cách đặc trưng chỉ có ở Tokyo. Họ đi lướt qua Kiyomi đang đứng như trời trồng mà không chạm tới một cọng tóc của cô. “Chả có ai đâm vào mình cả.” Kiyomi nghĩ, vẫn chưa hết hoa mắt chóng mặt. “Họ không nhìn mình, không đâm vào mình. Thậm chí họ cũng không nhận ra là họ đang làm lơ mình.” Nói là thế chứ không thể có chuyện họ không thấy cô, rõ mười mươi là họ đột ngột nghiêng vai khi đi qua để tránh chạm vào cô. Nhưng cô vẫn cứ nghĩ trong nhận thức của những người đi trên đường không có sự hiện diện của mình. Cô có cảm giác như mình là người vô hình trong mắt họ. Đúng lúc đó, cô nhận ra, người vô hình không chỉ có mình cô. Người nào người nấy, theo phản xạ, giữ khoảng cách với nhau như những thỏi nam châm cùng chiều, chẳng thèm để tâm xem tại sao lại như vậy. Không nhìn. Không thấy gì. Không thèm quan tâm. Đó là kỹ năng đối nhân xử thế khôn ngoan để sống được ở thành phố bộn bề và đông người này. Không làm được như vậy thì không có tư cách sống ở đây. Nuốt ngược vào trong, Kiyomi đưa ra đánh giá như vậy về Tokyo. Không nhìn. Không nghe. Không thèm quan tâm. (Nghe chừng hay đấy.) Kiyomi thở dài khi nghĩ đến viễn cảnh đó. Khi ngắm nhìn từ ban công tầng hai, Tokyo khác xa hoàn toàn so với những gì mà cô đã hình dung. Từ khu phố chật hẹp với những căn nhà nhỏ nằm san sát, chỉ cần đi thêm một chút là ra đến cánh đồng. Không có những căn nhà cổ lợp mái tranh, nhưng gọi nơi này là thành phố thì hơi quá. Việc thuyết phục bố mẹ đồng ý cho cô học đại học ở Tokyo diễn ra khá thuận lợi. Nhưng ngôi trường cô đỗ vào lại ở ngoại ô. Căn hộ cô tìm được cũng không thể gọi là gần khu trung tâm. Bởi vì giá thuê nhà tại Tokyo đắt đỏ, cô lại ngại không muốn để bố mẹ gánh khoản tiền thuê nhà, nên đành bỏ qua những căn hộ nhỏ xinh gần trung tâm. Cân đo đong đếm mãi, rốt cuộc cô chọn căn hộ có một phòng, rộng khoảng sáu thước, có sàn lát gỗ. Dù khác biệt lớn so với mơ ước của mình, nhưng trái tim Kiyomi vẫn đập rộn ràng với sự khởi đầu này. Niềm vui sướng khi ước mơ trở thành hiện thực, được rời khỏi nhà và sống tự lập, còn lớn hơn niềm vui được tới Tokyo. Căn phòng của cô ở nhà bố mẹ bây giờ phủ đầy bụi và đầy ắp những kỷ niệm. Những con gấu bông, những đĩa CD cũ kỹ, ảnh của ngôi sao mà ngày xưa cô yêu thích choán hết chỗ trên giá và ngăn kéo, trong tủ thì nhét đầy những bộ quần áo không mặc đến nữa nhưng cũng chẳng nỡ vứt đi. Vì còn vương vấn nên cô vẫn giữ lại những đồ vật ấy, và vì thế theo thời gian, chúng mang vẻ u ám hơn. Cô rời xa gia đình, đồng thời cũng rời xa căn phòng đã chở che cô suốt thời niên thiếu ấy. Miền đất mới và căn phòng mới này hy vọng sẽ đáp lại niềm mong ước của Kiyomi. Cô thở mạnh, nhìn khung cửa sổ. Chắc chắn đây không phải tòa nhà đẹp đẽ gì. Tòa nhà xây đã được sáu năm, có hai tầng với màu sơn quen thuộc mà đâu đâu cũng có thể bắt gặp. Cửa sổ quay ra hướng nam, từ đó có thể nhìn thấy cái cửa ra vào bằng thép rẻ tiền. Hai bên trái, phải là bếp và phòng tắm xây đối diện nhau, ở giữa là một phòng trống. Khoảng không gian trong phòng rất ít. Chỉ có cái tủ tường dán hoa văn vân gỗ ngăn giữa bếp và phòng chính. Phòng khách kiêm phòng ngủ nửa vời rộng khoảng ba mươi mét vuông, trần nhà thì thấp, chắc hẳn sẽ có nhiều người thấy bức bối với căn phòng này. Dù vậy, Kiyomi thấy thoải mái với cái sàn gỗ trắng, bức tường trắng vừa dán lại. Hơn tất thảy, niềm vui được độc chiếm không gian này làm cho mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ. Cô nghĩ: “Mình sẽ dùng căn phòng này tùy theo ý thích của mình.” Gió thổi làm cái rèm mới lắp chạm vào cánh tay cô. Cuộn tay trong tấm rèm, Kiyomi mỉm cười mãn nguyện. Cô chọn rèm màu xanh rêu in họa tiết hoa lá. Giường của cô là một chiếc giường sô pha loại dùng nệm, cô cũng đặt ti vi ở vị trí thuận tiện để có thể nằm hoặc ngồi trên giường và xem được thoải mái. Giữa sàn là tấm thảm lông dài, trên thảm đặt cái bàn tháp kiểu cổ điển. Cô không cần tủ quần áo, quần áo và những đồ khác cô nhét tạm trong tủ để chăn cũng được. Bồn rửa mặt có thiết kế trông có vẻ thô kệch, còn các đồ dùng nhà tắm thì làm bằng nhựa trong nhìn giống như những món đồ thiết kế, nhưng trông chúng cứ giả tạo thế nào đó. Đương nhiên là chỉ giống thôi, chứ chúng không phải là đồ thiết kế của hãng nào. Những vật dụng đó, cũng như rèm và bát đĩa, đều là những đồ dễ dàng mua được khi lượn vài vòng cửa hàng lớn hay cửa hàng một trăm yên. Dù nơi đây tập trung toàn đồ rẻ tiền, Kiyomi vẫn hài lòng ví von nó như một căn phòng sang trọng mà cô hay thấy trên tạp chí nhà ở. “Mấy đồ đạc nhỏ xếp ở quanh bếp, cái để cốc và bàn chải đánh răng để vào chỗ bồn rửa mặt nữa là xong.” Nhận ra mình đang nín thở ngẫm nghĩ, cô khẽ cười. Cô nghĩ cô chọn đồ đạc cho phòng còn nghiêm túc hơn cả chọn môn ở trường đại học: “Đáng lẽ mình nên chọn trường mỹ thuật và học ngành nội thất mới phải.” Kiyomi nhẹ nhàng đi đến bếp ở cách xa ban công. Pha cốc trà rồi ngồi xuống bàn, cô thấy mỏi nhừ cả người. Cuộc sống của cô dạo gần đây là thế, luôn phấn khích với môi trường mới, quay vòng vòng trong bộn bề của dọn dẹp, mua sắm, rồi chuẩn bị bài trước giờ học. Hồi cấp ba, cô từng ở trong câu lạc bộ quần vợt nên có thừa tự tin về thể lực, nhưng sự mệt mỏi hiện giờ lại khác hoàn toàn với khi vận động. Cô nghĩ rằng đây mới là môi trường Tokyo. Xung quanh thành phố có trường học, có căn hộ, nhưng khi cần mua đồ đạc hay sắm sửa gì đó, cô lại phải vào tận trung tâm và tới những cửa hàng lớn. Ở khu trung tâm, điều ngạc nhiên nhất là chỗ nào cũng thấy người. Cô luôn thấy thích thú với những cửa hàng mở tới tận khuya và những ánh đèn mờ ảo trong đêm ở nơi đây. Nơi cô sống trước đây cũng có cửa hàng tiện lợi và nó cũng mở cửa đến mười một giờ đêm, nhưng không thể nào so sánh nổi với ánh sáng của Tokyo. Mấy hôm đầu, khi ở trong căn phòng này vào buổi tối, Kiyomi ngạc nhiên tột độ khi thấy phía bầu trời thành phố tỏa sáng rực rỡ. Khi nhận ra góc đó là Shinjuku, tim cô thực sự cảm thấy bồn chồn và bất an như bị bóp nghẹt. Đương nhiên, chút yếu đuối đó nhanh chóng biến mất. Nhưng sự mệt mỏi thì không như vậy, ngay cả khi cô đã đặt mình xuống nghỉ ngơi, nó vẫn dai dẳng đeo bám cô, đó là điều mà cô chưa từng cảm thấy khi còn ở vùng quê đầy cây xanh của mình. Nhấp chút trà thảo mộc, Kiyomi cuộn tròn người trên chiếc thảm. Đúng vậy, cứ khi nghỉ ngơi, duỗi tay chân ra là sự mệt mỏi lại gọi cơn buồn ngủ tới. “Mình muốn có gối ôm với lớp vỏ thật mềm.” Cô nằm ngửa mặt, đặt hai tay trên bụng. Từ ô cửa sổ mở toang, làn gió xuân ấm áp thổi vào. Kiyomi áp tay lên gò má, thả lỏng người. Người thấm mệt như bông ngấm nước, chẳng mấy chốc cô đã chìm vào giấc ngủ. “Mình chỉ ngủ một chút thôi.” Cô nhắm mắt, định thưởng cho bản thân một giấc ngủ ngắn thì bên ngoài vang lên những âm thanh đứt quãng, vọng vào tai cô như gợi lên nỗi niềm luyến tiếc. Là tiếng trẻ con. Tiếng động cơ ô tô… Ngay lúc sau, cô nhận ra âm thanh mình nghe được đang ở rất gần, cô mở to mắt. Tối quá. Kiyomi lập tức quờ quạng tay và nhận ra, bóng tối ấy đơn thuần chỉ là do trời tối. Sững người, cô đưa mắt nhìn xung quanh. Bên ngoài, mặt trời sắp lặn. Cô hầu như không nhớ là mình đã ngủ hay chưa, có lẽ cô đã ngủ mê mệt ngay khi nhắm mắt lại. Kiyomi thở nhẹ, bỏ hai tay đặt trên ngực xuống. Hơi thở của cô như nghẹn lại. Chắc do đặt tay lên ngực mà cô gặp giấc mơ đáng ghét. Âm thanh mà cô nghe thấy không rõ là thật hay mơ, nhưng chắc chắn là của đàn ông. Anh ta nói gì nhỉ? Cô cố nhớ lại. Lời nói như trêu chọc, lại vừa như dọa dẫm cứ lởn vởn trong đầu cô như làn khói. Kiyomi hít thật mạnh, đến mức tạo thành cả nếp nhăn giữa đôi lông mày. Có mùi lạ. Đó là mùi cống rãnh cộng với mùi thối rữa, chúng như bám chặt lấy niêm mạc mũi của cô. Kiyomi nhăn mặt, ngồi dậy và nhìn xung quanh. Lấy lí do chưa ổn định cuộc sống nên cô hiếm khi nấu nướng, nhưng không phải là nhà cô không có rác sinh hoạt. Nhưng mùi hôi mà cô ngửi thấy lần này hoàn toàn khác với mùi đó. Nó giống với mùi hôi trong ống nước thải. “Không biết là mùi hôi từ đâu nhỉ?” Nhà cô không đến mức sạch như lau như li, nhưng cũng chưa có ai nói cô ăn ở luộm thuộm, bừa bãi. Vốn sợ chuột bọ nên cô cực nhạy cảm với đồ ăn đã dùng xong. Vì vậy, mùi này không phải từ trong phòng cô. “Chắc tại ống cấp nước của chung cư này bẩn quá.” Kiyomi bật đèn lên, kiểm tra đường ống ở bếp và bồn tắm. Không có mùi gì lạ. Lúc nhận ra điều đó thì cái mùi kỳ lạ đã biến mất rồi. Một lần nữa, cô nhíu mày, chạm tay vào vai mình. Không biết có phải do ngủ quên trên sàn không mà cô đau cứng hết cả vai. Hay do cái cửa sổ để mở không đóng? Vai cô lạnh ngắt. Bỗng nhiên, cô thấy tâm trạng mình u ám. Kiyomi xoay vai, trèo lên giường rồi đóng cửa sổ lại. Ánh đèn tỏa ra khắp căn phòng phản chiếu bóng cô trên kính cửa sổ. Nó cũng chiếu vào trong mắt cô, theo phản xạ, cô lùi người lại. Cô nghĩ chắc kính bị cong vì thi thoảng, hình ảnh phản chiếu trong cái cửa sổ này như bị nhòe thành hai. Hình như có một cái bóng của ai đó sau lưng đang chồng lên bóng của cô. Không hiểu sao dù đứng xa ra hay đổi góc độ thì cô vẫn thấy cái bóng đó. Nhưng lạ là lúc cô vừa xoay người thì cái bóng lại biến mất. Ban đầu, khi bên môi giới nhà đất dẫn cô đến đây xem phòng đã như vậy rồi. Lúc định xem quang cảnh bên ngoài, vừa chạm tay vào cửa sổ, Kiyomi đã giật mình quay lại. Trong khoảnh khắc, cô tưởng đấy là người môi giới đứng sau lưng mình. Dù là ảo giác đi chăng nữa, nhưng rõ ràng cô cảm nhận được hơi người ở phía sau. Nhưng ông già môi giới nhà đất, trông có vẻ thích thú, vẫn đang khoanh hai tay sau lưng đứng ở sảnh. “Cái kính cửa sổ này bị cong thì phải.” Cô khẽ thì thầm không để người môi giới biết mình đang dao động. “Cô thấy thế à? Ờ, có lẽ thế đấy. Ngoài ra, không có gì khác khiến cô bận tâm đúng không?” Người đàn ông không còn trong độ tuổi lao động nháy mắt, khẽ đung đưa người sang hai bên. Cười nhăn nhó đáp lại, cô kéo mạnh cái rèm. Sự lo lắng khi hoàng hôn buông xuống chắc là do nhớ nhà. Lên Tokyo hồi tháng Ba, tháng đầu tiên, Kiyomi vẫn chưa quen được người nào để có thể coi là bạn. Từ khi lên đây, những người nói chuyện với cô hầu như là người bên môi giới nhà đất hay nhân viên của cửa hàng nào đó. “Cũng chẳng còn cách nào khác.” Cô nghĩ đi học ở trường, rồi đi làm thêm thì sẽ nguôi đi phần nào nỗi nhớ đó. Nếu mà có bạn trai thì cô sẽ quên luôn cả buồn ấy chứ. “Kể cả đồ ăn, có khi anh ấy sẽ đến cửa hàng tiện lợi mua cho mình cũng nên.” Cô gật đầu một mình, vui vẻ ngồi xuống giường.   Mời các bạn đón đọc Căn Hộ Số 203 của tác giả Kamon Nanami & Nguyễn Phương Chi (dịch).
Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly
“Tôi nhớ rằng mọi chuyện bắt đầu với một loạt thăng trầm trong cảm xúc, một chút bấp bênh của hồi hộp lo sợ” Một cô gái trẻ nhận được công việc đầu tiên trong đời là làm gia sư cho hai đứa trẻ xinh đẹp, trong sáng và lặng lẽ đến dị thường tại toà dinh thự Bly cô độc, bị bủa vây trong cái ác rình rập. Những bóng người ẩn hiện từ toà tháp tối tăm và ô cửa sổ bụi bặm, các bóng ma xấu xa lặng lẽ tiến đến ngày một gần. Với nỗi kinh hoàng lớn dần, cô gia sư bất lực nhận ra những sinh vật tàn ác đó nhắm đến bọn trẻ, rắp tâm xâm chiếm cơ thể, tâm trí và cả linh hồn các em… Nhưng không ai ngoài cô nhìn thấy những bóng ma ấy. Phải chăng những ám ảnh kia được gợi lên từ chính trí tưởng tượng của cô gia sư, hay sự thật còn chứa đựng nhiều hơn thế? HENRY JAME (1843 - 1916) Là nhà văn người Mỹ, một trong những người sáng lập và dẫn đầu trường phái hiện thực trong văn hư cấu. Ông sống phần lớn cuộc đời tại Anh và trở thành công dân Anh không lâu trước khi qua đời. Ông được biết tới chủ yếu nhờ một loạt tiểu thuyết đồ sộ miêu tả sự giao thoa giữa Mỹ và châu Âu. Truyện của ông xoay quanh mối quan hệ cá nhân, cách sử dụng quyền lực đúng mực trong các mối quan hệ đó, và nhiều vấn đề đạo đức khác. Phương pháp viết của ông lấy góc nhìn của một nhân vật trong truyện, cho phép ông khám phá các hiện tượng ý thức và nhận thức, phong cách viết trong các tác phẩm về sau của ông từng được so sánh với tranh trường phái ấn tượng. Henry James kiên định tin rằng các nhà văn ở Anh và Mỹ nên được tự do tối đa trong việc thể hiện thế giới quan của mình, giống như các nhà văn Pháp. Chất sáng tạo trong thủ pháp sử dụng góc nhìn, độc thoại nội tâm và người trần thuật không đáng tin cậy trong các câu chuyện và tiểu thuyết của ông mang lại chiều sâu và sự hấp dẫn mới cho thể loại hư cấu hiện thực, và báo hiệu sự đổi mới trong văn học của thế kỉ hai mươi. Là một nhà văn có bút lực phi phàm, bên cạnh số lượng tác phẩm hư cấu đồ sộ, ông còn xuất bản báo, sách du lịch, tiểu sử, tự truyện, phê bình văn học, và kịch. Một số vở kịch của ông được biểu diễn lúc sinh thời và đạt được thành công nhất định. Tác phẩm kịch của ông được cho là có ảnh hưởng sâu rộng tới truyện và tiểu thuyết của ông sau này. Henry James từng được đề cử giải Nobel Văn học vào các năm 1911, 1912, và 1916. Từ khi xuất hiện lần đầu vào năm 1898 đến nay, CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY đã được mệnh danh là một trong những truyện ma nổi tiếng nhất thế giới, là nguyên tác và nguồn cảm hứng cho hàng loạt các tác phẩm chuyển thể cũng như sản phẩm làm lại thuộc nhiều loại hình khác nhau: phim điện ảnh, phim truyền hình, opera, kịch, balê “Một câu chuyện nhỏ độc hại đến sửng sốt, và cũng tuyệt diệu nhất.” – OSCAR WILDE - “CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY là một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất từ trước đến nay, phần lớn là vì nó khó nắm bắt theo cách quá hấp dẫn.” – GILLIAN FLYNN - *** Chúng tôi quây quần quanh lò sưởi, nín thở lắng nghe câu chuyện, nhưng ngoài lời nhận xét hiển nhiên rằng nó rất ghê rợn, mà chuyện kinh dị vào đêm giáng sinh trong một ngôi nhà cũ thì tất phải ghê rợn, tôi nhớ rằng không ai lên tiếng bình luận gì cho đến khi có người tình cờ nói rằng anh ta từng gặp duy nhất một trường hợp tương tự, xảy đến với một đứa trẻ. Tôi xin nói thêm rằng trường hợp đó là về hồn ma trong một ngôi nhà cũ giống như ngôi nhà chúng tôi đang tụ tập vào dịp này - một vụ hiện hồn kinh khủng, xảy đến với một cậu bé đang ngủ trong phòng với mẹ. Cậu bé đã đánh thức người mẹ trong cơn khiếp hãi; nhưng trước khi người mẹ kịp xua tan cơn sợ và dỗ dành cậu ngủ tiếp, bản thân bà cũng chứng kiến cảnh tượng khiến cậu run rẩy. Nhận xét này đã khơi gợi lời hồi đáp từ Douglas - không phải ngay lúc đó, mà vào tối muộn - dẫn đến một kết quả thú vị khiến tôi chú ý. Câu chuyện người khác đang kể chẳng hấp dẫn lắm, và tôi nhận thấy anh không chú ý lắng nghe. Tôi cho đó là dấu hiệu thể hiện rằng bản thân anh có chuyện muốn kể và chúng tôi chỉ cần chờ đợi. Quả thực chúng tôi đã đợi đến hai đêm sau; nhưng vào tối hôm đó, trước khi chúng tôi giải tán, anh đã nói ra ý nghĩ trong đầu mình. “Tôi đồng ý - về hồn ma của Griffin, hay dù nó là gì đi nữa - rằng việc nó xuất hiện cho cậu bé nhìn thấy trước, ở cái tuổi dễ tổn thương như vậy, đã thêm điểm nhấn cho câu chuyện. Nhưng đây không phải lần đầu tôi nghe về kiểu chuyện hấp dẫn này liên quan đến trẻ con. Nếu một đứa trẻ đã thêm nhát búa chát chúa cho hiệu quả câu chuyện, thì các vị nói sao với haiđứa trẻ…?” “Tất nhiên chúng tôi sẽ bảo rằng chúng mang đến hai nhát búa! Và rằng chúng tôi muốn nghe chuyện về chúng,” có người thốt lên. Tôi vẫn còn có thể hình dung ra Douglas đứng quay lưng về phía ngọn lửa, hai tay đút túi, nhìn xuống những người đang trò chuyện với mình. “Cho đến giờ, chưa có ai ngoài tôi từng nghe chuyện này. Câu chuyện có phần quá kinh khủng.” Câu này đương nhiên là đã được vài người nói ra để tạo hiệu quả tối đa cho câu chuyện của mình, và người bạn của chúng tôi, với nghệ thuật kể chuyện tinh tế, chuẩn bị cho chiến thắng của mình bằng cách đưa mắt nhìn chúng tôi rồi nói tiếp: “Vượt ra ngoài tất cả. Tôi chưa từng biết đến thứ gì có thể chạm tới câu chuyện này.” “Về mặt đáng sợ ư?” Tôi nhớ mình đã hỏi như vậy. Dường như anh muốn đáp rằng không chỉ đơn giản như vậy; như thể anh thực sự không tìm được từ thích hợp để miêu tả. Anh đưa tay xoa mắt, khẽ nhăn mặt. “Về độ kinh hoàng!” “Ôi, hấp dẫn quá đi mất!” Một người trong cánh phụ nữ kêu lên. Anh không hề chú ý đến cô ta; anh nhìn tôi, nhưng như thể thay vì tôi, anh đang nhìn thấy thứ mình nói đến. “Về sự xấu xa dị hợm nói chung, về nỗi khiếp sợ và đau đớn.” “Chà,” tôi bảo, “thế thì hãy ngồi xuống và bắt đầu kể ngay đi.” Anh quay về phía ngọn lửa, đưa chân gẩy một khúc gỗ, ngắm nhìn chốc lát. Rồi anh quay lại đối mặt với chúng tôi: “Tôi chưa bắt đầu kể được. Tôi phải gửi thư vào thành phố đã.” Một loạt tiếng ca thán vang lên, kèm theo trách móc; sau đó anh liền giải thích, vẫn với vẻ lơ đãng: “Câu chuyện đã được ghi lại và cất giữ trong ngăn kéo suốt nhiều năm. Tôi có thể viết thư và gửi kèm chìa khóa cho người của mình; anh ta sẽ gửi bưu kiện tới đây khi tìm thấy nó.” Cá nhân tôi cảm thấy dường như anh chủ động đề xuất việc này - có vẻ anh gần như kêu gọi mọi người giúp anh thôi do dự. Anh đã phá vỡ một lớp băng dày tích tụ qua nhiều mùa đông; anh có những lí do riêng để giữ im lặng lâu như vậy. Những người khác bất mãn với sự trì hoãn, nhưng chính những trăn trở của anh đã hấp dẫn tôi. Tôi yêu cầu anh viết thư để gửi ngay chuyến bưu chính đầu tiên và anh đồng ý cho chúng tôi nghe chuyện sớm; rồi tôi hỏi anh trải nghiệm mà anh nói đến có phải của chính bản thân anh hay không. Với câu hỏi này, anh trả lời ngay tức khắc. “Ôi, ơn Chúa, không!” “Vậy còn bản ghi chép là của anh? Anh đã ghi lại câu chuyện đó?” “Tôi không ghi lại gì ngoài ấn tượng về nó. Tôi ghi khắc vào đây,” anh vỗ lên tim mình. “Tôi chưa từng quên.” “Vậy bản ghi chép…?” “Là một bản thảo cũ kĩ, đã phai màu mực, bằng bút tích đẹp nhất trên đời.” Anh lại quay về phía ngọn lửa. “Bút tích của một phụ nữ. Cô đã qua đời hai mươi năm rồi. Cô gửi cho tôi những trang giấy ấy trước khi chết.” Lúc này tất cả bọn họ đều đang lắng nghe, và tất nhiên có người tỏ ý trêu chọc, hay ít nhất là rút ra suy diễn. Nhưng anh bác bỏ suy diễn một cách nghiêm túc, dù cũng không tỏ vẻ bực bội. “Cô là một người hết sức duyên dáng, nhưng cô lớn hơn tôi mười tuổi. Cô là gia sư của em gái tôi,” anh lặng lẽ nói thêm. “Cô là người phụ nữ đáng mến nhất tôi từng biết ở địa vị đó; dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, cô cũng sẽ là một người đáng kính, chuyện đã lâu lắm rồi, và câu chuyện kia còn lâu hơn nữa. Khi ấy tôi đang học ở trường Trinity, tôi gặp cô khi về nhà vào mùa hè năm thứ hai. Năm ấy tôi ở nhà khá nhiều - một mùa hè đẹp. Chúng tôi đã đi dạo và nói chuyện vài lần trong vườn vào giờ nghỉ của cô - những cuộc trò chuyện khiến tôi phát hiện cô cực kỳ thông minh và dễ mến. Ô đúng vậy; đừng cười: tôi yêu quý cô rất nhiều và đến tận hôm nay vẫn lấy làm vui mừng khi nghĩ cô cũng quý mến tôi. Nếu không thì cô đã không kể với tôi rồi. Cô chưa từng kể với bất cứ ai. Không chỉ vì cô nói vậy, mà tôi biết là thực sự cô chưa từng kể. Tôi không chỉ biết chắc; tôi thấy rõ như vậy. Các vị sẽ dễ dàng rút ra kết luận ngay khi nghe chuyện.” “Bởi vì câu chuyện ấy quá đáng sợ?” Anh tiếp tục nhìn chăm chú về phía tôi. “Các vị sẽ tự rút ra kết luận,” anh nhắc lại. “Anh sẽ tự rút ra kết luận.” Tôi cũng nhìn anh không chớp. “Tôi hiểu rồi. Cô ấy đang yêu.” Anh bật cười lần đầu tiên. “Anh nói đúng đấy. Phải, cô đang yêu. Đúng hơn là đã từng yêu. Điều đó thể hiện rõ ràng - cô không thể kể câu chuyện của mình mà không biểu lộ điều đó. Tôi đã thấy, và cô thấy rằng tôi đã thấy; nhưng không ai trong chúng tôi nhắc đến. Tôi nhớ như in thời gian và địa điểm - nơi góc thảm cỏ, dưới bóng râm của hàng sồi lớn và buổi chiều mùa hè dài nóng bức. Đó không phải khung cảnh thích hợp để nghe chuyện kinh dị; nhưng ối chao…!” Anh rời bỏ lò sưởi và thả mình lại ghế ngồi. “Anh sẽ nhận được bưu kiện vào sáng thứ Năm?” Tôi hỏi. “Chắc phải đến chuyến bưu chính thứ hai.” “Vậy thì, sau bữa tối…” “Các vị đều sẽ gặp tôi ở đây?” Anh lại nhìn khắp lượt chúng tôi. “Sẽ không có ai rời đi chứ?” Giọng điệu anh gần như mong đợi. “Tất cả mọi người đều sẽ ở lại!” “Tôi sẽ ở lại” và “Tôi sẽ ở lại!” là tiếng kêu của những quý cô đã định sẵn ngày rời đi. Tuy nhiên bà Griffin tỏ ý muốn biết thêm. “Cô ấy đang yêu ai?” “Câu chuyện sẽ nói rõ,” tôi tranh lời đáp. “Ôi, tôi nóng lòng nghe chuyện quá!” “Câu chuyện sẽ không nói rõ đâu,” Douglas nói; “không nói theo một cách lộ liễu, sỗ sàng.” “Thế thì thật đáng tiếc. Tôi chỉ hiểu được theo mỗi cách ấy.” “Anh cũng không nói ư, Douglas?” Một người khác hỏi. Anh lại đứng bật dậy. “Có - ngày mai. Giờ thì tôi phải đi ngủ thôi. Chúc ngủ ngon.” Rồi anh nhanh chóng vớ lấy một ngọn nến, và bỏ lại chúng tôi trong ngỡ ngàng. Từ đầu bên này của hành lang màu nâu rộng lớn chúng tôi nghe thấy tiếng chân anh bước lên cầu thang; khi đó bà Griffin nói: “Chà, nếu tôi không biết cô ấy đang yêu ai, thì tôi cũng biết anh ấy yêu ai.” “Cô ấy già hơn mười tuổi,” chồng bà đáp lại. “Càng thêm lí do… ở cái tuổi ấy! Nhưng anh ấy giữ kín lâu như vậy cũng khá là đáng quý.” “Bốn mươi năm!” Griffin nói thêm. “Rốt cuộc bảy giờ cũng vỡ oà ra.” “Sự vỡ oà này,” tôi đáp lại, “sẽ biến tối thứ Năm thành một dịp đặc biệt.” Và mọi người đều đồng ý với tôi rằng, trước tình huống này, chúng tôi đều đã mất hứng thú với mọi câu chuyện khác. Câu chuyện cuối cùng, dù không hoàn chỉnh và chỉ như mở đầu của một loạt truyện dài kì, đã được kể ra; chúng tôi bắt tay và “bắt nến”, như một người nói, rồi đi ngủ. Ngày hôm sau, tôi biết rằng một lá thư kèm theo chìa khoá đã được gửi đến căn hộ của Douglas ở London vào chuyến bưu chính đầu tiên. Nhưng dù tin đó đã bị lan truyền cho mọi người, hay phải chăng chính vì lẽ đó, chúng tôi để anh yên cho đến sau bữa tối, thực tế là tới tận khi đã khuya đến mức thích hợp với bầu không khí mà kỳ vọng của chúng tôi tạo lập nên. Khi đó anh trở nên cởi mở đúng như chúng tôi mong muốn và cho chúng tôi lí do chính đáng nhất về thái độ cởi mở đó. Một lần nữa chúng tôi tụ tập trước lò sưởi trong đại sảnh để nghe anh kể, giống như tối hôm trước, khi chúng tôi bị anh khơi gợi tâm trí. Có vẻ như bản tường thuật mà anh hứa sẽ đọc cho chúng tôi nghe thực sự cần một lời mở đầu thích đáng. Tôi xin được nói rõ rằng bản tường thuật mà tôi trình bày dưới đây được lấy từ bản chép nguyên văn do chính tôi ghi lại nhiều năm sau đó. Douglas tội nghiệp đã gửi bản thảo cho tôi trước khi chết - khi anh thấy rõ cái chết sắp đến gần. Bản thảo đến tay anh vào ngày thứ ba của cuộc tụ tập và vào đêm thứ tư, tại đúng chỗ hôm trước, với sự truyền cảm mạnh mẽ, anh bắt đầu đọc trước đám đông quây quần. May thay, các quý cô hôm trước hứa sẽ ở lại cuối cùng lại thất hứa: họ đã rời đi theo lịch trình định sẵn, mang theo lòng hiếu kì sôi sục mà anh đã gợi lên trong tất cả chúng tôi, theo như lời họ thừa nhận. Nhưng điều đó chỉ khiến đám đông thính giả cuối cùng của anh thêm thu gọn và có chọn lọc, chia sẻ một đam mê chung, vây quanh ngọn lửa. Những dòng đầu tiên cho biết rằng bản ghi chép này được thực hiện tại thời điểm sau khi câu chuyện đã bắt đầu. Theo đó, người bạn cũ của Douglas - cô con gái út của một mục sư nông thôn nghèo - ở tuổi hai mươi, đã đến London để nhận công việc dạy học đầu tiên. Lòng đầy hồi hộp, cô tới gặp mặt trực tiếp người đăng quảng cáo tuyển dụng mà trước đó cô đã trao đổi qua thư. Khi cô trình diện tại ngôi nhà đồ sộ và bề thế trên phố Harley, ông chủ tương lai thể hiện mình là một quý ông độc thân lịch thiệp đang tuổi tráng niên; hình tượng như vậy chưa từng xuất hiện, trừ trong mơ hay tiểu thuyết, trước một cô gái đầy xúc động, hồi hộp, đến từ một ngôi nhà của mục sư vùng Hampshire. Mẫu người như anh không bao giờ lỗi thời. Điển trai, bạo dạn và nhã nhặn, tự nhiên, vui vẻ và nhân từ. Tất nhiên anh gây cho cô ấn tượng lịch thiệp và phong nhã, nhưng điều chinh phục cô hơn cả và cho cô lòng dũng cảm mà cô thể hiện về sau là việc anh đã coi toàn bộ công việc của cô như một ân huệ, một trách nhiệm mà đáng lẽ anh phải vui lòng đảm đương. Cô nhận thấy anh giàu có, nhưng cũng xa hoa đến khiếp đảm - cô đã thấy anh trong trang phục đắt tiền hào nhoáng, trong diện mạo đẹp đẽ, trong những thói quen đắt đỏ, trong vẻ phong lưu trước mặt phụ nữ. Nơi ở tại thành phố của anh là một ngôi nhà rộng lớn chứa đầy chiến lợi phẩm và đồ lưu niệm từ du lịch và săn bắn; nhưng nơi anh muốn cô đến ngay lập tức là ngôi nhà ở quê, một biệt thự cổ của gia đình tại Essex. Anh bị trao quyền giám hộ hai đứa cháu một trai một gái, con của người anh trai trong quân ngũ, sau cái chết của cha mẹ chúng tại Ấn Độ vào hai năm trước. Với một người đàn ông ở địa vị của anh - độc thân, không có cả kinh nghiệm lẫn chút ít kiên nhẫn nào - bọn trẻ là gánh nặng rất lớn. Điều này gây ra nỗi lo lớn cùng một loạt sai lầm, hẳn nhiên là từ phía anh, nhưng anh vô cùng xót thương bọn trẻ tội nghiệp và đã làm tất cả những gì có thể. Cụ thể thì anh đã gửi chúng về ngôi nhà khác của mình ở nông thôn, là môi trường thích hợp dành cho chúng, và để chúng ở đó với những người tốt nhất mà anh tìm được để chăm nom chúng, anh thậm chí đã cử chính những người hầu của mình đi phục vụ chúng, và về thăm chúng mỗi khi có thể. Điều khó xử là chúng không còn người thân nào khác, mà việc riêng của anh đã chiếm dụng toàn bộ thời gian. Anh đã cho chúng sở hữu Bly, một nơi an toàn và lành mạnh, đồng thời cử bà Grose, một người phụ nữ xuất sắc, làm người đứng đầu tại dinh cơ nho nhỏ của chúng. Bà Grose từng là hầu gái cho mẹ của anh và anh tin chắc vị khách của mình sẽ quý mến bà. Hiện giờ bà là quản gia và cũng tạm thời đóng vai trò chăm nom bé gái; may mắn thay, bà cực kỳ yêu quý cô bé, vì bản thân bà không có con cái. Còn có nhiều người giúp việc khác, nhưng tất nhiên cô gái trẻ chuẩn bị đến đó làm gia sư sẽ nắm quyền hành tối cao. Vào các kỳ nghỉ, cô cũng sẽ phải trông nom bé trai, cậu bé đã đi học được một kì - dù tuổi hơi nhỏ, nhưng còn cách nào khác đâu? - và chuẩn bị về vì kỳ nghỉ sắp bắt đầu. Trước đó từng có một cô gái khác trông nom hai đứa trẻ nhưng cô ta không may đã mất. Cô ta làm việc khá xuất sắc - là một người hết sức đáng kính - cho đến khi qua đời, dẫn đến tình huống khó xử khiến cho Miles bé nhỏ không còn lựa chọn nào khác ngoài trường học. Kể từ đó, bà Grose đã phụ trách dạy dỗ Flora trong khả năng của mình, về mặt phép tắc và lễ nghi. Ngoài ra còn có một đầu bếp, hầu gái, người phụ nữ phụ trách việc bơ sữa, một con ngựa lùn già, cùng người giữ ngựa, và một người làm vườn già, tất cả đều vô cùng đáng kính. Sau khi Douglas trình bày bối cảnh đến đây, có người đặt câu hỏi. “Thế cô gia sư trước chết vì cái gì? Chết ngộp trong đáng kính chắc?” Bạn tôi trả lời ngay tức khắc. “Sau này sẽ nói. Tôi không báo trước.” “Xin lỗi, tôi nghĩ báo trước chính là việc anh đang làm.” “Đứng từ vị trí của người kế nhiệm cô ta,” tôi gợi ý, “tôi sẽ muốn được biết nếu công việc đi kèm với…” “Nguy hiểm đến tính mạng?” Douglas nói tiếp suy nghĩ của tôi. “Cô ấy quả thực muốn biết, và cô ấy đã biết. Ngày mai anh sẽ được nghe chuyện gì cô ấy đã biết. Còn trước mắt, tất nhiên, viễn cảnh đối với cô có vẻ ảm đạm. Cô còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, đầy lo lắng: một viễn cảnh với nhiều trách nhiệm và ít bầu bạn, cùng nỗi cô đơn to lớn. Cô do dự - mất vài ngày đắn đo cân nhắc. Nhưng mức lương được trả cao hơn hẳn mức sống đạm bạc của cô. Cô đã nhận lời vào buổi phỏng vấn thứ hai.” Và đến đây, Douglas tạm dừng, khiến tôi góp lời thay mặt cho mọi người… “Mà cốt lõi của việc này tất nhiên là sức quyến rũ của chàng thanh niên phong nhã. Cô ấy đã bị chinh phục.” Anh đứng dậy và, như đã làm vào đêm hôm trước, bước về phía lò sưởi, dùng chân gẩy một thanh củi, rồi đứng quay lưng về phía chúng tôi trong chốc lát. “Cô chỉ gặp anh ta hai lần.” “Đúng vậy, nhưng điều đó càng nói lên tình cảm của cô ấy.” Tôi hơi ngạc nhiên khi Douglas nghe vậy và quay về phía tôi. “Chính là như thế. Có những người khác,” anh nói tiếp, “không bị chinh phục. Anh ta đã nói thành thật với cô mọi khó khăn của mình - rằng một số ứng viên khác cho rằng điều kiện công việc quá khắt khe. Vì lẽ nào đó họ thực sự e ngại. Công việc này nghe có vẻ tẻ nhạt - có vẻ kỳ quặc; và hơn hết là do điều kiện chính anh ta đặt ra.” “Đó là…?” “Là cô không bao giờ được làm phiền anh ta - tuyệt đối không bao giờ: dù là để yêu cầu, than phiền, hay vì bất kể lý do gì; cô chỉ có thể tự mình giải quyết mọi vấn để, nhận mọi khoản tiền từ luật sư của anh ta, đảm nhận toàn bộ trách nhiệm và để anh ta yên. Cô hứa sẽ làm như vậy, và cô kể với tôi rằng cô đã cảm thấy được đền đáp khi anh ta nắm lấy tay cô trong giây lát, vui mừng vì thoát khỏi gánh nặng, cảm ơn cô vì sự hi sinh.” “Nhưng cô ấy chỉ được đền đáp có như vậy thôi ư?” Một người trong cánh phụ nữ hỏi. “Cô ấy không bao giờ gặp anh ta nữa.” “Ôi!” Người phụ nữ nọ đáp. Và đó là từ duy nhất góp thêm vào chủ đề này, khi bạn chúng tôi lại một lần nữa lập tức bỏ chúng tôi mà đi, cho đến đêm hôm sau, bên góc lò sưởi, trong chiếc ghế thoải mái nhất, anh mở tấm bìa đỏ phai màu của một cuốn sổ mỏng viền vàng cũ kĩ. Cả câu chuyện mất hơn một đêm để kể, nhưng ngay khi có cơ hội, vẫn người phụ nữ hôm trước đặt một câu hỏi nữa. “Đầu đề anh đặt cho câu chuyện là gì?” “Tôi chưa đặt.” “Ôi, tôi thì có!” Tôi thốt lên. Nhưng Douglas không để ý đến tôi và bắt đầu đọc bằng giọng rành rọt như thể biểu đạt với tai người nghe vẻ đẹp của bút tích tác giả. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly của tác giả Henry James & Nguyên Hương (dịch).