Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bà Chúa Hòn

Cuốn tiểu thuyết Bà Chúa Hòn mang màu sắc lịch sử và không khí miệt vườn Lối dẫn dắt tự nhiên, ngôn ngữ mộc mạc đậm chất Nam Bộ Không chỉ mang giá trị nghệ thuật, tác phẩm còn là những bài học sâu sắc về tình người *** Buổi chiều đầu mùa mưa, cảnh vật buồn bã làm sao! Ếch nhái kêu vang bên chòi, trong bóng tối chập chờn, xa lắm qua rặng cây tràm mới thấy vài ánh đèn. Ở trên hòn là đói, khó cày cấy trồng tỉa. Bởi vậy Tư Thính đến tận vùng sình lầy mà chịu đựng muỗi mòng. - Ngày mai cho con ra ruộng nghe ba! Tư Thính day lại. Đứa con gái vừa lên tám tuổi bưng chén cơm đến gần. Chú vuốt tóc con, bùi ngùi thương xót. Mẹ nó mất hồi năm ngoái. Ngày nào cũng vậy, trước khi ra ruộng, chú bới sẵn chén cơm, gắp khứa cá để trong cái đĩa nhỏ. Khi thức dậy, đứa con ăn cơm một mình rồi ra ngồi ở góc sân, trông ra ruộng. Cuốn tiểu thuyết  "Bà chúa hòn"  bắt đầu như thế với nhân vật cô bé tên Huôi. Số phận đã sắp đặt cho cô, khi lớn lên, sẽ trở thành bà chúa Hòn. Hòn Chông là dãy đồi thấy, sát mé biển vịnh Xiêm La. Dân chúng sống bằng nghề chái lưới ở mé biển nhưng nguồn lợi lớn nhất vẫn là nghề trồng hồ tiêu. Ông Xìn Phóc là người Triều Châu lai Cao Miên, trở thành ông Chúa Hòn đầu tiên, sau khi ông chết, người kế vị là con trai ông, Hai Minh. Bá Vạn là người nắm giữ sổ sách thu chi cho Hai Minh. Ông này là người Triều Châu lai Việt Nam, tuổi chừng 60, lắm mưu nhiều kế, có ý định giết ông Chúa Hòn, lật con bà cả để dành tất cả tài sản về tay mình. Mười mấy năm trôi qua, nay Huôi đã trở thành hoa khôi trong vùng, xinh đẹp tuyệt trần, vóc dáng cao ráo, nước da trắng mịn, trán cao, môi đỏ như thoa son... Bá Vạn muốn mượn sắc đẹp của Huôi để lung lạc ông Chúa Hòn... *** Sơn Nam  (1926 - 2008) là một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam nổi tiếng với nhiều tác phẩm có giá trị. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, ông là người thành công ở nhiều lĩnh vực: lĩnh vực nghiên cứu, ông có nhiều biên khảo công phu, khoa học, khoảng 20 tác phẩm. Có những tác phẩm rất có giá trị cho việc tìm hiểu về vùng đất Nam Bộ, như: “Ấn tượng 300 năm, Bến Nghé xưa, Cá tính miền Nam, Danh thắng miền Nam, Đất Gia Định xưa, Đồng bằng sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa, Giới thiệu Sài Gòn xưa, Lịch sử An Giang, Lịch sự khẩn hoang miền Nam, Người Sài Gòn... “Sơn Nam là một trong số những nhà văn từng sống ở đô thị miền Nam nhưng tác phẩm vẫn được in liền mạch sau giải phóng, điều đó không phải dễ. Trước hết, tác phẩm của Sơn Nam không thuộc dạng a dua. Sống dưới chế độ ấy mà tránh được lối viết ấy quả là rất cao tay. Có lần người viết bài này hỏi vậy, Sơn Nam cười nhẹ, cũng chẳng giỏi giang gì đâu mà tôi chủ yếu viết về phong tục, về lịch sử khai khẩn đất đai Nam Bộ, và nếu là truyện thì đi vào tầng lớp nông dân, dân nghèo thành thị. Hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghiệp sáng tác, những trang viết của ông không đơn thuần là sự giải trí cho độc giả mà còn là những khảo cứu, khám phá về mảnh đất phương Nam. Là người Nam Bộ chính gốc nên nhà văn Sơn Nam là người am hiểu quá trình hình thành dải đất này. Những sáng tác của ông mang hơi thở của thiên nhiên, của văn hóa và con người Nam Bộ được thể hiện qua giọng văn giản dị, mộc mạc...” *** HÀ TIÊN LÀ TỈNH XA XUÔI NHỨT của miền Nam thời xưa cũng như thời nay nếu ta lấy Huế hoặc Saigon làm tiêu chuẩn. Khác với vùng sình lầy mũi Cà Mau, Hà Tiên có khung cảnh khá ngoạn mục, trong đất liền là đồi núi trùng điệp, ngoài biển là năm bảy chu4c hải đảo lớn nhỏ, Hà Tiên còn là nơi ‘‘ba biên giới’’ :Việt Nam, Cao Miên và vượt qua eo biển là đến Thái Lan . Mỗi ngọn đồi, mỗi hải đảo đều có một ông Chúa hay bà Chúa thống trị, khi chết, các ông bà này được tôn thờ trong miếu nhỏ, giống như trường hợp mấy ông Thành Hoàng. Lẽ dĩ nhiên các ông bà đều là người phàm mắt thịt, nhờ mưu mô, nhờ tài kinh doanh mà gây được thế lực với đám dân chúng ở xung quanh. Vài ông bà Chúa nếu còn sống đến năm nay chỉ độ non trăm tuổi, bởi vậy thành tích của họ còn được nhắc nhở tỉ mỉ với bao nhiêu tánh tốt và thói xấu. Chúng tôi xin thuật lại những giai đoạn gay cấn và thơ mộng nhứt của bà chúa hòn Me, một ngọn đồi nhỏ dính vào đất liền sát mé biển phía Bắc chợ Rạch Giá. Trước kia, bà là con gái một nông dân nghèo tên là Tư Thính, có lẽ họ Huỳnh ; Tư Thính cất căn nhà nhỏ ở chân đồi, giữa tư bề rừng rậm. Như đã nói, hòn Me xưa kia là hải đảo, đất phù sa lấn ra biển, nối hòn vào đất liền. Vùng chung quanh hòn quá ẩm thấp chịu ảnh hưởng nước mặn ngoài biển tràn vào nên cây cối mọc xơ rơ. Hằng năm, Tư Thính cày chừng một mẫu ruộng, kiếm chút ít lúa gạo đủ ăn trong gia đình. Buổi chiều đầu mùa mưa, cảnh vật buồn bã làm sao! Ếch nhái kêu vang bên chòi, trong bóng tối chập chờn, xa lắm qua rặng cây tràm mới thấy vài ánh đèn. Ở trên hòn là đói, khó cày cấy trồng tỉa. Bởi vậy Tư Thính đến tận vùng sình lầy mà chịu đựng muỗi mòng. – Ngày mai, cho con ra ruộng nghe ba! Tư Thính day lại. Đứa con gái vừa lên tám tuổi bưng chén cơm đến gần. Chú vuốt tóc con, bùi ngùi thương xót. Mẹ nó mất hồi năm ngoái. Ngày nào cũng, vậy, trước khi ra ruộng, chú bới sẵn chén cơm, gắp khứa cá để trong cái dĩa nhỏ. Khi thức dậy, đứa con ăn cơm một mình rồi ra ngồi ở góc sân, trông ra ruộng. Chú từ chối khéo léo: – Con ở nhà, ra ruộng nắng lắm. Nhưng bé Huôi vịn vai chú, nói thật nhanh: – Ngoài ruộng có cây thị, bóng mát. Nghe qua, chú Tư Thính giựt mình. Đành rằng đến tám chín tuổi thì đứa bé có chút ít trí khôn, ghi nhớ những gì mà người lớn thường nói nhiều lần. Tại sao bé Huôi biết ở ngoài ruộng có một cây thị, cây ấy to lắm, ở xa nhà, bé Huôi chưa ra tới đó lần nào? Hồi năm ngoái trái thị sai quằn, chú với tay hái năm sáu trái đem về nhà cho bé Huôi, trái thị mầu vàng da láng tỏa ra mùi thơm kỳ diệu mà nhiều người cho rằng có thể quyến rủ ma quỉ hoặc thần thánh. Chú Tư Thính hơi e ngại: – Mùa nầy thị chưa có trái. Ra đó, làm sao con ngủ trưa? Bé Huôi nói rành rọt như người lớn. – Con đội nón, ngồi dựa vô gốc cây. Vì không muốn quở mắng vô lý đứa con thân yêu, Tư Thính tìm cách từ chối: – Bữa nào rảnh, ba cho con ra ruộng. Ngoài đó muỗi mòng, đủ thứ kiến lửa, kiến vàng. Lâu lâu, vài con rắn bò ra… Bé Huôi cười dòn: – Con đâu sợ rắn. Ba hứa lâu rồi. Ngày mai, con ra ruộng mới được. Ba không bồng con thì con đi một mình. Gương mặt bé Huôi lúc bấy giờ trông thật dễ thương, mà cũng dễ sợ. Mắt nó sáng lên, hai tròng mắt đen lánh, hàm răng đều đặn, chói màu trắng ngà. Tư Thính ngỡ rằng người khuất mặt đã thúc giục bé Huôi nói những câu quá khôn ngoan, dành riêng cho mấy đứa bé ít lắm là mười bốn, mười lăm tuổi. Chú đốt đèn lên. Bé Huôi nghiêm nét mặt, đôi môi ửng đỏ như tô son. Chú Tư Thính nhìn kỹ đứa con gái rồi tự trấn an: “Lớn lên, nó xinh đẹp nhứt làng nầy. Con nít khôn trước tuổi là sự thường”. Bé Huôi ngáp dài: – Con muốn đi ngủ, sáng mai con ra ngoài gốc cây thị để coi ba cày ruộng. Ngoài đó vui lắm. Hôm sau, Tư Thính cố ý thức thật trể. Chú vác cày trên vai, cho đôi trâu đi trước, bé Huôi lững thững theo sau, đến gốc cây thị, nó ngồi xuống. Mặt trời lên cao, chưa chi, chú đã đổ mồ hôi lưng, bao nhiêu ý nghĩ đen tối hồi chiều hôm qua đều tan biến. Chú được yên tâm vì bé Huôi đã dựa lưng vào gốc cây thị. Nó nằm yên, như đã ngủ. Đôi trâu đi tới rồi đi lui, được ba rồi đến bốn, năm, sáu, bảy luống cày. Trong khi đó, từ dưới hang sâu bên gốc cây thị, một con rắn hổ to tướng bò lên. Rắn quấn mình chung quanh bụng bé Huôi, quấn một vòng, hai vòng, ba vòng rồi đến bốn vòng. Sau rốt, rắn ngẫng cổ lên, cao khỏi đầu bé Huôi. Rắn quơ đầu, hất mạnh cái nón lá trên đầu con bé rồi nghiêng cổ tới, im lìm. Đột nhiên Tư Thính giựt mình. Đôi trâu đứng lại, không chịu bước tới. Chú quơ roi quất mạnh: – Xe! Pháo! Hai con trâu Xe và Pháo rống lên quậy chân sau xuống bùn. Cả hai day mặt về phía Tư Thính, mắt trợn tròn như giận dữ. Tư Thính hỏi: – Điên rồi sao chớ? Cái gì? Nhưng đôi trâu dường như nhìn xéo về gốc cây thị. Tư Thính chợt nhớ tới bé Huôi. Chú trố mắt: – Trời ơi! Rắn quấn con tôi! Rồi bỏ đôi trâu, chú cố gắng chạy đến gò đất. Chú lê lết như có sức mạnh nào níu đôi chân trở lại. Bé Huôi vẫn ngồi yên, con rắn hổ quá to, nào kém gì con trăn. Kỳ dị nhứt là cái đầu rắn, cái đầu vươn lên nghiêng tới như cố ý che nắng cho bé Huôi. Vì sợ con rắn nọ siết chặt khiến bé Huôi nghẹt thở hoặc gãy xương ngực, chú đành liều bước đến gần với dụng ý xua đuổi con rắn, nếu cần, chú sẵn sàng chịu chết thay con. Con rắn nọ day mỏ về phía Tư Thính. Dưới ánh nắng tỏ rõ buổi trưa, chú thấy nó trợn mắt, mớ vảy lấp lánh như hàng trăm miếng kiếng màu xanh đậm. Nó hạ cái đầu xuống rồi từ từ tháo ra. Trong lúc ấy, Bé Huôi vẫn ngồi xếp bằng, xuôi tay. Khi rắn tháo mình đến vòng chót, Tư Thính chẳng còn kiên nhẫn được nữa. Chú la lớn: – Con ơi, chạy cho mau! Nhưng Tư Thính không đủ can đảm và không còn đường nào để chạy. Nhanh như cơn gió lốc, con rắn to tướng nó phóng ngang mặt chú, như để chận đường. Chú té quị xuống bùn rồi lồm cồm đứng dậy, vuốt mặt. Bé Huôi từ từ cựa quậy: – Ba! Sao ba té? Chú mừng quýnh vì đứa con thân yêu vẫn mạnh khỏe và tỉnh táo. Để vững bụng hơn, chú hỏi đôi ba lượt: – Con! Biết ba đây là ai không? Tay chú véo mạnh vào lưng bé Huôi, miệng nói lia lia: – Con có đau không? Con thức hay ngủ? Bé từ từ đứng dậy, đôi môi đỏ thắm hé nụ cười: – Ba nói, con tức cười quá… Nhưng Tư Thính cứ tiếp tục mở nút áo đứa con gái, xem kỹ làn da. Bấy lâu chú nghe đồn đãi rằng rắn hổ có hơi độc từ trong miệng phun ra. Bé Huôi nói: – Đói bụng rồi, về nhà ba nấu cơm cho con ăn nghe ba. Lập lức chú cõng đứa bé sau lưng, bước nhanh về căn chòi, hai con trâu rống lên, kéo mạnh cái cày vô chủ. Mâm cơm dọn ra, chú ăn sơ sài vài miếng rồi tháo ách cho đôi trâu vào chuồng. Con rắn to tướng ấy là điềm lạ, chưa biết lành dữ thế nào. Chú muốn gặp ông đạo Đất ở trong cốc phía Đông hòn Me để nhờ giải đáp. Bé Huôi lại đòi ngủ. Chú khuyên lơn: – Con đi xóm với ba, nghe con? – Con muốn ở nhà. – Rủi con rắn tới đây thì ai cứu con? Ba cõng trên vai, con cứ ngủ. Phải con ở nhà thì nãy giờ ba cày xong công ruộng rồi. Từ rày về sau, con đừng đòi ra gốc cây thị nữa. Bé Huôi trả lời: – Hồi nãy đâu phải con rắn! Cốc của ông đạo Đất hiện ra. Đó là cái chòi nhỏ bé lợp bằng tranh. Theo chữ nho, cốc là hang đá. Vùng Hòn Me thiếu những hang đá thiên nhiên. Đá xanh mọc nhô ra từng tảng lớn chỉ vừa cho đôi người ngồi núp mưa nắng mà thôi. Mùa mưa đến, nước chảy tuôn tràn, thỉnh thoảng mấy tảng đá sụp xuống, mang theo mấy giề đất sỏi. Mấy ông lên non tầm đạo vì không tìm được cái hang thiên tạo nên cất tạm căn chòi nhỏ bằng cây. Gọi cốc cho có vẻ huyền bí của một đạo sĩ tu tiên. Ông đạo Đất gây được khá nhiều uy tín nhờ tài trị bịnh. Bất cứ bịnh nhân nào đến, ông cũng hốt cho một mớ đất để làm thuốc: bỏ cục đất trong một cái túi nhỏ, đeo dưới ngực để trị bịnh tà ma, đem cục đất nướng cho dòn rồi tán nhỏ, uống với nước nóng để trị bịnh ăn uống khó tiêu, đau bao tử. Gặp trường hợp trặc chân gãy tay, ông đạo vẫn dùng đất sét mà bó rịt vết thương. Tư Thính giữ thái độ im lặng kính cẩn khi đến cốc. Ông đạo nằm dài trên nền đất, không trải chiếu đắp mền gì cả. Khi Tư Thính lên tiếng: – Kinh chào thầy…. Ông đạo vẫn lim dim, hồi lâu mới chịu gật đầu. Bé Huôi nói khá to, phá rối sư yên tĩnh: – Ở đây buồn quá, ba ơi! Con muốn về nhà. Ông đạo Đất lồm cồm ngồi dậy, nhìn bé Huôi. Tư Thính bèn lên tiếng như để biện hộ cho đứa con: – Nó còn nhỏ, thầy tha thứ cho. Mấy ngày rày nó nói bậy bạ, lại xảy ra vài điều lạ. Bởi vậy tôi tới đây nhờ thầy giúp giùm. Sau khi sờ tay lên trán bé Huôi, ông Đạo nói: – Cháu nó vui chơi nhưng mà cặp mắt hơi khác thường. Không đợi Tư Thính trả lời, ông Đạo nói giọng bí mật: – Chắc là vừa xẩy ra chuyện gì xúc phạm tới…đất! ‘‘ Xúc phạm tới đất’’ là lời nói mà ông Đạo thốt ra trước tiên, khi gặp bất cứ bệnh nhân nào. Vì quá tin tưởng nên ai nấy đều nhìn nhận rằng ông nói đúng: đau bụng, trúng thực đều do sự ăn uống, thức ăn vẫn là cơm gạo, thịt cá, những món từ đất mọc lên, hoặc đứng trên đất, cảm mạo là do hơi đất ẩm ướt gây ra… Tư Thính nói: – Thầy ở trong cốc mà nói chuyện ngoài đời quá đúng. Vậy thì điềm lúc nãy tốt hay xấu đối với gia đình tôi? Con gái tôi sau nầy ra sao? – Điềm gì? Cứ nói đầu đuôi tự sự. Tôi thấy nó… ngồi trên đất, thiệt là lạ lùng, chú nói trước, tôi nói sau. – Dạ, nó ngồi trên mô đất cao, ỏ gốc cây thị ngoài ruộng. Tôi lo cày nên không chú ý, dè đâu… Thế là Tư Thính thuật lại tất cả chi tiết với sự tưởng tượng khá dồi dào của chú. Chú cho rằng con rắn nọ to bằng cây cột nhà, vảy lấp lánh ngũ sắc, khi biến mất thì gió thổi rung chuyển mấy gốc cây cổ thụ. Lúc rắn quấn vào bé Huôi, gió như ngừng thổi, chim trên trời như ngừng bay và hai con trâu như chết đứng trên mặt đất. Ông đạo Đất chắp tay xá bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc rồi nói: – Mô Phật! Cháu bé ngồi trên đất gặp con rắn hổ đất. Tất cả đều là đất. Nhưng con rắn hổ đất to lớn ấy là thuộc vào loại phi thường, tên nó là gì chú biết không? Tư Thính chắp tay thưa: – Dạ… chắc là mãng xà vương! Ông đạo lắc đầu: – Đó là con rồng đất! Trên mặt đất nầy nó là vua. Vua của đất phù hộ, chầu chực cháu bé chẳng khác nào con rồng vàng chầu chực ông vua ở chốn đế đô. Rồng đất là vua của đất. Rồng đến tìm cháu bé, đó là điềm mai sau có ông vua ông chúa nào đó đến ra mắt. Rồng quấn chung quanh cháu bé để che chở phò hộ, đó là sau nầy cháu bé trở thành một bà hoàng, bà chúa. Chú nên vui mừng đi, ráng chịu cực chừng năm bảy năm nữa. Tư Thính chắp tay lạy ông đạo Đất: – Thiệt vậy hả ông? Trời Phật giúp tôi, làm sao tôi tạ ơn? Dè đâu con tôi tốt phước như vậy? Ông vua nào, ông chúa nào tới đây cưới con tôi? – Ông chúa hòn hoặc ông chúa đảo, hoặc ông chúa tàu, tàu buôn Hải Nam. Tôi chưa biết rõ. Mai chiều, chú đưa cháu bé trở lại. Nghĩ một lát, ông đạo hỏi: – Cháu tên gì, năm nay mấy tuổi? Bé Huôi cất tiếng sỗ sàng: – Tên Huôi. Hỏi bao nhiêu tuổi để làm gì? Bộ tôi ngu dại phải không? Nãy giờ, tôi đâu làm điều gì sai quấy với thầy. Ông đạo càng tin tưởng nơi tài đoán điềm giải mộng của mình. Lập tức ông khều Tư Thính ra sân mà nói khẽ: – Thấy chưa? Nó là đứa khôn trước tuổi, ăn nói lanh lợi đâu thua gì người hai ba chục tuổi. Chú nên nuôi dưỡng tử tế. Nó có trí khôn, có nhan sắc. Tôi xem không lầm đâu. Năm bảy chục năm, con Rồng đất mới xuất hiện một lần. Rồng đất mà phò hộ che nắng che mưa cho con Huôi thì phải biết. Tư Thính chắp tay xá ông đạo; – Cám ơn ông, về sau nầy nếu may ra con tôi nên danh nên phận thì tôi chẳng bao giờ dám quên ơn lớn. – Kìa! Ngón tay ông đạo Đất chỉ ra ngoài sân. Lần nầy chú Tư Thính không khỏi kinh ngạc vì bé Huôi đứng xớ rớ bên bụi cây quỳnh hoa. Nó nâng niu từng lá dài rồi đột nhiên nói to: – Cây gì mà trồng hoài không trổ bông? Ông đạo giải thích: – Cháu ơi! Nhiều khi đôi ba năm nó mới trổ một lần. – Ông cho cháu vài lá, đem về trồng vài tháng thì nó trổ hàng chục cái bông cho ông coi. Để chiều theo ý bé Huôi và để biết thêm về tương lai của đứa con gái kỳ lạ nọ, ông đạo Đất hái một lá dài trao cho Tư Thính. Hai cha con lững thững về nhà theo con đường mòn sình lầy. Tư Thính nghe tim đập mạnh trong lồng ngực. Chú muốn kêu to: – Con tôi trở thành bà chúa! Thiệt vậy sao? Trời đất xui khiến hay ma quỷ xúi giục? Nhiều đứa bé khôn ngoan nhưng chết yểu hoặc là trở thành điên khùng, lên đồng lên bóng. Chú nắm tay con. Căn chòi hiện ra. Trong phút giây chú ngỡ là cung vàng điện ngọc. Chắc còn nhiều năm nữa bé Huôi mới trở thành bà chúa. Chừng đó chú già nua rồi. Chú chỉ muốn có căn nhà cao ráo để dưỡng già…   Hòn Chông là dẫy đồi thấp, sát mé biển vịnh Xiêm La. Dân chúng sống bằng nghề chài lưới ở mé biển nhưng nguồn lợi to nhứt vẫn là nghề trồng tiêu (hồ tiêu). Với mười lăm hay hai chục dây chăm bón kỹ lưỡng là một gia đình sống dễ dàng. Bao nhiêu đất tốt để trồng tiêu đều thuộc về ông Thần Phước cai quản, vì là người Triều Châu lai Cao Miên rồi lai Việt Nam nên tên ông được đọc là Xìn Phóc. Mấy người kỳ lão ở địa phương, nhứt là người tá điền, đều kiêng nể, gọi ông là ông Chúa Hòn, ông vua nho nhỏ giàu có và sang trọng nhứt của vùng Hòn Chông. Với số vốn tích trữ từ mấy đời trước, ông thuê nhân công để khai thác mấy ngọn đồi ở vùng kế cận: núi Còm, núi Mo So. Khi bán hồ tiêu cho bọn thương gia Mã Lai, ông chỉ lấy vàng, không dùng hình thức tiền bạc nào khác. Bọn gia nhân đồn đãi ông dùng số vàng ấy để trấn ếm một vài “linh huyệt” trên Hòn Chông, nơi có phủ thờ của tiên nhân – một người từ Triều Châu qua lập nghiệp ở Hà Tiên, theo chân họ Mạc vào thế kỷ thứ XVIII. Năm được 86 tuổi, ông Thần Phước giao cho đứa con trai đầu lòng là cậu Hai Minh cai quản tài sản. Cậu Hai chưa được bốn mươi tuổi nhưng đã có một vợ chánh và hàng chục tì thiếp. Ở vùng hẻo lánh, thú vui duy nhất của cậu Hai vẫn là uống rượu và tìm gái đẹp. Vợ chánh sanh đứa con trai duy nhất là cậu Hai Điền. Ăn ở với khá đông tì thiếp từ mười năm qua, cậu Hai Minh không hài lòng cho lắm, vì chẳng nàng nào sanh được con trai. Một buổi chiều, cậu Hai Minh ra lịnh cho gia nhân: – Đưa tao qua núi Mo So. Bọn gia nhân dạ rân lên, đem chiếu bông trải xuống chiếc ghe mui vuông sơn son thếp vàng. Bấy giờ là mùa hạn, sông rạch đều cạn ráo. Bọn gia nhân buộc bốn sợi dây luộc trước mũi và sau lái ghe, mỗi sợi dây chắc chắn ấy nối liền vào một con trâu đực to tướng, gọi là trâu cổ. Đáy sông quá cạn phơi lớp bùn sình. Ấy thế, mà chiếc ghe vẫn lướt nhanh. Bốn đứa bé mặc áo xanh cỡi trên lưng trâu, quất roi thật mạnh. Cậu Hai Minh nằm dài, dựa tay vào cái gối thêu: – Chừng nầy, ở núi Mo So…mình làm cái gì cho vui? Hai Ú trả lời: – Dạ, chừng nầy con gái trong xóm tới bờ mới gánh nước và tắm… – Hay quá! Vừa cười, cậu Hai vừa vỗ tay lia lịa. Lát sau, cậu gật đầu nhòm Hai Ú: – Mầy giỏi quá. Mầy chưa dở lần nào hết. Lát nữa tao tới đó bất ngờ. Mầy làm thế nào cho mấy cô gái cứ gánh nước tự nhiên, đừng chào đón. – Thưa cậu, vậy thì tôi phải đi trước mới được. – Họ biết trước thì mất vui. Phải tình cờ mới vui. Hai Ú chắp tay thưa: – Dạ, đón rước long trọng là chuyện dễ, đón rước tự nhiên là chuyện khó, cần sắp đặt trước. Không khéo mấy cô gái e lệ rồi hoảng chạy thì sao? Cậu cứ tin lời tôi. Lập tức, Hai Ú đến trước mũi ghe, nhảy lên bờ rất nhẹ nhàng. Anh ta giành lấy một con trâu cổ, cởi sợi dây ra rồi quất mạnh cho trâu chạy nhanh đến núi Mo So. Vì chỉ có ba con trâu kéo nên chiếc ghe tiến chậm. Cậu Hai khen ngợi: – Thằng Ú giỏi quá, nó biết lo trước lo sau. À! Cái gì mà chộn rộn ở chân núi? Bọn gia nhân phía sau reo lên: – Cậu Hai ơi, họ đốt đuốc… Xóm nhỏ ở chân núi Mo So hiện ra, náo nhiệt như buổi chợ phiên. Khi đến chân núi, cậu Hai Minh gặp ngay Hai Ú. Anh ta cầm bó đuốc đứng sẵn: – Thưa cậu, mời cậu đến bờ suối… – Ủa! Tại sao xóm giềng im lặng quá vậy? – Dạ, tôi ra lịnh cho ai nấy đóng cửa lại ngủ sớm để một mình cậu tới bờ suối, mặc tình nói chuyện với các cô. Tôi đã khuyên các cô cứ gánh nước tự nhiên. Các cô cười giỡn kìa! Cậu nghe không? Trong phút giây, cậu Hai ngỡ mình sống trong khung cảnh thần tiên nơi thượng giới. Ánh đuốc rọi chập chờn vào vách đá hai bên con đường dốc. Đêm mười bốn, trăng khá sáng tỏ. Lúc cao hứng, cậu Hai Minh ra lịnh: – Hai Ú cứ đi trước, thật xa. Tao đi dưới bóng trăng vui hơn. Cần gì qua bên Tàu mới hưởng được vui thú. Nhưng Hai Ú như còn ngập ngừng. Anh ta khoát tay đôi ba lần như làm dấu hiệu riêng với người phía sau. Cậu Hai Minh chẳng mảy may chú ý đến chi tiết đó, cứ hỏi đồn dập: – Tới chưa? Chà! Mấy cô cười nghe dòn quá. Còn ở phía sau, ai mà đông dữ vậy? Hai Ú đáp: – Cậu coi thử! Đó là mấy người khiêng rượu cho cậu uống. – Thằng nầy giỏi thiệt. Thật ra Hai Ú đã dàn cảnh khéo léo từ lúc nãy với Mười Hấu – người có khá nhiều quyền thế ở vùng núi Mo So. Mười Hấu rất tinh thông võ nghệ, con gái ông ta thuộc vào hàng đẹp nhứt trong vùng. Khi gặp Mười Hấu, Hai Ú đưa ra ý kiến: – Ông Mười muốn làm giàu không? Đây là dịp may hiếm có. Cậu Hai Minh tới để tìm gái đẹp. Nếu ông Mười vui lòng, làm thế nào cho cậu Hai được thỏa mãn thì… Mười Hấu nhớ đến đứa con gái tên là Ngó: – Con gái tôi chắc hạp nhãn với cậu Hai Minh. Hai Ú đáp: – Cậu Hai chỉ thích như vậy thôi! Ông Xìn Phóc già khú rồi. Bây giờ, cậu Hai Minh là ông Chúa Hòn chớ còn ai đâu xa lạ. Ngọn suối ở núi Mo So quá nhỏ hẹp. So với vùng cao nguvên thì đó là nơi dơ bẩn kém thơ mộng, nhưng ở chốn sình lầy nước mặn đồng chua thì quả là mạch nước tiên ngọt ngào và tinh khiết. Hai Ú dừng lại báo tin trước: – Mấy cô nên vui vẻ… bởi vì cậu Hai thương mấy cô, chịu khó lặn lội tới đây. Cậu tới kìa. Đừng làm cho cậu giận. Ngày mai các cô sẽ được ban thưởng, mỗi cô ít nhất được một lượng vàng. Đó là chưa nói sau nầy hễ túng thiếu tiền bạc thì các cô tới gặp tôi, tôi nói giùm một tiếng với cậu Hai là xong. Câu Hai Minh cười dòn: – A ha ha! Đêm nay là đêm vui sướng nhất của đời tôi! Mấy cô cứ tự nhién, đẹp quá. Hai Ú đâu rồi? Đốt thêm vài ngọn đuốc. Mười Hấu và đứa gia nhân để cần xé đựng hàng chục hũ rượu trên tảng đá rồi nói nhanh: – Thưa cậu, tôi có đuốc… Cậu Hai vỗ vai Mười Hấu: – Chú ở đâu? Tôi nhớ gặp mặt vài lần rồi. Đuốc ở đâu? Đốt lên. Ba ngọn đuốc cháy chập chờn. Trong đám thôn nữ rõ ràng cô Ngó là hoa khôi. Nàng mặc áo ngắn tay, đứng bỡ ngỡ trong dòng suối, nước ngập lên tận gối. Ánh sáng chói chang làm nàng giựt mình: – Ai làm chi vậy? Chỗ này… của người ta gánh nước. Mười Hấu hơi e ngại, nói khéo cho con nghe: – Ngó ơi! Cậu Hai tới thăm là vinh hạnh cho con. Con cứ vui cười. Cậu Hai Minh hơi xúc động. Mấy tháng qua, cậu chỉ lân la với mấy nàng hầu thiếp ở trong phòng kín đáo, toàn là những cô gái ăn mặc sạch sẽ và ốm yếu mảnh khảnh. Cô Ngó đúng là một pho tượng, căng đầy nhựa sống. Cậu Hai cầm ngọn đuốc, đến gần. Cô lính quýnh, bước ra giữa dòng. Cậu vói tới, nắm tay cô mà kéo lại: – Lên bờ cho vui. Tôi đã nói là cứ tự nhiên. Tôi tới đây để tìm cái… tự nhiên mà. Cô Ngó mỉm cười, để lộ hai hàm răng đều đặn: – Dạ, mắc cỡ lắm, cậu Hai! Mình mẩy ướt mem như vầy khó coi quá, thành ra vô lễ với cậu. Hai Ú nói: – Cô Ngó cứ lên bờ, ngồi bên tảng đá để nghe cậu Hai dạy việc. Cậu Hai dìu người đẹp lên bờ, Mười Hấu bèn đem bầu rượu trao tận tay: – Xin mời cậu… – Ngon lắm! Ngon Iắm. Tôi uống rượu một mình coi sao được? Xưa nay vua đâu uống ruợu một mình. Vua uống thì các quan đại thần và hoàng hậu đều uống. Đem rượu ra, uống không hết thì đổ bỏ xuống dòng suối tiên nầy. Hai ba cô gái gánh nước đứng gần cô Ngó cũng hưởng được chút ân huệ, nhưng làm sao các cô nuốt được thứ rượu đế quá cay, quá nồng! Hai Ú nhắc nhở từng chập: – Cứ uống. Uống không nổi thì cứ làm bộ đưa lên môi. Bầu rượu được cậu Hai đưa sát môi cô Ngó. Cô nhăn mặt liếc qua Mười Hấu như để hỏi ý kiến. Mười Hấu nói: – Uống đi con. Cậu Hai đoái tưởng tới con đó. Cậu Hai lim dim đôi mắt, một tay vuốt mái tóc người đẹp, một tay nghiêng bầu rượu. Rượu đổ tràn xuống ngực người đẹp. Cậu đưa tay ra phía sau: – Rượu nữa! Rượu nữa! Cô tên gì? Uống rượu không được thì chắc là tắm bằng rượu được… Cô Ngó ôm ngực van nài: – Lạnh lắm… Cho tôi về. – Tôi cho cô về… chiếc ghe của tôi. Hai Ú đâu rồi? Sửa soạn về. Nãy giờ tao cũng hơi lạnh. Muỗi cắn quá. Xứ nầy nhiều muỗi. Bây giờ cô Ngó cầm đuốc dẫn đường cho tôi xuống bến. Hai Ú đi sát bên cô Ngó mà nói khẽ: – Nên hầu hạ khéo léo cho cậu Hai vui. Tài sản của ông Chúa Hòn để lại cho cậu Hai, nghĩa là để cho cô. Cậu Hai nhiều khi khờ dại, cô nên hy sinh để cho cha mẹ và chòm xóm được nhờ. Dân chúng hai bên đường ngồi nép mình bên cánh cửa mà trông ra. Họ vừa mừng vừa sợ. Nếu cô Ngó được cậu Hai đem về Hòn Chông làm tì thiếp thì cha cô là Mười Hấu trở nên hách dịch, ai chịu cho nổi. Cô Ngó vào nhà, thay quần áo mới, trong khi cậu Hai Minh nằm trên ghe, thúc hối từng chập: – Trốn rồi sao chớ! Muỗi cắn chết. Tụi bây lo cho tao chớ.Tao hơi mệt rồi đó. Đắp mền cho tao. Con nhỏ đó sao chưa xuống đây quạt muỗi cho tao! Lát sau, chiếc ghe hầu trở về Hòn Chông, bốn con trâu kéo hì hục. Tội nghiệp cho mấy thằng bé cỡi trâu. Chúng nó ngủ gục từng chập, bị Hai Ú chửi rủa không ngớt mồm. Cô Ngó ngồi bên gối của cậu Hai, cầm cây quạt lông mà phe phẩy, cậu Hai khen ngợi từng chập: – Giỏi quá, khỏe quá! Quạt mạnh tay cho muỗi bay bớt thì ta mới ngủ được. Về Hòn Chông ít muỗi mòng hơn. Mỗi ngày, cô em cứ ở không mà quạt cho ta ngủ, khỏi gánh nước. Cậu Hai Minh đến Hòn Chông vào lúc hừng sáng. Hai Ú cõng cậu lên nhà. Cô Ngó hơi sợ vì lần đầu tiên trong đời, cô bước vào căn nhà sang trọng, đúng ra là ba bốn căn nhà cất chung trong vòng rào kiên cố. Năm sau cô Ngó hạ sanh một đứa con trai. Mấy nàng tì thiếp khác lấy làm bất mãn và ganh tị. Bà chánh thất lo ngại hơn ai cả, vì đứa bé nọ có thể tranh giành gia tài và ngôi vị với đứa con của bà. Bà đến gặp cậu Hai để cằn nhằn: – Ông làm như vầy còn gì thể diện! Cậu Hai đáp: – Tôi là… ông Chúa Hòn. Ba tôi đã trao quyền hạn cho tôi. Hằng ngày, nếu không đùa giỡn thì tôi làm gì bây giờ? Tôi thích đi đó đi đây, lâu lâu uống rượu say một lần. Bà chánh thất nói khẽ: – Con Ngó là đứa mà tôi không ưa. Nó làm mất thể diện dòng họ. – Trời ơi! Bà đừng vu cáo mà tội nghiệp nó. Nó là gái quê, là tì thiếp, hằng đêm cầm quạt đuổi muỗi cho tôi ngủ. Nhờ nó mà bà được rảnh rang, vả lại, hễ gặp bà là nó chắp tay xá… – Nó sanh đứa con trai. Nó là con của thằng Mười Hấu quê mùa dốt nát ở núi Mo So. Mười Hấu trở thành… cha vợ của ông Chúa Hòn, thiên hạ đàm tiếu nhiều lắm rồi. Cậu Hai bị chạm tự ái nên quát to: – Bà đừng nói vậy. Muốn tôi đuổi con Ngó sao? Tôi chưa đuổi nó được trong năm nay, nhưng tôi hứa là vài năm nữa nó không còn ở nhà nầy. – Nhưng thằng con của con Ngó! Nay mai nó tranh quyền hạn với con tôi thì sao? Ông nên suy nghĩ lại… Câu nói ấy khiến cậu Hai Minh bâng khuâng. Lập tức, ông vào phòng riêng nằm dài, vỗ trán cho bớt nhức đầu. Nãy giờ, cô Ngó đã nghe ngóng được câu chuyện. Chờ khi cậu Hai ngồi dậy uống chén trà, cô mới than thở; – Tội nghiệp em, nếu ở đây hoài, chắc có ngày em chết vì bà lớn. Tốt hơn, ông cho em bồng con về núi Mo So để rồi xin vô chùa, đi tu. – Đâu được! Đôi mắt đen huyền và làn da trắng mịn của cô Ngó khiến cậu Hai ngây ngất. Cậu vuốt ve cô nhưng cô ngồi lui ra, cầm cây quạt mà phe phẩy, cánh tay với tới. Những cảnh ghen tương giận hờn và tranh chấp quyền lợi đã xảy ra quá nhiều lần, nào riêng gì trong năm nay. Tin rằng thời gian trôi qua thì mọi việc đều tự dàn xếp êm thấm, cậu Hai uống thêm vài chén rượu rồi ngủ khò. Cô Ngó ngưng tay, không quạt nữa. Đến trưa, khi cậu mở mắt thức dậy thì cô lanh tay cầm cây quạt đứng thẳng người phía sau lưng. Đột nhiên cô buông tay. Cây quạt rơi xuống nền gạch, cán bằng ngà gây tiếng động vừa khô khan, vừa tức tối. Cậu day lại. Cô Ngó giả vờ như giựt mình, vội cúi mình lượm cây quạt đem lên, xem kỹ rồi run rẩy đến quì bên cạnh cậu Hai: – Ông tha cho tôi. Cán quạt nứt bể rồi. Cây quạt nầy quý giá lắm. Nói xong, nàng ngả người, quơ tay lên trời, kêu lên ú ớ mấy tiếng rồi nằm dài trên gạch. Cậu Hai đứng dậy quì bên cạnh đỡ nàng lên: – Em! Sao vậy? Tôi ở đây thì em cứ ở đây. Tôi chưa nói điều gì mất lòng em mà. Làm vậy tôi buồn… Cô mở mắt ra, nói khẽ: – Em chưa đủ sức để hầu hạ ông, ông nên tìm người khác. Em đâu dám hờn giận ai. Chẳng qua là em thức quá nhiều. Nãy giờ, em đứng mà quạt không nghỉ tay. Mấy ngón tay tê cóng, phần thì hồi sáng đến giờ em chưa rảnh để ăn món gì ráo… Lần đầu tiên trong đời, cậu Hai để rơi hai giọt nước mắt. Suốt đêm rồi, Ngó ngồi ngoài mùng mà quạt cho cậu được mát mẻ, đến canh ba, khi giật mình thức dậy, cậu vẫn thấy cô ngồi lì một chỗ, bảo đi ngủ thì cô trả lời rằng còn đủ sức quạt hầu. Rồi đến trưa nay, cô Ngó lại đứng quạt. Đúng là một cực hình mà cô chịu đựng không một lời than thở. Cậu Hai nói: – Mệt thì em lên giường tôi. Cô Ngó lắc đầu: – Em đâu dám. Rủị bà chánh thất bắt gặp, chắc em bị giết… – Tôi gọi đứa khác vô đây để em nghỉ tay. Từ rày về sau, em khỏi làm công việc cực nhọc nầy. – Thôi, cho em về mà nuôi con. Nó là con trai, em thương nó lắm. Hai tiếng ‘‘con trai’’ khiến cậu Hai thêm kiêu hãnh. Đây là đứa con trai thứ nhì của cậu, phải nuôi nó bằng được để dự phòng trường hợp đứa con trai của bà vợ lớn chết thình lình. Cậu đáp: – Em ở đây. Người chánh thất giận vì em có con trai, tôi biết. Bây giờ, em tìm cách gởi đứa con đó đi xa, đặt tên xấu xí. Hễ mang tên xấu thì làm sao nó trở về đây chia gia tài được? Thế là hôm sau, mọi sự thắc mắc trong gia đình cậu Hai Minh đều được giải quyết êm ái. Đứa con mới sanh phải mang tên là thằng Cẩu – nghĩa là con chó. Mười Hấu được mời đến Hòn Chông để lãnh đứa cháu ngoại đem về, nuôi tại núi Mo So. Cậu Hai ban cho Mười Hấu mười lượng vàng. Cô Ngó bị đày xuống nhà bếp, lo cơm nước cho cậu Hai. Mời các bạn đón đọc Bà Chúa Hòn của tác giả Sơn Nam.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chú Nhóc Gavroche - Victor Hugo
Sau cái chết của tướng Lamarque, người duy nhất trong giới lãnh đạo Pháp có cảm tình với giai cấp lao động, nhóm sinh viên đứng đầu là Enjolras tức giận với chế độ đã chuẩn bị cho một cuộc cách mạng vào đêm ngày mùng 5, rạng sáng mùng 6 tháng 6 năm 1832. Cuộc cách mạng cũng có sự tham gia của những người nghèo khổ, trong đó có cậu bé lang thang Gavroche (Ga-vơ-rốt). Một trong những người tham gia cách mạng là Marius Pontmercy, một sinh viên bị gia đình xa lánh vì quan điểm tự do của mình, anh đã đem lòng yêu Cosette, bây giờ đã trở thành một thiếu nữ hết sức xinh đẹp. Gia đình nhà Thénardier cũng đã chuyển tới Paris, trở thành những kẻ lang thang trộm cắp, sau khi thỏa thuận với Javert về việc giao nộp Vanjean cho hắn, bọn họ đã tìm cách đột nhập nhà của Valjean trong khi Marius đang đến thăm Cosette. Tuy nhiên con gái của Thénardier là Éponine cũng đã đem lòng yêu người sinh viên và cô đã thuyết phục bọn chúng rời khỏi đó. Ngày hôm sau cuộc cách mạng nổ ra, những sinh viên bắt đầu dựng chiến lũy trên những con phố hẹp ở Paris. Javert đã trà trộn vào hàng ngũ sinh viên nhưng bị Gavroche phát hiện và Enjolras (Ăng-giô-rát) đã bắt giữ hắn. Khi biết người yêu của Cosette cũng tham gia nổi dậy, Valjean đã gia nhập với họ, bởi vì ông muốn bảo vệ Marius. Ông đã xin Enjolras thả Javert. Éponine cũng đứng vào hàng ngũ khởi nghĩa để bảo vệ Marius và cô đã chết hạnh phúc trên tay Marius sau khi hứng một viên đạn thay anh. Trong trận chiến tiếp theo, Valjean cứu sống Javert khỏi tay những người sinh viên và để viên thanh tra đi. Ông cũng cứu được Marius khi đó đã bị thương, nhưng tất cả những người khác, kể cả Enjolras và Gavroche đều đã bị giết. Valjean vác theo Marius chạy trốn theo những đường cống ngầm ở Paris, khi ra đến miệng cống ông chạm trán Javert, ông cố gắng thuyết phục Javert cho mình thời gian để trả Marius về gia đình của anh. Javert đồng ý đề nghị của Jean và nhận ra rằng ông ta đang bị kẹt giữa niềm tin vào luật pháp và niềm tin vào lòng tốt của con người mà Valjean đã cho viên thanh tra thấy, Javert cũng hiểu rằng ông không bao giờ có thể nộp Valjean cho chính quyền được nữa. Không thể chịu đựng nổi tình trạng khó xử này, Javert nhảy xuống sông Seine tự vẫn. ... *** Trên một lối đi của vườn Luxembourg, một người đàn ông đã già cùng một cô thiếu nữ đang đi dạo như thường ngày. Người đàn ông tóc bạc trắng, trạc sáu mươi tuổi. ông có vẻ buồn và nghiêm nghị, người vạm vỡ và dáng mệt mỏi như các quân nhân về hưu. Trông ông có vẻ tốt bụng, nhưng khó gần. Jean Valjean - bởi vì đó chính là ông ta -mặc một chiếc quần màu xanh, một áo rơ-đanh-gốt cùng màu, đội một chiếc mũ rộng vành. Chiếc cà-vạt đen nổi bật trên chiếc áo sơ mi bằng vải toan thô màu trắng. Cô thiếu nữ đi cùng với ông chẳng phải ai khác chính là Cosette. Nàng có thái độ vừa già vừa trẻ con của các học sinh nội trú trong ký túc xá bà xơ. Hai người có vẻ như cha và con. Một chàng thanh niên tầm vóc trung bình, tóc đen dày, trán cao thông minh, vẻ hăng say và hơi kiêu kỳ, cũng có thói quen đi dạo trên lối đi ấy. Chàng tên là Marius de Pontmercy. Lúc nào chàng cũng thấy họ ở đấy. Trong hai ba ngày liền, Marius để ý tìm hiểu người đàn ông có tuổi nhưng chưa phải là một ông già và cô thiếu nữ chưa có vẻ một cô gái trưởng thành ấy. Jean Valjean và Cosette làm như không nhìn thấy chàng, họ trò chuyện với nhau với vẻ bình thản và lãnh đạm. Cô gái thì vui vẻ ríu rít không ngừng. Người đàn ông thì ít nói, thỉnh thoảng lại nhìn cô gái với đôi mắt chứa chan tình phụ tử khó nói nên lời. Ngạc nhiên vì bộ tóc trắng của người đàn ông, Marius đặt tên cho ông ta là Leblanc, tên này hợp quá đến nỗi mặc dầu không ai biết họ, người ta đều nói: - A! ông Leblanc đã đến ghế mình ngồi rồi kìa! Suốt trong một năm đầu tiên ngày nào Marius cũng trông thấy họ như vậy vào cùng một giờ ấy. Chàng thấy người đàn ông thì còn được chứ cô gái thì hơi có vẻ cau có..Sang năm thứ hai, ông ta không có thói quen đến vườn Luxembourg nữa. Marius chẳng hiểu tại sao. Cuối cùng một hôm ông ta trở lại. Đó là một sáng mùa hè trong trẻo, Marius vui lắm. Chàng đi thẳng tới lối đi của mình và nhìn thấy hai người quen biết vẫn ngồi trên chiếc ghế ấy. Khi lại gần, chàng nhận ra vẫn là người đàn ông cũ nhưng cô gái thì hình như không phải. Lúc này chàng nhìn thấy là một cô gái đẹp, cao ráo, có bộ tóc tuyệt vời với đôi má ửng hồng và cái miệng thanh tú thoát ra một tiếng cườn giòn giã. Một bức chân dung thực sự của Raphael. Khi Marius đi qua bên cô, chàng trông thấy hai hàng mi dài buông trên đôi mắt nhìn xuống. ông Leblanc để ý thủ đoạn của chàng trai trẻ và có vẻ khá tức giận. ông muốn bảo vệ Cosette... Marius quyết định đi theo họ. Hai người ở phố Phía Tây, trong một ngôi nhà mới ba tầng, bên ngoài trông nhũn nhặn. Vừa thấy họ khuất sau chiếc cổng xe, Marius bèn đi vào hỏi người gác cổng: - Thưa, có phải ông ở tầng một vừa mới đi vào không ạ? - Không. - Người gác cổng trả lời. - Đó là ông ở tầng ba. Marius tiếp tục hỏi: - ông ấy là người thế nào ấy nhỉ? - Sống bằng lợi tức. Một con người tốt lắm, chuyên làm việc thiện cho kẻ nghèo tuy chẳng giàu có gì. Marius ra đi lòng phơi phới. Ngày hôm sau ông Leblanc và con gái chỉ xuất hiện ở vườn Luxembourg có một lát. Họ ra về lúc trời còn sáng trưng. Marius đi theo họ về phố Phía Tây như mọi khi. Tới cổng xe, ông Leblanc để con gái đi trước, rồi dừng lại trước khi bước qua ngưỡng cửa, quay lại nhìn Marius chằm chằm. Ngày hôm sau, họ không đến vườn Luxem-bourg nữa. Suốt ngày Marius chờ đợi vô ích. Đêm xuống, chàng tới phố Phía Tây và nhìn thấy ánh đèn trên cửa sổ tầng ba. Chàng dạo chơi dưới mấy cửa sổ đó cho tới lúc ánh đèn tắt. Hôm sau nữa, không thấy họ đến vườn Lux-embourg, Marius chờ suốt ngày, đêm thì lại làm.nhiệm vụ canh gác dưới mấy cái cửa sổ cho đến mười giờ. Suốt tám ngày như thế. ông Leblanc và con gái không đến vườn Luxembourg nữa. Buổi tối các cửa sổ tầng ba cũng không còn sáng đèn và cũng không thấy ai đi vào trong nhà nữa. Ngày hôm sau, hai cha con không đến vườn Luxembourg, ở cửa sổ cũng không có ánh đèn. Rèm cửa sổ khép kín và tầng ba tối om. Marius gõ vào cổng xe, chàng vào hỏi người gác cổng: - ông ở tầng ba đâu rồi hả ông? - Dọn nhà đi rồi. - Người gác cổng trả lời. - Thế bây giờ ông ta ở đâu ạ? - Tôi có biết gì đâu. - Thế ông ấy không để lại địa chỉ ạ? - Không. Thế là Marius mất dấu vết của người mà chàng yêu... Hè qua, thu lại, rồi mùa đông tới. Cả ông Leblanc lẫn cô thiếu nữ, không ai đặt chân đến vườn Luxembourg nữa. Marius chỉ có mỗi một ý nghĩ: nhìn lại khuôn mặt dịu hiền dễ thương ấy. Chàng tìm mãi, tìm khắp nơi, mà không thấy. Chàng không còn là Marius nữa, không còn là con người mơ mộng đam mê, quả quyết, hăng hái và kiên định, kẻ dũng cảm thách thức số mệnh nữa. Chàng sa vào nỗi buồn trầm uất. Thế là hết, chàng không muốn làm việc, đi dạo làm chàng mệt mỏi, nỗi cô đơn làm chàng chán ngán. Hình như mọi thứ đều đã biến mất hết. Marius vẫn ở căn nhà nát Gorbeau. Chàng chẳng chú ý đến một ai. Thực ra thì thời kỳ này trong căn nhà chẳng còn ai trừ chàng và gia đình Jondrette mà chàng đã một lần thanh toán hộ tiền nhà nhưng không hề nói chuyện với ông bố, bà mẹ và hai đứa con gái. Những người thuê nhà khác đều đã dọn đi, đã chết hoặc bị đuổi vì không trả tiền nhà. Một ngày mùa đông năm đó, đầu buổi chiều hơi có chút ánh nắng tuy nhiên mới là ngày mồng hai tháng hai. Marius chầm chậm thả bộ trên đại lộ về phía thanh chắn đường để tới phố Saint Jacques. Chàng vừa đi vừa cúi đầu nghĩ ngợi..Bỗng nhiên trong sương mù chàng cảm thấy có ai huých khuỷu tay vào mình. Ngoảnh lại chàng trông thấy hai cô ăn mặc rách rưới, một cô cao gầy, cô kia thấp hơn, chạy qua rất nhanh, thở hổn hển, hoảng hốt như chạy trốn. Hai cô chạy về phía chàng nhưng vì không trông thấy nên va vào chàng. Trong ánh hoàng hôn, Marius nhận ra hai bộ mặt nhợt nhạt, đầu tóc rối tung, mũ mãng thảm hại, sống váy tả tơi và hai đôi chân trần. Vừa chạy hai cô vừa trò chuyện với nhau. Qua những tiếng lóng độc địa Marius hiểu là cảnh sát thành phố đã bắt hụt hai người, chúng thoát được. Marius dừng lại một lát. Chàng đang định đi tiếp thì trông thấy ở dưới đất ngay dưới chân mình một gói nhỏ màu xám. Chàng cúi xuống nhặt lên. Đó là một chiếc phong bì bên trong đựng giấy tờ gì đó. - ái chà, - Chàng lẩm bẩm. - hai cô nàng khốn khổ đánh rơi cái này đây! Chàng quay lại gọi nhưng không thấy họ đâu nữa. Cho rằng họ đã đi xa, chàng bỏ chiếc phong bì vào túi, đi ăn tối. Chàng lại nghĩ tới sáu tháng yêu đương hạnh phúc đã qua giữa không gian và ánh sáng mênh mông dưới cây cối vườn Luxembourg. Buổi tối khi cởi áo đi ngủ, tay chàng sờ phải túi áo trong có cái gói nhặt được trên đại lộ. Chàng đã quên mất nó. Chàng nghĩ nên mở ra thì hơn bởi vì có thể trong gói có địa chỉ của các cô gái. Thực tế nếu nó thuộc về các cô thì ít nhất cũng có những thông tin cần thiết để hoàn trả cho người mất. Chàng mở phong bì ra. Phong bì không dán, trong có bốn lá thư, cũng không dán nốt. Trên có địa chỉ. Cả bốn lá thư đều xộc lên mùi thuốc lá nồng nặc. Bốn lá thư do cùng một người viết, gửi lời đề nghị cứu giúp tới một bà hầu tước, một bà bá tước, một nhà buôn và ông Làm Phúc ở Nhà thờ Saint - Jacques - du - Haut - Pas. Có điều lạ là bên dưới bốn lời nài nỉ được ký bốn tên khác nhau: Don Alvarès, Người đàn bà Balizard, Genflot và Fabantou..Hơn nữa không có gì tỏ ra những lá thư trên thuộc về hai cô gái mà Marius đã gặp ở đại lộ. Cuối cùng thì cũng chỉ là những giấy tờ vô giá trị. Marius cất lại những lá thư vào trong phong bì, vứt tất cả vào một xó rồi đi ngủ. Khoảng bảy giờ sáng hôm sau, chàng vừa dậy và ăn sáng xong, đang cố gắng ngồi vào làm việc thì có tiếng gõ cửa khe khẽ. - Mời vào. - Marius nói. Cửa mở ra. - Bà cần gì ạ, thưa bà Bougon? - Marius nói tiếp, mắt không rời sách vở và bản thảo trên bàn. Một giọng không phải của bà Bougon trả lời: - Xin lỗi, thưa ông... Marius quay ngay lại và thấy một cô gái. Một cô gái trẻ măng đứng giữa cánh cửa hé mở. ánh sáng ban ngày qua chiếc cửa sổ con của gian phòng áp mái chiếu vào đúng trước cửa ra vào, soi tỏ bộ mặt nhợt nhạt của cô ta. Một cô gái xanh xao, hốc hác, gầy còm, mặc mỗi một chiếc áo sơ mi với một chiếc váy mỏng che tấm thân hở hang run rẩy, lạnh giá. Marius đứng dậy, ngạc nhiên ngắm con người không khác gì cái bóng thoáng qua trong giấc mơ. Nhưng bộ mặt này không phải hoàn toàn xa lạ đối với chàng. Chàng như đã trông thấy ở đâu rồi. - Thưa cô, cô cần gì ạ? - Chàng hỏi. Cô gái trả lời với giọng lè nhè sinh ra từ cuộc sống khổ cực. - Có thư cho ông, ông Marius. Cô gọi tên chàng, vậy thì đúng cô có việc với chàng rồi, nhưng cô ta là ai? Sao lại biết tên chàng? Chẳng chờ được mời, cô ta bước vào. Cô bước vào với vẻ kiên quyết và nhìn toàn bộ gian phòng cùng cái giường chưa xếp dọn với một vẻ tự tin đến não lòng. Cô đi chân đất. Những lỗ thủng lớn trên váy cô để lộ ra đôi chân dài và đôi đầu gối còm cõi. Cô run lập cập. Quả thật, tay cô cầm một bức thư giơ ra cho Marius. Mở bức thư, Marius nhận thấy tảng xi dùng dán thư, rộng và to tướng vẫn còn ẩm. Bức thư không phải từ xa tới. Chàng đọc:.Tôi biết ông có lòng tốt với tôi, đã chi trả tiền nhà hộ cho tôi cách đây sáu tháng. Trời phù hộ cho ông, chàng trai trẻ. Cô con gái đầu lòng của tôi sẽ thưa với ông là hai ngày nay chúng tôi không còn lấy một mẩu bánh, mà vợ tôi lại ốm. Nếu lòng tôi không tuyệt vọng như thế này, tôi đâu dám hy vọng trái tim bao dung của ông sẽ thấu tình nhân đạo trước sự trình bày của tôi mà vui lòng độ trì cho tôi, hạ cố cho tôi chút ân huệ. Xin ông nhận ở đây lời chào trân trọng đối với tất cả những người làm việc thiện của toàn nhân loại. Jondrette Tái bút: Con gái tôi chờ lệnh ông, ông Marius kính mến. Mọi việc đột nhiên thế là sáng tỏ. Lá thư này đến từ chỗ bốn lá thư trước. Cùng chữ viết, cùng giọng văn, cùng một thứ chính tả, cùng một thứ giấy, cùng một mùi thuốc lá. Như vậy là năm bức thư, năm câu chuyện, năm tên, năm chữ ký mà chỉ một người ký: Jondrette, nếu như quả thật ông ta tên là Jon-drette. Đã khá lâu rồi, kể từ ngày Marius tới ở căn nhà nát này, chàng rất hiếm khi có dịp gặp người hàng xóm và nhìn rõ mặt ông ta. Có thể vài lần chàng chạm trán Jondrette ngoài hành lang hoặc trên cầu thang, nhưng đối với chàng đó chỉ là những chiếc bóng, chàng đâu có để ý, thế cho nên chiều tối qua ở đại lộ chàng gặp mà không nhận ra hai đứa con gái của Jondrette, bởi vì chính là chúng, vì thế cho nên khi cô gái này thoạt bước vào phòng chàng, mặc dù kinh tởm và thương hại, chàng đã lờ mờ nhận ra mình từng có lần gặp cô ta. Đến giờ thì chàng nhìn sự việc thật tỏ tường. Chàng hiểu ông láng giềng Jondrette trong nỗi tuyệt vọng đã làm ăn trên cơ sở khai thác tình thương ở những con người từ thiện. Hắn tìm kiếm các địa chỉ, dưới các tên giả hắn viết thư cho những người hắn cho là giàu có và có lòng thương người, những bức thư này hắn sai hai đứa con gái mang đi, có nghĩa là đưa con gái vào những việc liều lĩnh nguy hiểm: thì cha chúng liều mạng thí chúng mà lại. Hắn đã đánh bạc với số phận và đem hai con gái mình vào cuộc. Marius hiểu rằng rất có thể, cứ xem như tối qua.chúng trốn chạy hổn hển, hãi hùng và qua những tiếng lóng chàng nghe được, chúng còn làm những việc đen tối khác nữa, kết quả là từ tất cả những cái đó - trong cái xã hội của giống người mà chúng được tạo ra, chúng đã trở thành hai kẻ khốn cùng, trẻ con không phải trẻ con, thiếu nữ không phải thiếu nữ, đàn bà không phải đàn bà, một loại quỷ ô trọc nhưng lại rất đỗi ngây thơ, sản phẩm của nghèo khổ cơ cực. Nhưng mà, trong khi Marius nhìn cô gái một cái nhìn vừa kinh ngạc vừa thống khổ, thì cô gái vẫn cứ đi lại trong căn phòng áp mái với vẻ mạnh dạn của bóng ma. Marius suy nghĩ và để cho cô gái làm gì thì làm. Cô đến gần bàn: - A! - Cô nói. - Sách! Một tia sáng lướt qua con mắt lờ đờ của cô. Cô tiếp tục nói, giọng biểu thị niềm hạnh phúc được khoe khoang một điều mà khi nghe thấy, không ai đã là con người lại có thể vô cảm. - Em biết đọc đấy nhé! Em ấy! Cả biết viết nữa! Cô nhúng bút vào mực và quay về phía Marius: - ông muốn xem không? Lại đây mà xem, em viết một chữ cho coi. Và trước khi chàng kịp trả lời, cô viết luôn lên một trang giấy trắng để ở giữa bàn: Bọn cớm đấy. Rồi vứt bút: - Không có lỗi chính tả đâu nhé. ông coi mà xem. Em và em gái em cũng đã được học hành đấy chứ, không phải lúc nào cũng như bây giờ đâu. Cô đến bên Marius và đặt một bàn tay lên vai chàng. - ông không để ý đến em chứ em thì em biết ông, ông Marius ạ. Em gặp ông ở cầu thang, rồi em thấy ông vào nhà cái ông gọi là bố Mabeuf ở phía Austerlitz ấy, thỉnh thoảng em đi chơi phía ấy mà. Tóc ông bù lên như thế này nom hay quá nhỉ. Giọng cô dịu dàng hẳn đi chỉ còn nghe khe khẽ. Marius hơi lùi lại..- Thưa cô, - Giọng chàng trang trọng và lạnh lẽo. - tôi nhặt được cái gói này có lẽ của cô. Xin cho tôi hoàn lại cô. Và chàng đưa ra chiếc phong bì trong có bốn bức thư. Cô gái vỗ hai tay vào nhau, reo lên: - Chúng em tìm khắp nơi. Rồi cô ta cầm ngay lấy gói thư, mở ra. - Trời ơi là trời! Thế mà hai chị em em cứ tìm mãi. Té ra ông tìm thấy ư? Trên đại lộ, đúng không nào? Con em cận thị của em chẳng được việc gì. Về đến nhà không thấy đâu nữa. Để khỏi phải đánh, chẳng được ích gì, chúng em bảo là đã đưa thư đến những người đó nhưng họ không cho gì. Tuy nhiên cô giở lá thư thỉnh cầu gửi đến "ạng làm phúc ở Nhà thờ Saint - Jacques - du - Haut - Pas" ra. - Đây này! Thư này là cho ông già vẫn đi lễ này. à, nhưng mà về việc này thì đến giờ rồi. Em mang thư đi đây. Có thể ông ta sẽ cho chút gì mà ăn. Thế là Marius nhớ lại mục đích cô gái khốn khổ đến tìm chàng. Chàng tìm trong túi áo ghi-lê, chẳng thấy gì cả. Lục sâu mãi hết túi nọ đến túi kia, cuối cùng Marius tìm được năm frăng mười sáu xu. Đó là tất cả những gì mà lúc này chàng có trên đời. Chàng giữ lại mười sáu xu, đưa năm frăng cho cô gái. Cô gái cầm lấy đồng năm frăng. - Tốt rồi! - Cô nói. - Thế là có nắng rồi! Cô xốc áo sơ mi lên hai vai, cung kính chào Marius, rồi thân mật vẫy tay, vừa đi ra cửa vừa nói: - Chào ông nhé. Dù sao cũng có chút gì. Em đi tìm ông già đây. Này ông Marius, ông biết không, em vẫn thấy ông đi theo ông già ấy với cô con gái ông ta ở vườn Luxembourg thời gian gần đây... Marius giật nẩy mình: - Em biết họ ư? Em có biết họ ở đâu không? Bảo tôi với nào! Muốn gì em cũng có..- Đấy nhé, em biết ông quá rõ nhé! - Cô đáp. - Còn địa chỉ họ ấy à, để em xem... Khi đi ngang qua tủ com-mốt, cô thấy một mẩu bánh mì đã khô, phát mốc lên trong bụi, cô bèn chớp lấy, rồi đi ra. ... Mời các bạn đón đọc Chú Nhóc Gavroche của tác giả Victor Hugo.
Tử Tước và Em - Julia Quinn
Chàng - một tử tước cao ngạo ăn chơi trác táng hạng nhất London đang có ý muốn kết hôn trong năm nay. Và người chàng để mắt tới không ai khác ngoài Edwina xinh đẹp, em gái nàng.   Nàng - một cô gái thông minh, bướng bỉnh, đang muốn chọn chồng cho em gái. Và lẽ dĩ nhiên người nàng muốn chọn cho Edwina không thể nào và không bao giờ là chàng. Thế rồi định mệnh đưa đẩy, người nàng muốn em gái mình tránh xa nhất lại là người đưa nàng vào vòng say mê… *** Nhận định   “Tử tước và em có mọi thứ bạn muốn trong một tiểu thuyết lãng mạn lịch sử. Quinn là nhà văn bậc thầy của thể loại này.” - D. Salvagin, Romance Reader    “Julia Quinn thực sự là Jane Austen đương đại.” - Jill Barnett *** Việc ấy xảy đến khi Anthony mười tám tuổi, về nhà trong kỳ nghỉ hè và chuẩn bị cho năm đầu tại đại học Oxford. Anh sẽ gia nhập vào AllSoulsCollege, như cha anh cũng đã tham gia trước anh, và cuộc đời của anh tươi sáng và chói lọi như bất kỳ một người mười tám tuổi nào có quyền được hưởng. Anh đã khám phá ra phụ nữ, và có thể là huy hoàng hơn, họ khám phá ra anh. Cha mẹ anh vẫn còn tái tạo một cách hạnh phúc, đã thêm Eloise, Francesca, và Gregory vào gia đình, và Anthony đã cố gắng hết sức để không đảo tròn mắt khi anh đi ngang qua mẹ trên đại sảnh - mang thai với đứa thứ tám! Nó hơi không thích hợp, trong suy nghĩ của Anthony, có con vào độ tuổi của họ, nhưng anh giữ ý kiến đó cho riêng mình. Anh là ai mà dám nghi ngờ sự thông thái của Edmund chứ? Có thể anh cũng sẽ muốn nhiều con cái hơn ở độ tuổi ba mươi tám. Khi Anthony phát hiện ra, thì đã là chiều muộn. Anh vừa trở về từ một cuộc cưỡi ngựa dài và bầm tím với Benedict và mới chỉ vượt qua cánh cửa trước của Aubrey Hall, căn nhà tổ tiên của dòng họ Bridgerton, khi anh thấy cô em gái mười tuổi đang ngồi trên sàn nhà. Benedict vẫn còn đang ở trong chuồng ngựa, đã thua vài cuộc cá độ ngu ngốc với Anthony, lụât quy định cậu phải ở lại và tắm rửa cho mấy con ngựa. Anthony ngừng lại khi anh thấy Daphne. Nó đã đủ kỳ lạ khi em gái anh lại ngồi giữa sàn của gian đại sảnh. Nó còn kỳ lạ hơn khi cô bé đang khóc. Daphne không bao giờ khóc. “Daff,” anh nói ngập ngừng, quá trẻ để hiểu phải làm thế nào với một người phụ nữ đang khóc lóc, và tự hỏi liệu anh có bao giờ học được không, “chuyện gì -” Nhưng trước khi anh có thể kết thúc câu hỏi của mình, Daphne đã ngước đầu lên, và ánh nhìn tan vỡ trong đôi mắt nâu to tròn cắt vào anh như một lưỡi dao. Anh sượt chân lùi một bước, biết rằng có điều gì đó không ổn, không ổn kinh khủng. “Ông chết rồi.” Daphne thì thầm. “Papa đã chết.” Trong một lúc Anthony chắc chắn rằng anh đã nghe nhầm. Cha anh không thể chết được. Những người khác chết trẻ, như Chú Hugo, nhưng Chú Hugo còn rất trẻ và mỏng manh. Chà, ít nhất thì trẻ hơn và mong manh hơn Edmund. “Em nhầm rồi.” Anh nói với Daphne. “Em nhất định là đã nhầm.” Cô bé lắc đầu. “Eloise nói với em. Ông đã... Nó là...” Anthony biết anh không nên lắc em gái anh khi cô bé đang khóc, nhưng anh không thể ngăn mình được. “Nó là cái gì, Daphne?” “Một con ong.” Cô thì thầm. “Cha bị chích bởi một con ong.” Trong một lúc Anthony chẳng thể làm gì khác ngoài nhìn chằm chằm vào cô. Cuối cùng, trong một giọng khàn khàn và khó có thể nhận ra, anh nói. “Một người đàn ông không chết vì ong đốt, Daphne.” Cô bé không nói gì, chỉ ngồi trên sàn nhà, cổ họng co giật khi cố kiềm chế nước mắt. “Cha đã từng bị đốt trước đây rồi.” Anthony nói thêm, âm lượng trong iọng anh tăng lên. “Anh đã ở cùng với cha. Cả hai cùng bị đốt. Bọn anh đã đi ngang qua một cái tổ ong. Anh bị chích trên vai.” Tự ý, tay anh đưa lên chạm vào vết mà anh đã bị chích từ nhiều năm trước. Trong một lời thì thầm anh nói thêm. “Cha bị đốt trên cánh tay.” Daphne chỉ nhìn chằm chằm vào anh với một vẻ mặt trống rỗng. “Cha ổn thôi.” Anthony ra lệnh. Anh có thể nghe được sự sợ hãi trong giọng của mình và biết anh đang làm cho em gái anh hoảng sợ, nhưng anh lại không có sức mạnh nào để kiềm chế điều đó. “Một người đàn ông không thể chết vì một vết ong đốt!” Daphne lắc đầu, đôi mắt cô bé bỗng trông như đã hàng trăm năm tuổi. “Đó là một con ong.” Cô nói trong một giọng trống rỗng. “Eloise đã thấy mà. Một phút trước cha chỉ là đang đứng đó, và sau đó cha đã... cha đã...” Anthony cảm thấy điều gì đó rất kỳ lạ đang dâng lên trong anh, như thể là các cơ bắp của anh đang chuẩn bị nhảy ra khỏi da anh vậy. “Sau đó cha đã thế nào, Daphne?” “Ra đi.” Cô bé trông ngạc nhiên bởi từ đó, ngạc nhiên nhiều như anh cảm thấy. Anthony để Daphne ngồi lại trên đại sảnh và đi lên cầu thang ba bậc một tới phòng ngủ của cha mẹ anh. Chắc chắn cha anh không chết. Một người đàn ông không thể chết vì một vết ong đốt. Điều đó là không thể. Hoàn toàn điên rồ. Edmund Bridgerton còn trẻ, ông khoẻ mạnh. Ông cao lớn, đôi vai ông rộng, cơ bắp đầy sức mạnh, và vì Chúa, không có một con ong mật ngớ ngẩn nào có thể đánh bại ông. Nhưng khi Anthony đến sảnh trên lầu, anh có thể nói bởi sự im lặng hoàn toàn và trọn vẹn của hàng tá hoặc hơn nữa số người hầu lảng vảng quanh đó rằng, tình thế nghiêm trọng. Và những khuôn mặt thương hại của họ... cho đến tận cuối đời anh sẽ còn bị ám ảnh bởi những gương mặt thương hại đó. Anh đã nghĩ anh phải chen lấn để vào phòng cha mẹ anh, nhưng những người hầu đã tránh ra như thể họ bị ném vào Biển Đỏ, và khi Anthony đẩy cánh cửa mở, anh đã biết. Mẹ anh đang ngồi trên mép giường, không khóc than, không cả gây ra một tiếng động, chỉ nắm lấy tay cha anh khi bà chầm chậm đung đưa người trước ra sau. Cha đang nằm yên. Yên như... Anthony còn không muốn nghĩ đến cái từ đó nữa. “Mama?” Anh ho. Anh đã không còn gọi mẹ như thế từ nhiều năm rồi, bà đã là “Mẹ” từ khi anh rời Eton. Bà quay lại, chậm chạp, như thể nghe tiếng anh từ xuyên qua một con hầm dài, rất dài. “Chuyện gì đã xảy ra?” anh thì thầm. Bà lắc đầu, đôi mắt bà tuyệt vọng, xa xăm. “Mẹ không biết.” Bà nói. Đôi môi bà vẫn hé mở một khoảng, như thể bà muốn nói gì đó nữa nhưng đã quên mất. Anthony bước tới trước một bước, cử động của anh ngượng nghịu và giật giật. “Ông ấy đã đi rồi.” Violet cuối cùng cũng thì thầm. “Ông ấy đã ra đi và mẹ... ôi, Chúa ơi, mẹ...” Bà đặt một bàn tay lên bụng căng tròn với em bé. “Mẹ đã nói với cha - ôi, Anthony, mẹ đã nói với cha - ” Bà trông như thể có thể nứt vỡ từ bên trong. Anthony kiềm lại nước mắt đang làm cay mắt anh, chích vào họng anh và đi đến bên cạnh bà. “Sẽ ổn thôi, mama.” Anh nói. Nhưng anh biết nó không hề ổn. “Mẹ đã nói với cha đây phải là đứa cuối của chúng ta.” Bà thở gấp, khóc trên vai anh. “Mẹ đã nói với cha mẹ không thể mang thai đứa nào nữa, và cha mẹ phải cẩn thận, và... ôi, Chúa ơi, Anthony, mẹ sẽ làm bất cứ việc gì để có cha ở đây và trao cho cha một đứa con nữa. Mẹ không hiểu. Mẹ không thể hiểu được...” Anthony ôm mẹ khi bà khóc. Anh chẳng nói gì; nó có vẻ như là vô dụng khi cố gắng thốt ra từ nào thích hợp với sự hủy hoại trong tim anh. Anh cũng không thể hiểu được. o O o Những người bác sĩ tới sau đó vào buổi tối và tuyên bố họ bị bối rối. Họ đã từng nghe về điều này trước đây, nhưng chưa bao giờ ở một người trẻ và khoẻ mạnh như thế. Ông thật đầy sức sống, thật mạnh mẽ; chẳng ai có thể biết được. Sự thật rằng em trai Hugo của vị tử tước đã chết hoàn toàn đột ngột vào năm ngoái, nhưng những việc như thế không hẳn là di truyền trong gia đình, và bên cạnh đó, ngay cả khi Hugo đã chết bên ngoài ngôi nhà, không ai đã từng nhận thấy một nốt ong đốt trên da anh ta. Nhưng một lần nữa, chẳng có ai đã tìm cả. Chẳng ai có thể biết được, những người bác sĩ nói vậy, lặp đi và lặp lại cho đến khi Anthony muốn bóp cổ hết tất cả bọn họ. Cuối cùng, anh đuổi họ ra khỏi ngôi nhà, và anh đưa mẹ vào giường. Họ đã phải chuyển bà đến một phòng ngủ còn trống; bà trở nên khích động với ý nghĩ ngủ trên cái giường mà bà đã chia sẻ với Edmund từ rất nhiều năm. Anthony cũng đã sắp xếp đưa các em vào giường, nói với chúng rằng họ sẽ nói chuyện vào buổi sáng mai, rằng tất cả mọi chuyện sẽ tốt thôi, và anh sẽ chăm sóc cho chúng như cha đã mong muốn. Rồi anh đi vào căn phòng nơi cha anh vẫn còn nằm đó và nhìn ông. Anh nhìn ông và nhìn ông, nhìn chằm chằm trong nhiều tiếng đồng hồ, chỉ hơi chớp mắt. Và khi anh đã rời phòng, anh rời khỏi đó với một phiên bản khác của cuộc đời anh, và một sự hiểu biết mới về ngày tận số của mình. Edmund Bridgerton đã chết ở lứa tuổi ba mươi tám. Và Anthony đơn giản là không thể hình dung được có bao giờ vượt qua cha anh trong bất cứ điều gì, ngay cả về tuổi tác. Chủ đề về những kẻ ăn chơi trác táng, tất nhiên, đã được thảo luận trước đây trên mục báo này, và Tác giả đã đi đến một kết luận là có tồn tại những kẻ ăn chơi trác táng, và có tồn tại những Kẻ Ăn Chơi Trác Táng. Anthony Bridgerton là một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng. Một kẻ ăn chơi trác táng (viết thường) còn trẻ và chưa chín chắn. Anh ta khoe khoang những chiến công của mình, cư xử với cực điểm của chứng ngu ngốc, và nghĩ rằng anh ta nguy hiểm đối với phụ nữ. Một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng (viết hoa) biết rằng chàng nguy hiểm đối với phụ nữ. Chàng không phô trương những chiến công của chàng, bởi vì chàng không cần phải làm thế. Chàng biết chàng sẽ được thì thầm khắp nơi bởi những đàn ông cũng như phụ nữ, và trên thực tế, chàng thà rằng họ đứng có thì thầm gì về chàng hết. Chàng biết chàng là ai và chàng đã làm gì; những trò tường thuật chi tiết, đối với chàng, thật là rườm rà. Chàng không cư xử như một kẻ ngu ngốc chỉ bởi vì lý do đơn giản rằng chàng không phải là thằng ngốc (không nhiều hơn những gì được trông chờ ở tất cả thành viên thuộc giới tính nam). Chàng có rất ít kiên nhẫn cho những nhược điểm của xã hội, và thành thật mà nói, hầu hết các lần Tác giả chẳng thể nói rằng nàng đổ lỗi cho chàng được. Và nếu đó không miêu tả Tử Tước Bridgerton - rõ ràng là người độc thân thích hợp nhất của mùa vũ hội này - đến hoàn hảo, Tác giả nên ngừng nghề viết ngay lập tức. Câu hỏi duy nhất là: liệu năm 1814 sẽ là năm chàng cuối cùng cũng đầu hàng niềm hạnh phúc tuyệt vời của hôn nhân? Tác giả nghĩ... không. Tạp chí của Lady Whistledown, ngày 20 tháng 4 năm 1814 “Làm ơn đừng nói với chị,” Kate Sheffield nói với căn phòng rộng lớn, “rằng cô ta lại viết về Tử Tước Bridgerton lần nữa chứ.” Cô em kế của cô, Edwina, nhỏ hơn đến gần bốn tuổi, nhìn lên từ sau tờ báo một trang. “Làm sao mà chị biết?” “Em đang cười khúc khích như một người điên.” Edwina cười khúc khích, làm rung chiếc ghế sofa thêu hoa mà họ đang ngồi. “Thấy chưa?” Kate nói, tặng cho em gái một cú thúc vào cánh tay. “Em lúc nào cũng cười khúc khích khi cô ta viết về mấy gã ma cà bông đáng quở trách.” Nhưng Kate lại cười toét miệng. Có rất ít thứ mà cô thích hơn là chọc em gái. Với ý tốt, tất nhiên. Mary Sheffield, mẹ của Edwina, và mẹ kế của Kate đã gần tám năm nay, liếc lên từ đồ thêu của bà và đẩy cặp kính lên cao hơn trên sống mũi. “Hai đứa cười cái gì đấy?” “Chị Kate đang nổi điên lên vì Lady Whistledown lại viết về ngài tử tước phóng đãng đó nữa.” Edwina giải thích. “Chị không nổi điên. nói, ngay cả khi không có ai lắng nghe. “Bridgerton?” Mary hỏi lơ đãng. Edwina gật đầu. “Vâng.” “Cô ấy lúc nào cũng viết về anh ta.” “Con nghĩ cô ấy chỉ thích viết về những kẻ ăn chơi trác táng.” Edwina bình luận. “Tất nhiên là cô ấy thích viết về mấy kẻ trác táng.” Kate vặn lại. “Nếu cô ấy mà viết về những người chán ngắt, thì chả ai sẽ mua tạp chí của cô ấy.” “Điều đó không đúng.” Edwina trả lời. “Chỉ mới tuần trước cô ấy đã viết về chúng ta đó thôi, và ông trời mới biết chúng ta không phải là những người đáng quan tâm nhất ở Luân Đôn.” Kate mỉm cười với sự ngây thơ của em gái. Kate và Mary có thể không phải là người đáng quan tâm nhất Luân Đôn, nhưng Edwina, với mái tóc màu vàng ngọt ngào như bơ và đôi mắt xanh trong đến sững sờ, đã được vinh danh là Người Không Thể So Sánh của năm 1814. Kate, mặt khác, với mái tóc và đôi mắt một màu nâu giản dị, thường được nhắc đến như là “Chị gái lớn của Người Không Thể So Sánh”. Kate vờ như còn có cách nói tệ hơn. Ít nhất thì chưa có ai bắt đầu gọi cô là “Chị gái già của Người Không Thể So Sánh.” Điều đó rất nhiều phần gần với sự thật hơn là bất cứ người nhà Sheffield nào chịu thừa nhận. Ở tuổi hai mươi (gần như là hai mươi mốt, nếu người ta thành thật về điều đó), Kate hơi dài răng để có thể tận hưởng mùa vũ hội đầu tiên ở Luân Đôn. Nhưng đã chẳng có lựa chọn nào khác. Nhà Sheffield đã không từng giàu có ngay cả khi cha Kate vẫn còn sống, và từ khi ông qua đời vào năm năm trước, họ đã buộc phải tiết kiệm nhiều hơn nữa. Họ chắc chắn là chưa đến mức vào nhà tế bần, nhưng phải lo lắng cho từng đồng và xem xét từng bảng. Với tài chính bị thu hẹp, nhà Sheffield chỉ có thể sắp xếp một khoản tiền cho một chuyến đi đến Luân Đôn. Thuê mướn một ngôi nhà - và một cỗ xe - và thuê một ít người hầu vừa đủ cho mùa vũ hội tốn một khoản tiền. Nhiều tiền hơn là họ có thể xoay sở để có thể trang trải qua cả hai lần. Như thế, họ phải chuẩn bị trong năm năm khó khăn để có thể chu cấp cho chuyến đi này đến Luân Đôn. Và nếu các cô gái không thành công ở Hội Chợ Hôn Nhân... À thì, chả có ai sẽ đẩy họ vào nhà tù nợ nần, nhưng họ sẽ phải trông đến một cuộc sống yên bình của nghèo khó thanh đạm ở một mái nhà tranh đáng yêu nhỏ nhắn nơi vùng Somerset. Và vì vậy hai cô gái đành phải khởi đầu mùa vũ hội đầu tiên trong cùng một năm. Đó là một quyết định rằng thời gian logic nhất là khi Edwina mười bảy và Kate sắp hai mươi mốt. Mary sẽ muốn chờ cho đến khi Edwins đã mười tám, và chín chắn hơn một chút, nhưng điều đó sẽ làm cho Kate gần hai mươi hai, và trời ơi, nhưng ai sẽ cưới cô lúc đó chứ? Kate cười nhăn nhó. Cô còn không muốn một mùa vũ hội. Cô đã biết rằng cô không thuộc dạng sẽ thu hút sự chú ý của mọi người. Cô không đủ xinh xắn để che lấp sự thiếu hụt của hồi môn, và cô chưa bao giờ học cách cười điệu và nói chuyện dịu dàng và đi đứng duyên dáng, và làm tất cả những việc mà các cô gái khác dường như biết cách làm từ trong nôi. Ngay cả Edwina, người chẳng có một cái xương ranh mãnh nào trong người, bằng cách nào đó cũng biết cách đi và đứng và thở dài sao cho đàn ông chạy vù tới, chỉ để có cái vinh dự được đưa nàng sang đường. Kate, mặt khác, luôn luôn đứng với đôi vai thẳng và cao, không thể ngồi yên nếu cuộc sống của cô phụ thuộc vào điều đó, và đi như cô đang ở trong một cuộc đua - và tại sao lại không? Cô luôn tự hỏi. Nếu một người đang đi đến đâu đó, có lý gì khi không đến đó nhanh chóng? Còn đối với mùa dạ hội của cô ở Luân Đôn, cô còn không thích thành phố nhiều nữa. Ôi, cô có một khoảng thời gian vui vẻ, và cô đã gặp nhiều người tử tế, nhưng một mùa vũ hội Luân Đôn dường như là một sự phung phí tiền bạc khủng khiếp đối với một cô gái sẽ hoàn toàn hài lòng được ở lại nông thôn và tìm một anh chàng hiểu biết lý lẽ để mà cưới. Nhưng Mary không chấp nhận điều gì như thế. “Khi ta cưới cha con,” bà nói, “ta đã thề sẽ yêu thương con và đem đến cho con mọi sự chăm sóc và tình thương ta sẽ dành cho con ruột của ta.” Kate đã thu xếp để vừa thốt ra được một từ “nhưng - ” trước khi Mary tiếp tục với, “ta có trách nhiệm đối với người mẹ tội nghiệp của con, cầu Chúa cho bà yên nghỉ, và một phần của trách nhiệm đó là thấy con được cưới xin hạnh phúc và định.” “Con có thể hạnh phúc và được bảo đảm ở thôn quê mà.” Kate đã trả lời. Mary đã đối lại, “Có nhiều người đàn ông để lựa chọn hơn ở Luân Đôn.” Sau đó Edwina cũng đã tham gia, khăng khăng nói rằng cô sẽ hoàn toàn khốn khổ nếu không có Kate, và bởi vì Kate không bao giờ có thể chịu được khi nhìn thấy em gái không hạnh phúc, số phận cô được quyết. Và thế là cô ở đây - ngồi trong một căn phòng khách hơi sờn cũ, trong một căn nhà thuê ở phần rìa Luân Đôn mà gần như hợp thời, và... Cô nhìn quanh một cách tinh nghịch... và cô sắp sửa giật tờ tạp chí từ tay em gái. “Chị Kate!” Edwina kêu ré lên, mắt cô trợn vào mảnh báo nhỏ hình tam giác còn lại giữa ngón tay cái và ngón trỏ. “Em chưa xong mà!” “Em cữ đọc nó mãi.” Kate trả lời với nụ cười ngoác miệng táo tợn. “Bên cạnh đó, chị muốn coi cô ta viết gì về tử tước Bridgerton hôm nay.” Đôi mắt của Edwina, thường xuyên được ví như mặt hồ Scot tĩnh lặng, ánh lên quỷ quái. “Chị quan tâm khủng khiếp đến ngài tử tước đấy, Kate. Có điều gì chị không nói với mẹ và em đúng không?” “Đừng có ngu ngốc thế. Chị còn không biết anh ta. Mà nếu chị có biết, có thể là chị sẽ chạy về hướng ngược lại. Anh ta cụ thể là loại đàn ông mà hai chúng ta nên tránh xa bằng mọi giá. Anh ta rất có thể quyến rũ một tảng bẳng ấy chứ.” “Kate!” Mary bật ra. Kate nhăn nhó. Cô đã quên mất rằng mẹ cô đang lắng nghe. “Chà, đó là sự thật.” Cô thêm. “Con đã nghe rằng anh ta có nhiều người tình hơn là sinh nhật của con nữa.” Mary nhìn cô trong vài giây, như thể cố quyết định bà có muốn trả lời hay không, và cuối cùng bà nói, “Không phải đó là một chủ đề thích hợp cho tai con đâu, nhưng nhiều người đàn ông “Ôi.” Kate đỏ mặt. Có rất ít thứ kém hấp dẫn hơn là bị phản đối khi một người đang cố gắng đưa ra một lập luận quan trọng. “Chà, thế thì, anh ta có gấp đôi con số nhiều. Cho dù trường hợp nào đi nữa, anh ta quá bữa bãi hơn hầu hết những người đàn ông khác, và không phải loại Edwina nên cho phép tán tỉnh nó.” “Con cũng đang tận hưởng một mùa vũ hội đấy.” Mary nhắc nhở cô. Kate chiếu vào Mary một cái nhìn khó chịu nhất. Họ đều biết là nếu ngài tử tước chọn tán tỉnh một người nhà Sheffield, đó sẽ không là Kate. ... Mời các bạn đón đọc Tử Tước và Em của tác giả Julia Quinn.
Như Chốn Thiên Đường - Julia Quinn
Những câu chuyện tình được chắp bút bởi nữ nhà văn Julia Quinn luôn ngọt ngào và lãng mạn. Tên tuổi của nữ nhà văn Julia Quinn không còn xa lại với những độc giả Việt Nam đam mê tiểu thuyết văn học lãng mạn cổ điển. Bà mang đến cho độc giả những câu chuyện tình yêu lãng mạn, bình dị nhưng cũng không thiếu những sóng gió và rào cản. Mặc dù không tốt nghiệp cũng như học qua bất cứ trường lớp đào tạo viết văn nào nhưng các tác phẩm của bà luôn được độc giả vô cùng đón nhận. Sách của bà thậm chí còn được dịch ra 28 ngôn ngữ trên thế giới và tên của bà cũng xuất hiện trong danh sách những tác giả ăn khách nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Và thêm một lần nữa, Như chốn thiên đường là tác phẩm không thể bỏ qua của Julia Quinn. Cốt truyện xoay quanh Honoria Symthe-Smith, cô con gái út của Bá tước Winstead và cũng là người chơi violin trong nhóm tứ tấu ở buổi hòa nhạc truyền thống hàng năm của gia đình mình. Cô biết rằng nhóm nhạc của mình chơi rất tệ nhưng cô nhận ra rằng việc cảm thấy xấu hổ cũng không có ích lợi gì nên luôn khoác lên vẻ mặt tươi cười vui vẻ mỗi khi biểu diễn. Tuy nhiên, Honoria hy vọng rằng năm nay sẽ là năm cuối cùng mình phải chơi trong nhóm tứ tấu vì cô đang quyết tâm kết hôn và bắt đầu một cuộc gia đình của riêng mình. Marcus Holroyd là bạn thân nhất của Daniel - anh trai của Honoria. Hồi nhỏ, Marcus là một đứa trẻ cô đơn, anh phải sống xa cha mẹ và được chăm sóc bởi bà Pimm - bảo mẫu của anh. Khi lên 12 tuổi, anh có được người bạn thân đầu tiên của cuộc đời mình, đó chính là Daniel. Cứ mỗi kỳ nghỉ đông, Marcus thường được Daniel rủ về gia đình của anh ta. Năm này qua năm khác, Marcus thậm chí còn dành nhiều thời gian của mình ở với gia đình của Daniel hơn gia đình của mình. Trước khi Daniel bỏ đi sống biệt xứ sau một cuộc đấu tay đôi, Marcus đã hứa với anh ta rằng anh sẽ trông nom Honoria để cô không vướng vào một cuộc hôn nhân sai lầm. Một lần, trong bữa tiệc ngoài trời của bà Royle, Honoria quyết tâm thu hút sự chú ý của những chàng trai độc thân được mời đến bằng cách đào một cái hố chuột chũi và cố tình tạo ra một tai nạn giả. Tuy nhiên, điều đó lại vô tình gây ra tai nạn cho Marcus, kéo theo đó là một loạt sự kiện dẫn đến nguy hiểm cho tính mạng của anh. Khi Marcus ở trên bờ vực giữa sự sống và cái chết, Honoria mới dần nhận ra anh có ý nghĩa thế nào với cuộc đời cô. Với văn phong lãng mạn đậm chất Julia Quinn, các tình tiết không quá gay cấn nhưng luôn khiến người đọc tò mò, Như chốn thiên đường chắc chắn sẽ khiến độc giả cảm nhận được tình yêu có một sức mạnh kỳ diệu, phá bỏ mọi quy tắc khô cứng của con người. Một buổi chiều cuối tuần nhẹ nhàng bên ly cà phê, một góc quán quen, chậm rãi thưởng thức cuốn sách này chắc chắn là một điều hết sức tuyệt vời!  *** Marcus Holroyd luôn luôn cô độc.   Mẹ của cậu chết khi cậu bốn tuổi, nhưng điều đó đã gây ra một tác động nho nhỏ đáng kinh ngạc đến cuộc đời cậu. Nữ bá tước Chatteris đã nuôi dạy con trai bà theo cách mẹ bà đã nuôi dạy các con của mình—nuôi dạy từ xa. Bà không vô trách nhiệm; bà có sự quan tâm và niềm tự hào to lớn trong việc tìm người bảo mẫu tốt nhất cho người thừa kế mới của chồng bà. Cô Pimm đã bước sang tuổi 50 và đã từng chăm sóc cho hai người thừa kế công tước và một tử tước. Quý bà Chatteris đặt con của bà vào vòng tay của Pimm, nhắc nhở người bảo mẫu rằng bá tước không thể chịu được dâu tây và do đó rất có khả năng là con bà cũng vậy, sau đó bà rời đi để thưởng thức vũ hội ở London.   Tại thời điểm lúc bà chết, Marcus chỉ gặp mẹ cậu đúng bảy lần.   Đức ngài Chatteris thì thích thú với cuộc sống thôn quê của ngài còn nhiều hơn cả vợ ngài và ngài thường xuyên cư ngụ tại Fensmore, căn nhà theo kiểu Tudor rộng rãi to lớn ở bắc Cambridgeshire, đã là chỗ ở của dòng họ Holroys trong nhiều thế hệ. Ngài nuôi dạy con trai ngài theo cách cha ngài nuôi dạy ngài. Cái kiểu mà phải nói là ngoài việc đảm bảo đứa trẻ được bê lên ngồi trên lưng ngựa lúc ba tuổi, thì ngài chẳng thấy có bất cứ lý do nào trên đời để chuốc phiền cho ngài cho đến khi thằng bé đủ lớn để mà nói năng nghe cho thông minh hợp tình hợp lý.   Bá tước không muốn tái hôn. Dù là ngài đã tự nhắc nhở rằng ngài phải để bản thân dành thời gian để đi cùng với người thừa kế của. Ngài ngắm nhìn Marcus và thấy một cậu bé có trí thông minh tuyệt vời, cực kì lực lưỡng, và một vẻ ngoài ưa nhìn. Quan trọng nhất, cậu bé khỏe mạnh như một con ngựa. Không có tác nhân nào cho thấy Marcus có thể bị bệnh và chết sớm, bá tước không thấy có bất kì lí do nào thuyết phục ngài làm một cuộc săn-tìm-vợ khác nữa, hoặc thậm chí tệ hơn, một người vợ khác. Thay vào đó ngài đã chọn đầu tư vào con trai của ngài.   Marcus có những người gia sư giỏi nhất. Cậu được theo học trong mọi nơi có thể có sự giáo dục của một quí ông. Cậu có thể gọi tên tất cả các loài động vật và thực vật. Cậu có thể cưỡi ngựa giống như cậu được sinh ra trên lưng ngựa, và nếu như tài đánh kiếm và bắn súng của cậu không thể thắng trong mọi cuộc thi đấu, thì cậu vẫn làm tốt hơn mức bình thường. Cậu có thể làm những bài thơ buồn chán và làm toán mà thậm chí không cần tới một giọt mực. Cậu có thể đọc tiếng Latin và tiếng Hy lạp.   Khi cậu mười hai tuổi.   Cái mà, có thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên, là cái tuổi cha cậu quyết định cậu có thể thực hiện một cuộc nói chuyện hợp với khuôn phép.   Nó cũng là tuổi mà cha cậu quyết định rằng Marcus phải thực hiện nấc tiếp theo trong sự nghiệp giáo dục của cậu, cậu phải rời khỏi Fensmore và đến học tại đại học Eton, nơi mà toàn bộ con trai nhà Holroyd bắt đầu nền giáo dục chính thức của họ. Điều này hóa ra lại là một tình huống tình cờ và vui vẻ nhất trong cuộc sống của một cậu trai trẻ. Bởi vì những gì Marcus Holroyd, người thừa kế địa vị bá tước của Chatteris, không có đó chính là những người bạn.   Không một người luôn.   Trong bắc Cambridgeshire, không có chàng trai nào thích hợp với người mà Marcus có thể chơi cùng. Gia đình quí tộc gần nhất là nhà Crowland, và họ thì chỉ có con gái. Gia đình tuyệt nhất tiếp theo thì thuộc tầng lớp trung lưu, có thể được chấp nhận dưới hoàn cảnh này, nhưng những người con trai của họ thì hoàn toàn lệch tuổi với cậu. Đức ngài Chatteris không muốn con trai ngài kết thân với những tá điền, vì vậy ngài chỉ đơn giản thuê thêm nhiều gia sư hơn nữa. Một cậu trai bận rộn không thể là một cậu trai cô độc, và bên cạnh đó, không người con trai nào của ngài có thể chạy rông ngang qua những cánh đồng với đám con ầm ĩ của người làm bánh mì.   Nếu bá tước hỏi con trai ngài về ý kiến của mình, ngài có thể có câu trả lời khác. Nhưng bá tước gặp con trai ngài một lần trên một ngày, chỉ ngay trước buổi ăn tối. Họ trò chuyện với nhau trong khoảng mười phút, sau đó Marcus sẽ đi lên phòng dành cho trẻ con và bá tước đi vào phòng ăn trịnh trọng của ngài, và tất cả chỉ có vậy.
Nhật Ký Bí Mật của Tiểu Thư Miranda - Julia Quinn
Tiểu thuyết lãng mạn lịch sử xuất sắc nhất - RITA Awards 2007 Hôm nay mình đã yêu. Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào của một Sắc đẹp Lộng lẫy. Cô bé đã học được cách chấp nhận những kỳ vọng của xã hội đối với mình… cho đến một buổi chiều, khi Nigel Bevelstoke - chàng Tử tước Turner đẹp trai, phong nhã – nghiêm trang hôn tay cô bé và hứa rằng: một ngày kia em sẽ trở thành chính mình, em sẽ thật xinh đẹp và thông minh. Ngày hôm ấy, Miranda đã biết mình sẽ yêu Turner mãi mãi. Mười năm sau, tất cả đều thay đổi, trừ tình yêu của Miranda dành cho Turner. Đi qua một cuộc hôn nhân đau khổ, Turner giờ trở thành một người đàn ông không còn niềm tin, cô độc và cay nghiệt. Còn Miranda, cô vừa tròn hai mươi, xinh đẹp theo cách của riêng mình, ngọt ngào vừa đủ, điềm tĩnh vừa đủ và mạnh mẽ vừa đủ. Đủ để không cho phép tình yêu kéo dài mười năm dành cho Turner một lần nữa trôi qua tầm tay… *** Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không hề bộc lộ dấu hiệu nào hứa hẹn một Sắc Đẹp Lộng Lẫy. Mái tóc nâu thảm hại đồng màu với đôi mắt; đôi chân dài khác thường từ chối bất cứ chuyển động nào có thể coi là duyên dáng dù mơ hồ nhất. Lúc nào mẹ cô bé cũng thấy cô nhảy loi choi khắp nhà. Thật không may cho Miranda, cái xã hội nơi cô bé sinh ra lại rất coi trọng vẻ bề ngoài của nữ giới. Và dù chỉ mới mười tuổi nhưng cô bé đã hiểu rằng về mặt này mình bị coi là thua kém so với hầu hết các bạn nữ khác trong vùng. Trẻ con thường có cách khám phá ra những điều như vậy, thường là từ những đứa trẻ khác. Chẳng hạn như sự cố không mấy vui vẻ xảy ra tại bữa tiệc sinh nhật lần thứ mười một của tiểu thư Olivia và công tử Winston Bevelstoke, cặp sinh đôi của vợ chồng ngài Bá tước xứ Rudland. Nhà Miranda khá gần Haverbreaks, điền sản của tổ tiên dòng họ Rudland gần Ambleside, quận Lake, Cumberland, và cô bé thường học bài cùng Olivia và Winston khi bọn trẻ về đây ở. Chúng trở thành bộ ba không thể tách rời và hiếm khi chơi với những đứa trẻ khác trong vùng, vì hầu hết đều sống cách đó khoảng một giờ đi ngựa. Khoảng chục lần mỗi năm, đặc biệt là những dịp sinh nhật, con cái tất cả các gia đình quý tộc và thượng lưu trong vùng lại tụ họp với nhau. Vì lý do này mà nữ Bá tước Rudland phải thốt ra một tiếng rền rĩ chẳng hề ra dáng quý bà; mười tám thằng nhóc tai quái đang hào hứng tha bùn đất khắp phòng khách nhà bà sau khi bữa tiệc của cặp sinh đôi tổ chức trong khu vườn bị trận mưa phá hỏng. “Má cậu dính bùn kìa, Livvy,” Miranda vừa nói vừa đưa tay lên lau vết bùn. Olivia thở hắt ra vẻ mệt mỏi đầy kịch tính. “Thế thì tốt hơn hết là mình nên vào phòng rửa mặt. Mình không muốn mẹ trông thấy mình thế này. Mẹ ghét bẩn, còn mình thì ghét phải nghe mẹ kêu ca bà ghét bẩn đến thế nào.” “Mình không hiểu bà lấy đâu ra thời gian để phàn nàn về vết bùn nhỏ trên mặt cậu trong khi cả tấm thảm của bà giờ toàn bùn đất thế kia cơ chứ.” Miranda liếc William Evans, thằng bé vừa mới hô “XUNG PHONGGGGGG” rồi phóng người lên trường kỷ. Cô bé phải bặm môi lại để khỏi cười. “Và cả đồ đạc nữa.” “Cũng thế cả thôi, tốt nhất là mình nên làm gì đó.” Nói rồi cô bé lẻn ra khỏi phòng, bỏ lại Miranda ở gần lối ra vào. Miranda quan sát cuộc bạo loạn chừng một vài phút rồi khá bằng lòng chấp nhận cái vị trí người-quan-sát thường lệ của mình, cho tới khi qua khóe mắt, cô bé thấy có ai đó đang đi tới. “Bạn tặng quà sinh nhật gì cho Olivia vậy Miranda?” Miranda quay sang thì thấy Fiona Bennet đang đứng trước mặt mình, xinh xắn trong chiếc váy yếm trắng kèm khăn quàng màu hồng. “Một cuốn sách,” cô bé đáp. “Olivia thích đọc sách. Còn bạn mang gì tới?” Fiona giơ ra một chiếc hộp có họa tiết vui mắt được thắt dây nơ màu bạc. “Một bộ sưu tập các dải ruy băng. Bằng lụa và xa tanh, thậm chí là bằng nhung nữa. Bạn có muốn xem không?” “Ôi, nhưng tớ không muốn làm hỏng lớp giấy gói đâu.” Fiona nhún vai. “Bạn chỉ cần tháo sợi dây buộc cho cẩn thận là được. Tớ vẫn làm thế với quà Giáng sinh mà.” Nói rồi cô bé kéo sợi nơ buộc và nâng cái nắp hộp lên. Miranda nín thở. Ít nhất có tới một tá ruy băng nằm trên lớp lót bằng nhung đen của chiếc hộp, mỗi sợi được thắt nơ bướm cực kỳ trang nhã. “Đẹp quá Fiona. Mình có thể xem một cái không?” Fiona nheo mắt. “Tay tớ không có tẹo bùn nào đâu. Thấy không?” Miranda giơ hai bàn tay lên để cô bạn kiểm tra. “Ừ, được rồi.” Miranda thò tay vào chọn một chiếc ruy băng màu tím. Chất xa tanh trơn mượt khủng khiếp và mềm mại trôi trong bàn tay cô bé. Cô bé đặt cái nơ bướm điệu đà ướm thử lên mái tóc mình. “Bạn nghĩ sao?” Fiona đảo tròn mắt. “Không phải màu tím, Miranda ạ. Ai cũng biết chúng dành cho tóc vàng cơ. Màu này thường bìm trên nền nâu. Bạn hiển nhiên không thể đeo nó rồi.” Miranda đưa trả dải ruy băng cho cô bạn. “Vậy màu nào thì hợp với tóc nâu? Xanh lá à? Mẹ mình có mái tóc màu nâu và mình đã thấy mẹ buộc những dải ruy băng màu xanh lá.” “Xanh lá cây có thể chấp nhận được, tớ nghĩ thế. Nhưng trên mái tóc vàng thì sẽ đẹp hơn. Mọi thứ đều đẹp hơn trên nền tóc vàng.” Miranda cảm thấy một thoáng phẫn nộ dâng lên trong lòng. “Vậy thì tớ không hiểu bạn sẽ làm gì hả, Fiona, bởi vì tóc bạn cũng nâu như tóc tớ mà.” Fiona giật lùi lại, nổi cáu. “Không phải!” “Đúng thế mà!” “Không phải!” Miranda nhoài người tới trước, hai mắt nheo lại vẻ đe dọa. “Bạn nên soi gương khi về nhà, Fiona ạ, bởi vì tóc bạn không phải màu vàng.” Fiona đặt dải ruy băng tím trở lại hộp và sập nắp đánh cạch một cái. “Vậy à, nó đã từng là màu vàng, còn tóc cậu chẳng bao giờ có màu đó cả. Và ngoài ra, tóc tôi có màu nâu nhạt, mà mọi người đều biết là nó đẹp hơn màu nâu sẫm. Sẫm như tóc bạn ấy.” “Tóc nâu sẫm chẳng có gì là sai trái cả!” Miranda đáp trả. Nhưng cô bé cũng biết rằng đa số người Anh đều không đồng tình với ý kiến của mình. “Và,” Fiona đắc thắng bổ sung, “bạn có đôi môi bự như con sên!” Bàn tay Miranda vụt đưa lên che miệng. Cô bé biết mình không đẹp; cô bé biết mình thậm chí còn không được coi là xinh xắn nữa cơ. Nhưng từ trước đến giờ cô bé chưa bao giờ thấy đôi môi của mình có gì không ổn cả. Cô bé ngước nhìn nhỏ bạn đang mỉm cười tự mãn. “Còn bạn thì có tàn nhang!” Cô la lên. Fiona giật lùi lại như vừa bị một cái tát. “Tàn nhang sẽ biến mất dần. Các nốt trên mặt tôi sẽ biến đi hết trước khi tôi bước sang tuổi mười tám. Tối nào mẹ tôi chẳng dặm nước chanh vắt lên.” Cô nàng cười khẩy vẻ khinh miệt. “Nhưng bạn thì vô phương cứu chữa, Miranda ạ. Bạn xấu xí.” “Bạn ấy không xấu!” Cả hai cô bé cùng quay sang nhìn Olivia - vừa mới từ phòng rửa mặt quay trở lại. “Ồ, Olivia,” Fiona nói. “Mình biết bạn kết thân với Miranda bởi vì cô ta sống gần nhà và cùng học bài với bạn, nhưng bạn phải thừa nhận là cô ta không xinh. Mẹ mình nói cô ta sẽ chẳng bao giờ lấy chồng được.” Đôi mắt xanh của Olivia lóe lên ánh nguy hiểm. Cô con gái độc nhất của Bá tước Rudland không bao giờ tha thứ một lỗi lầm nào, và Miranda lại là người bạn thân nhất của cô bé. “Miranda sẽ lấy được người chồng tốt hơn bạn đấy, Fiona Bennet ạ! Ba bạn ấy là một Tòng nam tước trong khi ba bạn chỉ là thường dân.” “Là con gái Tòng nam tước cũng chẳng có gì khác biệt cả trừ phi cô ta có nhan sắc hoặc có tiền,” Fiona ngân nga nhắc lại những lời mà cô bé hiển nhiên đã được nghe lúc ở nhà. “Mà cả hai thứ ấy Miranda đều chẳng có.” “Im đi, bạn là đồ bò già ngu ngốc!” Olivia giậm chân quát. “Đây là tiệc sinh nhật của tôi, nếu bạn không thể cư xử tử tế thì bạn có thể về!” Fiona nuốt giận. Cô bé biết tốt hơn là không nên làm cho Olivia - con gái của những người có đẳng cấp xã hội cao nhất vùng - xa lánh mình. “Mình xin lỗi, Olivia,” cô bé lẩm bẩm nói. “Đừng xin lỗi tôi. Xin lỗi Miranda ấy.” “Tôi xin lỗi, Miranda.” Miranda vẫn im lặng cho tới khi Olivia phải đá cô bé một cái. “Tôi chấp nhận lời xin lỗi của bạn,”miễn cưỡng nói. Fiona gật đầu rồi chạy biến. “Mình không thể tin được cậu lại gọi cậu ta là con bò già ngu ngốc,” Miranda nói. “Bạn cần phải học cách tự bảo vệ mình, Miranda ạ.” “Trước khi cậu tham gia vào, mình vẫn đang tự bảo vệ rất tuyệt đấy chứ, Livvy. Mình chỉ không muốn tự bảo vệ một cách quá ầm ĩ thôi.” Olivia thở dài. “Mẹ bảo mình không có chút xíu khả năng kiềm chế hay lương tri gì cả.” “Đúng là vậy,” Miranda tán thành. “Miranda!” “Đó là sự thật, cậu đúng là như thế mà. Nhưng dù thế nào mình vẫn yêu cậu.” “Mình cũng yêu cậu, Miranda. Và đừng để tâm đến Fiona già ngớ ngẩn. Khi nào lớn cậu có thể cưới Winston và rồi chúng mình sẽ thật sự là chị em.” Miranda liếc ngang qua phòng nhìn Winston vẻ hoài nghi. Cậu đang giật tóc một cô bé con. “Mình không biết nữa,” cô bé e dè nói. “Mình không chắc là mình muốn lấy Winston đâu.” “Vớ vẩn. Như thế thật hoàn hảo. Mà nhìn xem, anh ấy mới làm đổ rượu pân ra váy của Fiona kìa.” Miranda cười toe toét. “Đi với mình nào,” Olivia nói, cầm tay cô bạn. “Mình muốn mở quà. Mình hứa là sẽ reo to nhất khi nhận quà của cậu.” Hai cô bé trở lại phòng khách, rồi Olivia và Winston mở quà. Tạ ơn Chúa (theo ý kiến của Phu nhân Rudland), hoàn tất việc mở quà vào đúng bốn giờ, thời điểm những đứa trẻ phải về nhà. Đứa nào cũng được đích thân phụ huynh đến đón, ai cũng xem chuyện được mời tới nhà Haverbreaks là một niềm vinh dự, và không vị phụ huynh nào lại muốn bỏ lỡ cơ hội làm thân với ông bà Bá tước. Ngoại trừ bố mẹ của Miranda, đúng thế. Đến năm giờ, cô bé vẫn còn ở phòng khách nhà Bevelstoke, cùng Olivia xem xét các chiến lợi phẩm. “Ta không biết có chuyện gì với bố mẹ cháu thế, Miranda,” Phu nhân Rudland nói. “Ôi, cháu biết đấy ạ,” Miranda hào hứng đáp. “Mẹ cháu đã đến Scotland thăm bà ngoại, và cháu dám chắc là ba cháu đã quên béng cháu rồi. Ba cháu vẫn thường thế khi ông mải làm việc với một bản thảo nào đó. Ông dịch từ tiếng Hy Lạp.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland mỉm cười. “Hy Lạp cổ đại.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland thở dài. Đây không phải lần đầu tiên ngài Rupert Cheever quên mất cô con gái của mình. “Chà, phải tìm cách đưa cháu về nhà thôi.” “Con sẽ đi với bạn ấy,” Olivia đề xuất. “Con và Winston cần phải cất đồ chơi mới và viết thiệp cảm ơn. Nếu không làm việc đó tối nay, con sẽ không nhớ được ai đã tặng con thứ gì.” “Nhưng mẹ không thể để một người hầu đưa Miranda về nhà được. Bạn ấy sẽ không có ai để trò chuyện cả.” “Tớ có thể nói chuyện với người hầu mà,” Miranda nói. “Tớ vẫn thường xuyên nói chuyện với bọn họ ở nhà.” “Không phải với người hầu nhà tớ,” Olivia thì thầm. “Bọn họ cứng nhắc và câm như hến, lại còn thường nhìn tớ vẻ không bằng lòng nữa chứ.” “Hầu như lúc nào con cũng đáng bị nhìn với vẻ không hài cả,” Phu nhân Rudland ngắt ngang, âu yếm vỗ đầu cô con gái. “Ta tìm ra giải pháp cho cháu rồi đây, Miranda. Tại sao chúng ta không nhờ Nigel đưa cháu về nhà nhỉ?” “Nigel ư!” Olivia kêu lên. “Miranda, cậu thật là chú vịt may mắn.” Miranda nhướn mày. Cô bé chưa bao giờ gặp anh trai lớn của Olivia. “Được thôi,” cô bé từ tốn nói. “Tớ mừng vì cuối cùng cũng được gặp anh ấy. Cậu vẫn luôn miệng kể về anh ấy mà, phải không Olivia.” Phu nhân Rudland ra lệnh cho một cô hầu gái đi tìm Nigel. “Cháu chưa bao giờ gặp Nigel sao Miranda? Kỳ lạ thật. À, ta cho là vì nó thường chỉ về nhà vào dịp Giáng sinh, mà Giáng sinh thì cháu lại hay đi Scotland. Ta đã phải dọa sẽ từ mặt nó để bắt nó về nhà vào ngày sinh nhật của hai đứa sinh đôi đấy. Nó không dự bữa tiệc vì sợ một trong mấy bà mẹ kia sẽ cố gắng gả một đứa trẻ mười tuổi cho nó.” “Nigel mười chín rồi, anh ấy là một đám rất sáng giá đấy,” Olivia thản nhiên nói. “Anh ấy là một Tử tước. Và cực kỳ đẹp trai. Trông anh ấy giống mình.” “Olivia!” bà Rudland nhắc nhở vẻ không hài lòng. “Thì đúng thế mà mẹ. Nếu là con trai thì con sẽ rất đẹp trai cho xem.” “Là con gái thì cậu cũng xinh xắn thế còn gì, Livvy,” Miranda thành thực nói, nhìn những lọn tóc vàng của cô bạn với vẻ hơi ghen tị. “Cậu cũng vậy. Này, cậu chọn một dải ruy băng của con bò Fiona đi. Dù gì mình cũng không cần toàn bộ chỗ ruy băng này.” Miranda mỉm cười trước lời nói dối của cô bạn. Olivia là người bạn tốt như thế đấy. Cô bé nhìn xuống hộp ruy băng và ngoan cố chọn sợi xa tanh màu tím. “Cảm ơn cậu, Livvy. Thứ Hai mình sẽ buộc nó đến trường.” “Mẹ gọi con ạ?” Nghe giọng nói trầm ấm, Miranda quay mặt về lối cửa ra vào và gần như há hốc vì kinh ngạc. Đang đứng ở đó là một sinh vật lộng lẫy tuyệt vời nhất mà cô bé từng trông thấy. Olivia đã nói rằng Nigel mười chín tuổi, nhưng Miranda ngay lập tức nhận thấy anh đã ra dáng đàn ông lắm rồi. Đôi vai rộng cân đối trông như vẽ, thân hình thanh thoát nhưng rắn chắc. Tóc anh đậm màu hơn tóc Olivia nhưng vẫn có ánh vàng kim, bằng chứng cho thấy anh thường xuyên ở ngoài trời. Nhưng phần đẹp nhất của anh, Miranda lập tức nghĩ ra, chính là đôi mắt. Nó sáng ngời, màu xanh lam rạng rỡ, giống đôi mắt của Olivia. Chúng cũng lấp lánh ánh tinh nghịch, láu lỉnh. Miranda mỉm cười. Mẹ cô bé vẫn thường bảo rằng có thể nhìn vào đôi mắt của một người mà nói về người đó, mà anh trai của Olivia thì có đôi mắt tuyệt đẹp. “Nigel, con hộ tống Miranda về nhà được không?” bà Rudland hỏi. “Ba của cô bé dường như bị cầm chân ở đâu đó mất rồi.” Miranda tự hỏi tại sao Nigel lại nhăn mặt khi nghe mẹ gọi tên mình. “Chắc chắn rồi, thưa mẹ. Olivia, em đã có một bữa tiệc vui vẻ chứ hả?” “Đập phá tanh bành.” “Winston đâu rồi?” Olivia nhún vai. “Anh ấy đi chơi với thanh kiếm Billy Evans tặng rồi.” “Anh hy vọng không phải là đồ thật.” “Chúa phù hộ chúng ta nếu nó là đồ thật,” bà Rudland xen vào. “Được rồi, Miranda, chúng ta sẽ đưa cháu về. Ta tin là áo choàng của cháu đang ở phòng bên.” Bà biến mất qua khung cửa và xuất hiện trở lại vài giây sau với chiếc áo choàng bền chắc màu nâu của Miranda. “Chúng ta lên đường chứ, Miranda?” Sinh vật đến từ thiên đường ấy đưa tay ra cho cô bé. Miranda khoác áo rồi đặt bàn tay mình vào tay anh. Thiên đường! “Mình sẽ gặp cậu vào thứ Hai nhé!” Olivia gọi với theo. “Và đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Cậu ta chỉ là con bò già ngớ ngẩn thôi.” “Olivia!” “Thì đúng thế mà mẹ. Con không muốn bạn ấy quay lại đây nữa.” Miranda mỉm cười khi để anh trai Olivia dẫn xuống tiền sảnh, giọng của Olivia và bà Rudland nhỏ dần, nhỏ dần. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đồng ý đưa em về nhà, Nigel,” cô bé khẽ nói. Anh lại nhăn mặt. “Em... em xin lỗi,” cô bé vội nói. “Đáng lẽ em nên nói ‘thưa ngài’, đúng không? Chỉ tại Olivia và Winston thường nhắc đến anh bằng tên riêng nên em...” Cô bé khổ sở nhìn xuống sàn nhà. Chỉ mới hai phút được đi cạnh anh mà cô bé đã mắc sai lầm ngớ ngẩn rồi. Anh dừng lại và cúi xuống để cô bé có thể nhìn thấy mặt mình. “Đừng lo lắng về cái từ ‘thưa ngài’ ấy, Miranda. Anh sẽ nói cho em một bí mật nhé.” Đôi mắt Miranda tròn xoe, cô bé quên cả thở. “Anh ghét tên thánh của mình.” “Đó không hẳn là một bí mật, Nig... ý em là, thưa ngài, mà mặc kệ anh muốn được gọi là gì cũng được. Cứ khi nào mẹ anh gọi anh bằng cái tên đó là anh lại nhăn mặt.” Nigel mỉm cười với Miranda. Có điều gì đó khiến trái tim anh nhói lên khi Nigel nhìn thấy cô gái bé nhỏ với nét mặt quá ư nghiêm nghị này chơi với đứa em gái ương bướng không thể khuất phục của anh. Cô bé là một sinh vật nhỏ nhắn trong cái vẻ ngoài thật buồn cười, nhưng đôi mắt nâu to tròn rất có hồn của cô lại ánh lên vẻ gì đó khá đáng yêu. “Thế anh được gọi là gì ạ?” Miranda hỏi. Anh mỉm cười với cô bé, không hề kiểu cách. “Turner.”[1] [1] Có nghĩa là Thợ tiện. Mất một lúc anh tưởng cô bé sẽ không nói gì. Miranda chỉ đứng đó, hoàn toàn bất động, chỉ có đôi mắt vẫn long lanh. Và rồi, như thể cuối cùng đã tìm ra kết luận, cô bé nói, “Cái tên hay thật. Hơi kỳ lạ một chút, nhưng em thích.” “Hay hơn Nigel nhiều, em không nghĩ thế à?” Miranda gật đầu. “Anh đã chọn nó à? Em vẫn nghĩ rằng người ta nên tự chọn tên cho mình. Em cũng biết hầu hết người ta sẽ chọn một cái tên nào đó khác với tên mình được đặt.” “Và em sẽ chọn tên gì?” “Em không chắc nữa, nhưng không phải là Miranda. Thứ gì đó mộc mạc hơn, em nghĩ thế. Người ta kỳ vọng một điều gì đó khác khi nghe đến cái tên Miranda và hầu như thường thất vọng khi họ gặp em.” “Vô lý,” Turner mạnh mẽ phản đối. “Em là một Miranda hoàn hảo.” Cô bé cười rạng rỡ. “Cảm ơn anh, Turner. Em có thể gọi anh như thế không?” “Dĩ nhiên rồi. Và anh e là không phải anh chọn cái tên này. Nó chỉ là một tước hiệu lịch thiệp. Tử tước Turner. Từ hồi tới Eton đến giờ anh vẫn dùng cái tên ấy thay cho Nigel.” “Ồ. Nó hợp với anh, em nghĩ thế.” “Cảm ơn em,” anh trang trọng đáp lại, hoàn toàn bị đứa trẻ nghiêm nghị này mê hoặc. “Giờ thì, đưa tay em cho anh lần nữa nào, chúng ta sẽ lên đường.” “Cái gì thế?” “Cái này ạ? Ồ, ruy băng ấy mà. Fiona Bennet tặng khoảng hai chục chiếc cho Olivia, và Olivia nói em có thể giữ mộtchiếc.” Mắt Turner hơi nheo lại rất khẽ khi anh nhớ lại Olivia đã nói gì lúc tạm biệt Miranda. Đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Anh kéo dải ruy băng ra khỏi tay cô bé. “Anh nghĩ chỗ của ruy băng là ở trên mái tóc chứ nhỉ.” “Ờ, nhưng nó không hợp với váy của em,” Miranda yếu ớt phản đối. Lúc này anh đã buộc nó thật chặt lên đỉnh đầu của cô bé rồi. “Nó trông thế nào ạ?” cô bé thì thầm. “Tuyệt vời.” “Thật ạ?” Cô tròn xoe mắt vẻ hoài nghi. “Thật mà. Anh luôn nghĩ rằng ruy băng màu tím trông đặc biệt xinh xắn trên mái tóc nâu.” Miranda thấy mình phải lòng Tuner ngay tức khắc. Cảm xúc quá mãnh liệt đến nỗi cô bé quên cả cảm ơn lời khen của anh. “Chúng ta khởi hành chứ?” anh nói. Cô gật đầu, không tin tưởng chính giọng nói của mình nữa. Họ rời ngôi nhà đến tàu ngựa. “Anh nghĩ chúng mình có thể cưỡi ngựa,” Turner nói. “Một ngày quá đẹp để ngồi trong xe.” Miranda lại gật đầu. Thời tiết ấm áp khác thường đối với tháng Ba. “Em có thể lấy chú ngựa con của Olivia. Anh chắc chắn là con bé không thấy phiền đâu.” “Livvy không có ngựa con,” cuối cùng thì Miranda cũng tìm lại được giọng nói của mình. “Bây giờ cậu ấy có một con ngựa cái hẳn hoi. Em cũng có một con ở nhà. Bọn em không phải là trẻ con.” Turner nén cười. “Ừ, anh có thể thấy là bọn em không còn nhỏ nữa. Anh mới ngớ ngẩn làm sao chứ. Anh chẳng suy nghĩ gì cả.” Vài phút sau, yên ngựa đã thắng xong, và họ bắt đầu chặng đường mười lăm phút đi ngựa đến nhà Cheever. Miranda vẫn im lặng khoảng một phút đầu, quá hạnh phúc đến nỗi không muốn làm hỏng khoảnh khắc này bằng những lời nói. “Ở bữa tiệc em có vui không?” rốt cuộc Turner lên tiếng. “Ồ, vâng. Phần lớn thời gian rất vui ạ.” “Phần lớn thời gian thôi à?” Anh thấy Miranda nhăn mặt. Rõ ràng cô bé không định nói quá nhiều. “À,” cô bé chậm rãi đáp, cắn môi rồi lại nhả ra, “một cô gái đã nói những lời không tốt với em.” “Ồ?” Anh biết tốt hơn là không nên tò mò thái quá. Và quả nhiên anh đã đúng, bởi vì khi Miranda nói chuyện, cô bé gợi anh nhớ đến em gái mình - đang ngước nhìn anh chăm chú với ánh mắt thẳng thắn trong khi từ ngữ thì ào ào mạnh mẽ. “Đó là Fiona Bennet,” cô bé nói với vẻ cực kỳ chán ghét, “Olivia gọi cô ta là con bò già ngu ngốc, và em phải nói là em không thấy hối tiếc khi cậu ấy làm vậy.” Turner vẫn giữ thái độ trang nghiêm thích hợp. “Anh cũng không thấy tiếc vì con bé đã làm vậy, nếu Fiona đã nói những lời tàn nhẫn với em.” “Em biết mình không xinh đẹp,” Miranda bùng nổ. “Nhưng thật là thô lỗ bất lịch sự khi nói vậy, ấy là chưa kể còn ám chỉ thẳng thừng color="black">Turner nhìn Miranda một lúc lâu, không chắc mình phải an ủi cô gái bé nhỏ này như thế nào. Miranda không xinh đẹp, đó là sự thật, và nếu anh cố bảo rằng cô bé xinh xắn thì cô bé sẽ không tin anh. Nhưng cô bé không xấu xí. Chỉ... hơi vụng về. Tuy nhiên anh đã được giải thoát khỏi tình huống khó khăn này, không phải nói bất cứ điều gì nhờ câu bình luận tiếp theo của Miranda. “Đó là vì mái tóc màu nâu này, em nghĩ thế.” Anh nhướn mày. “Nó chẳng đúng mốt gì cả,” Miranda giải thích. “Và cả đôi mắt nâu nữa. Em cũng quá gầy và mặt em quá dài, em quá xanh xao nữa.” “Chà, những cái đó đều đúng cả,” Turner nói. Miranda quay sang đối diện với anh, đôi mắt cô bé mở to, nhòa lệ và gương mặt đượm vẻ buồn rầu. “Hiển nhiên em có mái tóc và đôi mắt màu nâu. Không có gì phải bàn cãi ở điểm đó cả.” Anh nghiêng đầu vờ săm soi nghiên cứu cô bé thật toàn diện. “Em khá gầy, và mặt em đúng là hơi dài một tí. Và em rõ ràng là trông xanh tái.” Môi Miranda run run, và Turner không thể trêu chọc cô bé thêm nữa. “Nhưng mà,” anh mỉm cười, “anh lại thích phụ nữ có tóc và mắt màu nâu hơn.” “Không phải thế!” “Đúng thế đấy. Lúc nào anh cũng thích như vậy. Anh cũng thích họ gầy và xanh xao nữa.” Miranda nhìn anh vẻ hoài nghi. “Thế còn mặt dài thì sao?” “À, anh phải công nhận anh chưa bao giờ nghĩ ngợi nhiều về vấn đề ấy, nhưng anh chắc chắn là không thấy phiền lòng với một khuôn mặt dài.">“Fiona Bennet nói em có đôi môi bự,” cô bé vẫn bướng bỉnh nói. Turner hơi mỉm cười đáp lại. Cô bé thở dài thườn thượt. “Trước đây em thậm chí chưa bao giờ nhận thấy là mình có đôi môi bự.” “Không quá bự đâu.” Cô bé ném cho anh ánh nhìn cảnh giác. “Anh đang nói thế để làm em thấy dễ chịu hơn thôi.” “Quả là anh muốn em cảm thấy khá hơn thật, nhưng đó không phải là do anh nói thế. Và lần tới Fiona Bennet mà nói em có đôi môi bự thì hãy bảo với nó là nó sai rồi. Em có đôi môi đầy đặn.” “Có gì khác nhau đâu?” Cô bé nhìn anh nôn nóng, đôi mắt tối sẫm hết sức nghiêm nghị. Turner hít vào một hơi. “Chà chà,” anh nói tránh. “Môi bự thì không hấp dẫn. Nhưng môi đầy đặn thì có đấy.” “Ồ.” Điều đó có vẻ làm cô bé hài lòng. “Môi Fiona mỏng dính.” “Môi đầy đặn thì tốt hơn nhiều, nhiều so với môi mỏng,” Turner nói dứt khoát. Anh khá thích cô gái bé nhỏ vui nhộn này và muốn cô bé vui hơn. “Tại sao?” Turner thầm cầu xin các vị thần của nghi thức xã giao và tính đúng đắn chừng mực tha lỗi trước khi trả lời: “Đôi môi đầy đặn thì hôn sẽ tuyệt hơn.” “Ồ.” Miranda đỏ mặt, và rồi cô bé mỉm cười. “Hay quá.” Turner cảm thấy hài lòng với bản thân một cách ngớ ngẩn. “Em có biết anh nghĩ gì không, tiểu thư Miranda Cheever? “Dạ?” “Anh nghĩ em chỉ cần trở thành chính mình thôi.”[2] Vừa nói ra điều đó, anh lập tức cảm thấy hối tiếc. Chắc chắn cô bé sẽ hỏi ý anh là gì, và anh chẳng biết phải trả lời cô ra sao nữa. [2] Nguyên văn là “I think you just need to grow into yourself” và Miranda hiểu lầm ý của anh nói cô bé cần phải lớn hơn để cơ thể cân đối với đôi chân quá dài của mình. Nhưng cô bé lớn trước tuổi này chỉ nghiêng nghiêng đầu suy nghĩ về tuyên bố của anh. “Em mong là anh đúng,” cuối cùng cô nói. “Hãy nhìn chân em mà xem.” Một tiếng ho kín đáo lấp liếm nụ cười nén vội trong họng Turner. “Ý em là gì?” “Thế đấy, chân quá dài. Mẹ em thường nói rằng chân dài đến nách vậy.” “Có vẻ như chân em bắt đầu từ phần hông của em đấy chứ.” Miranda cười rúc rích. “Em đang nói ẩn dụ mà.” Turner nháy mắt. Cô bé mười tuổi này quả là thích lý sự. “Ý em là,” cô tiếp tục, “đôi chân của em có kích thước không cân đối so với phần còn lại của cơ thể. Em nghĩ đó là lý do em không thể học khiêu vũ được. Em cứ giẫm vào ngón chân của Olivia hoài.” “Giẫm lên ngón chân của Olivia?” “Chúng em tập khiêu vũ cùng nhau,” Miranda mau lẹ giải thích. “Em nghĩ nếu các bộ phận trên cơ thể em ăn khớp với đôi chân thì em sẽ không quá lóng ngóng vụng về. Vì vậy em cho là anh đúng đấy. Em đúng là phải lớn hơn để cho vừa với chính mình.”[3] [3] Nguyên văn là “I do have to grow into myself.” “Tuyệt vời,” Turner nói, vui mừng nhận ra chẳng hiểu xoay xở thế nào mà anh đã nói trúng điều cần nói. “À, có vẻ như chúng ta đến nơi rồi.” Miranda ngước nhìn ngôi nhà đá xám xịt của mình. Nó tọa lạc ngay trên một trong những dòng suối ăn thông với các hồ trong vùng, và dòng suối này chảy qua cây cầu nhỏ bằng đá cuội dẫn đến cửa trước của ngôi nhà. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đưa em về, Turner. Em hứa sẽ không bao giờ gọi anh là Nigel.” “Em cũng hứa là sẽ véo Olivia nếu nó gọi anh là Nigel chứ?” Miranda khẽ bật ra tiếng cười khúc khích và bụm tay che miệng. Cô bé gật đầu. Turner xuống ngựa rồi quay sang giúp cô bé xuống. “Em có biết anh nghĩ em nên làm gì không hả Miranda?” anh đột nhiên hỏi. “Gì ạ?” “Anh nghĩ em nên viết nhật ký.” Cô bé chớp mắt ngạc nhiên. “Tại sao? Ai muốn đọc nó chứ?” “Không ai cả. Em giữ riêng nó cho mình thôi. Và có thể một ngày nào đó sau khi em qua đời, con cháu của em sẽ muốn đọc nó để biết được hồi còn trẻ em sống như thế nào.” Cô nghiêng nghiêng đầu. “Ngộ nhỡ em không có con cháu thì sao?” Turner bất giác đưa tay vò tóc cô bé. “Em hỏi nhiều quá đấy, mèo con ạ.” “Nhưng nhỡ em không có con cháu thì sao?” Chúa ơi, cô bé thật cứng đầu. “Có lẽ em sẽ nổi tiếng.” Anh thở dài. “Và bọn trẻ học ở trường sẽ muốn được biết về em.” Miranda ném cho anh ánh mắt hoài nghi. “Ôi, thôi được rồi, em muốn biết tại sao anh thật sự nghĩ em nên viết nhật ký không?” Cô bé gật đầu. “Bởi vì một ngày nào đấy em sẽ lớn lên và trở thành chính mình, em sẽ xinh đẹp và thông minh. Rồi em có thể đọc lại nhật ký và nhận ra những đứa con gái như Fiona Bennet mới ngốc nghếch làm sao. Và em sẽ cười khi nhớ lại rằng mẹ em đã nói chân em dài tới tận nách. Và có thể em sẽ dành cho anh một nụ cười tủm tỉm khi nhớ lại buổi trò chuyện tuyệt vời giữa chúng ta hôm nay.” Miranda ngước nhìn anh, nghĩ rằng anh chắc hẳn phải là một trong những vị thần Hy Lạp mà ba vẫn thường đọc cho mình nghe. “Anh biết em nghĩ gì không?” cô bé thì thầm. “Em nghĩ Olivia rất may mắn vì có anh là anh trai.” “Anh nghĩ nó rất may mắn vì có em là bạn.” Môi Miranda run run. “Em sẽ dành cho anh một nụ cười rạng rỡ, Turner ạ,” cô bé thì thầm. Anh cúi xuống ân cần hôn lên mu bàn tay của cô bé đúng như anh hẳn sẽ làm với một tiểu thư xinh đẹp nhất London. “Hãy chờ xem nhé, mèo con.” Anh mỉm cười và gật đầu chào trước khi lên ngựa, dắt con ngựa cái của Olivia đi đằng sau. Miranda dõi theo cho tới khi anh biến mất ở đường chân trời, rồi cô bé cứ nhìn đăm đăm thế thêm mười phút tuyệt vời nữa. Khuya hôm đó Miranda thơ thẩn đi vào phòng làm việc của ba. Ông đang cắm cúi vào một văn bản, quên bẵng cây nến sáp đang nhỏ giọt trên bàn làm việc. “Ba, đã bao nhiêu lần con phải nhắc ba để ý đến mấy cây nến rồi ạ?” Cô bé thở dài đặt cây nến vào giá cắm. “Gì cơ? Ồ, con yêu.” “Và ba cần nhiều hơn một cây nến. Ở đây tối quá không thể đọc được.” “Thế à? Ba không để ý.” Ông chớp mắt và rồi nheo lại. “Không phải đã quá giờ đi ngủ của con rồi à?” “Vú nói đêm nay con có thể thức thêm ba mươi phút nữa.” “Vú nói vậy à? Ờ ờ, miễn là bà ấy đồng ý.” Ông lại cắm cúi trở lại bản thảo, tỏ ý không muốn nói chuyện nữa. “Ba à.” Ông thở dài. “Gì nữa thế, Miranda?” “Ba có quyển sổ thừa nào không? Giống như những cuốn ba dùng khi đang dịch ấy, nhưng là trước khi ba chép ra bản nháp cuối cùng cơ?” “Chắc là có đấy.” Ông mở ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc ra lục tìm trong đó. “Đây rồi. Nhưng con muốn làm gì với nó thế? Đây là một cuốn sổ rất tốt, con biết đấy, và không rẻ đâu.” “Con sẽ viết nhật ký.” “Bây giờ ư? À, thế thì ba cho là cuốn sổ này xứng đáng đấy.” Ông đưa cuốn sổ cho Miranda. Cô bé cười rạng rỡ trước lời tán dương của ba. “Cảm ơn ba. Con sẽ cho ba biết khi nào hết chỗ viết và cần một cuốn khác.” “Được rồi. Chúc ngủ ngon, con yêu.” Ông quay trở lại với đống giấy tờ của mình. Miranda ôm cuốn sổ vào ngực chạy lên lầu về phòng ngủ. Cô bé lấy ra một lọ mực và cây bút lông rồi mở cuốn sổ ra. Ở trang đầu tiên, cô bé ghi ngày tháng, và rồi, sau một hồi cân nhắc, cô viết một dòng duy nhất. Dường như đó là tất cả những gì cần viết. 2 THÁNG BA 1810 Hôm nay mình đã yêu. Nigel Bevelstoke, vốn được tất cả những kẻ muốn lấy lòng anh biết đến nhiều hơn với cái tên Turner, biết rất nhiều thứ. Anh biết đọc tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Anh biết tán tỉnh phụ nữ bằng tiếng Pháp và tiếng Ý. Anh biết vừa cưỡi ngựa vừa nhắm bắn một mục tiêu di động, và biết chính xác phải uống bao nhiêu ly thì không đánh mất phẩm giá địa vị của mình. Anh biết tung một nắm đấm hoặc một đường gươm với phong thái bậc thầy, và cũng có thể làm cả hai việc đó trong khi vẫn ngâm nga Shakespeare hay Donne đầy duyên dáng. Tóm lại, anh biết mọi thứ mà một quý ông nên biết, và theo những thông tin thu được thì anh xuất sắc trong mọi lĩnh vực. Người ta nhìn ngắm anh. Người ta tôn kính anh. Nhưng không có gì - không một giây nào trong cuộc đời xuất chúng và vinh quang của anh - giúp anh chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với thời khắc này. Và chưa bao giờ anh cảm thấy sức nặng của những ánh mắt soi xét dè chừng nhiều như lúc này, khi anh bước tới trước và ném nắm đất lên quan tài của vợ mình. Tôi rất lấy làm tiếc, người ta cứ nói đi nói lại mãi. Tôi rất lấy làm tiếc. Chúng tôi rất lấy làm tiếc. Và trong lúc đó, Turner không thể ngăn được cái ý nghĩ rằng không biết có phải đang cười anh không, bởi vì tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là... Tôi không thấy tiếc. À, Leticia. Anh cảm ơn cô ta rất nhiều về điều đó. Hãy xem nên bắt đầu từ đâu thì hợp lý? Danh tiếng của anh bị tổn hại, dĩ nhiên rồi. Chỉ quỷ sứ mới biết có bao nhiêu người tường tận rằng anh là kẻ bị cắm sừng. Một lần, hai lần, ba lần,... Thế rồi đến bản tính trong sáng của anh cũng mất. Giờ đây, thật khó lòng hồi tưởng lại, nhưng anh đã từng không hề nghi ngờ bất cứ ai. Anh đã từng tuyệt đối tin vào những gì tốt đẹp nhất của con người - rằng nếu anh đối xử với người khác bằng danh dự và sự kính trọng thì họ sẽ làm như vậy với anh. Và cuối cùng, linh hồn anh cũng mất. Bởi vì trong khi anh bước lùi lại, chắp hai tay cứng nhắc phía sau lắng nghe vị linh mục chuyển thân xác Leticia vào lòng đất, anh không thể trốn chạy cái thực tế là anh đã ao ước điều này xảy ra. Anh muốn thoát khỏi cô ta. Anh đã và sẽ không than khóc cho cô ta. “Thật đáng tiếc,” ai đó phía sau anh thì thào nói. Quai hàm Turner giần giật. Không có gì đáng tiếc ở đây. Nó là một trò hề. Và bây giờ anh sẽ dùng một năm sắp tới để tang cho một người phụ nữ đến với anh mà lại mang thai đứa con của kẻ khác. Cô ta làm anh mê mẩn, bỡn cợt anh cho tới khi anh không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài việc chiếm cho được cô ta. Cô ta nói rằng cô ta yêu anh, và cô ta mỉm cười với vẻ ngây thơ dịu dàng đầy vui sướng khi anh tuyên thệ lòng tận tâm và cam kết bằng cả linh hồn mình. Cô ta đã từng là giấc mơ ngọt ngào của anh. Và rồi cô ta trở thành ác mng của anh. Cô ta mất đứa bé đó, đứa trẻ đã dẫn đến cuộc hôn nhân của họ. Bố nó là một vị Bá tước người Ý nào đó, ít nhất là cô ta nói thế. Gã đã có vợ, hoặc không phù hợp, hoặc có lẽ cả hai. Turner đã sẵn sàng tha thứ cho cô ta, ai cũng phạm sai lầm, và cả anh cũng vậy còn gì, chẳng phải anh muốn dụ dỗ cô ta trước đêm tân hôn đó sao? Nhưng Leticia không muốn tình yêu của gã. Anh không biết cô ta muốn cái quái quỷ gì nữa - quyền lực, có lẽ thế, cơn say thỏa mãn khi hãy còn người đàn ông khác đổ nhào xuống vì bùa mê của cô ta. Turner tự hỏi liệu cô ta có cảm thấy thế khi gã chết không. Hay có lẽ nó chỉ là một sự giải thoát. Tính đến khi Turner và cô ta cưới nhau, cô ta đã mang thai được ba tháng. Cô ta không có nhiều thời gian rảnh. Và giờ thì cô ta đây. Hay đúng hơn là, cô ta kia. Turner không biết chính xác dùng từ nào là thích đáng hơn cả cho cái thân xác không còn sự sống trong lòng đất ấy. Mà từ nào cũng được. Anh chỉ thấy tiếc rằng cô ta sẽ chia sẻ sự vĩnh hằng trong mảnh đất của anh, yên nghỉ giữa những người nhà Bevelstoke mãi mãi. Bia đá của cô ta sẽ mang tên anh, và rồi một trăm năm nữa người nào đó sẽ nhìn vào dòng chữ khắc trên tấm đá granit kia mà nghĩ cô ta chắc hẳn là một phu nhân đáng kính, và tự hỏi bi kịch gì đã khiến cô ta ra đi khi còn quá trẻ như vậy. Turner ngước nhìn vị linh mục. Ông ta trẻ nhất trong các đồng đạo, mới đến giáo xứ, và theo anh biết thì vị linh mục này vẫn còn niềm tin rằng có thể biến thế gian này thành một nơi tốt đẹp hơn. “Tro tàn trở về với tro tàn,” linh mục vừa nói vừa nhìn lên người đàn ông giờ đã trở thành góa vợ. À phải, Turner chua chát nghĩ, đó là mình. “Cát bụi trở về với cát bụi.” Phía sau anh, có ai đó sụt sịt. Và vị linh mục, với đôi mắt xanh sáng ngời ánh lên niềm cảm thông được đặt hoàn toàn không đúng chỗ, tiếp tục nói... “Trong niềm hy vọng chắc chắn và vững vàng vào sự hồi sinh...” Chúa nhân từ. “... tới cuộc sống vĩnh hằng.” Vị linh mục nhìn Turner và thực sự nao núng. Turner thắc mắc không rõ chính xác thì ông ta nhìn thấy gì trên gương mặt anh. Chẳng có gì tốt đẹp, điều đó hẳn quá rõ ràng rồi. Ai nấy đồng thanh “Amen!”, và rồi buổi lễ kết thúc. Mọi người nhìn vị linh mục, rồi nhìn Turner, sau đó lại nhìn vị linh mục siết chặt hai bàn tay của Turner mà nói: “Mọi người sẽ nhớ cô ấy.” “Tôi,” Turner nén lại, “thì không.” Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. Miranda nhìn xuống những dòng cô đã viết. Cô đang ở trang thứ bốn mươi hai của cuốn nhật ký thứ mười ba, nhưng đây là lần đầu tiên - lần đầu tiên kể từ sau cái ngày định mệnh chín năm về trước - cô không biết viết gì cả. Ngay cả trong những tháng ngày xám xịt ảm đạm (mà chúng thường xuyên xuất hiện), cô cũng xoay xở để viết được một đoạn dài. Tháng Năm năm cô mười bốn tuổi... Thức dậy. Mặc quần áo. Ăn sáng: bánh mì nướng, trứng, thịt lợn muối. Đọc Lý trí và Tình cảm; được sáng tác bởi một tiểu thư vô danh. Giấu Lý trí và Tình cảm. Ăn tối: thịt gà, bánh mì, pho mát. Chia động từ tiếng Pháp. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bò bít tết, xúp, bánh pudding. Đọc tiếp Lý trí và Tình cảm, nhận diện về tác giả vẫn chưa biết. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Còn đây là những điều cô ghi vào ngày 12 tháng Mười một cùng năm đó... Thức dậy. Ăn sáng: Trứng, bánh mì nướng, giăm bông. Thực hiện một cuộc biểu dương vĩ đại đọc bi kịch Hy Lạp. Không có kết quả. Dành nhiều thời gian nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ. Ăn trưa: cá, bánh mì, đậu Hà Lan. Chia động từ Latin. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bánh mì nướng, khoai tây, bánh pudding. Mang bi kịch đến bàn (sách, không phải sự kiện). Ba không. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Nhưng bây giờ - khi một sự kiện trọng đại đã thực sự xảy ra (điều chưa bao giờ xảy ra) thì cô lại chẳng có gì để viết ngoại trừ... Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. “Than ôi, Miranda,” cô lầm bầm, nhìn mực khô đi trên đầu cây viết lông, “mày sẽ không nổi danh được với tư cách là một người viết nhật ký đâu.” “Cậu vừa nói g&igrav