Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chôn Sống

"Chôn sống" (Body double) là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của nữ văn sĩ Tess Gerritsen. Bà đã bỏ kỳ thực tập với tư cách một bác sĩ nội khoa để nuôi nấng con cái tập trung vào công việc viết lách. Bà đã giành được sự khen ngợi trên khắp nước Mỹ cho cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình về sự ly kỳ mang tính chất y khoa, đó cũng là một trong những sách bán chạy nhất của Thời báo New York - tiểu thuyết "Mùa gặt". Bà cũng là tác giả của các cuốn sách bán chạy như: Biến mất, Khu vườn xương, Tội ác, Chôn sống, Titanic trong vũ trụ... *** Tess Gerritsen là một bác sĩ điều trị và một tác giả nổi tiếng thế giới. Tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của bà về sự trì hoãn trong y học đã dành được rất nhiều lời khen ngợi. Harvest là cuốn sách bán chạy nhất theo tờ Thời báo New York. Bà cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy khác như The Mephisto Club, Vanish, Body Double, The Sinner, The Apprentice, The Surgeon, Life Support, Bloodstream và Gravity. Tess Gerritsen sống tại Maine. Có thể ghé thăm website của bà tại địa chỉ www.tessgerrritsen. Là nhà tâm lý giải nghệ nên khi chuyển sang viết lách, nữ nhà văn người Mỹ Tess Gerritsen tỏ ra rất thấu hiểu nội tâm của các nhân vật của mình. Văn phong của bà bị ảnh hưởng bởi xu hướng diễm tình trong những tiểu thuyết mà bà đọc khi còn trẻ, nhưng sau đó đã được chuyển hóa một cách vô cùng mượt mà, hiệu quả sang thể loại trinh thám đen tối hơn. Dù vậy, Tess Gerritsen vẫn giữ được nhiều tình tiết rất ngọt ngào đậm chất phái nữ, giúp cho các tác phẩm như Call After Midnight (1987), Peggy Sue Got Murdered (1994), The Bone Garden (2007)... tạo được ấn tượng lâu dài trong lòng người đọc. Đặc biệt, những kiến thức về hình sự, tội phạm cũng được nữ nhà văn nghiên cứu rất kỹ và chuyển tải đầy đủ, trọn vẹn, hợp lý trong những cuốn sách của mình. Tác phẩm: Nạn Nhân Thứ Tư (Rizzoli & Isles #1) Quái Vật (Rizzoli & Isles #2) Tội Ác (Rizzoli & Isles #3) Chôn Sống (Rizzoli & Isles #4) Biến Mất (Rizzoli & Isles #5) Dấu Của Quỷ (Rizzoli & Isles #6) Mùa Gặt Mạng Sống Mong Manh Khu Vườn Xương Titanic Trong Vũ Trụ ... *** MỞ ĐẦU Cậu ta lại nhìn cô gái. Cô gái Alice Rose mười bốn tuổi cố gắng tập trung vào mười câu hỏi trên bàn nhưng tâm trí cô bé không để vào bài kiểm tra mà dồn vào Elijah. Cô cảm thấy cái nhìn của cậu ấy như ánh nắng lướt qua mặt, cô thấy má mình nóng lên, rõ là cô đang bối rối. Tập trung nào, Alice! Câu hỏi kế tiếp là về kịch và cô phải nhanh chóng tìm ra đáp án. Charles Dicken thường có những cái tên phù hợp với tính tình của nhân vật. Hãy cho một vài ví dụ và miêu tả tại sao những cái tên đó lại phù hợp với các nhân vật? Alice nhai nhai đầu bút chì, cố gắng tìm ra câu trả lời. Nhưng cô chẳng thể nghĩ ra cái gì khi cậu ấy đang ngồi ở bàn bên cạnh, gần đến mức cô có thể ngửi thấy mùi xà bông và khói gỗ từ cậu ấy. Mùi con trai. Dickens, Dickens, ai thèm quan tâm tới Charles Dicken và Nicholas Nickleby cơ chứ và cả ông thầy người Anh trẻ tuổi nữa khi mà Elijah hào hoa đang nhìn cô? Ôi lạy Chúa, cậu ấy đẹp trai quá với mái tóc đen và đôi mắt xanh. Đôi mắt của Tony Curtis. Lần đầu tiên nhìn thấy Elijah, cô đã nghĩ rằng cậu ấy giống Tony Curtis y chang, người có gương mặt đẹp tuyệt vời trong các trang tạp chí Modem Screen và Photoplay, tạp chí yêu thích của cô. Cô cúi đầu, khi tóc mai xõa xuống mặt cô nhìn thấy cậu ta đang lén nhìn mình qua tấm rèm cửa. Trái tim cô đập thình thịch khi cô chắc chắn rằng, cậu ta đang nhìn cô chứ không phải nhìn đám con trai chạy nhảy bên ngoài, những đứa chậm chạp và rắc rối. Những thằng con trai với những lời thì thầm không thể bỏ ngoài tai. Cô biết những lời thì thầm đó là về cô bởi chúng vừa nhìn cô vừa nói. Chúng cũng là những đứa đã dán ảnh bò cái lên tủ để đồ của cô và kêu ò ò khi cô vô tình đụng phải chúng ở đại sảnh. Nhưng Elijah thì nhìn cô theo cách khác. Với đôi mắt sáng, trong vắt. Đôi mắt của một ngôi sao phim trường. Cô bé chậm rãi ngẩng đầu lên và nhìn lại, không phải qua mớ tóc lòa xòa mà với cái nhìn hàm ý - tớ biết cậu nhìn gì rồi. Tờ giấy làm bài của cậu ấy đã được hoàn thành và úp xuống, cái bút chì được để ra xa. Giờ thì cậu ta tập trung toàn bộ sự chú ý vào cô và cô cảm thấy không thể thở được trước cái nhìn ấy. Cậu ấy thích mình. Mình biết mà. Cậu ấy thích mình. Cô đưa tay vuốt dọc từ cổ xuống, đến cúc áo đầu tiên. Những ngón tay cô chạm vào da và để lại một hơi nóng nhẹ. Cô nhớ tới cái nhìn nóng bỏng của Tony dành cho Lana Turner, cái nhìn có thể khiến cho một cô gái líu lưỡi chùn chân. Cái nhìn ấy chỉ có trước một nụ hôn nồng cháy. Đó là khi bộ phim vào lúc cao trào. Tại sao điều này phải xảy ra nhỉ? Tại sao nó cứ rối tung lên khi mình muốn biết rõ nhất...? - Hết giờ rồi, các em. Úp bài xuống. Alice vội vàng quay lại với cái bàn và bài kiểm tra, một nửa câu hỏi vẫn còn nguyên. Ôi không, thời gian trôi đi đâu rồi? Cô biết câu trả lời mà, chỉ cần thêm một chút thời gian thôi... - Alice. Alice! Cô ngước lên và thấy bàn tay của cô Meriweather đưa ra. - Em không nghe tôi nói gì à? Hết giờ rồi, nộp bài thôi. - Nhưng em... - Không lý do lý trấu gì hết. Em phải học cách nghe đi, Alice! Cô Meriweather giật lấy bài kiểm tra của Alice và đi xuống phía dưới. Mặc dù Alice hầu như không nghe thấy rõ nhưng cô biết là các cô gái bên dưới đang bàn tán về mình. Cô quay lại và nhìn thấy họ đang chụm đầu vào nhau, những bàn tay đưa lên che miệng ra chiều bí mật lắm. Alice có thể biết môi chúng ta cử động thế nào đấy, đừng để nó thấy chúng ta đang nói về nó. Giờ thì cả bọn con trai trong lớp cũng cười và chỉ trỏ về phía cô bé. Có cái gì đáng cười nào? Alice nhìn xuống và cô kinh hãi nhìn thấy cúc áo trên cùng bị tuột, giờ thì ngực áo đang phanh ra. Chuông reo, chúng được giải thoát. Alice nhanh chóng gom sách vở vào cặp và ôm nó trước ngực khi rời khỏi phòng học. Cô hầu như không dám nhìn ai, chỉ bước đi, mặt cúi gằm, nước mắt nghẹn ứ. Cô chạy thật nhanh vào phòng vệ sinh và khóa cửa lại. Những đứa con gái khác cũng vào và đứng đó, vừa cười vừa ngắm vuốt trước gương, Alice đứng nấp sau cánh cửa. Cô có thể ngửi thấy mùi nhiều loại nước hoa khác nhau, có thể cảm thấy từng luồng không khí ra vào mỗi khi cửa đóng mở. Những cô gái kiều diễm, với những chiếc áo len hàng hiệu mốt nhất. Họ chẳng bao giờ sợ tuột cúc, họ chẳng bao giờ đến trường với những chiếc váy ngắn cũn và những đôi giầy cứng ngắc. Biến đi, mọi người làm ơn biến đi. Cánh cửa cuối cùng cũng không chuyển động nữa. Đưa tay nhấn vào núm chốt cửa, Alice nín thở nghe ngóng xem còn ai trong nhà vệ sinh nữa không. Thò đầu qua khe hở, cô không thấy còn ai đứng trước gương nữa. Sau đó, cô mới dám ra khỏi nhà vệ sinh. Đại sảnh cũng vắng tanh, mọi người đều đã về lâu rồi. Không còn ai ở đây để trêu chọc hay bắt nạt Alice nữa. Cô bé bước đi, vai gồng lên để tự bảo vệ mình, bước dọc hành lang dài với những dãy tủ để đồ cửa mở ra đập vào và dãy những tấm bảng thông báo buổi khiêu vũ Halloween hai tuần nữa. Có lẽ cô sẽ không đến dự buổi khiêu vũ đó đâu. Sự xúc phạm mà cô gặp phải ở buổi khiêu vũ tuần trước vẫn còn đau nhói và có lẽ sẽ mãi mãi là vết đau trong lòng cô. Hai tiếng đồng hồ đứng dựa lưng vào tường, chờ đợi, hy vọng một cậu bạn nào đó sẽ mời cô ra nhảy. Cuối cùng thì cũng có một đứa tiến đến, nhưng không phải là mời cô nhảy. Thay vì mời cô thì nó đột nhiên nấc lên và nôn vào giày của cô. Sẽ không có buổi khiêu vũ nào hết. Cô chuyển đến thị trấn này hai tháng rồi và cô đã hy vọng mẹ sẽ gói gém đồ đạc và chuyển đi, đến một nơi nào đó họ có thể bắt đầu lại. Nơi mà mọi thứ sẽ khác. Chỉ cần bọn họ không ở đó. Cô bé đi tới lối ra phía trước và hòa vào cái nắng mùa thu. Cô cúi xuống định mở khóa xe đạp mà không hề nghe có tiếng bước chân. Chỉ đến khi bóng của cậu ấy trùm xuống đầu cô thì Alice mới nhận ra Elijah đang đứng bên cạnh. - Chào Alice! Cô đứng sững, cái xe đạp đổ sang một bên. Ôi Chúa ơi, mình mới ngốc làm sao. Sao mình có thể bối rối đến thế nhỉ? - Bài thi thật khó, đúng không? Cậu ấy nói chậm rãi, rành rọt. Lại thêm một điều nữa cô bé thích ở Elijah; không giống những đứa trẻ khác, giọng của cậu ấy rất rõ ràng, không hề bị nuốt từ, khi cậu ấy nói trông môi cậu ấy thật đẹp. Cậu ấy biết bí mật của mình, nhưng vẫn muốn là bạn với mình- cô nghĩ. - Cậu có trả lời được hết các câu hỏi không? Cô gật đầu và dựng cái xe đạp lên: - Tớ biết các câu trả lời, tớ chỉ cần thêm thời gian thôi. Khi cô đứng thẳng lên cô nhận thấy ánh mắt cậu ta dừng lại ở chỗ cái cúc áo bị đứt. Ngại quá, cô lấy hai tay ôm lấy ngực. - Tớ có cái ghim này - cậu ta nói. - Cái gì? Cậu ta đưa tay vào túi áo và móc ra một cái kẹp ghim. - Tớ cũng hay làm mất cúc áo, ngại lắm. Nào, để tớ kẹp lại cho cậu. Cô gái cố gắng thở bình thường khi cậu ấy tiến đến và chạm vào áo của cô, cô hầu như không thể kiểm soát được mình khi ngón tay của cậu ấy luồn vào bên dưới vạt áo để kẹp cái ghim. Cậu ấy có thấy tim mình đang đập loạn lên không nhỉ? Cậu ấy có biết mình phát điên lên khi cậu ấy chạm vào người mình không nhỉ? Khi cậu ta lùi lại, cô mới dám thở mạnh. Cô nhìn xuống và thấy chỗ cúc áo bị mất đã được ghim kín lại. - Tốt hơn chứ hả? - Cậu ta hỏi. - À... ừ. Cô ngừng lại để chuẩn bị tinh thần, để nói với giọng cao quý của một nữ hoàng. - Cảm ơn Elijah, bạn thật chu đáo! Một lát trôi qua. Một làn gió thổi tới, những chiếc lá mùa thu như những ngọn lửa lấp lánh trên cành. - Này, cậu có thể giúp mình một việc không Alice? - Giúp cái gì? Ôi, đồ ngớ ngẩn. Lẽ ra mày phải nói là được! Được! Mình sẽ làm bất cứ điều gì cho cậu, Elijah Lank! - Mình đang có một kế hoạch cho môn sinh học và mình cần có người trợ giúp, mình không biết phải nhờ ai cả. - Kể hoạch gì thế? - Mình sẽ chỉ cho cậu thấy, cậu đến nhà mình chứ? Nhà cậu ấy ư? Cô chưa bao giờ đến nhà đứa con trai nào. Cô gật đầu: - Để mình về nhà cất sách vở đã nhé. Cậu ta kéo cái xe ra khỏi hàng, nó gần giống cái xe của cô. Chắn bùn rách te tua, han rỉ đến tận chỗ ngồi. Cái xe cũ làm cô thích cậu ta hơn bao giờ hết.Chúng ta là một cặp thực sự, cô nghĩ. Tony Curlis và mình. Cả hai đi về nhà cô trước. Cô đã không mời cậu ấy vào nhà, cô ngượng lắm, vì không thể để cậu ấy thấy những đồ đạc lộn xộn và vết sơn loang lổ trên tường được. Cô chạy vào bên trong, vứt cái cặp lên bàn bếp và chạy ra ngay. Thật không may, con chó của thằng em cũng chạy ra. Khi cô ra đến cửa trước, con chó lông đen trắng mới lộ ra. - Buddy — cô hét lên - quay vào ngay! - Nó không biết nghe lời lắm thì phải - Elijah bảo. - Vì nó là một con chó ngớ ngẩn, Buddy! Con vật ngoảnh lại, vẫy đuổi rồi chạy tuốt ra đường. - Ôi không sao đâu, khi nào chán nó sẽ về nhà ngay thôi — cô nói rồi leo lên xe - cậu sống ở đâu? - Trên phố Skyline. Cậu tới đó bao giờ chưa? - Chưa. - Nó ở trên đồi, cậu có đi được không? Cô gật đầu. Tớ có thể làm bất cứ điều gì vì cậu. Chúng đi xa khói nhà cô bé, cô hy vọng cậu ta sẽ đi qua phố chính, qua siêu thị chỗ bọn trẻ con luôn luôn tụ tập sau giờ học để chơi Jukebox và uống Soda. Chúng sẽ thấy mình đi cùng nhau và bọn con gái sẽ không dám lè lưỡi? — Alice đang đi cùng Elijah mắt xanh kìa. Nhưng cậu ta không dẫn cô qua phố chính mà lại đi ngược lên Locust, chỗ chả có mấy nhà cửa, chỉ là con đường phía sau một vài công ty và chỗ đỗ xe của nhân viên xưởng Neptune. Nhưng chẳng phải cô đang đạp xe cùng cậu ta sao? Đủ gần để thấy bắp chân cậu ấy phập phồng và mông cậu ấy trên yên xe. Cậu ta quay lại nhìn cô, mái tóc đen tung bay trong gió. - Cậu ổn chứ Alice? - Mình ổn. Sự thật là cô đang sắp hết hơi vì chúng đã bỏ xa ngôi làng và giờ đang leo lên núi. Elijah hẳn là đã đi xe đạp lên Skyline hàng ngày và quen rồi, cậu ta hầu như chỉ hơi bị ngược gió, chân vẫn đạp đều như những tay đua xe đầy sức lực. Nhưng cô thì đã phải nhổm dậy để dồn sức xuống bàn đạp. Một sợi lông bay vào mắt. Cô nhìn sang bên và thấy Buddy đang theo sau họ. Nó có vẻ mệt, lưỡi thè ra thở lấy thở để. - Về nhà mau. - Cậu bảo sao? - Elijah ngạc nhiên. - Là con chó ngớ ngẩn ấy mà. Nó vẫn theo chúng ta... nó sắp... sắp hụt hơi rồi. Alice lừ mắt nhìn Buddy nhưng con chó vẫn tiếp tục hớn hở chạy bên cạnh. Được rồi, mày cứ chạy đi, mày mệt lăn ra đấy tao cũng kệ - cô bé nghĩ. Cả hai tiếp tục đạp lên núi, gió thổi nhè nhẹ. Qua những rặng cây cô có thể nhìn thấy khung cảnh quen thuộc của cảng Fox xa xa phía dưới, nước lóng lánh như đồng dưới ánh sáng mặt trời buổi chiều. Sau đó những hàng cây trở lên dầy hơn và cuối cùng cô chỉ thấy cánh rừng trong màu đỏ và cam sáng, con đường đầy lá vòng vèo trước mặt. Cuối cùng thì Elijah cũng ngừng đạp, chân của Alice mệt đến nỗi cô không thể đứng thẳng mà không run run. Buddy biến đâu mất, cô mong là con chó có thể tìm thấy đường về nhà vì cô không chắc là mình có thể đi tìm con chó chết tiệt đó không. Giờ thì Elijah đang đứng đây, mỉm cười với cô, đôi mắt trìu mến làm sao. Cậu ấy dựa cái xe vào một cái cây và quàng cái cặp lên vai. - Nhà cậu đâu? - Đó là đường vào đấy - cậu ta chỉ xuống con đường, tới một cái hộp thư đứng chơ vơ. - Không phải chúng ta tới nhà cậu à? - Không. Em họ mình ốm và nó nôn mửa suốt cả đêm qua, thôi đừng vào nhà nhé. À mà kế hoạch của mình ở ngoài kia, chỗ mấy cây gỗ ấy. Bỏ cái xe của cậu ở đây đi, chúng ta đi bộ. Cô dựng cái xe của mình vào xe của cậu ta và đi theo cậu ta. Chân cô vẫn còn mỏi nhừ vì vừa đạp xe lên núi. Cả hai đi sâu vào rừng. Cây ở đây rất to, lá rụng thành tấm thảm dày bao phủ mặt đất. Cô đi theo cậu ta, vừa đi vừa xua xua mấy con muỗi. - Em họ cậu ở với cậu à? - Ừ, nó đến ở với nhà mình năm ngoái. Chắc là ở nhà mình luôn, chẳng có chỗ nào để đi mà. - Bố mẹ cậu không phiền lòng sao? - Chỉ bố thôi, mẹ tớ chết rồi. - Ôi! Cô chẳng biết phải nói sao cả, cuối cùng cô cũng thì thào được một câu đơn giản. - Tớ rất tiếc. Nhưng có vẻ cậu ta không nghe thấy. Lá dưới chân dày hơn và những cạnh khô sắc cứa vào đôi chân trần của cô bé. Theo kịp cậu ta quả là mệt. Cậu ta vẫn tiếp tục đi trước, bỏ mặc cô với cái váy mắc vào cây mâm xôi. - Elijah! Cậu ta không trả lời, vẫn tiếp tục đi như một nhà thám hiểm kiên cường, cặp sách khoác trên vai. - Đợi tớ với. - Cậu có muốn xem không? - Có nhưng mà... - Thế thì nhanh lên. Giọng nói của cậu ta tỏ ra mất kiên nhẫn và cô bắt đầu thấy sợ. Cậu ấy chỉ đứng cách cô vài thước và nhìn cô, cô thấy bàn tay cậu ta đang nắm chặt. - Được được - Cô vội vàng — Tớ tới đây. Xa xa chỉ chục mét, những cây gỗ đột nhiên thưa ra thành một khoảng trống. Cô nhìn thấy một cái nền đá cũ kỹ, như kiểu một trang trại đã bị phá lâu rồi. Elijah quay lại nhìn có, mặt cậu ta đỏ lên dưới nắng chiều. - Ở ngay đây thôi. - Cái gì vậy? Cậu ta cúi xuống và nhặt hai cành cây vứt qua một bên, bên dưới là một cái hố sâu. - Xem này, tớ phải đào nó mất ba tuần đấy. Alice tiến tới chỗ cái hố một cách chậm chạp và nhìn xuống. Ánh nắng buổi chiều giờ đang lấp lánh sau lùm cây, ở đáy hố với om. Cô gạt mấy cái lá ra và thấy dưới đó có một sợi dây thừng vắt qua miệng hố. - Đây là bẫy gấu hay cái gì? - Có thể. Nếu tớ mà để vài cành cây vào để che miệng hố thì tớ có thể bẫy được nhiều thứ lắm, kể cả nai nữa - Cậu ta chỉ xuống hố - Cậu nhìn thử xem? Cô cúi xuống gần hơn và thấy cái gì đó trắng nhợt bên dưới, có một đám trắng hếu bên dưới đám lá khô. - Cái gì thế? - Kế hoạch của tớ đấy - Cậu ta nói và kéo sợi dây lên. Ở đầu kia của sợi dây, lá rơi xuống và khi nó được kéo hẳn lên thì Alice vội vàng nhìn chằm chặp xuống trong khi Elijah lôi nó lên. Một cái rổ. Cậu ta kéo nó ra khỏi hố và đặt nó xuống đất. Gạt bỏ hết đám lá mục sang một bên, Elijah đã lần tới đầu trắng của sợi dây. Đó là một cái đầu lâu nhỏ. Khi cậu ta rũ tất cả lá ra thì cô bé nhìn thấy một ít lông đen và một cái xương sống. Mấy cái xương ống chân của con gì đấy. - Thấy hay không? Nó còn không bốc mùi nữa kìa — cậu ta nói - Nó được chôn dưới đó bảy tháng rồi đấy. Lần trước tớ kiểm tra thì vẫn còn một ít thịt dính vào. Giờ thì tất cả hết sạch rồi, nó bắt đầu phân hủy nhanh hơn khi trời ấm lại vào tháng Năm. - Nhưng nó là cái gì? - Cậu không đoán được à? - Không. Nhặt cái đầu lên, cậu ta giơ nó lên cao một chút rồi vung về phía Alice. - Đừng! - Cô hét lên. - Meeo! - Elijah! - Hả, chẳng phải cậu hỏi nó là cái gì à? Cô nhìn vào hốc mắt trống hoác. - Mèo à? Cậu ta lôi ra một cái hộp từ cặp xách và đặt cái đầu vào trong đó, rồi lần lượt bỏ xương vào. - Cậu làm gì với bộ xương đó thế? - Là kế hoạch khoa học của tớ. Từ một con mèo thành bộ xương khô này mất bảy tháng. - Cậu kiếm đâu ra con mèo đó. - Tớ tìm thấy nó. - Cậu tìm thấy một con mèo chết à? Cậu ta ngước lên, đôi mắt xanh mỉm cười. Nhưng không phải là đôi mắt của Tony Curtis nữa, đôi mắt đó làm cô sợ. - Ai nói nó chết? Tim cô đột nhiên đập mạnh, cô lùi lại một bước. - Ờ... mình nghĩ là mình phải về nhà đây. - Tại sao? - Bài tập. Mình phải làm bài tập. Giờ thì cậu ta đứng dậy, nụ cười tắt ngấm, thay vào đó là cái nhìn kỳ vọng lặng lẽ. - Tớ sẽ... gặp lại cậu ở trường nhé... Cô nói và quay lưng lại nhưng nhìn cả hai phía trái phải đều thấy giống nhau. Trời ơi họ đã đi đường nào vậy? Cô sẽ đi đường nào về đây? - Nhưng cậu vừa mới đến mà Alice. Cậu ta nói, hình như đang nắm cái gì đó trong tay. Chỉ khi cậu ta giơ nó lên ngang đầu cô mới biết đó là cái gì. Một hòn đá. Cô khuỵu xuống, cô cào xuống đất, giờ cô thấy với đen, tay chân tê cứng lại. Cô không thấy đau, chỉ có sự thất vọng mà cậu ta mang đến vừa đánh gục cô. Cậu ta tiến đến, lôi cô dậy và đẩy ngửa ra. Mặt cô va xuống đất khi cậu ta lôi chân cô đi. Cô cố hết sức vùng vẫy la hét nhưng miệng cô đầy bùn đất và cành lá khi cậu ta kéo cô tới phía cái hố. Khi đã rơi xuống đáy hố rồi, cô mới thấy chân mình lủng lẳng. - Đi thôi, Alice - cậu ta nói. - Kéo tớ lên! Kéo lên đi! - Tớ nói, đi thôi! Cậu ta vứt hòn đá đi. Cô bé cố gắng trèo lên nhưng lại tuột xuống. Rơi xuống thảm lá mục dầy đặc bên dưới. - Alice, Alice! Bị đau vì rơi xuống, cô ngước lên bầu trời hình vòng tròn bên trên và nhìn thấy cái đầu cậu ta, đang cúi xuống nhìn. - Tại sao cậu làm thế? Tại sao? - Chẳng việc gì là không có lý do cả. Tớ chỉ muốn xem mất khoảng bao lâu thôi. Bảy tháng cho một con mèo, cậu nghĩ cậu mất bao lâu? - Cậu không thể làm thế với tớ được! - Bye bye, Alice! - Elijah! Elijah! Tấm gỗ đã che mặt hố, che lấp ánh sáng. Hình ảnh về bầu trời biến mất. Điều này không phải là sự thật, cô nghĩ. Đây chỉ là trò đùa thôi. Cậu ấy chỉ cố gắng làm mình sợ thôi. Cậu ấy chỉ bỏ đi vài phút và sau đó sẽ quay lại kéo mình lên, tất nhiên là cậu ấy sẽ quay lại rồi. Và rồi cô bé nghe thấy có tiếng gì đó bên trên nắp hố. Đá. Cậu ta đang chèn đá lên trên miệng hố. Cô bé đứng dậy và cố gắng trèo lên khỏi hố, cô cào vào lớp đất cát, nhưng không thấy một bàn tay nào, không thể nhích lên một phân nào. Tiếng la hét chìm vào bóng tối. - Elijah! Chỉ có tiếng đá chuyển động đáp lại.   Mời các bạn đón đọc Chôn Sống của tác giả Tess Gerritsen & Vũ Thị Tâm (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sát Thủ Tokyo - Barry Eisler
“Sát thủ Tokyo” là một tác phẩm trinh thám xuất sắc lấy bối cảnh Tokyo – Nhật Bản, nhưng tác giả Barry Eisler lại là một nhà văn người Mỹ. Đôi nét về tác giả, Barry Eisler sinh năm 1964 tại Mỹ. Sau khi tốt nghiệp ngành luật ở đại học Cornell năm 1989, ông làm việc cho CIA trong 3 năm. Tiếp đó ông sống và làm việc tại nhiều nơi ở Nhật Bản, trở thành một võ sĩ judo đai đen tại Trung tâm judo quốc tế Kodokan. Tiểu thuyết “Sát thủ Tokyo” của Barry Eisler đã đoạt Barry Award và Gumshoe Award cho "Tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất năm" . Nhân vật chính trong “Sát thủ Tokyo” là John Rain, một người mang hai dòng máu Mỹ - Nhật Bản. Là một người hoài cổ, thích nhạc Jazz, coi trọng các giá trị truyền thống Nhật Bản, song John Rain lại là một sát thủ chuyên nghiệp, làm việc cho đảng LDP, luôn khiến các nạn nhân dường như đã chết vì những nguyên nhân tự nhiên. John Rain ra tay lạnh lùng, tàn khốc nhưng không bao giờ nhận đơn hàng là phụ nữ, người vô tội hay trẻ em. Đọc đến đây ta dễ dàng nhận thấy nguồn cảm hứng để xây dựng nên hình tượng sát thủ John Rain của Barry Eisler đến từ các Samurai – Nhật Bản, những dũng sĩ văn võ toàn tài, yêu nghệ thuật và có kỹ năng chiến đấu bậc thầy. John Rain sống như một lãng khách, một samurai vô chủ, không quê hương, không gia đình, không lí tưởng, không ràng buộc. Một nhân vật đầy hấp dẫn, đầy mâu thuẫn, và đầy chất liệu để cho tác giả xây dựng lên một câu truyện tuyệt vời xung quanh anh ta. Câu truyện của John Rain bắt đầu khi anh nhận hợp đồng ám sát một chính khách người Nhật, anh đã làm việc đó một cách xuất sắc, nạn nhân đã ra đi như một tai nạn bình thường, giữa đám đông trên một chuyến tàu điện. Gã chính khách kia lẽ ra cũng chỉ là một nạn nhân bình thường giống như vô số các nạn nhân khác mà John Rain đã ra tay ám sát, và các sự kiện xảy ra tiếp theo sau cái chết của y lẽ ra sẽ chẳng liên quan gì đến anh nếu anh không chú ý và đem lòng yêu Midori một nghệ sĩ dương cầm chơi nhạc Jazz – cũng chính là con gái y. Rắc rối liên tiếp tìm đến với John Rain, không, nói chính xác thì anh tự lao đầu vào rắc rối mới đúng. Nạn nhân của anh mang theo một bí mật, một bí mật mà cả bốn lực lượng là CIA, cảnh sát Nhật Bản, Yakuza và những chính khách sừng sỏ đều thèm muốn. John Rain lao vào chính giữa vòng xoáy do cả bốn lực lượng trên tạo nên. Ai là bạn? Ai là địch? Ai là người có thể tin tưởng? Ai sẽ bán đứng anh? Anh phải dùng toàn bộ kinh nghiệm, kỹ năng từng học trong quân ngũ và trong 18 năm hành nghề sát thủ để bảo vệ bản thân và những người xung quanh mình? Những mối quan hệ đan xen phức tạp, những tình tiết lôi cuốn, dồn dập đến nghẹt thở sẽ khiến ta không thể ngừng đọc đến tận trang cuối cùng. Đánh giá nhanh tác phẩm:  - Tokyo được mô tả sống động với nhiều gam màu sáng tối đa dạng - Nhân vật hấp dẫn và đặc sắc - Các pha hành động chân thực, đặc biệt là các trường đoạn đánh đấm tay chân sử dụng võ thuật và các chiêu tất sát. - Tình tiết logic, nội dung lôi cuốn. Đến đây phải thú thật là tôi không thích thể loại trinh thám cho lắm. Hồi nhỏ tôi cũng có đọc qua vài tác phẩm trinh thám của Agatha Christie, Conan Doyle, Maurice Leblanc v.v... tuy nhiên ấn tượng của chúng với tôi không nhiều. “Sát thủ Tokyo” là cuốn sách khá đặc biệt với tôi vì cuốn sách do một học sinh lớp 11 cho tôi mượn. Cậu học sinh đó trước đây rất mê chơi game online, tuy nhiên đã nghe theo lời tôi khuyên “nên đọc sách thay vì chơi game quá nhiều”, và đây là cuốn sách đầu tiên mà cậu ta tự mua để đọc. Cậu ta đã khen hết lời cuốn sách, và cảm ơn tôi vì cậu ta chưa bao giờ nghĩ đọc sách lại hấp dẫn đến vậy “hấp dẫn hơn cả chơi LoL”. Vì vậy tôi trân trọng và đọc cuốn sách cậu ta cho mượn, cũng là để hai chúng tôi có thể trao đổi thêm với nhau về nội dung và các tình tiết truyện, và để cậu ta yêu việc đọc hơn. Thêm một lý do để tôi chia sẻ về “Sát thủ Tokyo” là hai đạo diễn Chad Stahelski và David Leitch - cũng chính là đạo diễn của John Wick – đang bấm máy dự án phim “Rain Fall” chuyển thể từ tiểu thuyết về chàng sát thủ hấp dẫn John Rain. Diễn viên Keanu Reeves (siêu sao từng đóng “Neo” của “The Matrix” và “John Wick” của phim cùng tên) sẽ đóng vai John Rain. Thật là một tin vui cho các tín đồ của điện ảnh. *** "Từ những yakuza máu lạnh Nhật Bản cho đến những đặc vụ CIA xảo quyệt, một câu chuyện hồi hộp đến nghẹt thở". *** Barry Eisler sinh năm 1964, là tác giả của nhiều tiểu thuyết trinh thám ăn khách. Sau khi tốt nghiệp ngành luật ở đại học Cornell năm 1989, ông làm việc cho CIA trong 3 năm. Tiếp đó ông sống và làm việc tại nhiều nơi ở Nhật Bản, trở thành một võ sĩ judo đai đen tại Trung tâm judo quốc tế Kodokan. Năm 2002, ông bắt đầu sự nghiệp viết văn toàn thời gian sau khi bán bản quyền tiểu thuyết đầu tay Rain Fall, cuốn đầu tiên trong series về nhân vật John Rain - đến nay đã xuất bản được 7 cuốn. Loạt truyện này của ông đã được dịch ra gần 20 thứ tiếng. Eisler từng đoạt Barry Award và Gumshoe Award cho "Tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất năm". Tháng tư năm 2009, hãng Sony Pictures Nhật Bản đã phát hành bộ phim dựa trên tiểu thuyết Rain Fall (Sát thủ Tokyo) với Shiina Kippei vào vai Rain và diễn viên gạo cội Gary Oldman vào vai đối thủ của Rain, giám đốc chi nhánh CIA William Holtzer. Eisler sống tại Menlo Park và Tokyo. *** Thích jazz, hoài cổ, coi trọng các giá trị truyền thống Nhật Bản, song John Rain lại là một sát thủ chuyên nghiệp, luôn khiến các nạn nhân dường như đã chết vì những nguyên nhân tự nhiên. John Rain ra tay lạnh lùng, tàn khốc nhưng không bao giờ nhận đơn hàng là phụ nữ, người vô tội hay trẻ em. Rain ám ảnh bởi quá khứ bị kì thị và cô lập vì bản thân là người lai Mỹ - Nhật. Tham gia chiến trường Việt Nam có thể xem là cuộc chạy trốn của Rain. Nhưng tại đây, Rain buộc phải giết một người bạn thân từ thuở nhỏ và chứng kiến vụ thảm sát dân thường tàn ác của quân đội Mỹ. Điều này khiến Rain hoang mang cảm thấy “Chúng ta không có nơi nào là nhà”. Sau khi xuất ngũ, Rain có một quãng thời gian lang thang trong các cuộc chiến dùng lính đánh thuê. Trở lại Nhật Bản, y đã phẫu thuật thẩm mỹ để có bề ngoài giống như một học giả người Nhật hơn là một tên lính lai. Tại đây, Rain làm việc cho đảng LDP Nhật Bản với tư cách là một sát thủ bí mật. Mười tám năm qua, Rain sống như một lãng khách, một samurai vô chủ, không quê hương, không gia đình, không lí tưởng, không ràng buộc. Cho đến ngày Rain gặp nữ nghệ sĩ nhạc jazz xinh đẹp và cũng là cô con gái nạn nhân gần đây nhất của y. “Tôi tự nhủ đây là nghiệp chướng, những bánh xe lớn của vũ trụ đang xoay vẫn. Đời trước tôi đã giết anh trai của bạn gái tôi. Bây giờ sau khi sát hại một người, điều tiếp theo mà tôi biết lại là tôi có quan hệ tình cảm với con gái của ông ta. Nếu chuyện này xảy ra với ai khác, tôi sẽ nghĩ nó thật nực cười.” Giữa vòng vây của CIA, cảnh sát Nhật Bản, Yakuza và cảnhững chính khách sừng sỏ muốn che giấu bê bối chính trị, John Rain sẽ làm gì để bảo vệ bản thân và những người xung quanh mình? Những mối quan hệ đan xen, những tình tiết lôi cuốn, dồn dập sẽ khiến bạn không thể ngừng đọc cuốn sách đầu tiên trong series 7 tập về sát thủ John Rain này. Với kinh nghiệm từ những ngày học luật và làm việc tại CIA, tác giả Barry Eisler đã “Khơi lại sức hấp dẫn thôi miên của dòng truyện sát thủ hành động” (James Ellroy). Tháng tư năm 2009, hãng Sony Pictures Nhật Bản đã phát hành bộ phim dựa trên tiểu thuyết Rain Fall với Shiina Kippei vào vai Rain và diễn viên gạo cội Gary Oldman vào vai đối thủ của Rain, giám đốc chi nhánh CIA William Holtzer.   Mời các bạn đón đọc Sát Thủ Tokyo của tác giả Barry Eisler.
Địch Công Kỳ Án Tập 16: Quảng Châu Án - Robert Van Gulik
Năm 680, Địch Công đã là Đại Lý Tự Khanh ở triều đình. Ông vi hành đến Quảng Châu, vùng đất cảng, nơi giao thương của dân tứ xứ (Trung Hoa, Ả Rập, Ba Tư) để điều tra vụ mất tích bí ẩn của Ngự sử Đại phu Liễu Đạo Viễn. Địch Công nghi ngờ ông ta đến đây để tìm hiểu lời đồn về âm mưu phản loạn của người Hồ. Trong quá trình điều tra, những nhân vật có liên quan mật thiết tới vụ án lần lượt bị sát hại, khiến bí ẩn càng chất chồng bí ẩn... Thực hư vụ mất tích của Ngự sử Đại phu cùng những vụ án mạng đó là gì? Liệu chúng có thực sự liên quan đến âm mưu phản loạn của người Hồ như Địch Công đã phán đoán ban đầu hay không? *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 16: Quảng Châu Án  của tác giả Robert van Gulik.
Theo Em Vào Bóng Đêm
Trái tim Louis Durand đã khép kín suốt mười lăm năm qua, khi vị hôn thê đột ngột qua đời một ngày trước hôn lễ. Giờ đây ở tuổi 37, anh quyết định mở nó ra một lần nữa để bắt đầu cuộc đời mới, kết hôn với Julia Russell - cô gái mà anh quen biết qua những lá thư. Và rồi, ngày ấy cũng đến, cô xuất hiện trước mặt anh, trẻ trung và xinh đẹp hơn rất nhiều so với bức hình mà anh nhận được trước đó, khiến anh ngỡ đây chính là hạnh phúc bấy lâu nay mình kiếm tìm. Anh cứ lâng lâng trong hạnh phúc mà chẳng hề hay biết cô gái trước mặt là một người mà cả trái tim và quá khứ đều chìm ngập trong bóng tối. Kể từ đó Durand đã bị cuốn vào điệu waltz quay cuồng của tình yêu và định mệnh... Khi vũ điệu bắt đầu cũng là lúc tội ác được thực thi... *** Tiết tháng Năm, nắng vàng rực, trời xanh biếc. New Orleans chính là thiên đường và nếu có thiên đường thứ hai thì cũng chỉ được như thế này mà thôi, không hơn. Tại nơi ở dành cho người độc thân trên đường St. Charles, Louis Durand đang thay quần áo. Không phải để bắt đầu ngày mới, bởi mặt trời đã lên cao và anh đã dậy từ mấy tiếng trước; mà vì một sự kiện lớn trong ngày. Hôm nay không phải một ngày bình thường, hôm nay là ngày quan trọng nhất. Một ngày chỉ đến với người đàn ông một lần, và giờ nó đã đến với anh. Dù muộn nhưng nó đã đến. Chính là ngày hôm nay. Anh không còn trẻ nữa. Bản thân anh tự bảo như vậy chứ không phải người khác bảo. Đàn ông ở tuổi anh chưa già. Nhưng với chuyện này, 37 tuổi không còn quá trẻ. Trên tường treo một cuốn lịch, bốn tờ đầu đã lật qua, phô ra tờ thứ năm. Trên cùng, ở giữa, chữ Tháng Năm nằm trang trọng. Hai bên, in nghiêng, đổ bóng, là những con số cuộn xoắn nặng nề, chỉ năm - ngày hờ hững lướt qua mắt người xem: 1880. Bên dưới, trong từng ô nhỏ, 19 chữ số đầu tiên đã bị gạch bỏ bằng bút chì. Riêng số thứ 20 được khoanh tròn bằng bút sáp đỏ. Tô đi tô lại, như thể nhấn mạnh bao nhiêu cũng không đủ. Và những con số tiếp theo trống trơn; nó thuộc về tương lai. Anh mặc chiếc sơ mi có diềm đăng ten hồ bột mà bà Alphonsine đã giặt ủi vô cùng chăm chút, mỗi diềm xếp nếp là một tác phẩm nghệ thuật. Cổ tay áo đính những chiếc cúc bằng đá thạch lựu phủ bạc. Trong chiếc khăn ascot tie mượt mà trải từ cằm anh trở xuống, nhô ra cây ghim cài theo thông lệ mà bất cứ người đàn ông ăn vận trang trọng nào cũng phải có. Trong dịp này, nó là một mảnh trăng lưỡi liềm nạm kim cương điểm ở mỗi đầu một viên hồng ngọc. Một sợi dây đeo đồng hô bằng vàng nặng nề treo nơi túi áo gi-lê bên phải của anh. Nối nó với túi áo bên trái, gồ lên một mặt đồng hồ to bản, là chuỗi những sợi vàng dày dặn, nổi bật giữa bụng anh, và chủ đích như vậy. Đàn ông không có đồng hồ bỏ túi có còn đáng mặt đàn ông? Và một chiếc đồng hồ không được nằm ở đó là thứ đồng hồ vứt đi. Bên trên áo gi-lê bó sát, chiếc sơ mi đẹp đẽ, buông chùng khiến anh trông như một chú bồ câu to diều. Nhưng dù không có nó thì lúc này đây niềm kiêu hãnh cũng đủ làm căng tràn lồng ngực anh. Trên bàn làm việc mà anh đang đứng trước để chải tóc, là gói thư từ cùng một bức ảnh chụp dương bản. Đặt lược xuống, anh tạm dừng việc soạn sửa, cầm lên, xem từng bức thư. Bức thư đầu tiên có tiêu đề Cộng đồng Bạn hữu qua thư ở St. Louis, Mo. - Nhịp cầu giữa những quý cô và quý ông tài hoa, mở đầu bằng nét chữ đàn ông bay bướm. “Thưa ngài! Theo yêu cầu của ngài, chúng tôi hân hạnh chuyển tới ngài tên tuổi và địa chỉ của một thành viên trong nhóm, nếu ngài muốn liên lạc với cô ấy, chúng tôi dám chắc rằng sự trao đổi thư từ tốt đẹp có thể được thực hiện…” Bức thư kế tiếp nét chữ còn thanh thoát hơn, lần này là nét chữ phụ nữ, “Gửi ngài Durand…” Và ký tên, “Trân trọng, cô J.Russell.” Bức thư tiếp, “Gửi anh Durand… Trân trọng, cô Julia Russell.” Bức thư tiếp theo, “Gửi Louis Durand… Người bạn của anh, Julia Russell.” Sau đó, “Louis thân mến… Bạn của anh, Julia.” Sau đó, “Louis thân mến… Người bạn Julia của anh.” Sau đó, “Louis thân yêu… Julia của anh.” Và cuối cùng. “Louis yêu dấu… Julia đang vô cùng chờ mong của anh.” Bức thư này có tái bút, “Bao giờ mới đến thứ Tư đây? Em đếm từng giờ mong được bước lên tàu!” Anh đặt chúng vào chỗ cũ, vỗ nhẹ cho cân, đầy dịu dàng trìu mến. Rồi anh đút chúng vào túi áo trong, kề sát trái tim. Bây giờ anh cầm bức ảnh nhỏ lồng khung ngắm nhìn thật lâu và chăm chú. Người trong ảnh không còn trẻ. Chắc chắn cô chưa đến nỗi già, nhưng hẳn cũng không còn là thiếu nữ. Những đường nét của cô hóp vào với sự biến đổi dần rõ nét. Cái miệng đã bắt dầu sắt lại. Đôi mắt đã xuất hiện dấu hiệu của những nếp nhăn và trũng xuống, sẽ đến trong nay mai. Da mặt đang chùng. Sống mũi đã cong và sắp trở thành hình quặp, cằm nhô về phía trước và sẽ xuất hiện cục lồi. Cô không đẹp. Nhưng có thể coi là hấp dẫn, bởi anh thấy cô hấp dẫn, mà xấu đẹp là do mắt người nhìn. Mái tóc đen của cô được búi thành hình nón sau gáy, một vạt tóc mỏng được để lại, rủ lòa xòa trước trán, theo mốt thời trang thịnh hành xưa nay. Thực ra nó đã lặng lẽ hết mốt từ lâu. Do sự hạn chế của khuôn hình mà món trang sức duy nhất góp mặt là dải ruy băng nhung đen thắt ở cổ cô, vì ngay bên dưới, bức ảnh đã kết thúc trong lớp mây nâu khói của nước ảnh. Đây chính là thỏa thuận của anh với tình yêu, vơ lấy những gì có thể trong sự vội vàng bạt mạng, bởi vì anh sợ không còn gì để mà lấy, vì đã chờ đợi quá lâu, sau khi anh đã chờ 15 năm, kiên quyết quay lung với nó. Tình yêu thuở hoa niên, mối tình đầu (mà anh đã thề là tình cuối) giờ chỉ còn là hồi ức nhạt nhòa, một cái tên trong quá khứ đã gần lãng quên. Marguerite, bây giờ anh có thể gọi tên mà không thấy xốn xang. Khô và phẳng như một bông hoa ép trong sách nhiều năm trời. Cái tên trong quá khứ của một người khác, không phải anh. Người ta nói cứ sau 7 năm chúng ta lại thay đổi hoàn toàn, không còn chút gì của con người cũ. Như vậy, anh đã hai lần trở thành một người khác xưa. Anh đã hai lần giã từ cậu thanh niên 22 tuổi -Louis Durand xưa kia, và là mối liên hệ duy nhất giữa họ - người đã gõ cửa nhà cô dâu tương lai vào buổi tối trước đám cưới, mắt long lanh, tay ôm hoa. Rồi đứng đợi mãi. Và anh thấy cửa từ từ mở ra, hai người đàn ông xuất hiện, khiêng một chiếc cáng phủ kín. “Tránh ra nào, bệnh sốt vàng da đấy.” Anh trông thấy chiếc nhẫn trên ngón tay cô ấy, kéo lê trên đường. Anh không khóc òa. Anh không thốt ra lời nào. Anh cúi xuống đặt những bông hoa mang tình yêu đôi lứa lên cái cáng chở người chết đi qua. Rồi anh quay lưng rời khỏi đó. Rời khỏi tình yêu, trong 15 năm. Marguerite. Cái tên ấy là tất cả những gì anh còn lại. Anh chung thủy với cái tên ấy cho đến lúc chết. Vì anh cũng đã chết, dù chậm hơn cô. Chàng thanh niên 22 tuổi chết đi trở thành người đàn ông 29 tuổi. Đến lượt anh ta chung thủy với cái tên mà người đi trước đã chung thủy, cho đến khi chết. Rồi người đàn ông 29 tuổi trở thành người đàn ông 36 tuổi. Và bỗng một ngày, nỗi cô đơn chồng chất suốt 15 năm, bị dồn nén, đã vỡ òa và nhấn chìm anh, khiến anh hoảng loạn tìm đường thoát. Bất cứ tình yêu nào, ở bất cứ đâu, dưới bất cứ hình thức nào. Nhanh lên, trước khi quá muộn, để không phải cô đơn thêm nữa. Khi ấy, chỉ cần anh gặp một người trong tiệm ăn… Hoặc chỉ cần anh gặp một người qua đường… Nhưng anh không gặp ai cả. Thay vào đó, mắt anh cụp xuống dõi theo mục quảng cáo trên báo. Một mục quảng cáo của St. Louis trên một tờ báo ở New Orleans. Bạn không cách nào thoát khỏi tình yêu! Những suy nghĩ trong anh chấm dứt. Tiếng bánh xe ngựa dừng ngay bên ngoài khiến anh nhét bức ảnh trong ví và cho vào túi. Anh bước ra hiên tầng hai nhìn xuống. Ánh nắng rọi trắng xóa lưng anh như bột mì khi anh vươn người, đè lên nhánh hoa giấy đỏ tươi leo quanh thành lan can. Một người đàn ông da đen từ ngoài đường đi vào sân qua một hành lang. “Làm gì mà lâu thế?” Durand hỏi vọng xuống. “Có hoa cho tôi chưa?” Câu hỏi hoàn toàn tu từ, vì anh đã thấy cái gói hình nón, phía trên những lớp giấy sáp bọc ngoài lấp ló sắc hồng. “Chắc chắn rồi ạ!” “Còn xe ngựa thì sao?” “Nó đang đợi cậu đấy!” “Tôi tưởng ông chẳng bao giờ thuê xe ngoài,” anh nói tiếp. “Ông chỉ thích…” Người đầy tớ da đen lắc đầu vẻ triết lí. “Đàn ông đang yêu lúc nào cũng hối hả.” “Nhanh lên, Tom,” anh nôn nóng giục giã. “Đừng đứng dưới đó cả ngày như thế.” Vẫn giữ nụ cười trêu chọc, Tom đi tiếp, khuất dạng dưới sườn nhà. Lúc sau, cửa phòng mở ra và ông bước đến sau lưng ông chủ. Anh quay lại, đến gần ông, giành lấy bó hoa, lột hết những lớp bọc ngoài, với sự vội vàng nôn nóng hơn là cẩn thận nâng niu. “Cậu định tặng cho cô ấy, hay là phá nát nó?” Ông ta hỏi mát. “Chà, tôi phải xem trước chứ, đúng không? Ông nói xem cô ấy có thích hoa hồng và hoa đậu thơm không, Tom?” Có sự tuyệt vọng trong câu hỏi cuối, giống như khi người ta đã hết cách. “Không phải tất cả phụ nữ đều vậy ư?” “Tôi không biết. Cô gái duy nhất mà tôi…,” anh không nói hết câu. “Ôi, bọn họ,” Tom nói với vẻ bao dung. “Người bán hàng nói họ sẽ thích, anh ta bảo phụ nữ đều yêu cầu loại hoa này.” Ông cẩn thận vuốt phẳng lớp giấy bọc phía trên, trả lại sự gọn gàng cho bó hoa. Trong lúc đó Durand nháo nhào thu gom quần áo còn lại, chuẩn bị lên đường. “Tôi muốn đến nhà mới trước,” anh nói, có phần hổn hển. “Cậu mới ở đó hôm qua,” Tom chỉ ra. “Hình như cậu sợ nếu xa nó một ngày thì nó sẽ bay mất ấy.” “Tôi biết, nhưng đây là lần cuối cùng tôi phải đảm bảo mọi thứ đều… ông nói với em gái ông chưa? Tôi muốn bà ấy ở đó khi chúng ta đến.” “Bà ấy sẽ ở đó.” Durand đặt tay lên nắm đấm cửa, rồi lại dừng bước, nhìn quanh, và bộ dạng hăm hở chùng hẳn. “Đây sẽ là thời khắc cuối cùng của nơi này, Tom ạ.” “Nó thật đẹp và yên bình, cậu Lou,” người đầy tớ thừa nhận. “Trong mấy năm qua, từ lúc cậu bắt đầu già đi.” Như bị tác động trước lời cảnh báo ngấm ngầm về sự trôi qua của thời gian, không khí khởi hành lại sôi động. “Ông hãy đóng gói nốt, để ý đồ của tôi đằng kia. Nhớ trả chìa khóa cho Madame Tellier trước khi đi.” Anh lại dừng lại, quả đấm cửa đã xoay, nhưng cửa vẫn chưa mở. “Sao thế, cậu Lou?” “Tôi thấy sợ. Tôi lo cô ấy…,” anh nuốt khan qua cổ áo dựng đến tai, đưa mu bàn tay thấm những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, “… sẽ không thích tôi.” “Tôi thấy cậu rất bảnh.” “Cho đến giờ, mọi chuyện chỉ diễn ra qua thư từ. Trong thư thì dễ.” “Cậu đã gửi ảnh cho cô ấy. Cô ấy biết cậu trông như thế nào,” Tom tìm cách khích lệ. “Ảnh chỉ là ảnh. Người thật thì khác.” Tom tiến đến chỗ anh đang đứng ủ rũ chếch một bên cửa, phủi bụi sau vai áo vest cho anh. “Cậu không phải người đẹp trai nhất N’Orleans, nhưng cũng đâu phải người xấu nhất.” “Tôi không định nói đến vẻ ngoài. Tính cách của chúng tôi…” “Tuổi tác hai người hợp nhau. Cậu đã cho cô ấy biết.” “Tôi đã bớt đi một năm. Tôi đã nói mình 36 tuổi, như vậy nghe đỡ hơn.” “Cậu có thể cho cô ấy một cuộc sống thoải mái, cậu Lou.” Durand sốt sắng gật đầu, như thể đến giờ mới cảm thấy tự tin. “Cô ấy sẽ không nghèo khổ.” “Vậy thì không cần quá lo lắng nữa. Đàn ông khi yêu coi trọng ngoại hình. Còn phụ nữ khi yêu, nói vô phép cậu, họ chỉ muốn biết mình sẽ sống sung túc ra sao thôi.” Nét mặt Durand tươi tỉnh hẳn. “Cô ấy sẽ không phải chắt bóp.” Anh ngẩng cao đầu trước phát hiện mới mẻ. “Cho dù tôi không được như kỳ vọng, cô ấy cũng sẽ dần quen với tôi.” “Cậu chỉ muốn yên tâm thôi phải không?” Tom lục lọi trong người, lôi ra sợi dây cất kĩ trong ngực, treo một cái chân thỏ cũ mèm lồng trong chiếc vòng nhỏ mạ vàng. Ông đưa nó cho Durand. “Ồ, tôi không tin vào…,” Durand lúng túng từ chối. “Chúng không sai khiến được người đàn ông da trắng nói đồng ý,” Tom cười tủm tỉm. “Chúng cũng chẳng khiến cho anh ta nói điều ngược lại. Cậu cứ để nó trong túi, không hại gì đâu.” Durand áy náy cất nó đi. Anh nhìn đồng hồ, rồi đóng nắp lại. “Muộn rồi! Tôi không muốn lỡ chuyến tàu!” Lần này anh đẩy mạnh cánh cửa, bước qua ngưỡng cửa đánh dấu đời độc thân. “Cậu còn hơn nửa tiếng trước khi tàu của cô ấy hiện ra trên sông.” Nhưng Louis Durand, chú rể tương lai, chẳng chần chờ, anh chạy bổ xuống cầu thang lát đá bên ngoài ngôi nhà của Madame Tellier với dáng vẻ tất tả. Lát sau từ cửa sổ dưới sân vọng lên những tiếng rầm rập. Tom sải bước ra ngoài hiên tầng hai. “Mũ của tôi! Ném nó xuống đây.” Durand nôn nóng nhảy lên nhảy xuống. Tom ném nó xuống rồi đi vào. Một giây sau, tiếng rầm rập lại vang lên, còn bức thiết hơn. “Gậy của tôi nữa!” Nó rơi xuống, được bắt lấy khéo léo giữa không trung. Một làn bụi nhỏ nhuộm nắng vẩn lên từ những phiến đá lát không được sạch lắm của Madame Tellier. Tom quay đi, lắc đầu chịu thua. “Đàn ông đang yêu lúc nào cũng hối hả, chắc chắn rồi!” Mời bạn đón đọc Theo Em Vào Bóng Đêm của tác giả Cornell Woolrich & Nguyễn Thị Hạnh (dịch).