Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiếc Bản Lề Cong

Nếu Người rỗng khiến óc suy luận của người đọc bị những nút thắt lắt léo gút chặt từng hồi thì Chiếc bản lề cong lại mở ra một vụ án mạng li kì phảng phất nét huyền bí. Ngày nọ, tại một điền trang yên bình do tòng nam tước John Farnleigh làm chủ, khách lạ bỗng xuất hiện tự xưng là John Farnleigh thật, tố cáo trang chủ mạo danh. Khi thật giả chưa phân thì một trong hai người chết một cách bí hiểm. Bốn bề không người nhưng trên cổ nạn nhân lại in hằn ba nhát dao đoạt mạng, cái chết kì lạ này dấy lên nhiều nghi hoặc cho các nhà điều tra. Ngoài yếu tố trinh thám, cốt truyện còn đan xen những tình tiết kì bí như người máy cổ biết cử động, tín đồ Quỷ Đạo đi dự hội lúc nửa đêm… khiến những người duy lý nhất trong một thoáng giây nào đó cũng phải chùng lòng. Trong vụ án này ai chân ai giả? Liệu có tồn tại một kẻ giết người hay phải quy tội ác vào phạm trù siêu nhiên? Khúc mắc chất chồng dẫn dắt độc giả đến với những thủ pháp bất ngờ và suy luận tài tình. Không những thế, thành công của Chiếc bản lề cong còn đến từ tính song hành của quá khứ và thực tại, của tội lỗi và lương tri bao trùm tác phẩm. *** “Đã là bí mật thì phải càng ít người biết càng tốt. Nếu có sẻ chia, thì chỉ nên sẽ chia trong phạm vi rất nhỏ mà thôi. Đông đến chục người không khỏi mất đi thú vị” Tôi đã quyết định biên một bài riêng cho cuốn này của John Dickson Carr, bởi lẽ sự thất vọng quá lớn với phần biên dịch của cuốn này. Dẫu biết, để in ra một cuốn sách là công sức của rất nhiều, mỗi lời chê bai đều phải cẩn thận vì có thể mình đã không hiểu hết lý do họ biên dịch như thế. Nhưng với tư cách là độc giả, chỉ là độc giả đơn thuần thì tôi nghĩ những điều tôi chê ở đây không phải không nên.   John Dickson Carr là ông hoàng mật thất, truyện của ông thường đặt ra những vụ án mà nếu nhìn qua đều là không thể thực hiện được. Chiếc bản lề cong bắt nguồn với câu chuyện của John Farnleigh, tòng nam tước và là chủ một điền trang yên bình. Một ngày nọ, người khách lạ bỗng dưng xuất hiện và tố cáo trang chủ hiện tại là người mạo danh. Khi tất cả đang nằm trong vòng nghi vấn thì một vụ án mạng xảy ra. Và dĩ nhiên, theo phong cách của John Dickson Carr, nơi án mạng xảy ra lại là nơi không thể có cách nghĩ nào ngoài cho rằng nạn nhân tự gây ra. Thế nhưng tất cả nhân chứng không nghĩ ra được tại sao nạn nhân lại chọn phương án đó, trong khi chỉ còn chưa đến 30 phút nữa là sự thật sẽ được sáng tỏ. Trong quá trình giải mã vụ án, những bí ẩn khác như Quỷ đạo, con người máy, những cái chết bí ẩn trước đó lại có liên quan mật thiết đến điền trang với vẻ bề ngoài bình yên đấy. Đây là một cuốn truyện với nội dung rất hay, xứng đáng là cuốn trinh thám của năm. Quả thực nếu không vì những câu dịch ngô nghê theo kiểu “after garden là sau vườn”, những đoạn văn dịch khô khan, và lối sử dụng ngôn ngữ không phù hợp khiến dù không muốn tôi vẫn phải nói đây là bản dịch rất tệ. Thứ nhất, tôi không khó chịu gì việc dùng những ngôn từ địa phương trong các bản dịch. Nhưng nó phải phù hợp. Cuốn Chiếc bản lề cong là 1 trong 3 cuốn thuộc series về Tiến sĩ Fell mà Đông A chọn dịch lần này. Trong khi 2 cuốn kia, không hề có 1 tiếng lóng nào, nhưng ở Chiếc bản lề cong, những từ như: hỉ, chi…xuất hiện quá nhiều, trong những đoạn hội thoại của các nhân vật. Điều này trái ngược hoàn toàn với phong cách của Tiến sĩ Fell ở trong Người rỗng và Vụ án viên nhộng xanh. Thứ hai, việc một cuốn sách sử dụng Ổng – ảnh khiến tôi khá khó chịu. Nên nhớ, với tiếng Anh chúng ta chỉ dùng 2 ngôi trong xưng hộ You – I. Việc dịch như nào là do dịch giả, và lạm dụng ngôn ngữ nói – thay vì ngôn ngữ viết khiến tôi cảm giác đang đọc một bản dịch từ Google Translate, tôi không thấy được sự nhiệt tình, cũng như sự tận tâm trong việc xuất bản một cuốn sách, đặc biệt lại là một cuốn trinh thám nổi tiếng của John Dickson Carr. Thứ ba, những đoạn văn được dịch càng làm tôi thấy người dịch không chỉn chu. Như “trên đường, ánh nắng chiếu lung linh trên rừng kính máy ảnh. Bên cạnh đàn ông, không thiếu những đàn bà.” “Giữa hàng lố đàn ông, Madeline quả là của hiếm, đem đến luồng gió thanh tân” “Trưa hôm sau, khi mưa ấm áp rơi, và mây đen phủ kín bầu trời thôn dã….Ngồi ghế dựa, ông thở nhẹ phì phò…” Tôi không hình dung nổi tại sao 1 cuốn sách lại có thể dùng những từ như lố đàn ông, của hiếm, mưa ấm áp, rồi đã thở nhẹ thì sao còn phì phò, với tôi…đây là lỗi ngữ pháp, và nó càng thể hiện việc thiếu trách nhiệm trong công việc. Tôi từng thấy thất vọng về những bản dịch sách của Simenon, tôi cũng từng thất vọng khi đọc Bắt trẻ đồng xanh. Nhưng đây là lần tôi bức bối nhất, tôi cảm thấy không chỉ là thất vọng mà chán chường. Một cuốn sách được làm ra, lẽ độc giả sẽ thấy hạnh phúc khi cầm trong tay, và được đắm chìm trong một cuốn sách hay thì sẽ thấy đời đẹp biết mấy. Thế nhưng khi cuốn sách hay được biên dịch không cẩn thận, tôi thấy…trong cuộc sống này, chẳng nhẽ lúc nào cũng tồn tại những điều đáng buồn đến thế chăng :”< Twine Aquarius *** Chiếc bản lề cong – John Dickson Carr Trinh thám là một trong những thể loại sách gây hứng thú cho người đọc nhất. Nó bắt người đọc phải lần mò từ những dấu vết nhỏ nhoi và từng chi tiết tưởng như không liên quan, để ghép lại tạo ra một bức chân dung hung thủ của vụ án. Trên thế giới đã có nhiều tác giả nổi tiếng, thành công nhờ những câu chuyện điều tra phá án ly kỳ của mình. Điển hình của thể loại này là Edgar Allan Poe – người tiên phong của nền trinh thám, Sir Conan Doyle với loạt truyện về thám tử Sherlock Holmes, nữ hoàng trinh thám Dame Agatha Christie, hay người được mệnh danh là “Ông hoàng mật thất”, nổi tiếng với các vụ án trong phòng kín – John Dickson Carr. CHIẾC BẢN LỀ CONG – JOHN DICKSON CARR Tác giả John Dickson Carr là tiểu thuyết gia trinh thám người Mỹ, cũng là một trong những gương mặt sáng giá nhất trong thời Kỷ Nguyên Vàng của thể loại trinh thám. Ông có nhiều tác phẩm làm nên tên tuổi của mình như “Người rỗng”, “Vụ án viên nhộng xanh”, hay “Chiếc bản lề cong” – cuốn sách mà mình muốn giới thiệu tới các bạn ngày hôm nay. “Chiếc bản lề cong” là một trong ba cuốn trinh thám cổ điển của tác giả John Dickson Carr mà Đông A mới cho xuất bản. Truyện thuộc thể loại “án mạng trong phòng kín” (locked-room mystery), nơi tội ác được thi hành bằng những thủ pháp tưởng như bất khả thi. Phía cảnh sát thì đau đầu phá án còn người đọc lại thấy đây là một trong những chủ đề hay và thú vị nhất. Bối cảnh câu chuyện được đặt ở địa hạt Kent, miền đông nam nước Anh. Tại đây có vị tòng nam tước John Farnleigh giàu có – người đang sống yên bình bên người vợ của mình là Molly thì bỗng nhiên dính phải vụ tranh chấp khó nhằn. Một người đàn ông lạ bước đến làng Mallingford nơi ông đang ở, tự xưng là John Farnleigh thật và yêu cầu trả lại vị trí thừa kế của mình trong dòng họ. Lạ một điều rằng cả hai người khi so với nhau lại chẳng hề có chung đặc điểm nào từ ngoại hình đến tính cách. Hai vị này đều mang vẻ tự tin, chắc chắn mình là chủ của điền trang Farnleigh, khiến cho những người chứng kiến đau đầu, không phân biệt nổi thật giả. Tranh chấp đang dâng đến cao trào thì một trong hai người bỗng chết một cách dã man. Hiện trường vụ án không thể kết luận là bị sát hại vì nạn nhân hoàn toàn chỉ có một mình, cũng không thể nói hiện trường một vụ tự tử vì có quá nhiều điều đáng lưu tâm. Ngoài ra, án mạng còn liên quan tới các yếu tố tâm linh, rùng rợn về nhóm Quỷ Đạo với tục thờ quỷ Satan, con người máy biết cử động, hay cả vụ đắm tàu Titanic năm 1912. Vụ án này được “chăm lo” bởi tiến sĩ Fell – nhân vật chính trong nhiều tiểu thuyết trinh thám ăn khách của John Dickson Carr. Điều mình ấn tượng nhất trong mọi cuốn trinh thám, cũng như nhiều người khác, là phần phá án ở cuối truyện. Plot-twist của cuốn này quá ổn. Đọc đến đoạn tưởng không thể bị lừa được nữa mà vẫn bị tác giả đẩy cho ngã ngửa. Câu chuyện được bao trùm bởi bí ẩn, điều này lại liên can tới điều kia. Nhưng may quá, tác giả không ôm đồm mọi thắc mắc đến cuối cùng mới chịu giải thích mà lần lượt được nhân vật khám phá ra trong quá trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi lớn nhất: Ai giết ngài John Farnleigh? Hệ thống nhân vật được xây dựng ổn, mỗi người một tính cách, không bị lẫn lộn. Truyện được bắt đầu bằng góc nhìn của Page, một tác giả viết sách. Chúng ta sẽ theo dõi câu chuyện từ đầu đến cuối bằng cách đi theo nhân vật này. Có lẽ vì các nhân vật đều được xây dựng tốt, thành ra tiến sĩ Fell – thám tử chính của câu chuyện – hiện lên khá mờ nhạt ở phần đầu và giữa truyện. Ông được miêu tả là một người to lớn, cảm giác choán hết cả không gian khi ngồi trong phòng của Page. Phần về tính cách của tiến sĩ lại không được miêu tả kỹ, chỉ nhận thấy ông có bộ óc suy luận siêu phàm cùng khả năng soi các chi tiết liên quan đến vụ án, kể cả ánh mắt của một người cũng khiến ông biết được chân tướng. Truyện mang không khí khá rùng rợn nhờ sự xuất hiện của các yếu tố độc dược, ma quái bùa chú, và sự bí ẩn của con người máy biết cử động. Độ hù dọa của truyện cũng khá nhẹ nên độc giả không cần phải lo lắng quá. Trong quá trình đi tìm sự thật, có nhiều sự kiện xảy ra, vừa rời rạc vừa móc nối với nhau khiến khán giả hơi rối nhưng đến cuối cùng vẫn được tiến sĩ Fell xâu chuỗi lại một cách hợp lý. Chiếc bản lề cong – tên cuốn sách – tưởng chẳng liên quan gì nhưng lại là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Tất cả các bí ẩn đều được giải thích một cách thuyết phục khiến người đọc thỏa mãn. Tóm lại, đây là một cuốn sách khá phù hợp cho những bạn yêu thích trinh thám cổ điển, thích phá án đơn thuần và mong muốn có một chút rùng rợn của bùa chú, ma thuật, những lần di chuyển dị thường của con người máy, hay thích thú trước sự liên quan đến một trong những sự kiện lớn của lịch sử như vụ đắm tàu Titanic năm 1912. Dieu Linh Nguyen *** CHIẾC BẢN LỀ CONG Chiếc Bản Lề Cong Tác giả: John Dickson Carr Dịch giả: Nguyễn Minh John Dickson Carr hiện đã được Đông A xuất bản 3 cuốn, và đây là cuốn đầu tiên tôi lựa chọn để đọc. Tôi đọc tác phẩm này mà không tìm hiểu quá nhiều về cuốn sách, chỉ biết rằng John Dickson Carr là ông hoàng của trinh thám mật thất, những vụ án không tưởng. Và quả nhiên, vụ án trong Chiếc Bản Lề Cong đúng là không tưởng. Một người đang sống sờ sờ bên mé sông, đột nhiên bị cắt cổ chết mà không ai nhìn thấy hung thủ, cũng không ai thấy được có người nào tiếp cận nạn nhân. Vậy nhưng, giả thiết nạn nhân tự vẫn có quá nhiều điểm bất hợp lý, lung lay dữ dội dù cho có nhiều nhân chứng cùng khẳng định không thấy ai tiếp cận nạn nhân. Cùng với đó là cuộc chiến hấp dẫn để tìm ra ai mới là John Fernleigh thật, những bí ẩn xoay quanh người máy biết cử động cùng hội kín chết người. Tôi không biết có phải là do vụ án lần này khá phức tạp rắc rối và cần rất nhiều thời gian để kể những câu chuyện trong quá khứ và đủ thứ bí ẩn ở hiện tại hay không, mà tiến sĩ Fell – thám tử chính của câu chuyện – có cá tính hơi mờ nhạt. Đỉnh cao của ông là ở khúc cuối với màn suy luận lật lại đầy bất ngờ, không thể tưởng tượng nổi. Cá tính của các nghi can trong cuốn này không quá mờ nhạt, đủ để nhớ mặt đặt tên từng người, nhưng không có ai thú vị như trong các tác phẩm của Agatha. Bí ẩn thì nhiều nhưng giải quyết được triệt để mặc dù nó khiến bí ẩn chính hơi mờ đi một chút. Nhưng bởi đây là lần đầu tiên tôi đọc một cuốn trinh thám với cái kết không tưởng có 1 không 2 kiểu như thế này, ấn tượng vẫn rất đậm nét. Cái tên Chiếc Bản Lề Cong tưởng không liên quan mà lại liên quan không tưởng, con người máy thì có tác dụng hù dọa rất tốt, làm tôi nhiều phen sởn gai ốc khi đọc trong đêm. Chốt lại thì Chiếc Bản Lề Cong đủ làm hài lòng các fan trinh thám cổ điển và khơi dậy hứng thú tìm đọc John Dickson Carr nhiều hơn. Nam Tran *** Tại Kent, ngồi cạnh cửa sổ hướng ra vườn, bên bàn viết bày bừa đầy sách vở, Brian Page cảm thấy ngán ngẩm, chẳng muốn làm việc. Nắng chiều tháng bảy chiếu qua khung cửa, nhuộm vàng sàn nhà. Cái nóng mơ màng làm dậy lên mùi sách và mùi gỗ, cả hai đều cũ kĩ như nhau. Phía trại táo sau vườn, một chú ong bắp cày lởn vởn bay vào. Page vẫn ngồi yên, chỉ khẽ xua nó đi. Bên kia vườn nhà Page, quãng trên quán trọ Bò Và Đồ Tể, con đường uốn khúc trong khoảng một phần tư dặm, giữa những nông trại trồng cây ăn trái, băng ngang cổng chính điền trang Farnleigh Close. Từ chỗ Page ngồi, có thể thấy cụm ống khói của điền trang thanh mảnh nhô lên, lẩn khuất sau những tàng cây. Ra khỏi điền trang, đường bò lên dốc, vắt qua cánh rừng mang cái tên đầy thơ mộng là Rèm Treo. Đất vùng Kent vốn bằng phẳng, pha màu xanh tái, nâu nâu, vốn hiếm khi rực rỡ, thế mà giờ đây trông chói lóa. Ngay các ống khói gạch của điền trang cũng như nhấp nhoáng sắc màu. Từ điền trang, xe Nathaniel Burrows chạy dọc theo đường, tốc độ chậm song phát ra âm thanh ầm ĩ, đứng xa tít cũng nghe thấy. Cái làng Mallingford sao lắm chuyện thế, Brian Page ngồi lười nhớ lại. Lắm chuyện thật chứ chẳng chơi, có bằng chứng hẳn hoi. Mới hè rồi, cô Daly ngực bự bị một gã lang thang bóp cổ chết, đoạn chính gã ấy cũng chết một cách rất li kì, khi đang cố vượt đường ray. Và tháng bảy này, vừa tuần trước thôi, hai người lạ bỗng xuất hiện tại quán Bò Và Đồ Tể trong hai ngày liên tiếp. Một người là nghệ sĩ. Người kia (chả biết nghe ai nói) là thám tử. Cuối cùng đến chuyện hôm nay: Bạn của Page, Nathaniel Burrows, luật sư khu Maidstone, cứ chạy tới chạy lui đầy bí ẩn. Không ai biết rõ, nhưng dường như tại Farnleigh Close xảy ra sự không hay. Trước đó, như thường lệ, Page nghỉ tay vào giấc trưa, ghé Bò Và Đồ Tể làm một vại bia trước khi dùng bữa. Nhưng ngồi trong quán mãi chẳng nghe thấy ai đồn thổi gì. Thật bất thường! Page ngáp dài, đẩy sách sang bên. Chuyện gì đang khuấy động Farnleigh Close nhỉ? Từ đời vua James Đệ Nhất, thuở Inigo Jonesxây nên điền trang cho vị tòng nam tước đầu tiên, bên ấy có mấy khi động tĩnh đâu. Dòng họ Farnleigh truyền mãi lâu dài đến ngày nay, đời đời đều ở đấy. Ngài John Farnleigh, vị tòng nam tước xứ Mallingford và Soane hiện tại, kế thừa từ cha ông một tài sản lớn và ruộng đất phì nhiêu. Ngài Farnleigh da ngăm, tính hơi thất thường. Vợ ngài là Molly thì thẳng thắn. Page quý mến cả hai. Cuộc sống nơi đây phù hợp với Farnleigh, nên ngài sung sức lắm. Quả tình, trông ngài là biết ngay điền chủ, dù bấy lâu nay ngài sống ở xa, gần đây mới quay về. Tại Farnleigh Close, ngài cũng bệ vệ, thông thường như mọi ông chủ khác, nhưng thực sự, đời ngài vốn lãng mạn, li kì như tiểu thuyết, khiến Page phải mê. Li kì từ chuyến hải hành đầu tiên, cho đến đám cưới với cô Molly Bishop hơn một năm trước. Những chuyện ấy càng chứng tỏ làng Mallingford là nơi thú vị lạ thường. Hết ngáp và cười vu vơ, Page cầm bút lên. Trời ạ, lại phải làm việc rồi! Page nhìn xuống tác phẩm dang dở bên dưới khuỷu tay. Cuốn Cuộc đời các chánh thẩm nước Anh này, anh muốn nó vừa mang tính hàn lâm, vừa hấp dẫn đại chúng. Đến nay, việc viết lách diễn ra tốt đẹp, không thể mong gì hơn. Page đang viết đến ngài Matthew Hale. Thôi thì những ngoại truyện, những việc bên lề cứ chen nhau tràn vào trong sách. Mà chúng tràn vào chẳng qua vì Page không muốn đuổi chúng đi. Nói thẳng ra, Page chẳng mong sẽ hoàn thành được cuốn sách. Ngay hồi còn học luật, anh đã có thái độ “tưng tửng” như vậy. Anh quá nhác, không thể viết sách theo lối học thuật chân chính, nhưng bởi thích tìm tòi và dẫu sao cũng là thức giả, nên bỏ hẳn học thuật đi thì lại không an lòng. Soạn xong sách hay không chả quan trọng. Nhưng Page tự răn mình phải làm việc, rồi cứ thế thoải mái sục sạo vào đủ các ngõ ngách mê li của chủ đề. Cuốn sách bên cạnh Page đề dòng chữ: Phiên xử phù thủy, tòa lưu động, tại Bury St. Edmonds, hạt Suffolk, diễn ra ngày 10 tháng 3 năm 1664, trước sự hiện diện của ngài Matthew Hale, hiệp sĩ, chánh thẩm Pháp viện Tài chánh Hoàng gia in cho D. Brown, J. Walthoe, và M. Wotton, 1718. Đấy là một ngõ ngách Page vừa dạo qua. Dĩ nhiên, ngài Matthew Hale chẳng dính líu bao nhiêu tới phù thủy. Song điều đó chẳng ngăn Page viết tới nửa chương nếu cảm thấy thích. Thở một hơi khoan khoái, Page lôi xuống từ kệ một cuốn sách đã sờn của Glanvill. Vừa bắt đầu săm soi sách, anh nghe tiếng bước chân trong vườn, rồi tiếng gọi bên ngoài cửa sổ. Chính là Nathaniel Burrows, tay đang đung đưa cặp tài liệu, làm một cử chỉ chẳng ra dáng luật sư tí nào! Mời các bạn đón đọc Chiếc Bản Lề Cong của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bão Ngầm
Tiểu thuyết này đặc biệt dành tặng đồng đội tôi, những người lính can trường trên mặt trận đấu tranh phòng chống ma túy. Bước ra từ cuộc chiến đấu thầm lặng, như chất kháng thể của xã hội chống lại những kẻ gieo rắc cái chết, bao gian truân trên đường đời mà chúng tôi đã trải nghiệm bằng mồ hôi và cả máu xương, đã biến thành nguồn chất liệu sinh động cho cuốn tiểu thuyết này.  Một câu chuyện do lính viết từ những gì đã trải, đã thấy, đã cảm trong hiện thực cuộc đấu tranh sinh tử với tội phạm. Hành trình lần tìm ra các sào huyệt ma túy, chui sâu leo cao trong các đường dây, tổ chức tội phạm... của người lính, hẳn không phải một cuộc dạo chơi. Trên con đường vào trận, mỗi bước đi của họ đều nằm giữa lằn ranh sống và chết, vinh quang hay hèn nhát. Bởi, tội phạm không chỉ đón họ bằng những loạt đạn đồng khi chống trả, mà còn giăng đầy những chiếc cạm bọc nhung.  Hiểm nguy hay cám dỗ, đều có đặc tính của "quỳ tím", là liều thuốc thử đặc hiệu nhất giúp soi tỏ bản chất con người. Không thiếu những người xông xáo khi chiến đấu, nhưng lại chịu thúc thủ rồi gục ngã trước tiền và quyền. Khi ấy, những lớp vỏ rụng lả tả, bộc lộ những bộ mặt trần không son phấn. Để rồi chính họ lại cản trở bước chân đồng đội trong hành trình truy tìm thủ phạm. Nghiệt ngã là bản chất của mọi cuộc chiến. Trong mặt trận này, tính khốc liệt không chỉ hiện ra qua tiếng súng bắn trả của tội phạm, mà còn quyết liệt trong bản thân mỗi con người khi đứng trước những lựa chọn. Sự chuyển hóa giữa tốt và xấu, thiện với ác, trung thực hay đểu giả... diễn ra không ngừng nghỉ. Cuối cùng, quy luật đào thải sẽ cất những tiếng lạnh lùng, làm bắn ra khỏi quỹ đạo vận động những gì là giả tạo và lạc hậu, nghiền nát trong vòng quay luật đời mọi tráo trở, lừa lọc và phản bội... Cùng lúc ấy, nó tôn vinh những giá trị nhân văn, những mầm thiện trồi lên từ thực địa cuộc xung đột chính - tà. *** Mưa rả rích cả tuần, da trời thâm bầm xám ngoét như môi thằng nghiện. Đồi lúp xúp, đìu hiu trong chiều lạnh. Những rạch chè dài hun hút đến vô tận. Lẻ loi những thân cọ chơ vơ, tán lá ủ dột trĩu xuống vì nước, chốc chốc lại rùng rùng, đành đạch khi có dọn gió dưới thung thổi hất lên. Gió mang tối xuống nhanh. Trên con đường dẫn vào xóm Chè trơn như mỡ đổ, thấp thoáng bóng một người đàn bà chửa vượt mặt đang dò dẫm từng bước. Khối bụng lặc lè nhắc nhở chị ta thận trọng, phòng những cú sảy chân bất ngờ. Trên lưng, chiếc ba lô to như chực kéo người ngửa về sau. Ì ạch leo đến giữa đồi, thốt nhiên người đàn bà ngồi sụp xuống vạt cỏ. Thán khí từ phổi tranh đường ra qua mũi, qua mồm. Hơi thở dốc qua đi, chị chống tay vào cỏ, định đứng dậy đi tiếp. Đường về nhà còn xa, phải qua hai mỏm đồi thế này mới tới, mà trời đã nhập nhoạng. Chợt từ đâu le lói một cơn đau, âm ỉ ở vùng lưng dưới. “Chắc do đi bộ quãng đường xa, khó chịu nên em đạp?” Người đàn bà nhìn xuống bụng, cười mỉm rồi quyết định ngồi lại, hy vọng một lát cơn đau sẽ dịu đi. Luồn trong lớp áo mưa, đôi tay người mẹ xoa xoa, vỗ về đứa con trong bụng, thì thào: “Ngủ ngoan, bé bỏng của mẹ!”. Mưa vẫn quất vào mặt, tóc bết dính, dẫn nước luồn lách qua cổ, qua nách, xuống bụng. Người đàn bà run lên bên con đường nhạt nhòa trong mưa. Như là tự nhủ phải về được đến nhà trước khi tối hẳn, chị quả quyết đứng dậy nhưng rồi lại khuỵu xuống. Một cơn đau mới lại đến. Đau thốc từ sau ra trước, tưng tức nơi cửa mình. Hôm trước khám thai, bác sỹ bảo phải hai tuần nữa mới sinh cơ mà. Chị nhìn xuống bụng vẻ nghi hoặc, lo lắng rồi lại như tự trấn an mình. Nhưng sao vẫn đau, đau liên tục, đau theo nhịp vài phút một lần, như thể bị động thai. “Đừng, đừng con ơi, ở lại với mẹ, mẹ chỉ còn mình con!”, trong cơn vật vã trên vệ cỏ, lùng bùng giãy giụa giữa manh áo đi mưa, người đàn bà vẫn lảm nhảm những tiếng cầu xin… Cơn đau mỗi lúc một mau hơn, lan nhanh từ vùng lưng dưới hông ra trước. Bụng dưới quặn lên vì co thắt, thúc đẩy. Háng ẩm ướt, hai bên đùi phía trong bỗng lép nhép. Sinh khí tứa ra. - Thôi chết! Hay là chuyển dạ? Trời ơi! Ánh mắt thất thần vụt nhìn xuống dưới, rồi dáo dác nhìn lên, nhìn ngang, như thể tìm một bóng người, một chỗ trú chân. - Có ai không? Cứu tôi với? - Tiếng kêu lạc giọng vì sợ hãi của người sắp làm mẹ. - Cứu, cứu với! - Cứu! Tiếng kêu yếu dần, tan vào vô vọng. Giờ này, trời này, chỉ một mình chị giữa mênh mông đồng đất. Trong xa xăm, đâu như có tiếng chó sủa tối vọng về. Trên đầu mây vần vũ, bồng bềnh tiền sử. Trời càng lúc càng tối, vạt chè, tán cọ thoáng chốc đã biến sang màu đen dị hình. Từ đất đã vọng lên tiếng ri ri nỉ non của dế. Chỉ có một mình! Tiếng khóc tức tưởi bật ra từ lồng ngực người mẹ trẻ, không chỉ vì cơn đau dứt ruột, mà ai oán như tủi phận, xót xa đến cùng cực. “Đàn ông đi biển có đôi, đàn bà vượt cạn mồ côi một mình”, câu ấy cũng chỉ nói đến lúc lâm bồn bình thường của người đàn bà, ở thời khắc họ cho cuộc đời những sinh linh mới mẻ. Đằng này, chỉ một mình chị cô độc tuyệt đối giữa bạt ngàn chè cọ, Không lúc nào ranh giới sống chết của cả hai mẹ con có thể mỏng manh hơn. Quay cuồng trong cơn đau, vòng xoáy màu máu đảo lộn rút con ngươi hướng lên trên, miệng há lưỡi thò khỏi cung răng. Đúng lúc ấy, như ảo giác, rõ ràng trong làn mưa bay từ nền trời đen ngòm, có ánh mắt đang nhìn xuống chị. Ánh mắt ấy lạ lắm, như thúc chị gắng lên, như chỉ dẫn cho chị cách thoát khỏi tình huống nguy hiểm hiện tại. Nó còn như van vỉ, cầu xin… Đăm đắm vào cái nhìn tưởng tượng, chợt như có lửa bùng lên trong cặp mắt người đàn bà. Một cái gì đó thật dữ dội, quyết liệt đã trỗi dậy. Bản năng giống cái bảo vệ những đứa con của mình ư? Không rõ. Chỉ thấy người mẹ trở dạ ấy ngồi nhổm lên giữa bê bết bùn đất, rướn hết thị lực nhìn xung quanh. Kia rồi, lờ mờ bóng cọ. Cắn môi bật máu, người mẹ nén đau lết cặp mông trượt trên mặt đất từng chút, từng chút một. Cọ già, tán phủ rộng rãi như cái lọng của tự nhiên. Dưới gốc, một đống tàu lá khô vương vãi. Cũng không xa là đống cành chè dân đốn vụ trước còn vất ngổn ngang. Củi chè bền lửa, chỉ tội mưa gió ướt sũng thế này làm sao mà cháy được. Người đàn bà khó nhọc vơ lấy nắm cành chất vội thành bếp, nhét mấy tàu cọ già xuống dưới, rồi bàn tay run rẩy móc ra một hộp diêm, quýnh quáng quẹt lửa châm. Khói um, mù mịt, chị nén đau ra sức thổi. Hì hục, rồi ánh lửa cũng bùng lên, ma quái nhảy nhót. Mồ hôi vẫn rịn ra theo từng cơn co thắt. Người mẹ trẻ lập cập mở chiếc ba lô, lấy mảnh áo mưa kê dưới mông, giật toang chiếc quần lót để chuẩn bị cho thời khắc vượt cạn, sẵn sàng đón đứa con bé bỏng chào đời bằng chính đôi bàn tay mình. Vũ trụ chao đảo, người đàn bà quằn quại hét từng tiếng đứt quãng: - Hùng ơi, khôn thiêng thì về đây cứu em, cứu con. Nối đời của anh đây, của dòng họ Vũ đây! Lửa vẫn cháy rần rật trên mấy tàu cọ. Nước ối đã ra đẫm ướt mảnh nylon. Nỗi sợ cạn dịch thoáng vụt qua trong đầu, người mẹ nghiến chặt hàm răng rặn mạnh. - Ra đi con, ra đi, mẹ xin con, Hùng ơi, cứu em, con ơi, thương mẹ… Ra đi, rồi mai mình về bà ngoại. - Người mẹ trẻ gào lên trong từng đợt co thắt, háng dang rộng, tay phải nắm chặt con dao ăn. Nửa giờ vật vã, kết bằng một tiếng rú váng động. Bên dưới, đầu trẻ đã nhô ra khỏi ống sinh. Người mẹ dồn toàn sức cho cơn co bóp cuối cùng. “Oe, oe”, bé trai dây rốn lòng thòng đã trườn khỏi lòng mẹ đi ra, cơn đau vụt tắt, chỉ còn những âm ỉ, giật giật khó tả miền bụng dưới. Phản xạ đón con xảy đến, khi tiếng khóc đầu tiên lọt vào tai người mẹ. Chị đảo chiều nằm, quay xuống cứa dao cắt rốn hài nhi rồi ấp nhanh bé vào lòng cùng mớ quần áo vương vãi. Bầu vú như tự tìm đến miệng trẻ. Không rõ sữa đã về chưa, chị bóp mạnh. Tiếng khóc ngằn ngặt làm người mẹ nhở đến đống lửa gần tàn. Bàn tay quờ quạng chất thêm mấy tàu cọ khô vào. Lửa lại in hình nhảy múa trong đôi mắt đang sáng rực vì sung sướng của người mẹ. Đêm nhích dần về sáng, người mẹ trùm cả đống quần áo đắp cho con. Khi hài nhi thiếp vào giấc ngủ, chị cũng nằm vật ra, miên man. Thời gian bỗng đảo chiều chuyển động, kéo quá khứ hiện hình đầy ắp trong cơn mê mệt. Những tiếng nổ chát chúa như nện vào óc hôm nao, bỗng rền vang trong ký ức… Ngoài tán lá, mưa cũng đã ngớt. Thi thoảng có giọt nước rơi xuống đống lá khô, lộp bộp như tiếng gà mổ ngô. Đống lửa leo lét tàn dần nhưng cũng đủ giữ cho hai mẹ con họ qua đêm thu mưa gió trên triền đồi heo hút ấy.   - - -   Ánh trăng non đầu tháng, không đủ cường lực để xuyên thủng lớp giáp của rừng. Dòng người lầm lũi chuyển động theo sau ánh đèn pin loang loáng. Câm lặng. Chỉ có tiếng lách cách khe khẽ của kim khí chạm nhau. Sau cơn mưa ban chiều, muỗi tủa ra từ bụi, u u rờn rợn. Thảng hoặc, có con gì thấy động vụt bỏ chạy. Những tiếng xột xoạt bất ngờ phát ra từ bụi rậm tối ngòm, làm tốp người khựng lại, dò xét rồi lại ngập ngừng bước tiếp. Cây gậy trên tay khua khua, đập đập về phía trước, sang hai bên đường mòn, để tránh những cú táp bất ngờ của con cạp nong, hổ mang nào đấy. Đêm xuống, rừng đen ngòm như một cái bẫy khổng lồ, chờ đợi những cái sa chân. Trên đầu, những búi dây leo quềnh quàng, búa xua xuống trước trán. Trong đấy, biết đâu chẳng có những con lục xà đang thả mình… Hơn ba giờ đi bộ, lõi của rừng đã ở lại phía sau. Những tán lá ken trên đầu bớt dày. Từ ống nhòm đêm, đập vào mắt là một thung lũng hẹp, tạo thành giữa ba khe núi, như cái miệng nơm úp. Mờ mờ hiện ra một con đường mòn hình con rắn, đang ngoằn ngoèo trườn đi giữa các khe núi. Phía sau đã là vành đai biên giới. Tin trinh sát báo về, độ quá nửa đêm sẽ có cuộc giao hàng lớn ở đây. Người cầm đèn pin đi đầu nói nhỏ: “Nghỉ tại chỗ mười phút, tranh thủ hội ý!”. Tốp người tản ra, vặn vẹo đỡ mỏi rồi vạch quần xả nước ồ ồ. Sảng khoái. Có tiếng hỏi nhỏ: - Thuốc lá đâu? Tao điếu, mày! Những đốm lửa lập tức được chuyền nhau, lập lòe đom đóm. - Muốn chết à? Tắt thuốc ngay, ngu thế! Ngồi cả xuống đi! - Tiếng quát khẽ nhưng đầy uy lực. Những điếu thuốc nhả vội khỏi mồm, rơi xuống đất. Bàn chân di di. - Lát nữa, chúng sẽ giao nhận hàng dưới thung lũng. Bây giờ thằng Linh phụ trách tổ 1 vận động ra phục hai bên cánh gà của khe núi kia. Tổ 2 thằng Tuấn chỉ huy. Tuấn “đen” đâu? Mày dẫn năm anh em lùi lại rừng ngay, ém sát đường mòn. Thấy chúng đi qua, cứ để yên cho qua. Khi ta gọi hàng, bọn nó sẽ chạy tán loạn. Nếu qua chỗ chúng mày thì xông ra mà bắt, đừng để sổng thằng nào. Tổ 3 triển khai đội hình bao vây toàn bộ khu vực giao hàng. Hai chục khẩu AK tập trung ở đây, tạo thế gọng kìm, đợi chúng “chập” với nhau sẽ phang. - Nếu nó “bật” lại thì ta được phép bắn hạ chứ? - Nghe này! Cả hai nhóm không dưới mười thằng đâu, đều có AK, lựu đạn, nên chúng mày phải hết sức cẩn thận. Mặc áo giáp vào! Tìm thân cây to mà nấp! Đầu tiên ta sẽ gọi hàng, nếu chúng bắn lại thì cứ hạ súng tầm thấp mà “tiu” què chân cho anh. Vạn bất đắc dĩ mới phải tiêu diệt, vì tao cần những cái lưỡi còn cử động để khai. Lưu ý lúc bắn tạo góc bốn mươi lăm độ, kẻo phang nhầm vào nhau. Quy ước là bắn điểm xạ ba viên một. Tao hô xung phong, chúng mày đồng loạt xông ra nhé. Chú ý vồ tay, đừng để chúng kịp rút chốt lựu đạn. Còn anh chưa lao ra, cấm thằng nào manh động rời khỏi chỗ nấp. Nghiêm cấm nổ súng khi tao chưa có lệnh! Có tiếng rì rầm bàn tán các tình huống có thể xảy ra lúc vào trận. - Đội trưởng Thắng ơi em ở tổ nào anh? - Có tiếng con gái cất lên. - Con Hoa, mày ở tổ anh, phụ trách liên lạc giữa các tổ bằng bộ đàm. Tý nữa mà có đàn bà thì mày khám! - Nhớ chọc rồi ngoáy cho kỹ em gái, nhỡ nó giấu hàng! - Ai đó chêm vào rồi cười khùng khục. - Vớ vẩn! Vào việc đi! Tiếng lên đạn loạch xoạch. Những bóng đen tản ra rất nhanh, trả lại cho rừng cái yên tĩnh vốn có. Chiều hôm trước. Toàn “khỉ đốm” ngả người lim dim trên ghế phụ chiếc Lexus 470. Xe đang lao vùn vụt trên đường, trực chỉ hướng biên giới, chợt điện thoại đổ chuông. Một số máy lạ hoắc gọi tới, có số đuôi 919. Gã ngạc nhiên, số này chỉ có ông Trùm biết. Nhầm máy chăng? Gã uể oải cầm máy lên nghe. Mất toi cơn ngủ, khí nóng nghe như đã bốc tới mặt. Giọng nói chuẩn bị sẵng. Bỗng, đầu dây kia có tiếng rất quen: - Nghe thôi, đừng hỏi! Sếp dặn mày cẩn thận. Bọn “cớm”1 đang làm mạnh. Lúc giao hàng đề phòng bọn A Tú chơi đểu. Có gì tao gọi lại. Máy tắt phụt, đột ngột như lúc gọi đến. Toàn ngả người ra sau ngẫm ngợi. Mấy đứa ngồi sau hỏi với lên: - Ai gọi đấy anh? - Câm đi! Đéo phải việc chúng mày! - Toàn sẵng giọng. Cuộc gọi bất ngờ khiến gã thấy bất an. Nỗi lo sợ không còn là điều gì mơ hồ nữa. Bởi gã đang ngồi trên chiếc xe chứa cả tạ “trắng”2, khác nào kẻ đang ôm bom. Gã biết đi chuyến này quá nguy hiểm. Đang cao điểm, Công an ra quân rầm rộ. Thằng nào ho he thò mặt ra hãy coi chừng. Mới rồi mấy đường dây lớn trong nước vừa bị hốt trọn, dắt díu nhau vào trại cả trăm thằng, chờ ngày ra tòa mà nhận án tử. Thành thử, hàng khan lắm, đội giá cao vọt. Khách đói hàng kêu như vạc, nhao nhao tìm nguồn cung. Bán ra lúc này một vốn trăm lời. Toàn vào nghề đã có “thâm niên”. Nghề này đã thò chân vào thì khó mà rút ra. Khó, vì chỉ có nó mới thỏa mãn cơn khát tiền trong mỗi con người. Mỗi bánh kiếm lãi cả trăm triệu. Ban đầu, nhiều đứa bước chân vào nghề có thể là do những khó khăn, quẫn bách trong cuộc sống. Nhưng vào cuộc rồi, thấy tiền thật dễ kiếm, thì việc kiếm tiền trở thành đam mê lúc nào chẳng hay. Tiền có sức mạnh vạn năng, mang những giấc mơ sang giàu về trên mặt đất. Khi đã phè phỡn vì nhiều tiền, bước vào đẳng cấp của những kẻ sống trên tiền, thì chẳng còn cái phanh nào tồn tại trong đời nữa. Có những thằng nhiều tiền quá chẳng biết làm gì, bèn chôn cả hầm tiền dưới đất. Đêm nào cũng lén xuống thơ thẩn chơi với tiền. Chơi say mê, chơi chân thành. Chúng nó bảo, âm thanh vĩ đại nhất trên cuộc đời này là tiếng sột soạt của tiền khi mang ra đếm. Nó ngân lên những giai điệu mà những kẻ không tiền không thể hiểu được. Một điều nữa khiến những kẻ đã “ngồi trên thuyền” không thể nhảy xuống, buộc phải đi đến cùng. Đó là vì luật chơi. Đợt trước, có thằng sợ chết gặp lão Trùm để thoái thác việc vận chuyển. Lão hỏi “sao lại thôi, thôi dễ thế á?” rồi đưa mắt cho mấy thằng hộ sát xúm vào tẩn cho nó một trận thừa sống thiếu chết, về sau Toàn không gặp lại thằng ấy nữa. Có lẽ xác nó đã dưới đáy sông hay mục ruỗng ở một xó xỉnh nào đó rồi. Và gã hiểu ra, đã cùng tổ chức, cùng đánh quả, ăn chia với nhau, biết hết chiêu thức và các mối làm ăn. Nay tự dưng bảo rút, rút là rút thế nào? Ai cho rút mà rút? Luật làm ăn, chỉ cần có ý định rút lui, là đã tự điền tên mình vào sổ khai tử. Bởi về nguyên tắc, không thể để thằng ất ơ nào đó nắm thông tin về mình mà lại không làm việc cho mình. Để nó sống, tức là thông tin có nguy cơ bị lộ lọt. Nên đã bỏ việc, thì phải cho nó im lặng vĩnh viễn. Lão Trùm chỉ cho lính tạm nghỉ ngơi, mỗi khi dính cao điểm bị “cớm” đánh mạnh. Nhưng khi yên ắng, phải trở lại với công việc. Đừng dại dột nghĩ đến chuyện “rửa tay gác kiếm”. Cuối cùng thì những thằng như gã đều có suy nghĩ giống nhau, đằng nào tay cũng đã “nhúng chàm”, buôn một bánh khác nào nghìn bánh. “Mẩu số chung” đều là tai chỉ kịp nghe một tiếng “bùm”, hay thấy nhói đau nơi bắp tay khi mũi tiêm thuốc độc chọc vào, rồi tất cả thành hư vô. Thành thử, kệ mẹ cho số phận đưa đẩy, dẫn dắt. Mời bạn đón đọc Bão Ngầm của tác giả Đào Trung Hiếu.
Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 18: Đài Phát Thanh Gà Giò - Paul Jacques Bonzon
Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** Sáng thứ tư đó Tidou còn đang ngủ vùi thì giọng của má lôi hắn ra khỏi giấc mộng: - Có thư đó, anh Hai lười ! Bà bước vào phòng, lá thư trên tay. Má không có thói quen đem thư tới tận giường, nên hắn vô cùng ngạc nhiên. Bà giải thích: - Thư gởi cho Sáu người bạn, vì vậy má nghĩ nên đánh thức con dậy... Mà ngủ như vậy cũng đủ lắm rồi ! Nhưng Tidou có nghe thêm được câu nào đâu. Hắn an tọa trên giường, đầu óc tỉnh rụi, vội vã xé phong bì. Từ mấy tháng nay không có một “đặc vụ” quái nào hết, nên chi lá thư gởi cho cả nhóm này chứa đầy hứa hẹn. Ngó thấy gương  mặt hắn sáng lên, không ai có thể nghi ngờ được nữa: chắc chắn lá thư báo một vụ hết xảy ! - Coi bộ có tin vui hả ? - Bà mẹ vừa nói vừa nở một nụ cười. Rồi bà trở lại công việc thường ngày. Không phải bà thờ ơ với những gì mà đứa con trai bà say sưa, trái lại là khác, nhưng từ lâu bà đã quen giữ thái độ kín đáo đối với mọi cuộc phiêu lưu của băng Chữ Thập Hung tiếng tăm lừng lẫy này rồi ! Bà cũng biết Tidou sẽ kể cho bà nghe khi nào hắn thấy thích hợp. Về phần bà, điều đó tựa như phần nào tôn trọng bí mật nhà nghề của con. Choàng vội áo quần, Tidou băng qua gian bếp như một cơn lốc. Hắn thấy thằng em Géo đang ngồi nhấm nháp ly sôcôla. -  Mày nên tự hào về thằng anh mày, Géo à ! Hắn vừa nói vừa vỗ vào lưng em làm thằng nhỏ suýt sặc. Géo không có thời giờ phản đối hay hỏi han thêm: nó còn đang lấy lại hơi thở thì thằng anh đã khuất dạng trong phòng khách, con Kafi  chạy theo bén gót. Kafi chỉ là một con chó bẹc-giê đầu sói. Mặc dù nó thông minh ăn đứt mấy nhân vật đi bốn chân khác, nó vẫn chưa biết nói tiếng người. Nhưng sáng hôm nay, khi giương mắt nhìn cậu chủ đang vội vội vàng vàng quay ổ số điện thoại thì đôi mắt to lanh lợi cùng cái đuôi bông lau xù tuyệt đẹp của nó rõ ràng đang lên tiếng: “Tớ thấy có điều mới lạ rồi, sắp có chuyện đùa vui tới nơi rồi, nhưng có sớm sủa gì đâu ! Nè Tidou, tớ bằng lòng cậu đó !" - Alô, Mady ? - Tidou nói ngay khi bắt được liên lạc. – Tớ không kéo cậu dậy nửa chừng chớ ?... Không, không có gì đáng lo đâu, trái lại là khác... Có một bức thư gởi cho tất cả bọn mình. Nhưng tớ không xì thêm đâu. .. Không !... Có chớ, có chớ... 45 phút nữa ở căn cứ nghe, được không ? Cậu chuyển tin giùm tớ nghe. Rồi, sẽ gặp lại. Mady là cô gái duy nhứt trong băng. Với mái tóc nâu  rất đẹp, đôi mắt đen láy và nụ cười rạng rỡ, cô dư sức bỏ túi hết cả đám bạn. Nhưng điều mà tất cả bọn chúng thừa nhận là Thủ Lãnh được “cưng” hơn hết. Không đứa nào ganh tị cả. Nhưng nào ai ngăn nổi tụi nó lâu lâu chêm vài câu kiểu như: "Ê…một đôi tình... tang" hay làm bộ thăm hỏi: "Nè, chừng nào cử hành tang... í lộn, hôn lễ!". Noi tóm lại, không có gì dáng ngạc nhiên khi Tidou gọi cho Mady trước tiên. Sau đó, cô gái sẽ "chuyển" tiếp cho hắn, như lời hắn nhờ. Nói cách khác: cô sẽ gọi điện cho Tondu, Tondu gọi cho Guille, Guille gọi cho Bistèque, Bistèque gọi cho Gnafron. Rồi cứ như vậy mà 45 phút sau, Sáu người bạn gặp mặt ở căn cứ như dự kiến. Vào lúc này thì chúng đang ngồi trên những két gỗ lật úp lại làm ghế, tất cả tụi nó, trừ Thủ Lãnh đang đứng giữa, con Kafi nằm dài dưới chân hắn. Hắn lôi lá  thư trong túi ra, thong thả mở tờ giấy, lấy làm khoan khoái khi đám bạn đang nôn nóng chờ. Cuối cùng thì hắn cũng phải đọc cho tụi nó nghe: "Sáu người bạn thân mến, Đài phát thanh FM Gà Giò (nguyên bản là chữ Gones- tiếng địa phương Lyon dùng để chỉ tuổi đang lớn, như “gà giò” của Nam Bộ, ở đây có thể hiểu là đài phát thanh dành cho tuổi teen) do tôi điều hành rất vinh dự mời mấy bạn tham gia chương trình phát sóng của chúng tôi, có tên là "Hành lang không thể tưởng". ... Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 18: Đài Phát Thanh Gà Giò của tác giả Paul Jacques Bonzon.
Người Bạn Đồng Hành Tập 10: Pin Nguyên Tử - Paul Jacques Bonzon
Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** Sau những cuộc phiêu lưu dồn dập mãi đến hôm nay Tidou mới được rảnh rang. Coi, hắn vừa định nhấc xác khỏi nhà rủ Mady dạo chơi thì điện thoại reo inh ỏi. Hắn thở dài rồi nhấc máy: -    A lô, xin lỗi ai gọi đó ? Bên kia đầu dây là một người quen rất đỗi ngọt ngào: -   Mady dây, cả đám đang đợi bạn ở căn cứ địa -   Trời đất, giờ này mà tập trung dưới chân dốc Kẻ Cướp ? -    Có chuyện... -    Hừm, tôi tính kéo bạn lên đồi Nữ Thần thư giãn thần kinh chút xíu, ai dè. .. Mady cười khúc khích: -    Kỳ này không phải đặc vụ đâu mà lo, chúng ta có khách phương xa tìm tới cho nên không được vắng mặt bất kỳ ai trong lục thám tử. -    Khách nào vậy ? -    Bộ quên Corget rồi sao ? -    Chúa ơi, Corget, một trong các thành vièn nhóm NHỮNG TẢNG ĐÁ LỚN, tiền thân của Sáu Người Bạn Đồng Hành, nó về đây nghỉ hè hả ? -    Vâng, thưa Thủ Lãnh, đáng tiếc là Corget dọn nhà khỏi Lyon nên chúng ta mất đi một thám tử, bằng không phải gọi là Bảy Ngưòi Bạn Đồng Hành mới đúng. Ừm... -   …. -    Mỗi lần tái ngộ Corget, mình lại nhớ ngày nào dưỡng bịnh thiếu hồng huyết cầu ở Reillanette. Quê bạn thật tuyệt vời, ánh nắng phương nam đã làm mình hết căn bịnh hiểm nghèo ấy. Hồi đó bạn và Corget dẫn phái đoàn đi thăm mình, nhớ chứ ? Tidou xúc động đến lặng người. Hắn run giọng: -    Nhớ, hồi đó tụi mình còn trẻ con lắm, vừa chân ướt chân ráo đến Reillanette đã lao vào bao nhiêu là chuyện cực kỳ kinh khủng... -    Corget cũng đang cần ôn lại kỷ niệm mái nhà xưa của bạn đó. Sao, bạn đã sẵn sàng đến căn cứ bây giờ chưa ? -    Sẵn sàng. Mady cúp máy. Cô bé làm sao hiểu rằng Tidou chưa thể... sẵn sàng. Trời ạ, hắn còn phải bồi hồi ít nhất là nửa giờ đồng hồ để tư duy chuyện ngày xưa ngày xửa chứ sao.   *** Khi bước vào sào huyệt dưới chân dốc Kẻ Cướp, Tidou mới được thông báo một tin động trời. Giữa đám đông bè bạn xúm xít, Corget vẫn hùng dũng như ngày nào, tuyên bố chắc nịch: -   Tôi đến đây một công hai việc: Thứ nhất, thăm các chiến hữu giang hồ cũ của NHỮNG TẢNG ĐÁ LỚN. Thứ hai, thay mặt cho một người bạn nối khố của Tiđou ở vùng Reillanette là Frédéric Frigoulet, xin mời các bạn quá bộ đến Reillanette. Mady chưng hửng: -    Cậu Frédéric, con trai chủ lò bánh mì, em ruột vua xe đạp Baba hở ? Corget cười bí ẩn: -    Đúng vậy, trên đường đến Lyon tôi có ghé qua làng quê Reillanette. Ở đây tôi đã gặp Fréđéric và gia đình. Cu cậu mừng húm ngồi nhắc những ngày bạn chữa bịnh khiến ai nấy nôn nao. Cuối cùng, cả nhà Frédéric nhờ tôi đánh tiếng mời các bạn về thăm cố xứ. Họ đã chuẩn bị đón tiếp chu đáo. Tidou nín thinh. Reillanette là "nhà quê" riêng của hắn, là nơi hắn cùng gia đình rời bỏ để lên Lyon sinh sống thế mà bạn bè trong nhóm vẫn hằng coi đây như quê hương thứ hai của chúng mới lạ lùng. Chúng cũng biết nhớ thằng Frédéric, biết làm quen với ông hoàng cuarơ nước Pháp Baba, biết thèm vườn nho ngọt lịm tuổi ấu thơ Tidou từng trèo hái. Thủ lãnh mơ màng: -    Chúng ta sắp về cố xứ sao ? -    Không còn gì nữa để nghi ngờ, chúng ta đang rảnh rỗi sau một niên học bù đầu. Đây là khoảng thời gian “xả xú bắp” thích hợp nhất . Guille gục gặc: -    Tình xưa nghĩa cũ mà Tidou, tao nhất trí với Corget làm một chuyến viễn du. Gnafron quàng cổ quái cẩu âu yếm: -    Dĩ nhiên trong cuộc hành trình phải cổ chó Kafi, đúng không ? Bistèque chắt lưỡi: -    Mọi thứ bất ngờ quá, đoạn đường từ đây đến Rcillanclte dài tới 250 cây số... Tondu gạt phăng, nó tung bêrê lên cao rồi đưa đầu hứng một cách ngon lành: -    Đặc vụ xuyên nước Pháp mà tụi mình còn phóng xe ga được nói gì hai ba trăm cày số lẻ tẻ. Hay là mày bị "ông già" bắt đi giao xúc xích trong mùa hè ? ... Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 10: Pin Nguyên Tử của tác giả Paul Jacques Bonzon.
Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 19: Con Thuyền Bạc - Paul Jacques Bonzon
Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** Angelo Tiếng chuông vừa vang lên. Như thường lệ, các cậu bé ào ra khỏi cổng trường, tản lên đại lộ Chữ Thập Hung. Dĩ nhiên mấy anh bạn không thể rời nhau. - Lạ thật ! - Hề Xiếc lên tiếng. - Từ hôm kia đến nay, Angelo không tới trường. Tớ băn khoăn không hiểu vì sao ? - Có lẽ bố bạn ấy ốm. - Giác Đấu nói. - Thế thì lạ quá, - Thủ Lãnh thắc mắc. - Nếu vậy thì Angeio phải bảo chúng ta chứ !      Angeio Moreira gốc Bồ Đào Nha. Bố mẹ di cư sang Pháp đã mấy năm nay. Ông bố, thợ lắp máy, tên là Anlonio, tìm ngay được việc làm trong một nhà máy, còn mẹ làm nội trợ. Khá nhanh chóng, gia đình có điều kiện thuê một căn hộ nhỏ ở phố Chữ Thập Hung. Tự hào về trí thông minh của con trai, ông bố mong muốn đứa con duy nhất tiếp tục theo học cho đến đầu đến đũa. Khi tới Pháp, cậu ta vấp phải khó khăn về ngôn ngữ. Nhưng cậu ta học tiếng rất nhanh, chỉ mấy tháng sau, đã hoàn toàn "Pháp hoá". Hai năm trước, một tai nạn ôtô đã xảy ra. Bà mẹ chết ngay lại chỗ, Angelo gãy một cánh tay. Còn bố cậu thì bị liệt chân, hiện đang điều trị ở bệnh viện ở Hyères. Thế là ở tuổi mười lăm, Angelo sống một mình, hai bàn tay trắng. Ông bố không được hưởng bảo hiểm. May nhờ tấm lòng "lá lành đùm lá rách" của những người rời bỏ quê hương, Angelo đến ở nhà một người Bồ Đào Nha mới tới Pháp, mà khi vừa sang được bố cậu chăm sóc vì họ vốn cùng làng. Mendès (người cưu mang Angelo) không tìm được việc làm tử tế. Là công nhân không chuyên nghiệp, tiền công thấp. Bà vợ phải ở nhà chăm sóc hai con nhỏ. Dầu sao, những người có khó khăn này vẫn đón nhận Angelo, và để đền đáp lại, cậu ta trao phần học bổng của mình. Đúng ra, vì đã chuyển chỗ ở, Angelo phải đến học một trường trung học trong khu phố mới. Cậu ta cố ở lại trường Chữ Thập Hung để khỏi phải xa bạn. Vì vậy, mỗi sáng, mỗi chiều, Angelo phải đi một quãng đường xa bằng xe đạp... chiếc xe Tidou cho, sau khi Giác Đấu sửa chữa lại. Lớn hơn các bạn hai tuổi, trưởng thành với một thời thơ ấu gian khổ, tai họa, Angelo hầu như đã là một người lớn và buồn bã thấy mình ít nhiều là một gánh nặng cho gia đình Mendès. Để giúp đỡ họ, những lúc rỗi rãi và trong dịp hè, cậu ta làm đủ mọi thứ công việc có thể thu nhập chút ít. Chơi đàn ghita rất giỏi, vào buổi trưa và đôi khi cả buổi tối, cậu đến các quán ăn, hát bằng tiếng quê hương, có đệm đàn. Sau đó, đi giữa các dãy bàn, trên tay cầm một chiếc hộp. Mọi người có thiện cảm với chàng trai thái độ nghiêm túc, quần áo sạch sẽ, gọn gàng, họ vui vẻ cho tiền vào hộp. Dĩ nhiên, những ngày đầu, chìa tay ra xin tiền thật khó khăn. Nhưng cậu ta quen dần khi nghĩ mình làm như vậy không phải cho mình, mà là cho gia đình Mendès. ... Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 9: Cái Chai Thư của tác giả Paul Jacques Bonzon.