Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bánh Mì Cô Đơn

Cuốn tiểu thuyết Bánh Mì Cô Đơn của tác giả Judith Ryan Hendricks viết về những thân phận phụ nữ hết sức đời thương. Là Wyn Morrison, biết rất nhiều nhưng không rõ mình muốn gì? Là Christine Mayle, yêu sàn diễn đến cháy bỏng, nhưng không dễ gì tìm được người đàn ông của đời mình. Là người mẹ hoàn hảo của Wyn, sau nhiều năm trời im lặng đã mở ra những tâm sự chân thành cùng con gái. Là những phụ nữ vừa bình dị vừa độc đáo ở hiệu bánh Quen Srteet. Tất cả ít nhiều đã giúp Wyn nhìn lại chính mình sau khi mải sống cuộc đời nhung lụa của một cô vợ được cưới về chỉ cốt để làm sang cho chồng. Và rồi Wyn nhận ra rằng thứ công việc cầm cự mưu sinh ở tiệm bánh mì đã an ủi lòng cô một cách kỳ diệu và bất ngờ giúp cô một lần nữa hiểu được rằng chẳng có gì giống như trước nữa... Bánh mì nở ra, những nỗi đau dịu lại, trái tim được hàn gắn, và cánh cửa tương lai hé mở. *** Có thứ nữ tính ngọt ngào như mật ong sánh lăn trên lát bánh mì phết bơ, có thứ nữ tính nồng nàn như cà phê ấm sực một góc mùa đông, lại có thứ nữ tính vụng về đáng mến trong những tâm sự khù khờ, và cũng có thứ nữ tính ram rám mà cảm động đến thắt lòng. “Bánh mì cô đơn” là bản dịch đã theo tôi trong hai năm, qua năm thành phố, ba đất nước, hai châu lục, với rất nhiều khắc khoải của cuộc sống và nỗi cô đơn của chính tôi. Với bản thân, tôi coi đây là cuốn sách cho tuổi tam thập nhi lập, và cho phần cứng rắn quyết liệt gàn dở bên trong đội lốt ẻo lả nhõng nhẽo mau nước mắt bên ngoài của mình. Là người dịch, phần nào có nghĩa là phải bắt được thần thái của nhân vật và khiến nhân vật hiện lên sống động và sắc nét bằng từ ngữ. (Trừ trường hợp các nhân vật vốn nhạt nhòa ngay từ trong nguyên tác). Dù chủ ý nhận dịch tác phẩm ở những thể loại khác nhau, tôi vẫn coi mình là một kẻ học việc, tìm cách mở rộng “vùng dễ chịu” của mình để đến với những tác phẩm, những nhân vật lạ lùng hơn, gai góc hơn, khác với bản thân tôi hơn. “Bánh mì cô đơn” là một ca từa tựa như vậy, với dàn nhân vật nữ mỗi người một vẻ, từ mơ màng đa đoan, cá tính quyết liệt, trầm tư giản dị, đến nanh nọc cục súc, và nhẫn nại một cách đầy ích kỷ. Có thứ nữ tính ngọt ngào như mật ong sánh lăn trên lát bánh mì phết bơ, có thứ nữ tính nồng nàn như cà phê ấm sực một góc mùa đông, lại có thứ nữ tính vụng về đáng mến trong những tâm sự khù khờ, và cũng có thứ nữ tính ram rám mà cảm động đến thắt lòng. Nguyên tác là của tác giả, nhưng tôi tìm thấy những mặt khác nhau của mình trong từng nhân vật, và bản dịch có một phần của tôi trong đó… *** TIẾNG THIẾT BỊ BÁO CHÁY bíp bíp đánh thức tôi dậy. Gượm đã. Thiết bị báo cháy bình thường rít lên chứ có bíp bíp thế này đâu. Tôi ngồi dậy, thấy căn phòng đang chao đảo, mọi thứ méo đi như hình ảnh trong gương nhà cười. Tiếng đồng hồ báo thức chăng? Tôi quay đầu quá nhanh. Đau buốt như một kiểu tra tấn cổ xưa của người da đỏ bộ tộc Apache vậy. Những dải da mới lột còn ướt, được bó chặt lại, kệ cho khô. Tôi thả chân xuống qua mép giường, chớp hai mí mắt sưng húp. Khoang miệng khô nghẹt như tấm lưới chắn bụi vải trong máy sấy quần áo. Tôi vẫn đang mặc chân váy lót và áo sơ-mi lụa màu ngà từ tối hôm qua. Đồng hồ đeo tay trượt đi, lằn một rãnh sâu lên cánh tay tôi: 6:45 phút sáng. Một chai Puligny-Montrachet rỗng không trên bàn. Hình như chỉ có rượu rẻ tiền mới làm người uống nhức đầu thôi chứ. Tôi đã làm cái quái gì với chiếc ly nhỉ? Tôi đứng dậy, chân bước loạng choạng. Đi xuống nhà. Từ từ nào. Bám vào tay vịn cầu thang. Vào bếp. Máy làm bánh mì. Sao cái máy bé tí mà kêu to thế? Tiếng bíp bíp phát ra cùng nhịp điệu với mạch đập của tôi. Tôi ấn nút. Cái máy ngừng kêu và nắp bật mở, tỏa ra một đám mây mùi bánh. Tôi quay vội đi và nôn vào bồn rửa. Tôi vặn nước súc miệng, đứng thở và bám vào thành đá lạnh ngắt của mặt bàn bếp. Rồi tôi nhớ ra. David. Tôi nhấc ổ bánh còn ấm ra, đặt trên mặt tấm thớt nặng bằng gỗ phong, một ổ bánh nâu hoàn hảo. • • • Công ty giới thiệu việc làm là một văn phòng bận rộn trong một tòa nhà bằng kính và thép gần sân bay Los Angeles. Các cửa sổ nhìn ra quang cảnh ngoạn mục trên đường cao tốc liên bang 405, mười giờ rưỡi sáng mà xe cộ vẫn nối nhau san sát. Các ứng viên đông kín khu vực chờ - đa phần là phụ nữ trông trẻ hơn tôi chừng chục tuổi, hình như cô nào cũng tên là Heather, Fawn hoặc Tiffany. Nơi này có chút khí thế hừng hực như những căn phòng bàn chiến sự trong các bộ phim về Thế chiến II. Thiếu mỗi ông Winston Churchill là đủ bộ. Chẳng có ai thủng thẳng chuyện gẫu bên đài phun nước. Ai ai cũng lăm lăm điện thoại, bấm bấm bàn phím, hoặc đi phăm phăm ở hành lang, ánh mắt găm thẳng, tránh mọi sự phân tán mất tập trung. Giống hệt như tôi. Ngoại lệ duy nhất là một phụ nữ trẻ ngồi ở bàn phía trước. Khi đã chuốt xong cái móng tay ương bướng bị xước, cô ấy nhìn lên và mỉm cười. - Tôi giúp được gì không? Tôi cố gắng vui vẻ tách mình khỏi guồng quay này. - Tôi có hẹn với chị Lauren lúc mười một giờ. Tôi biết mình đến sớm, nhưng... - Không sao. - Cô ấy đưa tôi một bảng cứng kẹp mấy mẫu giấy tờ. - Chị điền vào cái này, rồi chúng tôi sẽ tiếp tục với phần phỏng vấn và kiểm tra chị. Cô ấy đưa tôi cái bút chì; chỉ dãy ghế bằng sắt và da bọc kê dọc một mảng tường. Còn kiểm tra gì nữa? Nhiêu khê quá. Tôi ngồi xuống ghế; đầu vẫn còn lùng bùng bất kể đã uống hai viên aspirin và một tách đúp cà phê espresso. Giải quyết từng thứ một nào. Tên: “Justine Wynter Franklin”. Có lẽ không nên dùng tên sau khi đã kết hôn. Tôi cố gắng xóa chữ “Franklin” đi, nhưng cục tẩy vừa cũ vừa bở, càng tẩy càng lem nhem. Tôi gạch đi, viết chữ “Morrison” đè lên. Bây giờ trông có vẻ như tôi không chắc chắn. Địa chỉ. Số điện thoại. Tôi điền được dễ dàng. Ngày sinh. Số an sinh xã hội. Loại công việc mong muốn. Có lẽ viết “Không biết” thì không hay lắm. Tôi điền “Việc văn phòng”. Chung chung quá ư? Kỹ năng. Tôi nhìn chằm chằm vào khoảng trống trên giấy. Nó như đang doãng ra, thách tôi có dám điền vào hay không. Thực ra tôi vẫn có thể ngâm Ballade des pendus, khúc ba-lát cho những kẻ treo cổ của François Villon. Hoặc bàn về ảnh hưởng của Cách mạng Công nghiệp đối với tiểu thuyết Anh. Để xem nào... Tôi nấu được thứ cơm hoàn hảo, không có chút nước đọng nào ở đáy nồi, từng hạt cơm tơi bông nở đều. Tôi biết cách làm hồ tiêu và hạt bách xù để lâu ngày trong tủ bếp dậy mùi trở lại như mới, hoặc đánh mượt sốt crème anglaise bị vón. Nếu cần làm mềm thịt bằng nút bấc chai rượu, hoặc tách sáp nến khỏi khăn trải bàn, cứ việc tìm đến tôi. Từ khoảng cách năm mươi bước chân, tôi có thể phân biệt được khăn quàng chính hãng Hermès với hàng Hàn Quốc nhái. Tôi có cú ve trái cắt mặt sân quần vợt rất mạnh mẽ. Cách đây lâu lẩu lầu lâu rồi, tôi biết đánh máy chữ, nhưng với một tốc độ chẳng có gì đáng khoe cả. Ai đó từng nói rằng giọng tôi trả lời điện thoại nghe rất êm tai. “Trả lời điện thoại chăng?” - Cô Justine Franklin? Giật mình, tôi nhìn lên. - Chào cô, tôi là Lauren Randall. Người phụ nữ đứng trước mặt tôi mỉm cười phô ra hàm răng hoàn hảo. Trông chị ấy có vẻ tự nhiên thoải mái như đang ở nhà mình. Tầm bốn mươi tuổi, đẹp một cách thanh lịch hơn là xinh đẹp, vẫn trên người bộ váy lụa đũi màu be. Mái tóc vàng của chị ấy vẫn gọn phía sau, chặt đến mức trông như cặp lông mày nhướn lên một vẻ ngạc nhiên. Khi tôi đứng lên để bắt bàn tay Lauren đã chìa ra, tấm bảng cứng kẹp giấy tờ trượt rơi xuống sàn. Mặt nóng bừng, tôi vội nhặt nó lên, phớt lờ mọi ánh nhìn, đi theo Lauren dọc hành lang trong khi chị ấy bắt đầu gợi chuyện một cách hết sức bài bản. - Tôi rất mừng được gặp người mặc áo vest. Chắc cô không hình dung nổi đủ loại trang phục tôi từng thấy đâu. Các bạn nữ trẻ trung đến đây mà cứ như đi biển chứ chẳng có vẻ gì là đi tìm việc làm. Thế là tôi đã nằm ngoài diện “các bạn nữ trẻ trung”... Lauren nhận bảng kẹp giấy tờ từ phía tôi, đưa tôi vào phòng làm việc của chị, một phòng nhỏ xíu với hai chiếc ghế và một bàn nhỏ chất đầy tài liệu. - Xem chúng ta có gì nào. Cô đang tìm loại công việc gì? - Việc văn phòng nói chung chị ạ. Sắp xếp giấy tờ, trả lời điện thoại... Có khoảng năm chục bộ phim thuộc thể loại mẹ tôi thích, trong đó cô Doris Day, một kiểu bạn nữ trẻ trẻ xinh xinh, rời nhà đi chinh phục chốn phồn hoa đô hội và kiếm được một chân thư ký - nói như vậy là đủ thấy tôi chẳng trẻ trung gì nữa rồi. ngày đầu tiên làm việc ở một công ty quảng cáo danh tiếng, cô ấy - nhã nhặn trong váy liền màu hồng với cổ cánh sen trắng - đánh đổ cà phê lên khắp người anh chàng bảnh trai ở phòng thư tín. Nàng xấu hổ không để đâu cho hết, còn chàng quá say đắm vẻ thẹn thùng ấy, và đã phải lòng nàng ngay tắp lự. Sau rất nhiều thắt mở ngớ ngẩn, đôi trẻ làm đám cưới, nàng thôi việc để làm một quý cô nhàn nhã, đại thể giống như vị trí mà tôi đang từ bồ đây. Tôi những muốn hỏi Lauren xem ở đây có áp dụng kiểu kịch bản như vậy không. Cô lễ tân với sự nghiệp trở thành một người phụ nữ được chồng nuôi và chỉ việc hưởng thụ. - Cô từng làm lễ tân phải không? - À... - Cô có thể xử lý được bao nhiêu đường dây điện thoại? Cô đã dùng hệ thống Rolm bao giờ chưa? Hoặc là Honeywell? - Lauren không để ý gì đến sự im lặng của tôi. - Xin lỗi nhé, chắc tôi đã gọi phỏng vấn khi cô chưa kịp điền hết vào đơn. Tôi sẽ ghi chú vào đây, khi chúng ta xong thì cô có thể làm bài kiểm tra kỹ năng đánh máy. - Không cần làm bài kiểm tra ấy đâu chị ạ, tôi không đánh máy gì từ năm năm nay rồi. - Không sao. - Chị ấy khẽ phất tay. - Giống như đi xe đạp ấy mà. Phản xạ sẽ quay trở lại khi cô bắt tay vào làm. - Lauren nhìn khoảng trống ở mục “Kinh nghiệm”. - Hiện giờ cô có đang làm việc không? Tôi từng đọc nhiều bài báo viết chắc như đinh đóng cột rằng nội trợ và công tác tình nguyện cũng có giá trị tương xứng với bất cứ công việc được trả thù lao nào. Dám cá là Lauren không hề đọc những bài báo ấy. - Justine này... - Wynter ạ, tôi thường dùng tên đệm. - Xin lỗi nhé. Wynter này, cô cho tôi biết kinh nghiệm làm việc của cô được không? Thở sâu, tôi nói: - Ba năm dạy tại trường trung học. Một năm kinh doanh bất động sản... Lauren nhìn tôi với vẻ trông đợi, chờ đến đoạn tôi nói vào công việc chính. - Và tôi đã làm việc cho các ủy ban. Bệnh viện Cedars-Sinai, dàn nhạc giao hưởng... - Tôi lục tung trí nhớ ngắn hạn của mình, cố tìm cho ra điều gì đó ấn tượng hơn. - Thế sao cô lại muốn làm việc văn phòng tạp vụ? Chỉ cần cô gia hạn chứng chỉ sư phạm hoặc kinh doanh bất động sản trở lại thì sẽ thu nhập được khá hơn đấy. - Tôi không quay lại bất động sản được vì tôi làm dở tệ, chưa từng bán được thứ gì. - Vậy dạy học thì sao? Gia hạn chứng chỉ sư phạm không khó... - Tôi ghét dạy học lắm. - Tôi nắm chặt tay ghế bằng những ngón tay dinh dính mồ hôi. Lauren ngả người ra sau, khoanh tay lại, nhìn tôi chừng như đang suy xét điều gì. Tôi có thể đọc được suy nghĩ trong mắt chị ấy: lại một nàng bảo ngọc ở khu Hancock Park hết được nuôi ăn đây mà. Trong bụng chị ấy chắc đang cười như điên mất. Lauren bắt chéo đôi chân thon, để một bên quai giầy cao gót trật khỏi gót chân. Rồi chị ấy nói, một cách lặng lẽ: - Tôi không muốn làm cô sợ đâu, Wynter ạ, nhưng tôi ghét công việc này. Đôi khi ta phải làm những việc mà ta ghét cay ghét đắng. Tôi đã đứng dậy, chẳng hiểu sao tôi đứng như vậy từ bao giờ rồi. - Cảm ơn lời khuyên của chị. Tôi ra khỏi văn phòng bé xíu ấy, đi qua bàn lễ tân, rời khỏi công ty. Nếu đi nhanh, trông tôi sẽ như đang vội đến một cuộc hẹn phỏng vấn. Tôi ngồi ở bãi đỗ xe, trong chiếc Mazda RX-7 vốn là quà tặng sinh nhật tôi cách đây ba năm. Khốn thật. Mi thì biết cái gì chứ? Tại sao tôi phải bận tâm tìm việc làm? Tối nay thôi, David và tôi sẽ ngồi lại với nhau và giải quyết sự việc đâu vào đó. Anh mệt và căng thẳng cực điểm. Chắc anh sẽ về nhà với hoa hồng trên tay hay gì đó tương tự, nói rằng anh xin lỗi... Chúng tôi sẽ đi xa vài ngày. Tới Mexico. Uống rượu margaritas, yêu nhau và ngủ. Mọi chuyện sẽ ổn cả. Tôi xoay chìa khóa khởi động xe. Tôi không cần việc làm. Đặc biệt là thứ việc văn phòng phục dịch thời vụ vớ vẩn và vặt vãnh. Xe của tôi có mùi rất dễ chịu. Không rõ thợ rửa xe đã làm gì với lớp da bọc trên ghế mà xe vẫn còn mùi như mới thế này. Một món quà rất David. Anh định sắm cho tôi một chiếc Mercedes, nhưng tôi luôn thấy dòng xe ấy có vẻ ù lì kém thời trang. Tôi muốn thứ gì đó khiến tôi vui và hào hứng, thứ gì đó có cần số. Một chiếc Porsche chẳng hạn. Biết tôi ham tốc độ, anh đã dứt khoát không thể là Porsche được. Chúng tôi không nói đến chuyện đó nữa. Rồi, sáng hôm sinh nhật, tôi vừa xuống nhà đã thấy một hộp nhỏ đặt cạnh cốc nước cam. Tôi cứ ngỡ đó là món trang sức nào đó. Cơ mà nằm giữa những nếp xa-tanh trắng là một chiếc chìa khóa đen. Chiếc RX-7 của tôi đang đậu bên ngoài, ngay sát mặt đường, dù trời trông như muốn mưa. Chúng tôi chạy xe vài dặm qua những ngọn đồi, cho đến khi mây trên đầu vỡ ra và rải mưa xuống. • • • Đã quá trưa mà tôi vẫn chưa ăn gì. Tôi tấp xe vào quán burger In-n-Out đầu tiên bắt gặp, gọi món qua cửa sổ xe ô-tô, hầu như không thấy rõ đó là thứ gì. Trở lại đường cao tốc, hướng bắc theo đường 405, hướng tây theo đường 10, rồi đường PCH thẳng ra bờ biển. Lần đầu tiên tôi để ý hôm nay là một ngày đẹp trời biết chừng nào. Bên trái tôi là Thái Bình Dương xanh thẳm, lấm tấm những đỉnh sóng bọt tung trắng xóa, hắt màu trời biếc điểm xuyết những cụm mây trắng. Khung cảnh mà có bị lật ngược thì ta cũng chẳng thể phát hiện ra được, như những bức tranh trong truyện thiếu nhi vậy. Bên phải tôi, những sườn dốc nâu bao lấy bãi biển Malibu chốc chốc lại rực lên những mảng màu - những giàn hoa giấy đỏ thắm, từng vạt sen cạn màu vàng tươi và da cam, hoa xuyến chi tím ngát xen lẫn với ngọc giá trắng và cây bụi khô. Một khung hình muôn thuở như kéo dài ra mãi, trừ khi ta biết đôi chỗ trên đường có những đống đá chực lở ra và trượt xuống. Vừa lái xe vừa nhét khoai tây rán vào miệng, tôi kín đáo quan sát những người đang chạy xe khác. Sao trông ai cũng như biết rõ mình đang đi đâu và sẽ làm gì khi đến nơi thế nhỉ? Ký ức về những ngày hè thong dong hạnh phúc thôi thúc tôi rẽ vào đường ra bãi biển Zuma. Vừa tấp xe vào bãi đỗ gần như trống, tôi thấy một chiếc Mercedes đen và hơi thở lập tức như nghẹt lại. David ư? Dòng xe khác, biển số khác. Mà liệu anh có thể làm gì ở đây cơ chứ? Chiếc xe từ từ chạy qua tôi, một phụ nữ tóc đỏ cầm lái. Tôi nhìn đăm đăm những con sóng bạc đầu cuộn vỗ vào bờ trong khi ban nhạc The Supremes tự hỏi “Tình yêu của chúng ta đã ra đi về đâu?”, còn tôi tự hỏi: ra đi khi nào. Được rồi. Đúng là gần đây không có nhiều những khoảnh khắc ngọt lịm như quảng cáo trên ti-vi, những tiếng cười và thậm chí những mục tiêu chung. Nhưng phải chăng như thế có nghĩa là tất cả đã hết? Miếng bánh burger phô mai đầu tiên rơi xuống dạ dày tôi như hòn đá rơi xuống một bể bơi cạn nước. Tôi dúi phần còn lại vào túi cùng với khoai rán đã nguội ngắt. Tôi ra khỏi xe, tháo bỏ giầy và tất da chân. Đi qua mặt đường nhựa ấm lên dưới nắng, tới bờ cát ẩm ướt mát lạnh, choàng áo khoác quanh mình. Những trạm cứu hộ không người, ảm đạm co ro vào nhau là dấu hiệu rõ rệt nhất cho hay mùa thu đã đến miền nam bang California. Đôi khi đó là dấu hiệu duy nhất. Dọc theo bờ biển, một chú chó Lab lông vàng nhảy nhót cùng bọt sóng trong khi người chủ thuần thục quăng những cây gậy đi. Lác đác có vài người lướt sóng mặc bộ đồ bó đen, thoăn thoắt đứng lên nhún xuống trên ván, chờ con sl óng lớn. Một người đàn ông và một phụ nữ tóc đã muối tiêu nắm tay nhau nhịp nhàng tập các động tác khởi động. Còn lại, chỉ có tôi. Một lưỡi sóng lạnh buốt liếm qua chân, tôi cứ đứng im, nước ngập đến mắt cá. Nếu không đi tiếp, tôi sẽ mất thăng bằng mất. Gió biển mằn mặn đánh rối tóc tôi, phả vào làm hai mắt chảy nước. Tôi đi về phía bắc, bước qua những dải rong biển, những vỏ sò vỡ, nửa con cua bị ruồi bâu kín. Tôi từng đọc thấy người ta nói rằng khi bắt đầu nhận thức được cái chết không thể trì hoãn nổi của bản thân, phản ứng đầu tiên của ta thường là, Mình không thể chết được. Mình còn vé đi nghe opera tuần sau cơ mà. Tại sao lại như vậy? Khi phải đối mặt với những gì ta không muốn chấp nhận, tại sao ta lại cố gắng bảo vệ bản thân bằng những thứ nhỏ nhặt vặt vãnh ấy? Khi mẹ đến trường đón tôi ra khỏi lớp và nói bố tôi đã mất, suy nghĩ đầu tiên của tôi trước khi rơi vào trạng thái bị xúc động mạnh là, Vậy mùa hè này nhà mình không đi Tahoe được nữa sao? Giờ khi các ngón chân đã ngấm lạnh đến nhăn lại, tê cứng, cố gắng bám vào bờ cát, tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là mẹ tôi sẽ thất vọng biết chừng nào. Bà luôn yêu quý David. Trong câu chuyện theo phiên bản của mẹ tôi, anh là Hoàng tử Hào hoa. Chính anh đã giải cứu tôi khỏi - không phải khỏi rồng đâu nhé, mà là điều còn tệ hơn thế - khỏi mảnh đời nhàm chán của một cô giáo trung học chẳng mấy khi hẹn hò, các kỳ nghỉ thường đi chơi cùng những chị em độc thân khác. Anh đã lắp tôi vào một tòa nhà ở khu Hancock Park, cho tôi chiếc xe thể thao đỏ, quần áo đẹp, những món trang sức đắt tiền. Tất cả những gì tôi phải làm là ăn mặc vừa mắt, tổ chức những bữa tiệc tinh tươm, kết bạn đúng người, sẵn sàng đáp ứng khi anh muốn tôi, và không làm gì để anh bị bẽ mặt. Chẳng có gì phải thắc mắc nhiều. Được rồi, đúng là tôi ghét dạy học. Khó có thể thổi bùng lên ngọn lửa say mê văn chương với những đứa trẻ có kỹ năng đọc hiểu dậm chân tại chỗ ở trình độ lớp năm. Đa phần trong số chúng chỉ giết thời gian ở lớp của tôi trong khi chờ sóng lên để đi lướt ván, hoặc chờ đến giờ học môn khác, hoặc đến 3:10 phút, chuông báo tan học và thế là chúng có thể vù ra tiệm Bob’s Big Boy. Cũng đúng là đời sống xã hội của tôi phần lớn xoay quanh mấy cô bạn gái - CM, Sandy và Liz. Nếm rượu vang, ăn tại nhà hàng độc đáo, xem phim Pháp, dự triển lãm nghệ thuật, tất cả những trò vui tiêu khiển rất đặc trưng của phụ nữ độc thân. Như vậy không có nghĩa là tôi không hẹn hò. Chắc chắn rằng không phải cái gì mẹ tôi cũng biết. Theo kinh nghiệm rộng một cách đúng mực của tôi, những phẩm chất của đàn ông - như ấm áp, chân thành, rộng lượng - thường tỉ lệ nghịch với độ hấp dẫn của vẻ bề ngoài. Điều này dẫn tôi đến kết luận rằng các chàng càng đẹp trai thì càng chẳng ra gì, vì tất cả những người nữ mà họ biết, bắt đầu từ mẹ đẻ, đã làm hư họ mất rồi. Bất chấp thực tế này, hoặc có thể tại vì thế, tôi bị cuốn hút bởi những người đàn ông cao ráo, tóc vàng và bảnh trai, - như thiêu thân lao mình vào lửa. Điều này, như CM, cô bạn thân nhất của tôi, nhanh chóng chỉ ra, có thể là do bố tôi, người tôi hết sức ngưỡng mộ và đã qua đời khi tôi mười bảy, là người cao ráo nhất, tóc vàng đẹp nhất, và điển trai nhất trong số tất cả nam giới. Nhưng bố cũng là cuối cùng trong những đàn ông tử tế. Đã gần mười lăm năm kể từ ngày bố mất, nhưng tôi vẫn có thể đi vào căn phòng làm việc nhỏ trong nhà mẹ mà hình dung ra bố đang ngồi trên ghế da, tờ báo đặt trong lòng, một ly Manhattan mát lạnh trên bàn bên cạnh. Bố thích thứ rượu không ngọt với một chút cốt chanh ấy. Mẹ đã cáu khi bố dạy tôi cách pha chế. Bố dạy tôi mọi thứ. Biết yêu sách vở. Biết cưỡi ngựa kiểu Anh trong khi các bạn tôi cưỡi kiểu miền tây. Bố mua cho tôi một chiếc ô-tô với cần số trong khi các bạn tôi lái xe số tự động. Bố dạy tôi biết ngắm nhìn vòm trời Tahoe vào những đêm tháng Tám trời trong, dõi theo sao băng để nguyện cầu điều gì đó. Buộc nút thủy thủ thế nào, đánh bóng ve trái ra sao. Quẹt diêm bằng một tay. Thở trong khi bơi. Bố dạy tôi cách không sợ hãi khi mở to mắt dưới nước. Và cả trên mặt nước. Đa phần đàn ông mà tôi biết đều không thể sánh được với bố. Ừm, có vài người có thể tôi không chắc lắm. Như Mark, anh họ của ai đó từ Del Mar, gặp tại một tiệc cưới. Andy, anh phi công có vợ ở Dallas. Một nhiếp ảnh gia với cái tên độc đáo Rocky Rivers. Dù sao tôi luôn cho rằng anh ấy quan tâm đến CM nhiều hơn. Chẳng ai trong số họ làm thế giới của tôi rung chuyển được cả. Cho tới đêm tiệc sinh nhật lần thứ hai mươi ba của Paula bạn tôi. Tôi vẫn nhớ mình vừa đến đã bị cô ấy túm ngay lấy. - Có người này cậu phải gặp. Tôi móc áo khoác lên giá treo mũ cạnh phòng kho ở hành lang. - Tại sao chứ? - Anh ấy cao. Cao hơn cậu. - Thế thì là Frankenstein rồi. Tôi bắt đầu đi dọc hành lang đến nhà vệ sinh, nhưng Paula đã kéo tôi lại. - Không phải Frankenstein mà. Nào, rồi cậu sẽ cảm ơn tớ cho coi. Cô ấy lôi tôi đến trước một quầy bar dựng từ bàn chơi bài trong phòng khách, nơi một anh chàng không thể cao hơn, tóc vàng hoe và đẹp trai đang mở một chai bia. - Wyn ơi, đây là anh Dave. Anh Dave, đây là Wyn. Thế nhé. Paula biến luôn vào bếp. Tôi chỉ muốn chui ngay xuống dưới thảm, nhưng Dave mỉm cười và bắt tay tôi, xin lỗi vì tay anh đang lạnh. Đôi mắt anh xanh mênh mang, màu của đại dương tháng Bảy. Rồi anh nói: - Mà anh là David chứ không phải Dave. Em là Lynn phải không? - Wyn ạ, như trong Wynter*. Đồng âm với từ “winter”, trong tiếng Anh nghĩa là “mùa đông”. Mời các bạn đón đọc Bánh Mì Cô Đơn của tác giả Judith Ryan Hendricks.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khao
Khao được coi là tiểu thuyết trào phúng, xuất bản lần đầu năm 1946. Bìa này của NXB Văn học năm 1988. Bản ebook dưới đây lấy nguồn từ Tổng tập văn học Việt Nam tập 33. *** Thơ của Xuân Sách về Bùi Huy Phồn trong "Chân dung nhà văn" Phất rồi ông mới ăn khao Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời Ông đồ phấn ông đồ vôi Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng (in nghiêng: tên tác phẩm của ông) Một giai thoại về Bùi Huy Phồn Bùi Huy Phồn phải bỏ làng... Chuyện vào làng văn phải bỏ... làng là có thật. Người ấy chính là nhà văn Bùi Huy Phồn, quê ở Vân Đình, huyện Ứng Hoà (Hà Tây cũ). Nhà văn Bùi Huy Phồn từng dạy học, viết văn, làm báo, sáng tác thơ và qua các công tác: Uỷ viên Ban Vận động nghiệp đoàn những người viết báo Bắc Kỳ (trước cách mạng) ở Hà Nội, Uỷ viên Ban Chấp hành Đoàn Kháng chiến Bắc Bộ, Chủ bút báo Tây Việt Bắc (khu X), Giám đốc Nhà xuất bản Văn học 1962-1972... Năm 20 tuổi, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay dã sử “Lá huyết thư”, rồi sau này liên tiếp xuất bản hơn 20 tập tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch cùng với 4 tập thơ trào phúng. Bùi Huy Phồn là một trong những nhà thơ trào phúng nổi tiếng với bút danh Đồ Phồn. Để bước được vào làng văn và có được một bề dày văn phẩm, thi phẩm như kể trên, thì những ngày đầu “chập chững” vào làng văn, Bùi Huy Phồn phải bỏ làng ra đi... Năm ấy, khi Bùi Huy Phồn mới 15, 16 tuổi, nhân dịp Tết Nguyên đán, thấy mẹ dặn chị gái đi chợ nhớ mua mấy tờ giấy hồng điều cánh sen mang sang nhà cụ đồ Hai trong làng nhờ viết cho dăm câu đối bằng chữ nho để dán ở trong nhà, ngoài cửa, ngoài ngõ mấy ngày Tết. Thấy có giấy hồng điều, Bùi Huy Phồn tự nghĩ ra đôi câu đối rồi viết bằng chữ quốc ngữ, đem dán vào hai cột cổng ngoài nhà thờ họ vào trước lúc giao thừa. Sáng mồng một Tết, Bùi Huy Phồn dậy thật sớm ra trước cổng nhà thờ họ để ngắm và thưởng thức tác phẩm trào phúng đầu tay của mình. Nhưng thật lạ, không rõ kẻ nào đã bóc đi? Trên cột chỉ còn lại những vết bóc nham nhở. Bùi Huy Phồn ức quá, cảm thấy mình như một người đi săn lần đầu vớ phải một viên đạn thối. Song nghĩ lại, ông thấy có khi thế lại may, bởi vì chỉ lát nữa thôi cụ tuần anh, tuần em, cụ thượng cùng “Tinh thê đẳng” (những người chức sắc trong làng, xã thời đó) mũ mãng cân đai đi đến nhà thờ đại tôn họ Bùi lễ tổ mà bắt gặp đôi câu đối “bạo thiên, nghịch địa” của ông, thì mẹ ông phải đi tạ tội “phạm thượng”. Con dại cái mang mà! Những vị chức sắc làng xã kia không nổi giận sao được khi đọc những câu đối mà Bùi Huy Phồn viết thế này: “Mồng một Tết người đội mũ cánh chuồn khoe mẽ Ba ngày xuân tớ trùm nơm mẹ đĩ ngâm thơ” Mặc dù chưa có vợ nhưng Bùi Huy Phồn vẫn “mượn tạm” cái nơm mẹ đĩ để đối với mũ cánh chuồn. Thật là hả hê quá, mũ cánh chuồn đối với cái váy đàn bà. Tưởng chuyện bị mất câu đối chìm trong im lặng. Nào ngờ, chắc để hết Tết, qua rằm tháng giêng? Đúng ngày 16 tháng giêng năm ấy, nhân ngày giỗ tổ họ Bùi, những người “tai to mặt lớn” trong làng, xã có mặt. Giờ là dịp để họ “sờ gáy’ tác giả câu đối kia. Cụ tuần anh nói với mẹ Bùi Huy Phồn: - Phải đưa thằng Phồn ra nhà thờ họ ngay. Phồn vừa bước đến cửa, cụ tuần anh quát: - Thằng kia, vào đây! Rồi cụ tuần anh quay sang nói với mọi người trong họ: - Hôm nọ, mồng một Tết, anh và các chú vận phẩm phục triều đình đi hành ngơi trong thôn, xóm, cho dân làng được ra bái yết lấy may. Thế mà thằng này (chỉ Phồn) nó dám làm câu đối nói láo! Bùi Huy Phồn lắp bắp định cãi thì cụ tuần anh đập tay xuống tráp, thét lớn: - Câm! Tao lại sai nó nọc cổ mày xuống trước từ đường, đánh cho tan xác bây giờ. Mày muốn làm bình dân thì mày ra Hà Nội. Mày muốn làm cộng sản thì mày sang Nga-la-tư. Chứ còn ở cái làng này thì phải có tôn ti trật tự! Thôi cút! (câu nói này, cũng như những nhân vật Tuần anh, Tuần em... đã được đưa vào trong tác phẩm Khao) Có ai ngờ câu quở mắng của cụ tuần anh kia đã trở thành những lời “tiên tri” ứng nghiệm với cuộc đời Bùi Huy Phồn. Quả thật, sau “vụ câu đối Tết”, Bùi Huy Phồn đã phải bỏ làng ra Hà Nội làm một người bình dân viết văn kiếm sống và sau này, ông được sang Liên Xô thật trong đoàn nhà văn Việt Nam và trở thành một người cộng sản viết văn. *** Lão buông dùi, buông đục. Lão híp cặp mắt. Lão nhe đôi hàm lợi trơ. Rồi xoa hai tay vào nhau, lão thở phào qua đôi hàm lợi ấy. Lão đã khớp xong đôi cá ở ván địa. Cả đôi cá ở ván thiên. Lão đã khớp gần xong tám cặp cá ở cỗ quan tài. Một cỗ quan tài cho lão. Lão khoái! Và nghĩ ngợi. Tất cả mọi người khi đến cái tuổi “gần đất xa trời”, thấy mình sắp được nằm dài thanh thản trong cỗ quan tài, ai mà không nghĩ ngợi? Lão nghĩ rằng: năm nay, lão vừa bẩy mươi hai. Lại có chín con, một miếng đất ở, ba gian nhà. Tổng cộng là bẩy mươi hai tuổi, chín con, một miếng đất, ba gian nhà. Ta có nên tính cả một mụ vợ gù và một con chó ghẻ? Chín con, nhưng theo thói thường, những đứa hiếu đạo đều là đứa yểu số, hoặc nghèo xác, nghèo xơ. Còn những đứa tổ độ mát mặt mát mày lại là đứa cư xử với lão chả ra gì ráo. Một miếng đất ở đã đem cầm lấy tiền nộp ma khô cho vợ cả lão đâu từ năm trước. Ba gian nhà chỉ chờ được tiếp một cơn gió mạnh, là nằm kềnh ra ngửa mặt lên cười với giời. Rút lại, ở lão, chỉ còn có chút tuổi bẩy mươi khả dĩ cho lão tự hào được với trong xóm ngoài làng. Thiên tước kia mà! Lão đã chẳng có phú quý - một con chó ghẻ, ba gian nhà -, nhưng ở đời này, ai không làm được nên phú quý? Lão cũng chẳng có công danh - phó mộc từ năm mười bốn, lão vẫn còn phó mộc đến lúc bẩy mươi, - nhưng ai không làm được nên công danh? Còn như nói đến thiên tước, nói đến sự sống nổi cái tuổi mà lão sống đến ngày hôm nay, dễ ai mà sống được? Đó là một triết lý lão lấy làm sung sướng mới khám phá ra, để hằng ngày hiểu thị cho cái đám thê nhi, sau tiếng rít điếu cày, hoặc cạn một cút con rượu lậu. Đó cũng là một thứ khí giới lão tính sẽ dùng đến để tự vệ ở chỗ đình chung điếm sở, chống với mấy ông Nhang, ông Cán, ngõ hầu hạ giá họ, mỗi khi họ cậy là Nhang, là Cán, hạ giá lão là một thằng… bạch đinh! Bạch đinh! Lão hết cười. Và buồn. Lão đứng lên - như mỗi khi buồn - lẻn vào gậm ban thờ, moi ra một cút rượu lậu, nhấp nháp xuông vài tợp làm vui. Được kích thích trong não cân, đột nhiên, lão tìm ra, lần này cũng như tất cả mọi lần, câu trả lời cho cái điều sỉ nhục trên kia: - A! Bạch đinh, âu nó cũng là cái… số. Phải; chính nó là cái “số”! Lão lại được dịp nhe lợi ra cười phào, sung sướng về sự khám phá mới mẻ này, như lúc vừa đây đã khám phá ra cái “thiên tước”. Chính nó là cái số. Cái số đã cho thiên hạ làm ông Nhang, ông Cán, cái số đã bắt lão mòn đời làm thằng dân trắng, lưng đen khố cao. Rồi lão nghèo, đói, rách, rét. Đó cũng là cái số cả mà thôi. Rồi Chánh Vận sai người đánh đập lão để đòi nợ, hay Lý Bá trói giải lão để ốp thuế năm xưa, chung quy cũng chỉ là cái số lão phải cam như thế. Ấy thế là lão đã vơi được hẳn những oán hận trong lòng! Như mỗi khi vui, lão lại tợp luôn vài tợp rượu cho nó thêm vui. Lão khà một cái khà thống khoái. Chỉ bực một nỗi mụ vợ gù của lão mãi chưa về chợ, thế nào chẳng mua cho lão đôi bìa đậu phụ với vài đồng mắm tôm! Sực nghĩ đến mụ vợ gù, lão không chỉ cười phào. Lão quệt tay lau miệng, liếm môi một cái, cười hẳn ra mấy tiếng “hức hức” liền. Đó mới cũng là cái “số” của giời xui! Nếu không, thì tự dưng sao mụ, chẳng rõ quê quán nơi đâu, lại thành ra con mụ ăn mày. Đã thế rồi, tự dưng sao mụ lại đến xin ngủ nhờ trong túp nhà của lão một đêm! Hai đêm! Rồi lại thêm nữa một đêm! Cho đến khi mụ thấy rằng mụ chẳng cần đi, và lão thấy rằng để mụ ở cũng chẳng thiệt gì cho lão. Mời các bạn đón đọc Khao của tác giả Đồ Phồn.
Sự Hy Sinh Của Thầy Trừ Tà
CẢNH BÁO: KHÔNG ĐƯỢC ĐỌC SAU KHI TRỜI TỐI "Một người nào đó sẽ phải đứng lên để chống lại bóng tối. Và con là người duy nhất có thể." Trong nhiều năm qua, Thầy Trừ Tà Gregory đã giữ cho Hạt an toàn khỏi ma quỷ. Giờ thời gian của ông đã kết thúc, nhưng ai sẽ là người tiếp quản chuyện đó? Hai mươi chín người học việc đã đến thử - một vài người không đạt tiêu chuẩn, một vài người đã bỏ trốn, một vài người đã chết. Chỉ còn lại duy nhất Thomas Ward. Cậu là niềm hy vọng cuối cùng; cậu bé học việc cuối cùng. Liệu Thomas có thành công? Liệu cậu có học được sự khác nhau giữa phù thủy loại lành và phù thủy loại độc? Liệu lời cảnh báo của Thầy Trừ Tà về những cô gái đi giày mũi nhọn có bao gồm cả Alice không? Và điều gì sẽ xảy ra nếu Thomas vô tình giải thoát Mẹ Malkin, phù thủy độc ác nhất ở Hạt…? Câu chuyện đáng sợ đầu tiên trong series Cậu Bé Học Việc và Thầy Trừ Tà. *** Joseph Delaney từng dạy truyền thông và phim ảnh ở một trường trung học tại Blackpool, Anh. Ông sống cùng gia đình ở Lancashire, giữa trung tâm lãnh thổ của ông kẹ. Sự Báo Thù Của Phù Thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay. Truyện được hãng Warner Bros. Pictures mua bản quyền và chuyển thể thành phim với tên Người con trai thứ bảy (The Seventh Son, đạo diễn: Sergei Bodrov). Phim sẽ được phát hành trong đầu năm 2013, có sự tham gia của nam diễn viên Ben Barnes (vai Thomas Ward), Julianne Moore (vai Mẹ Malkin), nam diễn viên Jeff Bridges (vai Thầy Trừ Tà Gregory)… Series Cậu Bé Học Việc và Thầy Trừ Tà do Chibooks xuất bản 2012-2013: Phần 1: Sự Báo Thù Của Phù Thủy (The Spook’s Apprentice) Phần 2: Lời nguyền của Quỷ độc (Spook's Curse) Phần 3: Đêm của Kẻ Đánh Cắp Hồn (The Spook’s Secrect) Phần 4: Đòn Tấn Công của Quỷ Vương (The Spook’s Battle) Phần 5: Cơn Thịnh Nộ của Huyết Nhân (The Spook’s Mistake) Phần 6: Sự Hi Sinh của Thầy Trừ Tà (The Spook’s Sacrifice) Phần 7: The Spook’s Nightmare Phần 8: The Spook’s Destiny Phần 9: The Spook’s I am Grimalkin Phần 10: The Spook’s Stories: Witches Phần 11: The Spook’s Bestiary *** "Phù thủy hả mẹ? Chúng ta liên minh với phù thủy sao?" Là chân học việc của Thầy Trừ Tà, nhiệm vụ hàng đầu của Tom là bảo vệ Hạt khỏi thế lực bóng tối. Nhưng giờ đây mẹ lại cần đến sự giúp sức của cậu tại quê nhà Hy Lạp của bà để nổi dậy chống lại một trong mấy vị Cổ Thần, mụ Ordeen gớm ghiếc. Mẹ đã triệu tập một nhóm hùng hậu để chiến đấu, nhưng trong số đó lại có cả các phù thủy đến từ Pendle. Liệu Tom có thể đi ngược lại tất cả những gì Thầy Trừ Tà đã dạy mà liên minh với kẻ thù hay không? Điều bí mật gì mẹ đang cố giấu cậu ấy? Và điều gì cần phải hy sinh trong trận chiến chống lại bóng tối? Câu chuyện đáng sợ thứ 6 trong series Cậu bé học việc và thầy trừ tà. *** Tôi bừng tỉnh với tâm trạng bồn chồn lo lắng có chuyện gì đó chăng lành. Ngoài trời, những tia sét đánh chằng chịt bên khung cửa, tiếp nối bằng những đợt sấm rền. Trước đây tôi từng ngủ qua những đêm giông bão ở Hạt, nên chắc chắn những thứ ấy không thể làm tôi thức giấc. Không đâu, tôi linh tính có một mối nguy nào đó đang chực chờ ngoài kia. Tôi nhảy phóc ra khỏi giường, đúng lúc chiếc gương ngay cạnhđầu giường tôi đột nhiên sáng hơn lên. Tôi thoáng thấy hình ảnh phản chiếu của ai đó lướt qua rồi nhanh chóng biến mất. Nhưng tôi đã kịp nhận ra khuôn mặt. Là Alice. Dù được đào tạo trong hai năm liền để trở thành phù thủy, Alice vẫn là bạn tôi. Cô bé đã bị Thầy trừ tà xua đuổi nên phải quay trở lại khu đồi Pendle. Tôi nhớ có ghê lắm nhưng vẫn ráng giữ lời hứa với Thầy mình mà tảng lờ mọi nỗ lực liên lạc của cô ấy. Nhưng lần này tôi không thể lờ đi được nữa. Cô ấy đã cố ghi lại lời nhắn trên gương, còn tôi không thể không đọc trước khi dòng chữ phai mất. Maenad là gì nhỉ? Tôi chưa từng nghe đến. Với lại làm sao mà một tên sát thủ bất kỳ nào có thể tiếp cận được tôi khi hắn phải băng qua khu vườn của Thầy trừ tà - nơi luôn được Ông Kẹ thần thánh của Thầy trông chừng? Nếu kẻ nào đó xâm phạm khu vườn, Ông Kẹ ấy sẽ gầm lên một tiếng đến cả cách đó hàng dặm vẫn còn nghe ra, và sẽ xé xác kẻ xâm phạm thành trăm mảnh. Còn nữa, làm sao Alice biết được mối nguy hiểm đó? Cô bé đang ở Pendle cách đây hàng dặm. Tuy vậy, tôi cũng sẽ không làm ngơ lời cảnh báo của cô ấy đâu. Thầy tôi, John Gregory, đã ra ngoài xử lý một hồn ma chuyên gây rắc rối, chỉ còn lại mỗi tôi trong ngôi nhà này. Mà tôi lại chẳng có gì tự vệ trong tay. Thanh trượng cùng túi đồ của tôi đang ở tuốt trong bếp, nên tôi phải đi lấy vậy. Đừng hoảng, tôi tự nhủ. Từ từ bình tĩnh nào. Tôi nhanh chóng mặc quần áo, xỏ chân vào đôi ủng. Tôi nhẹ nhàng mở cửa phòng ngủ và cẩn thận lẻn ra ngoài khu hành lang tối om om ngay lúc tiếng sấm rền vang một lần nữa. Tại đây tôi dừng lại nghe ngóng. Vạn vật im phăng phắc. Thấy chắc ăn rằng chưa có kẻ nào đột nhập vào được trong nhà, nên tôi tiếp tục rón rén đi xuống cầu thang. Tôi lướt qua khu tiền sảnh rồi hướng thẳng vào bếp. Tôi nhét sợi xích bạc vào túi quần, rồi vừa nắm lấy thanh trượng, tôi vừa mở cửa sau để bước ra ngoài. Ông Kẹ đâu nhỉ? Tại sao Ông Kẹ lại không bảo vệ ngôi nhà và khu vườn khỏi kẻ đột nhập? Mưa xối thẳng vào mặt tôi khi tôi đứng chờ, kỹ lưỡng dò mắt qua sân cỏ lẫn cây cối ngoài kia xem có cử động nào không. Mời các bạn đón đọc Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 6: Sự Hy Sinh Của Thầy Trừ Tà của tác giả Joseph Delaney.
Và Rồi Núi Vọng
Afghanistan trong Người đua diều (The Kite Runner) là một giấc mơ ấu thơ đẹp đẽ, sự đẹp đẽ được reo rắc, ươm mầm từ những hoài niệm, xót thương, ẩn ức. Cậu bé Amir đi xa Kabul đến vạn dặm vẫn khắc khoải về một góc phố, về một ngôi nhà, về một ấu thơ thấm đẫm nỗi niềm. Người đua diều ngay khi ra mắt đã trở thành hiện tượng xuất bản. Tác phẩm đầu tay của bác sĩ Khaled Hosseini trở thành “best seller” trong nháy mắt. Người Mỹ kinh ngạc và lặng đi trước một Afghanistan đau thương nhưng lấp lánh giấc mơ. Afghanistan trong Và rồi núi vọng (And the Mountains Echoed) là một giấc mơ thăm thẳm đau đớn. Ở đó, đói nghèo đặt dấu vết lên từng nhân vật, chiến tranh tàn phá từng số phận, sự đau khổ, trống rỗng hủy hoại từng cuộc đời. Những số phận mang hình hài Afghan Shadbagh (một địa danh ở Pakistan) không hiểu vì sao được đặt tên cho ngôi làng của Afghanistan - nơi Hosseini bắt đầu câu chuyện của mình. Người cha Saboor nghèo khổ, gia cảnh kiệt quệ sau cái chết của đứa con trai chưa đầy tuổi hồi mùa đông đã quyết định bán cô con gái Pari cho một gia đình giàu có ở Kabul. Hành trình kéo xe của Saboor từ Shadbagh đến Kabul như vô tận, lết theo đó là nỗi tuyệt vọng khôn cùng. Saboor không có sự lựa chọn. Nghèo đói đã trĩu nặng trên vai ông. Sự trong sáng, thơ ngây của 2 đứa con dày vò, hành hạ ông. Và cuộc chia ly ở Kabul đã xô đẩy cuộc đời mỗi người trong số họ theo những hướng khác nhau, Pari ở lại với gia đình giàu có trong cô đơn, trống rỗng. Ông bố Saboor, người anh trai Abdullah trở về Sadbagh trong nỗi đau đớn dày xéo họ suốt phần đời còn lại. Và rồi núi vọng là cuốn sách thứ 3 của bác sĩ Hosseini. Trước đó, anh đã từng viết Người đua diều và Ngàn mặt trời rực rỡ, đều để lại ấn tượng mạnh mẽ về đất nước Afghanistan. Cuốn Người đua diều được chuyển thể thành phim năm 2007. Và rồi núi vọng được kể theo thời gian phi tuyến tính. Mỗi chương là một dấu mốc thời gian. Mỗi dấu mốc thời gian là một cuộc đời. Từ cuộc chia tay Kabul, diễn biến câu chuyện vừa như có sự sắp đặt, vừa như chẳng hề có sự sắp đặt nào. Những nhân vật đến rồi đi. Nhiệm vụ của họ là kể câu chuyện của mình, sứ mệnh của họ là một nút thắt, một dấu chấm trên hành trình cuộc đời đằng đẵng với chằng chịt các mối quan hệ kết nối. Theo nhiều cách, số phận đẩy chúng ta ra xa nhau, rồi kết nối lại bằng những biến cố, bằng những sợi dây vô hình. Những số phận Afghan trong Và rồi núi vọng bị xô đẩy, bị vùi dập, bị hủy hoại, bị chia cắt trong bối cảnh đất nước chiến tranh kéo dài. Cuộc chiến của Mỹ, sự can thiệp của người Nga, sự tàn bạo của Taliban đã chia cắt Afghanistan thành từng số phận nhỏ. Dưới ngòi bút của Hosseini, “ở Kabul, mỗi một dặm vuông có cả ngàn thảm kịch”. Ông lão Nabi bám trụ ở Kabul để chứng kiến cuộc sống thay đổi theo chiến sự. Pari bị xô đẩy đến Pháp với khoảng trống vô tận trong lòng. Abdullah bằng cách nào đó đã đến Mỹ với câu hỏi của cả cuộc đời: em gái đang ở đâu? Anh em Timur, Idris từ Mỹ trở về Afghanistan mang theo những mục đích riêng. Markos vòng quanh thế giới để tìm bản ngã. Gia đình Parwana trôi dạt theo cuộc di cư tị nạn ở Pakistan… Mỗi người trong số họ đều mang những bi kịch riêng, những gương mặt riêng của một người Afghan đặc trưng. Cùng quẫn và bế tắc. Day dứt và bất lực. Đau đớn và kiên cường. Nỗi đau của nhà văn giấu trong từng nhân vật Chất chứa đằng sau mỗi số phận là nỗi xót thương hoang hoải và trĩu nặng tâm tư của tác giả. Tưởng như, nỗi niềm dân tộc, nỗi niềm Afghanistan khiến tác giả đau đớn trong cả những giấc mơ. Khaled Hosseini sinh năm 1965 tại Kabul, Afghanistan. Anh và gia đình rời Kabul sang Paris năm 1976. Năm 1980, gia đình Hosseini được chính phủ Mỹ bảo hộ, họ sang California và định cư tại đó đến nay. Đằng sau một Pari tha hương bé nhỏ, là những con chữ len lỏi nói về sự mạnh mẽ. Đằng sau một Roshi bất hạnh là niềm kiêu hãnh âm thầm về sự kiên cường của dân tộc Afghan. Hay, đằng sau bác sỹ Idris là thấp thoáng những nỗi day dứt, dày vò của chính tác giả, khi tận mắt chứng kiến cả ngàn thảm kịch ở Kabul, Idris trở về Mỹ nhìn cuộc sống giàu sang, xa hoa thấy như lạc lõng, như nực cười, như vô vị. Khi nhìn những đứa trẻ bị bỏ đói, bị hãm hiếp, bị giết hại ở Afghan, cuộc sống nhung lụa ở California bỗng trở nên tội lỗi. Idris đã nghĩ đến việc xây dựng một rạp chiếu phim mini trong nhà, và thấy như muốn khóc khi số tiền đó có thể xây được một ngôi trường ở Afghan. Chỉ tiếc, Hosseini đã quá tham nhân vật, quá tham diễn giải về những số phận, đôi khi, anh để mình lan man, và trượt quá xa câu chuyện chính. Khi độc giả chờ đợi một sự quay về, chờ đợi một lần gặp gỡ, chờ đợi một kịch tính, Hosseini lại để mình lạc đi trong những mối quan hệ rối bời. Kể từ Người đua diều, Ngàn mặt trời rực rỡ đến Và rồi núi vọng, câu chuyện trở đi trở lại với Hosseini, là ở Kabul, cứ một dặm vuông có cả ngàn thảm kịch. Đọc Và rồi núi vọng để thấy, trong từng câu chữ, trong từng nỗi nhớ thương, trong từng hoài niệm, trong cả những nỗi đau đớn khôn nguôi là một giấc mơ Afghan thăm thẳm. *** Khaled Hosseini, là một tiểu thuyết gia và dược sĩ người Hoa Kỳ. Tên tuổi ông trở nên nổi tiếng nhờ hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Người đua diều (2003) và Ngàn mặt trời rực rỡ (2007) bán được 38 triệu bản trên toàn thế giới. Ngoài ra, Người đua diều đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên năm 2007. Năm 2003, Hosseini cho ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tay tên The Kite Runner (nghĩa là: Người đua diều). Cuốn sách là câu chuyện về cậu bé Amir vật lộn để có hàn gắn quan hệ với cha mình và vượt qua nỗi ám ảnh về một sự việc thời thơ ấu. Bối cảnh truyện đặt ở Afghanistan, từ lúc chính quyền Taliban rệu rã đến khi sụp đổ hoàn toàn, và khu vực vịnh San Francisco mà cụ thể là Fremont, California. Trong các chủ đề được nói tới, bao gồm căng thẳng sắc tộc giữa người Hazara và người Pashtun ở Afghanistan, và những trải nghiệm di cư của hai cha con Amir đến Mỹ. Theo thông tin của Nielsen Bookscan, Người đua diều xếp thứ ba trong số những cuốn sách bán chạy nhất tại Mỹ năm 2005. Phiên bản sách nói của cuốn sách được đọc bởi chính tác giả. Tháng 12 năm 2007, bộ phim cùng tên dựa trên cuốn tiểu thuyết được công chiếu. Hosseini có một vai nhỏ khúc gần cuối phim - một người lạ đứng ngoài nhìn Amir mua con diều để sau đó thả với Sohrab. Năm 2008, cuốn sách được chuyển ngữ tiếng Việt và được tái bản năm 2013 xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tiểu thuyết thứ hai của ông A Thousand Spendid Suns (tạm dịch: Ngàn mặt trời rực rỡ) được phát hành vào năm 2007, cũng lấy bối cảnh tại Afghanistan. Truyện theo dõi sự giao thoa giữa hai số phận của hai người phụ nữ cách nhau một thế hệ, Mariam và Laila. Thời gian trong tiểu thuyết từ lúc Afghanistan chịu sự chiếm đóng của Xô Viết, đến những năm dưới ách Taliban và hậu Taliban. Nhà sản xuất Scott Rudin và hãng Columbia Pictures đã mua quyền chuyển thể cuốn sách thành phim. Năm 2010, tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt và xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Các tác phẩm được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Người Đua Diều Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ Và Rồi Núi Vọng ... Mời các bạn đón đọc Và Rồi Núi Vọng của tác giả Khaled Hosseini.
Whiney Yêu Dấu
Niềm say mê trẻ con của Whitney Stone đối với anh chàng hàng xóm đã khiến người cha lạnh nhạt, không tình cảm đẩy nàng đến Paris để sống cùng với dì và chú. Dưới sự chỉ dẫn đầy yêu thương, cô gái trẻ đã trở thành một người đẹp mê hồn và được cả xã hội Paris hoa lệ yêu quý... Công tước Claymore đẹp trai và quyền lực đã quyết tâm biến nàng thành vợ mình. Bất chấp sự quan tâm nhiệt thành của Công tước, Whitney vẫn kiên định với tình yêu thời thơ ấu. Cho đến khi nàng nhận thấy mình bị Công tước cuốn hút, sự cuốn hút vừa khiến nàng vừa thích thú vừa hoang mang. Nhưng Công tước không hề có chút băn khoăn. Chàng muốn Whitney và chàng đã lên kế hoạch để giành lấy nàng, bấp chấp vô số ngáng trở, bao gồm cả lòng mê đắm của Whitney với một chàng trai khác, sự lo lắng ngày càng tăng của dì nàng và những nỗ lực vụng về của người cha tham lam nhằm kiểm soát đứa con gái xinh đẹp của mình. Đam mê bốc cháy giữa Công tước và cô gái trẻ, nhưng Whitney không dễ dàng khuất phục trước 'ông chủ' của mình. Những hiểu lầm và sự phản bội ám ảnh cả Whitney và Clayton. Phải chăng "Tình yêu có thể chiến thắng được tất cả"? Nhưng để hạnh phúc đơm hoa kết trái, họ sẽ phải vượt qua một đầm lầy hiểu lầm đe dọa bất cứ hy vọng nào về một kết thúc hạnh phúc. "Trong vòng mười lăm năm kể từ khi Whitney yêu dấu được phát hành lần đầu tiên, tôi đã phải cưỡng lại mong muốn viết một tập tiếp theo, nhưng tôi cũng luôn ước rằng mình đã không kết thúc câu chuyện khá đột ngột như đã làm. Tôi thấy rằng mình có thể bổ sung một số cảnh tuyệt vời và kéo dài những cảnh khác, nhưng tôi không hề nghĩ mình có cơ hội làm điều đó. Quyết định tái bản Whitney yêu dấu như một ấn phẩm đặc biệt mang lại cho tôi cơ hội đó, tôi hy vọng các bạn cũng thích thú thưởng thức ấn phẩm mới có bổ sung này nhiều như tôi thích thú mang lại nó cho bạn." (Judith McNaught) *** Nhận định "Judith McNaught là một đẳng cấp riêng." - USA Today "Tác giả ăn khách bậc nhất New York Times đã khéo léo dệt nên một câu chuyện ly kỳ đắm chìm trong bầu không khí căng thẳng hồi hộp, đầy những nhân vật không thể quên và chằng chịt những mạch ngầm dữ dội của khát khao, tham vọng." - Amazon.com "Một câu chuyện tình yêu đích thực hòa trộn giữa sự hài hước, hồi hộp, bí ẩn và lãng mạn khôn cùng."- Regan *** JUDITH McNAUGHT (1944) được xem là một trong những tác giả được yêu thích nhất mọi thời đại với thể loại tiểu thuyết lãng mạn cổ điển. Trước khi bước vào sự nghiệp viết lách, McNaught đã thành công trong lĩnh vực phát thanh, điện ảnh và tài chính. Bà đã quyên góp và làm rất nhiều việc từ thiện. Judith McNaught hiện đang sống ở Houston, Texas. Tác phẩm: Hơn Cả Tuyệt Vời Như Cõi Thiên Đường 11 Năm chờ 11 Tuần yêu Ai Đó Dõi Theo Em Whitney Yêu Dấu Vương Quốc Của Những Giấc Mơ Em Có Để Ta Hôn Em Không? Hạnh Phúc Nhân Đôi Tender Triumph Trong Từng Hơi Thở Tiếng Sét Xanh Định Mệnh Yêu Em Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng Một Lần Và Mãi Mãi Điều Kỳ Diệu Remember When Thiên Đường ... *** Trong cỗ xe du hành sang trọng lắc lư nhè nhẹ trên con đường mòn ngoại ô, Quý bà Anne Gilbert tựa má vào vai chồng và thốt ra một tiếng thở dài nóng ruột. “Phải đến cả tiếng đồng hồ nữa chúng ta mới đến nơi, vậy mà sự chờ đợi đã gần như ăn mòn em. Em đang băn khoăn bây giờ Whitney trông như thế nào khi cô bé đã lớn”   Bà chìm vào im lặng và lơ đãng nhìn khung cảnh miền quê xanh tươi của nước Anh trôi qua cửa sổ xe bao phủ bởi hoa mao địa hoàng màu hồng và hoa mao lương vàng hoang dại, trong khi cố gắng hình dung đứa cháu gái bà đã không gặp gần 11 năm qua.   “Cô bé sẽ rất đẹp, như mẹ của nó. Và cô bé sẽ có nụ cười, sự dịu dàng và tính tình ngọt ngào của mẹ nó…”   Quý ông Edward ném một cái nhìn ngờ vực cho vợ mình. “Tính tình ngọt ngào?” ông lặp lại với vẻ nghi ngờ hài hước. “Đó không phải những gì mà cha cô bé nói trong lá thư của ông ấy.”   Là một nhà ngoại giao đại diện cho Lãnh sự quán Anh ở Paris, Ngài Gilbert là một bậc thầy với những lời bóng gió, nói tránh, ám chỉ và hàm ý. Nhưng trong cuộc sống riêng, ông thích lựa chọn dễ chịu là thẳng thắn nói lên sự thật. “Cho phép anh gợi lại trí nhớ của em,” ông nói, dò dẫm trong túi quần và rút ra lá thư từ cha của Whitney. Ông đẩy đôi kính mắt lên sống mũi, và phớt lờ vẻ nhăn nhó của vợ, ông bắt đầu đọc: “‘Cách cư xử của Whitney là một sự sỉ nhục, những hành vi của con bé thật đáng bị chỉ trích. Nó là một con bé lanh chanh ngỗ ngược, là sự thất vọng đối với tất cả những người nó quen và là một nỗi xấu hổ của tôi. Tôi xin cô đưa con bé đến Paris với cô, hy vọng rằng cô có thể thành công hơi tôi với đứa bé ngang bướng này.’”   Edward cười khoái trá. “Chỉ cho anh chỗ nào nói cô bé có ‘tính khí ngọt ngào.’”   Vợ ông quăng cho ông một cái nhìn dằn dỗi. “Martin Stone là một người đàn ông lạnh lùng và không có cảm giác, không nhận ra sự dịu dàng và phẩm chất tốt đẹp cho dù Whitney có! Chỉ cần nghĩ đến cách ông ta mắng cô bé và bắt nó về phòng ngay sau đám ma của chị gái em.”   Edward nhận ra sự ngoan cố biểu hiện trên cằm của vợ và vòng tay ôm vai bà trong một cử chỉ hòa giải. “Anh cũng không thích người đàn ông đó hơn em, nhưng em phải thừa nhận là, vừa mới mất người vợ trẻ trong một đám tang sớm, lại bị đứa con gái buộc tội, ngay trước mặt năm mươi người, là đã nhốt mẹ nó vào một cái hộp vì vậy bà ấy không thể đi ra đã khiến ông ta khá bối rối.”   “Nhưng Whitney vừa mới năm tuổi đầu!” Anne nóng nảy phản đối. .... Mời các bạn đón đọc Whiney Yêu Dấu của tác giả Judith McNaught.