Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chết ở Venice - Thomas Mann

Chết ở Venice là một cuốn sách quyến rũ đến bệnh hoạn. Ánh mắt của kẻ si tình, đã trở thành cái gương soi chiếu tuyệt đối của cái đẹp. Chàng thiếu niên trẻ tuổi hiện lên qua đôi mắt mê mẩn của Aschenbach thì trở nên tuyệt mỹ, không gì có thể cưỡng lại được. Đó không phải là thứ ái tình đơn thuần, và Mann ngay từ đầu cũng không chỉ viết về một câu chuyện tình yêu đơn phương tuyệt vọng. Mann đeo đuổi cậu bé niên thiếu xinh đẹp kia qua hết các đường phố ổ Venice, cũng để ngắm vẻ xinh đẹp như thiên thần của cậu. Từng chi tiết, đường nét trên khuôn mặt, thân thể cậu đều được nhìn ra bằng ánh mắt mê mụ kỳ lạ. Chỉ có cái tình của một nghệ sĩ đắm đuối cái đẹp mới có thể nhìn thấy và nâng niu từng chút từng chút đẹp đẽ đến như thế. Và đoạn cuối của cuộc hành trình, với cái chết lặng lẽ của Aschenbach, Chết ở Venice đã đạt đến sự tuyệt hảo của câu chuyện, lúc người nghệ sĩ hoàn toàn quy phục cái đẹp, bước vào của sự dấn thân vào mê đắm, con người không thể nào thoát ra được, chỉ có cái chết mới là tận cùng. Cái kết đỉnh cao này, dễ khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của người đàn ông trong Tiếng cười trong bóng tối của Nabokov, khi đã đi đến tận cùng của si mê và cám dỗ. Ở cuốn sách mỏng này, người đọc có thể dễ dàng nhận ra cái chất đặc biệt của Mann, ấy là sự suy nghiệm đậm chất triết lý, với những quan điểm rõ ràng về nghệ thuật bằng lòng tôn sùng cái đẹp. Mann coi cái đẹp là nguồn cơn của sáng tạo, và vì thế cả đời mải miết đi tìm cái cùng sâu bản nguyên của cái đẹp. Ở kiệt tác đầu tay, Gia đình Buddenbrooks, là cái đẹp của sự những hào quang tàn lụi. Tới Núi thần lại là cái đẹp tuyệt đỉnh cô quạnh của thiên nhiên xa vắng, và lòng người mênh mang. Còn với Chết ở Venice, bên cạnh thành phố Venice xinh đẹp như hư ảo, chính Mann đã tìm ra cái con đường để phá hủy của những vòng vây triết lý khô cứng, nguyên tắc, để khai phá tận cùng bản năng thấm nhuần cái đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ. Chết ở Venice được xuất bản lần đầu vào năm 1912, cùng thời gian đó, ông bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Núi thần. Hai cuốn sách này có nhiều điểm khá tương đồng, dù xét về mặt ngôn ngữ, Núi thần đưa lại cảm giác tươi sáng dễ chịu hơn, và những suy niệm về tình yêu, lòng ham muốn nhục dục cũng như cái chết đều được miêu tả rõ ràng, chi tiết hơn, khác với sự dồn nén, ngột ngạt cực độ mà tác phẩm mang lại. Nếu nhà văn Aschenbach vì cuồng si cậu bé Tadzio mà ở lại Venice, thì chàng trai Hans Castorp cũng vì ham muốn một thiếu phụ người Nga mà ở lại núi thần. Đặc biệt, trong cả hai cuốn sách, Mann đều chọn những nơi có bối cảnh tuyệt đẹp để kể câu chuyện của mình, ấy cũng được xem là cái duy mỹ vô cùng của nhà văn. Núi thần hoàn thành sau Chết ở Venice hơn chục năm với nhiều lần sửa chữa, bỏ dở. Thomas Mann được trao giải Nobel năm 1929. *** Paul Thomas Mann là nhà văn Đức đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20. Thomas Mann sinh ở Lübeck, Đức, là con trai thứ hai của Thomas Johann Heinrich Mann (thương gia và thành viên Hội đồng thành phố), và Júlia da Silva Bruhns (một người Brasil sang Đức năm lên 7 tuổi). Thomas có anh trai tên là Heinrich, cũng là một nhà văn nổi tiếng, một em trai và hai em gái. Thời nhỏ gia đình Mann sống sung túc, các con được học hành đến nới đến chốn. Năm 1891, cha Thomas Mann mất vì bệnh ung thư. Theo di chúc của cha ông, gia đình bán công ty và nhà ở Lübeck, mẹ ông và các con chỉ sống bằng tiền gửi tiết kiệm. Từ đây cả gia đình chuyển đến sống ở München - một trung tâm văn hóa và tri thức của nước Đức. Năm 19 tuổi Thomas Mann đã bắt đầu viết báo nhưng luôn mơ ước trở thành nhà văn như anh trai mình. Những truyện ngắn đầu tiên của ông in trong tập Der kleine Herr Friedemann (Ngài Friedemann bé nhỏ) xuất bản năm 1898. Năm 1901, Mann xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrooks) - kể về sự suy sụp của một gia đình ba đời buôn bán ở Lübeck trong bối cảnh cạnh tranh của chủ nghĩa đế quốc. Bộ tiểu thuyết đặc sắc này đã mang lại cho ông giải Nobel năm 1929. Thomas Mann là nhà văn có tư tưởng nhân đạo dân chủ tư sản, chống phát xít, đại diện cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc Đức. Ông tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý, đi sâu vào các khía cạnh bệnh hoạn, cái phù du và cái chết. Văn của Mann chính xác, từ ngữ gọt giũa kĩ lưỡng, đòi hỏi người đọc phải tập trung suy nghĩ, ông dùng nhiều từ ngữ nước ngoài, sử dụng nhiều kiến thức về triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học. *** T   HOMAS MANN (1875 - 1955) là văn hào Đức nổi tiếng đầu thế kỷ XX với bút pháp hiện thực sinh động, ẩn giấu nụ cười mỉa mai thâm thúy. Mùa hè năm 1911 Thomas Mann đến nghỉ mát ít ngày trên hòn đảo Lido thuộc Venice, và một loạt sự kiện cùng ấn tượng ở đó đã tạo cảm hứng cho nhà văn sáng tác truyện dài này. Đầu tiên chỉ là một ý tưởng hoàn toàn ngẫu húng, nhưng rồi câu chuyện tự nó có sức sống riêng, tự nó phát triển theo Logich của riêng mình để dẫn đến một kết cục tất yếu. Cũng như đa số các tác phẩm của Thomas Mann, Chết ở Venice không phải là một cốt truyện hoàn toàn hư cấu: gã lái đò gondola kỳ quái, cậu bé Tadzio và cả gia đình, chuyến đi không thành vì hành lý bị thất lạc, trận dịch tả, anh nhân viên văn phòng du lịch thật thà, tay nghệ sĩ hát rong hung ác -tất cả đều có thật ngoài đời, nhà văn chỉ cần đặt vào trong tác phẩm. Cả nhân vật chính Aschenbach cũng có hình mẫu thực, trong bài nói chuyện On Myself đọc trước sinh viên trường đại học Princeton ở Mỹ năm 1940 tác giả đã thú nhận, ban đầu ông dự định viết khác hẳn. Ông muốn viết về mối tình muộn màng Goethe (1749 -1832) dành cho cô Ulrike von Levetzow, khai thác đề tài một vĩ nhân khi về già sa ngã vì tình yêu với một cô gái trẻ. Nhưng rồi ông chưa dám đụng đến thần tượng Goethe vì sợ mình không đủ sức. Vậy nên ông đã dựng lên nhân vật chính là một nhà văn hiện đại, một nghệ sĩ nhạy cảm, tiêu biểu cho đạo đức và đạt đến vinh quang nhờ lao động. Tướng mạo bề ngoài của Gustav von Aschenbach ông mượn của Gustav Mahler (1860 -1911), một nhạc sĩ lớn người Áo khi ấy vừa từ chuyến lưu diễn Mỹ trở về và đang lâm bệnh nặng. Chủ đề chính của ông vẫn là sức công phá mãnh liệt của tình yêu, khi mù quáng lao theo dục vọng đã hủy diệt cả một cuộc đời nền nếp, một sự nghiệp tưởng chừng vững như bàn thạch. Câu chuyện được kể với nhiều ẩn dụ, giàu hình ảnh và tính nhạc, kết cấu rành mạch với năm chương sách như năm màn của một vở bi kịch cổ điển: chương một dẫn dắt vào đề, chương hai giới thiệu nhân vật chính; chương ba giới thiệu bối cảnh xảy ra sự việc, chương bốn diễn biến sự việc và chương năm đạt đến cao trào với kết cục bi thương. Tác giả cho ta làm quen với một Aschenbach đạo cao đức trọng, đã đạt tới tột đỉnh vinh quang, có những sáng tác "chính thống" và "mô phạm" được đưa vào sách giáo khoa để giáo dục thanh thiếu niên. Ngôn ngữ trang trọng với "phong cách bậc thầy" được nhấn mạnh một cách cố ý, để sau đó dần dần càng làm nổi bật từng bước sa ngã của Aschenbach, đánh mất phẩm giá, trở nên lố bịch và vô liêm sỉ. Chắc chắn tác giả có nhiều mối tương đồng với nhân vật chính, tiểu sử Thomas Mann có rất nhiều điểm trùng hợp với cuộc đời Aschenbach, nội dung tác phẩm cũng là mối ưu tư của tác giả, diễn giải nội tâm Aschenbach cũng là cách ông giải quyết xung đột giữa tư tưởng thị dân tiểu tư sản và nhân sinh quan nghệ thuật của chính mình. Nhưng Thomas mann không phải là Aschenbach. Có một điều khác biệt căn bản, mấu chốt của vấn đề, đó là sau mấy ngày nghỉ ngơi trên đảo Lido. Thomas Mannđã trở về với công việc sáng tác, với "cuộc vật lộn hằng ngày". Ông chỉ để trí tưởng tượng tiếp tục bay bổng tìm cách trả lời câu hỏi, nếu nhà văn buông thả theo cảm xúc, lơ là nghĩa vụ và trách nhiệm, thì kết cục sẽ ra sao? Ông nhìn thấy kết cục thảm hại của Aschenbach, ông biết cách giữ mình không để rơi vào kết cục như thế, nhưng lòng ông vẫn day dứt không yên vì ông biết mình đã phải đánhnh đổi những gì. Như vậy Chết ở Venice là sự tiếp nối những tác phẩm trước của Thomas Mann, cũng như Hanno trong Gia đình Buddenbrook (1901), Spinell trong Tristan (1903) và Tonio Kröger trong tác phẩm cùng tên (1903), nhân vật Aschenbach bị giằng xé trong mối xung đột nội tâm giữa nghệ thuật và cuộc sống. Bằng những hình tượng này, Thomas Mann đã đưa cuộc đời nghệ sĩ của mình ra mổ xẻ, cuộc đời "một thường dân lạc lối vào nghệ thuật, một lãng tử giang hồ luôn hoài vọng mái ấm gia đình, một nghệ sĩ không ngừng bị lương tâm cắn rức", như nhân vật Tonio Kröger của ông tự nhận. Bây giờ xin mời độc giả lần tìm vào những ngõ ngách nội tâm của nhà văn Aschenbach, ở nhiều khá cạnh cũng là của chính Thomas Mann... Hannover, tháng Giêng 2012 Nguyễn Hồng Vân Mời các bạn đón đọc Chết ở Venice của tác giả Thomas Mann.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tháp Tokyo - Ekuni Kaori
“THÁP TOKYO CHÌM TRONG MƯA LÀ HÌNH ẢNH BUỒN NHẤT TRÊN ĐỜI.” Toru thường ngắm nhìn tháp Tokyo trong lúc uống cà phê hòa tan từ phòng mình. Cậu yêu Shifumi, một phụ nữ đã có chồng và là bạn của mẹ cậu. Koji là bạn thân của Toru từ hồi cấp III. Gã yêu Yuri, cô bạn cùng trường, nhưng không sao có thể dứt ra khỏi cuộc tình cuồng nhiệt và đầy ham muốn với Kimiko. Kimiko cũng đã có chồng. Cả Toru và Koji đều cứ ngỡ mình đang làm chủ cuộc tình, nhưng rốt cuộc, mọi sự lại đúng như những gì Shifumi đã dạy cho Toru: Tình yêu không phải thứ ta có thể cầm cương, mà là thứ ta đắm chìm trong đó. Còn tháp Tokyo thì lặng im chứng kiến tất cả. *** Ekuni Kaori sinh năm 1964 tại Tokyo. Cô được mệnh danh là “Murakami nữ” của văn học đương đại Nhật Bản. Cùng với Yoshimoto Banana, Ogawa Yoko, Ekuni Kaori được coi là một trong số các nhà văn nữ quan trọng Nhật Bản hiện nay, với các tác phẩm và tập truyện ngắn tiêu biểu: Tháp Tokyo, Lấp Lánh, Hoàng hôn rơi xuống, Đêm lạnh, Những ngày đẹp đẽ… Năm 2004, cô nhận giải thưởng Naoki với tập truyện ngắn Đã sẵn sàng để khóc. Các tác phẩm và tập truyện ngắn của Ekuni Kaori do Nhã Nam xuất bản: Tháp Tokyo, Lấp lánh, Hoàng hôn rơi xuống. *** “Không thể nào.” Nghe chuyện của Koji mà cậu rúng động trong lòng, không thể tìm được ngôn từ nào khác. “Không thể nào.” Giờ Yoshida đang ở nhà tớ. Koji đã nói vậy. Tự dưng cô ta cứ lăn xả vào. Có khi cô ta bỏ nhà ra đi hẳn. Bảo là ngủ một đêm, thế mà ngồi chềnh hễnh ra ở đây ba ngày rồi. “Thế trước đây cậu đã làm cái quỷ gì?” Toru hỏi, song lúc đấy Koji đã trả lời rất thật tình rằng bản thân gã cũng không biết nữa. “Đúng là đồ quỷ cái.” Koji mở miệng làu bàu, gã đang uống đến cốc bia thứ hai tại nhà hàng chuyên cánh gà rán tẩm ướp thứ nước xốt vừa cay vừa ngọt. “Ý cậu nói ai?” Toru cũng đến cốc thứ hai. “Yoshida. Cô ta vẫn hận Atsuko. Đúng là đồ quỷ cái. Tớ nghĩ, mục đích duy nhất khiến cô ta bám riết lấy tớ là khiến Atsuko phải đau lòng.” ... Mời các bạn đón đọc Tháp Tokyo của tác giả Ekuni Kaori.
Sắc Giới - Trương Ái Linh
…Sắc, giới là một câu chuyện đam mê dữ dội của tình yêu và gián điệp, trong bối cảnh Thượng Hải thời thế chiến II. Giữa lúc quân Nhật chiếm đóng Trung Quốc và Hồng Kông, hai sinh mệnh quyện chặt vào nhau: Vương Giai Chi, một nữ sinh viên hoạt động cho quân kháng chiến, và ngài Dị, một chính khách uy quyền làm việc cho chính quyền thân Nhật. Trong khi chơi trò chơi bí mật ngoại tình bên những bữa tiệc trà quý tộc Thượng Hải và công việc can dự vào chính trị đầy bất trắc với ý thức hệ của riêng mình, họ không thể cưỡng lại được sức hấp dẫn của nhau, như thể đó là hai mặt của định mệnh. Được viết bằng giọng văn gợi cảm, tinh tế và đẫm không khí chính trị ngột thở, Sắc, giới vẽ nên một Thượng Hải thời những năm 1940 đầy ma mị làm nền cho một cuộc tình nhục cảm mang cái kết ngoài dự đoán. ***  Những nhận xét về quyển sách:  “Một nhà văn viết hư cấu đặc biệt và gây sững sờ.” – New York Times Book Review “Một bậc thầy về truyện ngắn… Thế giới của Trương Ái Linh là một nơi chốn khắc nghiệt và u uẩn nơi con người đấu tranh để tìm thấy lối trong tình yêu nhưng thường thất bại dưới áp lực gia đình, truyền thống và tập tục.” – The New Yorker “Trương Ái Linh, một tiểu thuyết gia và cây bút truyện ngắn nổi tiếng - người đã mài sắc những nghiên cứu tâm lý đầy tinh tế và ngôn từ chuẩn xác - đã được ca ngợi như một bậc kỳ tài của văn học Trung Quốc hiện đại.” – New York Times *** Trương Ái Linh (Eileen Chang) sinh ngày 30 tháng Chín năm 1920 tại Thượng Hải trong một gia đình dòng dõi quan lại nhà Thanh, tên thật là Trương Anh. Gia đình Ái Linh chuyển đến Thiên Tân năm 1922, nơi Ái Linh đi học vào năm lên bốn. Khi Ái Linh năm tuổi, mẹ cô bỏ đi Anh sau khi cha cô cưới một cô vợ lẽ. Sau đó ông lâm vào cảnh nghiện thuốc phiện. Gia đình Ái Linh quay lại Thượng Hải năm 1928. Cô bắt đầu đọc Hồng Lâu Mộng khi mới tám tuổi. Hai năm sau, Trương lấy tên là Ái Linh và vào trường dòng nữ học. Ngay sau đó, mẹ cô trở về và và ly dị. Tuổi thơ bất hạnh của Ái Linh trong gia đình tan vỡ chắc chắn đã là nguyên nhân khiến cho các tác phẩm sau này có tâm thế bi quan. Năm 1932, cô viết cuốn truyện vừa đầu tay. Ngay từ khi học trung học phổ thông cơ sở, Ái Linh đã thể hiện năng khiếu văn chương qua những tác phẩm được đăng trên tạp chí trường học. Năm 1938, sau một trận cãi nhau với mẹ kế và cha, cô bỏ nhà đến ở với mẹ. Năm sau, Ái Linh nhận được học bổng học tại Đại học London, nhưng cơ hội này bị bỏ lỡ do chiến tranh ở Trung Quốc. Vì vậy, cô theo học văn chương ở Đại học Hồng Kông. Chỉ một học kỳ sau, ngày 25 tháng Chạp năm 1941, Hồng Kông rơi vào tay Nhật Bản cho đến tận năm 1945. Trương Ái Linh quay về Thượng Hải. Dự định ban đầu của cô là hoàn thành bằng đại học ở trường Đại học Saint John ở đây, nhưng việc học chỉ kéo dài được hai tháng. Thiếu tiền là một nguyên nhân khiến cô phải bỏ trường. Cô từ chối công việc dạy học hoặc làm biên tập viên, để tập trung vào việc cô làm tốt nhất - viết văn. Mùa xuân năm 1943, Ái Linh có một cuộc gặp định mệnh với biên tập viên và trở thành nhà văn được độc giả chú ý nhất ở Thượng Hải năm 1943-1944, mặc dù tuổi đời còn rất trẻ. Hai tập sách gây tiếng vang là Truyện lãng mạn (1944) và Viết trong làn nước(1945).  *** Mặc dù trời vẫn trời còn sáng, ngọn đèn nóng hực chiếu xuống bàn mạt chược. Nhẫn kim cương lóe lấp lánh trên các bàn tay xoa lách cách những quân bài. Chiếc khăn trải, cột chặt ở bốn chân bàn, kéo thành một mảnh vải trắng xóa. Ánh đèn nhân tạo tôn lên đường cong đầy đặn của bộ ngực Chia-chih, và làm rõ gương mặt trái xoan thanh tú của nàng, mấy lọn tóc ơ thờ rơi trên vầng trán hẹp lại tăng thêm phần kiều diễm. Nàng có lối trang điểm kín đáo, nhẹ nhàng ngoại trừ vành môi cong tô đỏ bóng. Mái tóc nàng được vén hững hờ ra sau gáy, rồi buông lơi xuống bờ vai. Chiếc áo xường sám của nàng bằng hàng satin moiré xanh lam dàí tới gối, cổ áo chỉ cao vài phân, theo kiểu tây phương. Chiếc ghim cài cổ áo hòa hợp với đôi hoa tai ngọc bích cẩn kim cương. Hai người đàn bà -- tai-tai -- ngồi bên trái và phải nàng đều mặc áo choàng len đen không tay, thân áo giữ hờ ở cồ nhờ một sợi dây chuyền vàng dầy nặng thò ra dưới bâu áo. Cách ly với thế giới vì bị quân Nhật chiềm đóng, Thượng Hải đã tự tạo ra vài kiểu thời trang. Trong những vùng bị chiếm đóng, giá vàng cao vọt nên các sợi dây chuyền dầy như thế rất đắc tiền. Tuy nhiên, nếu dùng thay thế cho nút áo cổ, chúng không có vẻ phô trương thô tục, do đó người mang chúng có cớ để trình diễn sự giàu sang của họ khi đi đây đó trong thành phố. Vì những lý do tuyệt diệu đó, áo choàng và dây chuyền vàng trở thành đồng phục ưa thích của các bà vợ các viên chức chính phủ bù nhìn Wang Ching-wei. Cũng có thể họ bắt chước Chungking, thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc, nơi đó áo choàng đen rất đuợc giới phụ nữ đài các phe chính khách thượng lưu ưa chuộng. ... Mời các bạn đón đọc Sắc Giới của tác giả Trương Ái Linh.
Kế Hoạch Tự Sát - Satoh Sai
Đây là câu chuyện của một cô gái gọi là Nakazawa Nim.  Cô gái này là một phần tâm hồn tôi, chính là dùng một phần thanh xuân của tôi, viết thành.  Nếu các bạn yêu mến cô ấy, yêu thích câu chuyện này, tôi liền cảm thấy mãn nguyện lắm.  Vì thanh xuân của tôi, cũng sẽ có người nhớ tới đi. Trong truyện, không có rào cản giới tính hay giới hạn của con người. Tôi muốn viết một câu chuyện như vậy, người ta có thể yêu và làm việc mình thích Như Izumi và Keita, hai người con trai vẫn kiên cường ở bên nhau, cùng nhau chống lại sự bài xích của thế giới. Như Nim và Akira, cách biệt mười năm, vẫn trở về với nhau.  Takane, Chitose, Yukiko, những người bỏ lỡ tình yêu. Nhưng tôi vẫn muốn họ được hạnh phúc. Ai cũng đã trưởng thành.  Và rất nhiều nữa.  "Tôi nhìn thái độ của cậu ta, sau mới giật mình hỏi, lẽ nào từng ấy năm, cậu... Từng ấy năm cậu luôn đứng từ xa theo dõi Keita sao.  Takane cười, lịch sự hỏi : -Tôi hút thuốc được chứ ? Nhận được sự đồng ý của tôi, cậu ta rút thuốc ra và châm lửa. Làn khói nhàn nhạt phả ra che khuất biểu cảm của Takane. Thật lâu sau, Takane mới nói. Nim, cô biết không. Những người như chúng tôi, khi sinh ra đã là một mảng khiếm khuyết. Nếu không tìm được mảnh ghép thích hợp, cả đời sẽ mãi mãi là một điểm thiếu sót.  Cậu ấy là mảnh ghép phù hợp với tôi, nhưng còn là thích hợp với người khác nữa. Tôi đi lâu như vậy, các tổ chức, câu lạc bộ dành cho gay cũng tham gia không ít. Thế nhưng nếu không phải là Keita, thì không được. Vì thế đời này của tôi, phải là khiếm khuyết rồi." *** Tôi gọi là Shindo Akira. Trước năm mười sáu tuổi, tôi là một kẻ hư hỏng. Nhuộm tóc, hút thuốc, đánh nhau... chưa việc gì chưa từng thử qua. Tôi chỉ muốn gây sự chú ý với một ông bố lúc nào cũng tất bật với công việc và một bà mẹ sống cả đời với nỗi ám ảnh về những vụ ngoại tình của chồng. Đáng tiếc, dù tôi có cố gắng huỷ hoại bản thân thế nào, cũng chẳng ai quan tâm. Mọi chuyện cứ xoay vòng hàng ngày, như một giai điệu nhàm chán của đĩa nhạc rè. Quá tẻ nhạt, tôi cũng chẳng buồn nghe, lo lắng, hay làm phiền cái giai điệu êm đềm mà họ tấu lên nữa. Một mình trong căn hộ lớn, tiền bạc được chu cấp đầy đủ, cái tôi cần làm chỉ có duy nhất một việc, tiêu tiền. Tôi không khóc, cũng chẳng nghĩ ra được lí do gì để khóc. Tôi từng tức giận, to tiếng với bố mẹ, nhưng đó cũng là chuyện rất lâu về trước. Tôi bắt đầu qua lại với đám yakuza, quên luôn vị trí của mình và lí do vì sao bố lại đào tạo tôi khắt khe từ thuở bé. Tôi trốn tiết, gây gổ, đánh nhau. Ngày bố đột nhiên về thăm căn hộ của tôi, tôi đã biết ông mang đến tin tức không mấy vui vẻ. Tại nhà hàng đồ Nhật, ông cười và nắm tay người phụ nữ trước mặt tôi. Còn người ấy hiền lành nói, Akira, sau này nhờ cháu giúp đỡ nhé. ... Mời các bạn đón đọc Kế Hoạch Tự Sát của tác giả Satoh Sai.
Dù Đến Rồi Đi - Đào Hiếu
Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái Dù Đến Rồi Đi ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** C hỉ có hai người trong phòng nhưng họ không nói gì nhau cho đến khi Chương khoác áo gió lên vai, Thục bảo: - Chiều nay anh phải ở lại dự tiệc. Chương do dự giữa căn phòng rộng bề bộn sách vở quần áo đang ủi dang dở. Thục lại nói: - Anh ngồi nghe nhạc đợi anh Quang. Thục bấm máy. Nhạc nhẹ các nước. Chương bỏ ra đứng ngoài hành lang. Tiếng nhạc dồn dập đuổi theo chàng. Con hẻm rộng, nhà cửa san sát nhau, nhà nào cũng trồng cây kiểng, hoa giấy và mận. Nhà Thục có thêm một cây cao su xanh tốt cao vừa tầm mắt. Cây cao su ấy Chương xin của một người bạn làm đồn điền ở Xuân Lộc. Thục bảo rằng nàng rất thích nó vì lá nó mượt. Dưới hẻm có tiếng reo cười của mấy đứa nhỏ đang chơi cầu lông, chúng đánh đôi, vừa chạy vừa la hét. Chương không xua được nỗi băn khoăn trong lòng và cái ý muốn hôn Thục lại lởn vởn trong đầu… Giọng Thục hát phảng phất giọng Khánh Ly, âm thanh đục. Chương ngắt một cái lá cao su và quay lại. Tiếng hát dứt nửa chừng. Thục hỏi: - Mấy giờ rồi? - Gần năm giờ. Chương trả lời và đến cạnh cô gái. Chàng đặt cái lá cao su xuống bàn ngay sát ngón tay út của Thục. Thục cầm cái áo cụt màu đỏ tía lên. - Em đem cái áo này đi giặt. Chương nói: - Mai tôi đi rồi. Thục không có gì để nói với tôi sao? Thục làm thinh, đầu hơi cúi xuống. Chương nói: - Em cho anh xin cái áo này nhé? Thục cười hồn nhiên: - Sẽ có quà, nhưng không phải cái này đâu. Chương nắm lấy chiếc áo Thục đang cầm, hai bàn tay chạm nhau. Chàng nắm mấy ngón tay: - Anh rất cần một chút hơi hướng của em để ra đi. Có thể anh sẽ không bao giờ trở về nữa. ... Mời các bạn đón đọc Một Chuyến Đi Xa của tác giả Đào Hiếu. Mời các bạn đón đọc Dù Đến Rồi Đi của tác giả Đào Hiếu.