Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khám Phá Sức Mạnh Bản Thân
HÃY SỐNG NHƯ ƯỚC MƠ "Ai cũng có một cuộc sống, nhưng chỉ có một số người mới có một cuộc sống đích thực." - KHUYẾT DANH Sức mạnh bản thân bắt nguồn từ sự tự khẳng định và hiểu mình kết hợp với ý chí và sức mạnh tinh thần. Khi chúng ta có được cái nhìn tích cực về bản thân và biết tự đánh giá những khả năng, điểm mạnh, điểm yếu, điều mình thật sự muốn và điều mình có thể làm được thì đó là lúc chúng ta mới thoát khỏi những khuôn khổ và lối mòn tư duy và bắt đầu khám phá nguồn sức mạnh tiềm ẩn vốn có của chính mình. Ngay từ thiếu thời, chúng ta đã sẵn có một sức mạnh tiềm ẩn lớn lao và không bị giới hạn; nhưng thời gian trôi qua, chúng ta lại lãng quên và những điều khác đã khiến chúng ta không quan tâm đến việc tìm lại vốn quý đã từng hiện hữu đó. Đôi lúc con người không được dạy để hướng đến sự tự lập và phát triển lòng tự trọng, sự sáng tạo, ngay chính những người thầy dạy chúng ta cũng chưa bao giờ được giáo dục cách thức như vậy. Điều đó tạo nên đến khi lớn lên việc tự hạn chế bản thân đã trở thành một bản chất không thể sửa đổi. Như vậy, từ sự hạn chế này lại tiếp tục phát sinh ra những khiếm khuyết khác, từ thế hệ này qua lớp người khác. Một bà mẹ có tuổi thơ bị cấm đoán những xúc cảm riêng thì sẽ cảm thấy bất an khi đứa con mình đang phát triển cảm xúc nội tâm, tính tự lập và dường như muốn thoát ra khỏi sự bảo bọc của mẹ. Một bậc vĩ nhân đã từng nói: "Đừng coi thường cảm xúc của người khác, vì đấy chính là thiên tài của họ đó". Người mẹ lo sợ không kiểm soát được con mình hoặc nó sẽ không còn yêu thương, gần gũi và nương tựa vào mình nữa. Họ không những không vui khi con mình ngày một trưởng thành hơn mà còn tìm cách ngăn trở khả năng sáng tạo, những tính cách, cảm xúc và tư chất độc lập. Chính điều đó đã kìm hãm sự phát triển tự nhiên sức mạnh bản thân và sự tự tin của những đứa trẻ và biến chúng thành một con người khác với bản chất vốn có của chúng. Khi lớn lên chúng sẽ trở thành những con người khuôn khổ thiếu tự tin, không dám đưa ra ý kiến, khám phá hay quan điểm của riêng mình chỉ vì sợ không giống với những người khác. Kết quả cuối cùng là chúng không thể thoát ra khỏi những định kiến, vỏ bọc để đạt được thành công và mãi chôn chân trong sự tù túng "an toàn". Cuốn sách nổi tiếng thế giới "Personal Power - Khám phá sức mạnh bản thân" của tác giả Gillian Stokes là một cuốn sách đặc biệt với những trải nghiệm và ý tưởng thực tế đã làm thay đổi cuộc đời của nhiều con người, sẽ khơi dậy những sức mạnh tiềm ẩn trong bạn. Sức mạnh đó sẽ tác động không chỉ đến suy nghĩ, cách nhìn cuộc sống, sự thành công và hạnh phúc của riêng bạn mà còn ảnh hưởng rất nhiều đến những người xung quanh. Hãy phát huy sức mạnh bản thân, hãy dũng cảm sống cuộc đời đích thực của chính mình. Hãy trở thành con người mà bạn luôn từng mong đợi. Hãy vươn đến những khát vọng mà bạn hằng mơ ước. Dù có thể là hơi trễ, nhưng "Thà trễ còn hơn không bao giờ"! Sức mạnh tinh thần sẽ quyết định đích đến của bạn. Chúc các bạn thành công. - FIRST NEWS *** Khám phá điều bạn mong muốn "Cuộc sống luôn sẵn có những cánh cửa, những cơ hội, như dây đàn căng đón chờ giai điệu vui." - RALPH WALDO EMERSON Bước đầu tiên của hành trình khám phá sức mạnh bản thân là cần nhận thức rõ xem bạn đang tìm kiếm điều gì trong cuộc sống này. Đó phải là những điều mong muốn của chính bạn chứ không phải của bất kỳ ai khác. Đôi khi bạn băn khoăn, trăn trở tự hỏi ước muốn của mình là gì, làm thế nào để những ước muốn đó trở thành sự thật... Những bước sau đây sẽ giúp bạn định hướng rõ ràng hơn về điều đó:   Dũng cảm đối diện với sự thật. Bạn cần phải thay đổi điều gì để đạt được mục tiêu của mình? Lập kế hoạch. Liệt kê những điều bạn cần phải thực hiện để từng bước tiến gần đến mục tiêu. Dám ước mơ. Hãy tưởng tượng rằng bạn đã đạt được mục tiêu và cho phép bản thân tận hưởng cảm giác tuyệt vời đó vào những lúc tĩnh lặng, riêng tư, chẳng hạn như khi chờ một cuộc hẹn, khi đi trên xe buýt hay xe lửa. Càng dành thời gian suy nghĩ về điều này, bạn càng dễ dàng tập trung hơn để từ đó sẽ nhanh chóng nhận ra và nắm bắt cơ hội khi chúng đến với mình. Sẵn sàng đương đầu với những trở ngại bất ngờ. Hãy tiên liệu và chuẩn bị đối phó với những điều có thể ngăn cản bạn tiến đến mục tiêu. Nguồn gốc phát sinh những vấn đề đó là gì? Làm thế nào để vượt qua tất cả những trở ngại này? Loại trừ những rào cản ngay trong chính bản thân mình.Phải chăng bạn cảm thấy lo sợ đến nỗi không dám thực hiện bất kỳ một sự mạo hiểm nào? Hãy mạnh dạn đưa ra những quyết định của riêng mình và theo đuổi chúng đến cùng - bởi để có thể tiến xa hơn và đạt được những tầm mức cao hơn trong cuộc sống, nhiều lúc bạn cần phải can đảm rời khỏi không gian suy nghĩ quen thuộc của mình. Suy nghĩ tích cực. Hãy khám phá sức mạnh của những suy nghĩ lành mạnh và những lời nói tích cực để khẳng định mong muốn của bản thân. Hãy thay thế câu: "Tôi sẽ thử" bằng câu "Tôi sẽ làm". Tin vào trực giác của mình. Nó thể hiện sự nhạy cảm và sáng suốt của bạn khi giải quyết vấn đề. Đừng bao giờ thỏa hiệp. Hãy giữ vững lý tưởng và chuẩn mực của bản thân; thành công chỉ thực sự đến khi bạn tìm thấy những điều mới mẻ cho riêng mình. Hãy biết rằng luôn có một sức mạnh tồn tại bên trong bạn. Không một tác nhân nào có thể tiếp thêm hay lấy đi của bạn sức mạnh ấy được - ngoại trừ chính bạn. Vậy bạn đi tìm sức mạnh bản thân để làm gì? Phải chăng đó là do bạn khao khát được thành công, mong có được một sức khỏe tốt hay những mối quan hệ hoàn hảo? Câu trả lời của bạn sẽ cho biết bạn có đạt được điều mình mong ước hay không. Một khi đã xác định rõ ràng được mục tiêu mà bản thân đang hướng đến, bạn sẽ biết mình nên tập trung vào điều gì. Bạn có nhận thấy rằng, thật ra mọi cuộc hành trình dù là dài nhất cũng đều khởi sự từ bước chân đầu tiên? Khi đã biết rõ ước muốn thật sự của mình, bạn nên bắt đầu xác định những bước cần thiết để đạt được ước muốn đó. Cứ mãi bận tâm với những suy nghĩ tiêu cực rằng bản thân còn quá vụng về, quá ngốc nghếch, rằng có lẽ bạn không còn trẻ nữa để bắt đầu cho một ước mơ... sẽ chỉ khiến bạn xao nhãng mục tiêu của mình. Vũ trụ này không đợi để cùng hòa điệu với bạn đâu, mà chính bạn phải là người bắt kịp và hòa nhịp với những bước nhảy của vũ trụ. Hẳn ai trong chúng ta cũng có những ước mơ thầm kín nhưng lại không dám chia sẻ vì sợ gặp phải những lời giễu cợt, cười đùa. Có lẽ đã không ít lần bạn tin rằng mình sẽ làm được điều gì đó, nếu như...? Tại sao chúng ta không dũng cảm theo đuổi những ước muốn và khát vọng bị quên lãng bấy lâu nay, chúng ta hẳn sẽ rất ngạc nhiên về những điều mới mẻ sẽ đến với mình khi bắt tay vào hành động để thực hiện chúng! "Không có khái niệm tốt hay xấu, mà chính cách nghĩ của chúng ta tạo nên điều đó." - WILLIAM SHAKESPEARE Mời các bạn đón đọc Khám Phá Sức Mạnh Bản Thân của tác giả Gillian Stokes.
QBQ! - Tư Duy Thông Minh
Lời giới thiệu Cuộc sống càng phát triển, càng sôi động bao nhiêu thì con người càng bị cuốn vào vòng xoáy của nó mạnh bấy nhiêu. Và trong vòng quay tất bật đó, chúng ta dễ dàng lãng quên hay bỏ sót những giá trị tốt đẹp bên trong để chạy theo những điều mơ tưởng bên ngoài. Chúng ta lãng quên trách nhiệm đối với gia đình, tổ chức, xã hội, thậm chí ngay cả với bản thân mình. Cũng có lúc chúng ta chợt nhận ra điều đó, nhưng rồi sợ phải đối đầu với những khó khăn, ngăn trở, sợ phải thay đổi chính mình mà chúng ta chấp nhận buông xuôi... Chúng ta lần lữa, chần chừ và luôn tìm cách đùn đẩy cho người khác mà không dám nhận trách nhiệm về mình để tìm cách giải quyết. Chúng ta khoác lên mình chiếc áo "cầu an" và tự nhủ rằng "Phải thế thôi, bây giờ ai cũng làm vậy cả...". Nhưng như vậy, vô tình chúng ta sẽ làm mất dần đi giá trị thực sự của mình, chúng ta thoái lui trước những cơ hội để phát triển bản thân một cách toàn diện và không phát huy được hết những khả năng tiềm ẩn của mình. QBQ(1)! - Tư duy thông minh là một công cụ giúp bạn nhận diện giá trị thực sự của mình, dám nhìn thẳng vào trách nhiệm của bản thân từ trong suy nghĩ để vạch ra những phương hướng hành động thật thông minh. Bạn sẽ không còn phải lo âu, bối rối hay hoang mang vì những câu hỏi không lời giải đáp về những vướng mắc mà mình gặp phải trong công việc và cuộc sống. Ngược lại, bạn sẽ tìm thấy những câu trả lời ưng ý nhất từ chính những câu hỏi tích cực do tinh thần QBQ mang lại. Bằng cách thực hành theo những gì QBQ hướng dẫn, cuộc sống của bạn sẽ thay đổi ngày một tốt đẹp hơn, và hiệu quả công việc của bạn sẽ ngày càng nâng cao. Hãy trân trọng những gì bạn có và đừng quên điều này: Trách nhiệm cá nhân chính là chìa khóa tháo gỡ mọi khó khăn, rắc rối trong cuộc sống của mỗi chúng ta. - First News *** 1. TINH THẦN TRÁCH NHIỆM Vào một ngày đẹp trời, tôi đến thị trấn Minneapolis và dừng chân tại nhà hàng Rock Bottom để dùng bữa trưa. Do đang vội nên tôi nhanh chóng chọn vài món ăn nhanh có sẵn trên quầy. Vài phút sau, một cậu phục vụ trẻ khệ nệ bê một khay đầy bát đĩa của thực khách đã dùng đi ngang qua, có lẽ cậu ấy thấy trên bàn tôi chưa có món ăn nào nên dừng lại và hỏi tôi: _ Thưa ông, ông đã gọi được món chưa? _ Chưa. Tôi muốn gọi món xà lách trộn và vài chiếc bánh cuộn. - Tôi đáp. _ Tôi sẽ mang lại cho ông, thưa ông. Ông muốn uống gì ạ? _ Cho tôi một lon Coca Cola dành cho người ăn kiêng. _ Ồ tôi xin lỗi, chúng tôi chỉ có Pepsi. Ông dùng tạm Pepsi nhé? _ À, không, cảm ơn. - Tôi mỉm cười đáp lại. - Cho tôi một ly nước chanh vậy. _ Có ngay thưa ông! Rồi cậu ta tiếp tục đi. Tôi không phải đợi chờ lâu, ít phút sau cậu ấy đã trở lại với món xà lách, bánh cuộn và ly nước chanh trên tay. Sau khi cảm ơn cậu phục vụ trẻ, tôi bắt đầu thưởng thức bữa trưa. Nhưng chỉ một thoáng sau bỗng có bàn tay đặt lên bàn tôi một lon Coca ướp lạnh. Đó là loại Coca dành cho người ăn kiêng. _ Ồ, xin cảm ơn. - Tôi hết sức ngạc nhiên. _ Không có chi, thưa ông. - Cậu phục vụ đáp lại với nụ cười thân thiện. _ Tôi cứ ngỡ ở đây không có bán Coca Cola? _ Đúng, thưa ông, chúng tôi không bán Coca Cola. _ Vậy anh lấy lon nước này từ đâu? _ Thưa, từ tiệm tạp hóa ở góc phố. Quả thật, cậu phục vụ đã làm tôi hết sức ngạc nhiên vì phong cách phục vụ khách hàng tận tụy vượt xa các nhân viên khác mà tôi đã từng gặp từ trước đến giờ. Cậu ta đã tạo cho tôi một cảm giác rất hài lòng, tôi liền hỏi cậu ấy với vẻ đầy cảm kích: _ Tôi thấy công việc của anh cũng hết sức bận rộn, vậy làm sao anh có thể đi mua nước về nhanh đến vậy? Anh phục vụ nở một nụ cười và trả lời trước sự ngỡ ngàng của tôi: _ Tôi không đi mua nước cho ông, tôi nhờ người quản lý của tôi mua hộ. Thật là điều khó tưởng tượng! Làm sao một anh phục vụ lại có thể yêu cầu sếp của mình làm điều đó? Đó là sự trao quyền hay còn điều gì khác nữa? Chắc hẳn trong mỗi chúng ta ai cũng thích thú khi tưởng tượng ra cảnh mình trực tiếp đến gặp sếp và nói: "Đi mua giúp tôi một lon Coca dành cho người ăn kiêng". Giả sử bản thân bạn ở vào hoàn cảnh đó thì bạn sẽ xử lý tình huống ấy như thế nào? Lúc ấy đang là giờ cao điểm của bữa trưa và người phục vụ đang rất bận rộn với vô số việc phải làm, nhưng anh ta vẫn cố gắng tiếp nhận các nhu cầu của từng thực khách, mặc dù thật ra trong trường hợp ấy anh cũng không nhất thiết phải để tâm vì nó nằm ngoài thực đơn của nhà hàng. Nhưng anh đã chọn cách thực hiện tất cả những điều anh có thể làm. Anh tận tình và cố gắng hết khả năng để làm thực khách hài lòng. Đó không đơn thuần chỉ là tinh thần trách nhiệm mà còn là thái độ tích cực đối với nghề nghiệp, công việc, trong khi với nhiều nhân viên có thể họ sẽ nghĩ khác, như: _ Tại sao tôi lại phải làm tất cả mọi việc ở đây? _ Ai chịu trách nhiệm đảm đương công việc ở khu vực này thay tôi? _ Khi nào thì quản lý sẽ cung cấp thêm sản phẩm cho chúng tôi? _ Khi nào mới chấm dứt tình trạng thiếu nhân lực để chúng tôi không phải làm việc quá tải? _ Tại sao khách hàng không chịu đọc kỹ thực đơn có những gì trước khi gọi? Cũng dễ hiểu khi phần lớn chúng ta đều dễ dàng sa vào những suy nghĩ như vậy, đặc biệt là những khi chúng ta đang chịu áp lực hay mang tâm trạng buồn bực. Nhưng đây thật sự là những câu hỏi ngớ ngẩn vì chúng chẳng giúp giải quyết được gì. Thậm chí nó còn mang tính tiêu cực rõ ràng: Âín đằng sau những câu hỏi ấy là một đòi hỏi có một ai đó hoặc điều gì đó phải chịu trách nhiệm cho các rắc rối hay những tình huống khó khăn phát sinh. Đó là hình thức thoái lui, lẩn tránh trách nhiệm bản thân được ngụy trang mà thôi. Đáng tiếc, các câu hỏi này luôn là những ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu khi chúng ta rơi vào tâm trạng không vui hay buộc phải đối mặt với thử thách. Thường khi gặp khó khăn, khi phải chịu trách nhiệm về một điều gì đó thì phản ứng đầu tiên của chúng ta là theo hướng tự bảo vệ mình bằng những câu hỏi xem ai sẽ là người chịu lỗi vì những vấn đề mà ta đang gặp phải. Đó là một khuynh hướng tiêu cực. Vào khoảnh khắc những câu hỏi trên xuất hiện trong đầu, chúng ta có một sự chọn lựa: một là chấp nhận chúng như tấm khiên bảo vệ mình, hoặc là chọn cho mình những câu hỏi tích cực hơn - chẳng hạn như: "Tôi có thể làm gì khác nữa?" hay "Tôi có thể làm gì để hỗ trợ cho đồng nghiệp của tôi?". Hãy có những chọn lựa tốt hơn bằng cách đặt ra những câu hỏi tích cực. Đó chính là những gì cậu phục vụ bàn đã làm. Cậu ấy không bỏ qua nhu cầu của khách hàng hay quy đổ trách nhiệm cho người khác, mà thay vào đó, trong khoảnh khắc đó, cậu đã cố gắng làm những gì có thể để thực khách hài lòng nhất. Có thể cậu ấy cũng đã tự đặt cho mình những câu hỏi đầy trách nhiệm: "Trong tình huống này tôi nên làm gì? Làm thế nào để làm hài lòng khách?". Những chọn lựa cho câu trả lời ấy đã tạo nên sự khác biệt rất rõ giữa cậu và các nhân viên khác. Hôm đó khi rời nhà hàng, tôi đã thưởng cho chàng trai trẻ ấy một khoản tiền để bày tỏ sự hài lòng vì cung cách phục vụ tận tụy của cậu. Tôi nghĩ bất kỳ ai khác cũng sẽ làm như tôi. Vài tháng sau, tôi có dịp tôi trở lại nhà hàng ấy và hỏi thăm về người phục vụ mà tôi từng có ấn tượng rất tốt, nhưng tôi không gặp cậu. Hỏi những nhân viên ở đấy thì được biết cậu đã không còn làm phục vụ ở đây nữa. Niềm hân hoan trong tôi lập tức tan biến, tôi cảm thấy thật ngỡ ngàng. Trước vẻ ngạc nhiên của tôi, người phục vụ nhìn tôi và dè dặt hỏi: _Thưa ông, tôi có thể giúp gì cho ông? Quả thực tôi không thể tin rằng nhà hàng đã để người nhân viên tốt nhất của mình ra đi. Tôi cũng muốn biết nguyên do của sự ra đi đột ngột đó, nên gặng hỏi cô phục vụ: _ Sao anh ấy lại bỏ việc ở đây? _ Ồ không thưa ông, Jacob đã được thăng chức quản lý rồi. Thì ra là vậy. Tôi đã cảm thấy hết sức vui mừng khi nghe câu nói ấy. Cậu phục vụ trẻ tuổi hoàn toàn xứng đáng được thăng tiến. Chính cách suy nghĩ của cậu ấy về trách nhiệm cá nhân đã mang lại thành quả đó. Tuy nhiên, ngoài sự thăng tiến thì chiến thắng vẻ vang hơn cả trong thành công của cậu ấy chính là cách cậu cảm nhận về trách nhiệm bản thân để có những chọn lựa đúng đắn. Mời các bạn đón đọc QBQ! - Tư Duy Thông Minh của tác giả John G. Miller.
Những Triệu Phú Thầm Lặng
Từ xưa tới nay, định nghĩa “triệu phú” trong mắt mọi người là những người sở hữu những ngôi biệt thự, nhà cao cửa rộng, những người có chức vị và có chỗ đứng trong xã hội, được mọi người biết tới và kính nể. Tuy nhiên, Rusly Abdulla, sau một thời gian dài nghiên cứu về những “triệu phú thầm lặng” đã cho chúng ta biết tới một khái niệm khác với từ “triệu phú”. Những người với những hoàn cảnh éo le, khó khăn, bắt đầu với hai bàn tay trắng để từng bước, từng bước tạo nên sự nghiệp. Họ là những người không khoa trương, không ham danh vọng, luôn chỉ khiêm tốn, âm thầm dựng nên cơ nghiệp. Mỗi chương trong cuốn sách là những ví dụ, những trường hợp có thực mà Rusly Abdullah đã dày công nghiên cứu từ nhiều năm, từ đó đúc rút ra những kinh nghiệm, những tố chất đáng quý của những người tuy giàu có nhưng luôn khiêm tốn, âm thầm lặng lẽ. *** Những triệu phú thầm lặng Theo bạn, những người bán hàng tại các khu chợ nhỏ lẻ, những người buôn rau, hoa quả hay người bán hàng rong đêm có thu nhập khoảng bao nhiêu? Bạn nghĩ họ đang sở hữu nguồn thu nhập rất lớn hay chỉ là “tầng lớp ở đáy xã hội” kiếm sống qua ngày? Phần đông chúng ta đều không thể ngờ được rằng những con người ấy lại đang nắm trong tay những khối tài sản đáng mơ ước nhưng hiếm người biết đến sự giàu có của họ bởi họ không sống một cuộc sống xa hoa, hào nhoáng, không nổi tiếng hay được báo giới cũng như mọi người ca tụng. Thay vào đó, họ đã phải làm việc chăm chỉ, tích góp từng đồng từ mồ hôi và nước mắt của chính mình. Họ chính là NHỮNG TRIỆU PHÚ THẦM LẶNG. Bằng lối hành văn mang đậm chất Á Đông, không bị sa đà hay ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư duy của phương Tây, tác giả đã đưa bước độc giả đến với những tấm gương, ví dụ điển hình về những con người đang ngày đêm âm thầm lao động không ngừng nghỉ, bươn trải, vượt lên số phận, dù hoàn cảnh có éo le, nghiệt ngã. Mỗi câu chuyện, mỗi mảnh đời trong cuốn sách là những hoàn cảnh hoàn toàn thực tế, được chính tác giả “tận mục sở thị”, ghi chép lại và chuyển đến bạn đọc. Mỗi người họ đều có xuất thân khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều có chung một đặc điểm, đó là họ luôn lạc quan, yêu đời, biết phấn đấu đi lên dù gặp phải bất kỳ hoàn cảnh nào. Dưới ngòi bút đầy tính nhân văn của tiến sỹ Rusly Abdullah hay được biết đến với cái tên thân mật Bếp trưởng Li, họ hiện lên như những tấm gương biết vượt khó, những người lao động chân chính, biết sẻ chia với những mảnh đời có cùng cảnh ngộ. Họ đại diện cho một lớp người điển hình không chỉ ở Malaysia mà còn ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Thông qua những tấm gương trong cuốn sách, tác giả muốn bạn đọc có được thêm động lực, nghị lực, ý chí vươn lên, vượt lên số phận khó khăn để “đổi đời”. Alpha Books trân trọng gửi đến độc giả cuốn sách này! Tháng 12 năm 2013 công ty cổ phần sách alpha *** Rusly Abdullah hay còn được biết đến với cái tên Chef Li đã nghiên cứu về những triệu phú chợ đêm trong 22 năm. *** “Trở thành một triệu phú thầm lặng còn ý nghĩa hơn là một triệu phú nổi tiếng, gây xôn xao dư luận.” _ Bếp trưởng Li Rất nhiều người dân đã chờ đợi một cuốn sách tạo động lực về kinh doanh phản ánh được các giá trị bản địa và dựa trên những thành công vang dội của những doanh nhân trong nước, những người đã thành danh thông qua sự đổi mới và sáng tạo của riêng mình. Những cuốn sách như thế này thực sự cần thiết bởi hiện nay, chúng ta đang bị ngập chìm trong các cuốn sách của phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Do đó, suy nghĩ của chúng ta được lập trình mặc định rằng những phương thức của họ tốt hơn, tới mức gần như chúng ta luôn chọn chúng để tham khảo. Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi lối tư duy tiêu cực này và công nhận những giá trị cũng như hình mẫu bản địa của mình. Trong một khoảng thời gian dài, chúng ta đã mắc phải sai lầm khi cho rằng những ý tưởng và khái niệm phi-phương Tây đều không đáng được xem xét. Chúng ta có xu hướng duy trì quá mức những giá trị này đến độ vô tình tự coi bản thân là hạ đẳng. Ví dụ, ngành công nghiệp điện ảnh và bóng đá của chúng ta không thể cạnh tranh được với những đối thủ nước ngoài ngay cả khi có được sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương. Trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm, đồ ăn nhanh, Mỹ rõ ràng đã chinh phục tuyệt đối được khẩu vị của người Malaysia. Thực tế, trên thị trường cũng có những cuốn sách của các tác giả trong nước, nhưng những khái niệm của họ vẫn dựa trên triết lý phương Tây và nội dung trong đó hoàn toàn dựa vào các tính chất cũng như giá trị của phương Tây. Tôi không có ý kỳ thị phương Tây vì tôi cũng đã tham dự rất nhiều hội thảo cũng như đọc sách phương Tây và tôi đánh giá rất cao những quan điểm tích cực của họ. Tôi không đổ lỗi cho những người phương Tây mà chỉ đơn thuần thể hiện sự bất mãn với xu hướng “sính ngoại” không lành mạnh mà đánh mất các giá trị và sự liêm chính của riêng mình. Kết quả, chúng ta bị thoái hóa, thiếu tự tin và coi thường mọi thứ đến từ chính xã hội của chúng ta. Những triệu phú thầm lặng Nỗi ám ảnh về những nhân vật xuất chúng như Bill Gates, Donald Trump, Sony Morita và Walt Disney đã khiến chúng ta bị che mắt trước cuộc tranh đấu của các doanh nhân đầy tham vọng, “kinh doanh ở sân sau”, dọc theo những tuyến đường tấp nập và các chợ đêm với sự kiên cường và mong muốn thành công cháy bỏng. Họ không quan tâm đến Bill Gates, Henry Ford, hay Donald Trump. Đối với họ, bản thân quan trọng hơn cả. Họ biết điểm mạnh của mình và biết cách bảo vệ cuộc đua và giá trị bản địa. Trong khi chúng ta đang nỗ lực khám phá những nguyên tắc cơ bản của sự thịnh vượng, thì cùng lúc đó, những người buôn bán nhỏ đã tạo ra tài sản theo những cách thầm lặng và khiêm nhường. Họ là những công dân kiên trì, trở thành triệu phú mà không hề nhận ra điều đó và không ai chú ý đến họ. Vâng, họ là những TRIỆU PHÚ THẦM LẶNG – những người đã thành công qua việc học hỏi cách những chú rùa đẻ hàng trăm quả trứng, che chở chúng bằng nước mắt và âm thầm rời khỏi tổ. Họ không phải là con gà đẻ duy nhất một quả trứng vàng và gây ồn ào cả làng. Nhóm người này không mang trong mình sự quyến rũ, quyền lực và sự nổi tiếng, những thứ vốn thường gắn liền với sự giàu có. Ngay cả hàng xóm thậm chí cũng không biết tình trạng kinh tế của họ. Họ không được liệt vào danh sách 100 người giàu nhất Malaysia bởi họ đã thoát khỏi sự chú ý của giới báo chí. Công ty của họ không được niêm yết trên thị trường chứng khoán mà chỉ xuất hiện trong đăng ký công ty (Registrar of Company – ROC) hoặc đăng ký kinh doanh (Registrar of Business – ROB). Trở thành một triệu phú “không được công nhận” có ý nghĩa hơn nhiều một triệu phú nổi tiếng. Tôi sẽ không nói cho bạn biết lý do, mà để bạn tự đánh giá. Sự thoả mãn khi đạt đến thành công là cảm nhận rất riêng của mỗi người. Chúng ta ai cũng có ước mơ và những trải nghiệm riêng. Bạn là người biết rõ hơn ai hết về những ước mơ của riêng mình. Hãy hỏi những người thành công, những người nổi tiếng và những người có sức lôi cuốn, cuộc sống của họ tươi đẹp hơn trước hay sau khi họ trở thành triệu phú nổi tiếng. Là những triệu phú thầm lặng, bạn có thể tiếp tục sự nghiệp kinh doanh hàng ngày một cách âm thầm mà không bị ai quấy rầy hay làm phiền. Cuốn sách bạn đang cầm trên tay sẽ mang lại cho bạn một cái nhìn về thế giới từ góc độ hoàn toàn khác. Hãy mở to đôi mắt và quan sát thế giới từ những góc nhìn đa chiều. Đừng hạn chế tầm nhìn của chúng ta quanh trình độ học vấn và quan điểm của người phương Tây. Chúng ta phải tự hổ thẹn khi ăn bánh burger, bít tết và mỳ Ý nhưng lại thua xa những người hàng xóm thầm lặng và khiêm tốn, những người dù chỉ có trình độ học vấn giới hạn, luôn vui vẻ ăncencaluk (tôm muối) và pekasam (cá muối), nhưng rồi một ngày bất chợt lái chiếc Mercedes Benz đời mới nhất về nhà. Anh ấy thực sự là một TRIỆU PHÚ THẦM LẶNG! Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ đáp ứng được “khẩu vị” của các bạn về một cuốn sách truyền động lực giản đơn, đậm chất văn hoá và giá trị bản địa, với lối viết không quá hàn lâm trúc trắc. Đó là lý do tôi tránh sử dụng các biểu đồ, bản kế hoạch và những lý thuyết, khái niệm sáo rỗng và quá học thuật và làm mất đi ý định ban đầu của tôi khi bắt tay vào viết cuốn sách này. CHÚC CÁC BẠN ĐỌC SÁCH VUI VẺ!!! Mời các bạn đón đọc Những Triệu Phú Thầm Lặng của tác giả Rusly Abdullah.
Chó Dẫn Đường - Đại Gia Và Nhân Quả
Trong ngày quyến luyến chia tay với Việt Nam – Mikhail Samarsky đã chính thức ra mắt quyển sách thứ 3 được yêu thích nhất ở Nga xuất bản tại Việt Nam. Bạn đọc Việt Nam đã rất thân quen với chú chó dễ thương Trison, chú chó dẫn đường cho người khiếm thị thông qua bộ sách “Cầu Vồng Trong Đêm” của nhà văn nhỏ tuổi được mệnh danh là thần đồng văn học đến từ nước Nga - Mikhail Samarsky. Câu chuyện lần này không xoay quanh cách chú chó và người khiếm thị, mà xoay quanh việc chú chó Trison suýt bị…giết chết! Câu chuyện cực kỳ hấp dẫn và lôi cuốn ngay từ những dòng đầu bởi chú chó Trison nhỏ bé và vì tác giả vô cùng thông minh đã viết nên những câu thoại cho Trison cực kỳ hấp dẫn, lôi cuốn và cả vui nhộn. Mikhail Samarsky với văn phong quen thuộc: trong trẻo, hồn nhiên, tươi sáng, nhưng cũng không kém phần chững chạc trong tư duy logic và bay bổng trong tư duy hình tượng. Nếu Cầu vồng trong đêm là kết quả của sự xử lý tinh tế nguồn tư liệu thực tế dồi dào mà Mikhail Samarsky đã dày công sưu tập cộng với các chi tiết hư cấu được đưa vào khá nhuần nhuyễn thì ở Chó dẫn đường cho đại gia, ngoài những yếu tố trên, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã góp phần quyết định làm nên thành công cho tác phẩm. Những tình tiết ly kỳ, những chi tiết hấp dẫn đắt giá không thể có được trong bất cứ tư liệu thực tế nào, chỉ có thể là sản phẩm của năng lực tưởng tượng phi thường mà thôi. Tưởng tượng đấy, hư cấu đấy, nhưng rất sinh động, rất đời, rất thực. Và quan trọng nhất – rất nhân ái, nhân văn, nhân bản. Một con chó bị lừa đưa ra khỏi Trường đào tạo chó dẫn đường ư? Bình thường! Nhưng mục đích cú lừa này là gì? Để lấy buồng gan của nó cấy ghép cho con chó cưng của một đại gia. Khác thường! Đại gia nọ vô cùng độc đoán, hung dữ, nhưng bà vợ của ông ta là người nhân hậu, đã tìm cách cứu thoát con chó vô tội, dù biết rằng mình có thể sẽ phải đối đầu với ông chồng “bạo chúa”. Đó là chuyện bình thường. Nhưng phương cách cứu chó của bà ấy mới thực sự khác thường . Khi “âm mưu lừa dối” bị bại lộ, trong cơn tức giận, đại gia “bạo chúa” nọ đã ra lệnh bắn chết con chó. Chuyện không bình thường, vì con chó chẳng có tội lỗi gì trong “âm mưu” này cả. Nhưng người thực thi mệnh lệnh đã tìm cách qua mặt ông chủ để cứu sống con chó. Âu cũng chuyện bình thường, vì đó là “mệnh lệnh” của lương tâm. Nhưng bước ngoặt khác thường lớn nhất là khi vị đại gia nọ gặp tai nạn, bị mù, chính con chó mà ông ta từng ra lệnh giết chết lại trở thành chó dẫn đường cho ông, trở thành một người bạn bốn chân trung thành và thân thiết nhất của ông. Lời sám hối của vị đại gia ở cuối sách cho thấy lòng nhân luôn tiềm ẩn trong mỗi con người, dù có khi họ độc ác, tàn nhẫn đến đâu đi nữa. Chính vì vậy, Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả được độc giả và giới phê bình văn học Nga đánh giá cao. Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả không chỉ là một cuốn truyện hành động đầy gay cấn, hấp dẫn, với những pha thoát hiểm ngoạn mục trong đường tơ kẽ tóc mà còn là một câu chuyện tình người, một lời cảnh tỉnh đối với những ai đã lỡ đánh mất lòng nhân chớ nên nhắm mắt chạy theo đồng tiền và niềm vui vật chất mà quên mất rằng sống trên đời cần quan tâm giúp đỡ cộng đồng, giúp đỡ những số phận đáng thương, bất hạnh. Gieo nhân nào ắt gặt quả ấy. *** Lời khen tặng dành cho tác phẩm “Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả”:  “Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả là một tuyệt tác. Tác giả Mikhail Samarsky là một con người đặc biệt. Tài năng văn chương và ý thức thiện nguyện phục vụ cộng đồng người khiếm thị của Mikhail rất đáng khâm phục. Tác phẩm của Mikhail không chỉ thuyết phục tuyệt đối giới phê bình văn học mà còn đánh động được con tim người đọc. Đó chính là phần thưởng lớn nhất cho người sáng tác.” - Nghệ sĩ nhân dân Philipp Kirkorov “Một quyển sách tuyệt vời! Một món quà vô giá cho những ai biết thương yêu, quý mến những “người bạn bốn chân” của loài người. Tác phẩm ngập tràn nhiệt huyết và lòng yêu thương. Mikhail Samarsky – một tâm hồn nhân bản, một tài năng đang phát triển, thăng hoa.” Nhà văn công huân A. Y. Skazhinsky,P. Chủ tịch hội nhà văn LB Nga, Ủy viên Hội nhà báo LB Nga. “Một tác phẩm giàu kịch tính và đầy chất nhân văn. Tác giả ở tuổi vị thành niên mà viết được như vậy quả là rất đáng khen, rất đáng trân trọng.” - Hội viên Hội nhà văn Nga, Ủy viên Hội nhà báo quốc tế, Nhà văn Vadim Kozlov “Đọc cuốn sách Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả thật hứng thú. Ta cười đó, rồi có khi khóc đó. Thật nhiều cung bậc cảm xúc. Nhưng điều dễ nhận thấy nhất trong tác phẩm là tấm lòng nhân ái của tác giả nhỏ tuổi Mikhail Samarsky dành cho chó dẫn đường, dành cho người khiếm thị và dành cho tất cả mọi người.” -Nghệ sĩ công huân Tachiana Makarova “Là người khiếm thị, tôi thưởng thức tác phẩm Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả qua sách nói. Đó là cuốn sách hay nhất mà tôi từng được nghe (và từng được đọc bằng mắt trước đây, khi tôi chưa bị mù). Xin cảm ơn tác giả Mikhail Samarsky. -Một độc giả khiếm thị   ***   Ngay cả trong những cơn ác mộng kinh hoàng nhất tôi cũng chưa bao giờ nằm mơ thấy những điều đáng sợ đến như vậy. Giả dụ bây giờ tôi thách các bạn đoán xem lúc này tôi đang nằm ở đâu, chắc chẳng ai đoán ra. Ôi, tôi chủ quan quá, có lẽ cũng sẽ có người đoán đúng, rằng tôi đang nằm trên bàn mổ - quả thực, loài chó thỉnh thoảng cũng mắc phải những căn bệnh mà muốn điều trị dứt điểm, đôi khi cũng cần đến sự can thiệp bằng phẫu thuật. Nhưng nếu các bạn nghĩ rằng tôi mắc phải căn bệnh hiểm nghèo nào đó thì quả là lầm to. Tôi khỏe như bò mộng. Hay như lời một bài hát nào đó, tôi “khỏe bằng hai con bò cộng lại”. Không phải tự tôi thích nằm ườn ra trên bàn mổ. Thực ra, gọi là “nằm ườn” thì chẳng mấy chính xác, vì tôi bị trói chặt đến nỗi muốn vẫy tai còn khó chứ nói chi đến chuyện cử động bốn chân và cả thân mình. Tôi rầu nẫu ruột khi viết về chuyện này, thật đấy, rất buồn và rất đáng sợ: có ai đó đang cần đến buồng gan của tôi. Ôi, ngày trước tôi từng ước ao được hưởng cảnh hưu trí an nhàn sau khi thực hiện xong bổn phận của một con chó dẫn đường, nào có bao giờ nghĩ rằng đời mình sẽ phải kết thúc một cách đớn đau và… vô bổ dưới lưỡi dao mổ của một viên bác sĩ thú y nào đó. Ôi, tức thật, tức thật! Tức muốn chết đi được! Giá chi các bạn biết được rằng trong căn phòng mổ chật hẹp này nồng nặc những thứ mùi vô cùng khó chịu – nào mùi ê-te, mùi thuốc khử trùng, mùi từ những thiết bị y tế quái quỷ gì đó… Những mùi ấy có thể giết chết tôi trước khi ông bác sĩ thú y kịp rạch mũi dao tử thần vào cái hông của tôi. Tôi nằm đó, trên bàn mổ, và cuộc đời tôi diễu qua trước mắt như một cuốn phim chiếu chậm. Qua những cuốn sách trước đây của tôi, hẳn các bạn biết, tôi đã hút chết biết bao lần. Bọn trộm chó đã nhét tôi vào cốp xe hơi rồi sau đó giam trong một nhà kho tối tăm, ẩm thấp. Một đám trẻ bắn tôi bằng ná cao su, may mà không vỡ đầu, lòi mắt. Rồi đám trẻ bụi đời suýt xả thịt tôi làm món nướng xiên que. Thậm chí tôi còn bị săn lùng bằng súng đạn ria. Mỗi lần như vậy, tôi đều may mắn thoát chết. Chứng tỏ, số tôi hên. Nhưng chỉ hên được đến thế thôi, còn bây giờ là… chấm hết. Ông bác sĩ thú y bảo rằng chỉ khoảng 15 – 20 phút nữa là ông ấy sẽ bắt tay thực hiện công việc. Hừm, “công việc”! “Giết chóc” thì có chứ “công việc” cái nỗi gì! Chỉ được cái khéo đánh tráo khái niệm! Thử nghĩ xem, có thể gọi là “công việc” được hay không khi mà người ta mổ bụng, moi gan một con chó khỏe mạnh bình thường, có khả năng lao động? Có thể điên lên được với những thứ gọi là “công việc” như vậy. Nhưng thôi, biết làm sao bây giờ? Thôi thì còn chút ít thời gian, nếu các bạn muốn, tôi xin tranh thủ kể các bạn nghe chuyện gì đã xảy ra và tại sao tôi lại bị trói cả bốn chân quẳng lên cái bàn mổ chết tiệt này. Lần gần đây nhất tôi phục vụ ông Vladimir Petrovich, nhân viên cứu hộ thuộc Bộ các tình trạng khẩn cấp. Ông bị mù cả hai mắt trong một lần tham gia cứu nạn. Nhưng rồi sau đó ít lâu, các đồng nghiệp của ông quyên tiền đưa ông sang Đức làm phẫu thuật mắt và kết quả là một con mắt đã phục hồi thị lực. Tôi được trả về trường đào tạo chó dẫn đường. Sau đó, tôi lại được giao cho một chàng thanh niên mù. Ở trong nhà chàng trai này, tôi cảm thấy không thích thú gì cả, thậm chí còn linh cảm sẽ xảy ra chuyện gì đó không ổn. Khi tham gia huấn luyện cùng với tôi ở trường, anh ta được gọi tên là Vichia, vậy mà khi vừa về nhà, anh ta lại có tên là Koschia. Tôi nghe anh ta gọi điện thoại cho ai đó, nói: “Tao đây, Koschia đây, đến ngay đi, có hàng rồi”. Sau đó anh ta tháo cặp kính đen ra, ném vào xó nhà, ngồi phịch xuống ghế bành, cáu kỉnh lẩm bẩm: - Đóng kịch bấy nhiêu đó đủ rồi. Chán quá đi thôi. Tôi nhìn anh ta và hiểu ngay rằng đó là người sáng mắt chứ chẳng phải mù lòa gì cả. Vài phút sau, anh ta quay lại, nhìn tôi trừng trừng rồi quát: - Nhìn cái gì thế? Người ta sắp đến bắt mày đi đấy. Chuyện gì thế này? Hóa ra anh ta dùng chữ “hàng” để gọi tôi. Ối cha cha!!! Từ đáy con tim, tôi cảm nhận rằng chuyện này lành ít dữ nhiều. Người ta sắp đến bắt tôi đưa đi đâu? Có nghĩa, họ đâu có cần đến chó dẫn đường? Anh chàng Vichia-Koschia này đích thực là người sáng mắt. Nhưng từ sâu thẳm lòng mình, tôi vẫn nuôi chút hi vọng là người ta sẽ đưa tôi đến với một người mù nào đó. Tôi cũng thoáng nghĩ, hay là người ta sẽ đưa tôi ra nước ngoài? Nhưng trường tôi là trường quốc gia, chỉ đào tạo chó dẫn đường cho công dân Nga mà thôi. Tuy nhiên, khi những nhân vật mới xuất hiện trong căn hộ, mọi niềm hi vọng của tôi đều tan biến hết. Giá như các bạn được nhìn thấy những bộ mặt dữ dằn ấy. Đúng là những bộ mặt thú dữ. Nắm đấm của chúng còn to hơn cả cái đầu chó của tôi. Một gã đặt tôi nằm ngửa trên lưng và đưa tay sờ nắn gì đó ở vùng bụng của tôi rồi hỏi anh chàng Vichia-Koschia: - Nó mạnh khỏe bình thường chứ? Không bị bệnh gì chứ? - Tất nhiên là nó mạnh khỏe. Sản phẩm của Trường đào tạo chó dẫn đường quốc gia mà lại. Ở trường ấy, đời nào người ta lại đi nuôi nấng, đào tạo thứ chó bệnh? Nói cho mà biết, ở trường còn có cả bệnh viện thú y. Việc tiêm chủng được thực hiện định kỳ, đều đặn theo lịch. Tóm lại, việc chăm sóc sức khỏe cho lũ chó ở đấy luôn được thực hiện trên tầm cao quốc tế. - Giấy tờ tùy thân của nó đâu? - Đây, có đây, đầy đủ. – Vichia-Koschia đưa ra các loại giấy tờ. - Tốt! – Gã trai có bộ mặt hầm hố xoa tay thỏa mãn. – Quan trọng nhất là buồng gan của nó còn xài được, chứ nếu không, sếp sẽ xé xác chúng ta ra làm trăm mảnh. – Rồi hắn quay sang gã trai đi cùng, nói: - Nào, chuẩn bị lồng rọ đi. Chỉ phút sau, tôi đã phải ngồi trong một cái lồng to vật, bản thân chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả. Ông sếp nào của họ mà dữ dằn đến thế? Tại sao ông ấy lại cần đến buồng gan của tôi? Ông ấy là người thích xơi món lạ hay sao? Ôi! Bất giác tôi cảm thấy đau nhói bên hông. Nếu ông ấy thường xuyên xơi món gan chó thì không biết đã có bao nhiêu con chó oan mạng. Lạ thật đấy. Đúng là đồ quái vật! Lát sau, tôi, giống như một con báo con beo man dã nào đó, bị nhốt trong cái lồng to tướng và chắc chắn, được người ta đưa ra ngoài sân rồi tống lên một chiếc xe hơi 16 chỗ đã dẹp bớt những hàng ghế sau. Thời gian di chuyển rất lâu, không phải vì đường xa, mà vì kẹt xe liên tục. Tôi ngủ gà ngủ gật, nhưng vẫn nghe được câu chuyện của những tên “lính” áp tải. - Ông chủ của chúng ta quả là một người cực quái. Nhiều lúc cứ như trẻ con. Thật đấy. – Gã lái xe nói. - Tại sao mày nói thế? - Thì đấy. Ông ấy cứ thích phải có được con chó Labrador to vật này cơ. Phải chi cứ chọn lấy một chú cún con, rồi nuôi dạy từ từ, tùy thích. - Ôi, mày nói gì vậy? – Gã hộ pháp phản đối. – Con chó của ông ấy đang gặp vấn đề gì đó. Mọi chuyện không đơn giản như mày nghĩ đâu. - Ôi dào, - một gã khác phẩy tay, - chó với chẳng má. Một khi giàu có thì người ta có thể nghĩ ra đủ mọi chuyện điên. - Nhìn chung thì mày nói đúng đấy, - gã tài xế gật đầu biểu đồng tình. – Nếu không có tiền, bố bảo cũng chẳng ai dám làm những trò điên như vậy. Một ca phẫu thuật như thế này tốn tiền tấn chứ ít sao, tao biết chứ. - Thôi đi cha nội ơi, việc quái gì mà cứ phải đếm tiền trong túi người khác. – Một tên trong bọn cười phá. - Vấn đề không phải là tiền. – Một tên khác chen vào. – Có ai thương xót con chó này không? – Hắn hất hàm về phía tôi. – Lát nữa đây người ta sẽ rạch bụng một con chó vô tội, và thế là xong đời nó… Tôi nghe những lời ấy mà giật mình. Nhưng cho đến lúc đó tôi vẫn chưa thể nào hình dung ra được người ta cần cái gì ở tôi. Và bỗng nhiên một trong những kẻ áp giải tôi tiết lộ bí mật: - Thật đáng tiếc nếu lá gan của nó không được cơ thể con chó của ông chủ chấp nhận. Chẳng chắc gì con chó của ông ấy sống được với lá gan của con chó này. - Ghê nhỉ, - tay tài xế huýt gió ngạc nhiên, - vậy hóa ra chẳng có gì bảo đảm thành công cả sao? - Tất nhiên là chẳng có gì bảo đảm cả! - Một gã trong bọn gật đầu. - Ông bác sĩ nói rồi - năm mươi/ năm mươi. Việc cấy ghép gan thì ông ấy vẫn tiến hành, nhưng không dám hứa chắc con chó của ông chủ sẽ sống được. - Bác sĩ gì mà lạ thế! Như vậy là lừa đảo. – Gã tài xế tỏ vẻ bất bình. - Tại sao mày nói vậy? - Năm mươi / năm mươi là thế quái nào? Chẳng có chút trách nhiệm nào về lời nói của mình cả. Chẳng khác gì dự báo thời tiết theo kiểu “có thể sẽ mưa, cũng có thể sẽ nắng”. Dự đoán như thế thì ai mà chẳng dự đoán được. Trong trường hợp này cũng vậy. Cả bọn cười ồ. Nhưng tôi bắt đầu hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chuyện là sao? Phải chăng một tay nhà giàu nào đó muốn lấy buồng gan của tôi cấy ghép cho con chó đang bị bệnh của mình hòng cứu sống nó. Thật nhân đức làm sao! Cứu một con chó bằng cách tống tiễn một con chó khác qua thế giới bên kia. Nhưng điều đáng buồn nhất là thậm chí bác sĩ cũng không xác quyết là con chó nọ sẽ sống nổi sau khi được cấy ghép gan. Và họ đã dối gạt nhà trường bằng cách nào để được nhận tôi về? Khi đến nơi, người ta chẳng cho tôi ra khỏi lồng. Ông bác sĩ chích cho tôi một mũi thuốc gì đó khiến đầu óc tôi trở nên lơ mơ, lơ mơ, nhìn thấy mọi sự việc xung quanh diễn ra y như trong một cuốn phim chiếu chậm. Tóm lại tôi đã kịp kể các bạn nghe tại sao tôi lại có mặt trên bàn mổ. Tôi thầm từ biệt cuộc đời, thầm gửi lời tạ lỗi đến tất cả những ai mà tôi vô tình xúc phạm, sủa oan. Các bạn biết không, tôi tiếc cuộc sống này quá, chỉ muốn tru lên như chó sói. Xin đừng nghĩ là tôi đớn hèn, tham sống sợ chết. Không, tôi đã chấp nhận số phận. Chỉ buồn là phải chết một cách vô nghĩa và chết như một con chó vô danh… Ôi!!! Khoan! Hình như có một cơ hội dành cho tôi chăng? Một người đàn ông và một phụ nữ bước vào phòng mổ và nhìn ngắm tôi một cách chăm chú. Người đàn ông chính là ông bác sĩ, còn người phụ nữ là… là ai tôi không biết. Nhưng trước hết hãy nghe họ nói gì với nhau: - Bác sĩ Anton, nếu không có bất cứ sự bảo đảm thành công nào thì liệu ca phẫu thuật này có ý nghĩa gì? – Người phụ nữ vung tay, hỏi giọng cáu gắt. – Nuôi một con chó khác có phải hơn không? - Ôi, thưa bà Olga Semionovna, tôi cũng đã đề nghị như vậy với ông Alexander Mikhailovich rồi đấy ạ. - Rồi ông ấy nói sao? – Bà Olga nhìn chăm chú vào mắt ông bác sĩ. - Phản đối thẳng thừng. – Ông bác sĩ chém bàn tay vào không khí. – Ông ấy bảo: “Tôi không biết, ông làm gì thì làm nhưng phải cứu bằng được con chó Grin của tôi”. Ông ấy dứt khoát không chịu nghe bất cứ ý kiến nào khác. - Nếu sau khi được ghép gan, con Grin vẫn không sống nổi thì sao? - Có Chúa biết được chuyện gì sẽ xảy ra, - ông bác sĩ nhún vai. – Nếu bà muốn, tôi xin nói thật: cơ hội được tiếp tục sống của con chó Grin là vô cùng thấp. - Nghe này, nếu… - bà Olga ngừng lời, đắn đo một lát rồi bật ra: - Nếu ta biến con chó này thành con Grin thì sao? - Như thế nghĩa là thế nào? – Ông bác sĩ há hốc mồm. - Rất đơn giản! – Bà Olga xoa xoa hai bàn tay vào nhau. – Một con chó cần bao nhiêu thời gian nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sau phẫu thuật cấy ghép gan? - Bà nghĩ ra điều gì thế? – Ông bác sĩ tỏ ra lo sợ. - Chúng ta có thể giấu nó đi trong khoảng một tháng không? – Bà Olga hỏi. - Trước hết bà hãy cho biết, bà đã nghĩ ra kế gì? – Ông bác sĩ vẫn khăng khăng ý mình. - Tóm lại là thế này, - bà Olga nói dứt khoát: - Chúng ta sẽ hủy bỏ ca mổ! Ông bác sĩ giật mình, xua tay lia lịa. - Ối, ối, thưa bà Olga Semionovna, làm sao có thể như vậy được? Ông Alexander Mikhailovich lại chẳng moi buồng gan của tôi ra làm món pa-tê chứ ông ấy tha cho à? Không, không được đâu. Tôi không dám chơi trò mạo hiểm ấy đâu. - Bao nhiêu? – Bà Olga sầm mặt hỏi. - “Bao nhiêu” gì cơ? – Ông bác sĩ nhíu mày, co rúm người. - Ông cần bao nhiêu tiền cho sự im lặng của mình? – Bà Olga rít lên. - Thưa bà Olga Semionovna, xin bà tha cho tôi đi ạ. – Ông bác sĩ lập cập van lơn. – Xin bà hiểu cho... - Yên tâm đi, bác sĩ Anton, tôi sẽ lãnh nhận mọi hậu quả về mình nếu xảy ra điều tồi tệ. Ngày mai ông sẽ nhận một triệu rúp! - Vậy rồi chúng ta sẽ làm gì với con Grin? – Ông bác sĩ run rẩy hỏi. - Thì ông cứ hãy cứu chữa cho nó! – Bà Olga trả lời. – Trong những trường hợp tương tự, người ta sẽ phải làm gì với con chó bệnh? - Thông thường thì người ta chỉ còn cách đem chôn nó đi mà thôi. – Bác sĩ thở dài nặng nhọc. - Không! – Bà Olga nói dứt khoát. – Chúng ta sẽ không làm điều ác đó. Ông hãy cứ cứu chữa, tiêm thuốc giảm đau cho nó. Vạn bất đắc dĩ nếu nó không qua khỏi thì hãy để nó chết bằng cái chết tự nhiên. Tuyệt đối không được đem chôn khi nó chưa chết hẳn. Tôi không cho phép làm điều đó! - Tôi hiểu, – ông bác sĩ gật đầu. – Như vậy là mọi chuyện đã rõ. - Nó còn cầm cự được bao lâu nữa? – Bà Olga hỏi. - Nhiều nhất là một tuần, - bác sĩ trả lời, - nhưng chắc chỉ một hai ngày là cùng. Ông bác sĩ ngồi phịch xuống cái ghế giữa phòng, hai tay ôm đầu. - Bây giờ thế này, - bà Olga nói giọng ra lệnh, – ông sẽ nói với ông Alexander Mikhailovich rằng ca phẫu thuật đã thành công, nhưng hiện tại không được làm phiền con chó, phải để cho nó nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Sau đó, mọi chuyện hãy đẩy hết qua cho tôi. Hãy nói rằng bà Olga đã đưa con chó Grin ra nhà nghỉ ngoại ô cho nó dưỡng bệnh, nghỉ ngơi sau ca mổ cấy ghép. Những gì tiếp theo hãy để mặc tôi ứng phó với ông Alexander Mikhailovich. Tôi sẽ tìm cách giải thích hợp lý nhất. Còn bây giờ, ông hãy cải trang con chó này – bà Olga chỉ tay về phía tôi – thành một con chó “hậu phẫu”, băng bó kín mít, bôi máu me lên mình nó thật nhiều, khiến ngay mẹ đẻ của nó cũng không nhận ra. Tôi sẽ trở lại sau hai hoặc ba tiếng đồng hồ. Cứ thế mà làm, không được rút lui đâu đấy. Hiểu chưa? - Thưa bà Olga Semionovna kính mến, nói thực lòng, tôi rất sợ. – Ông bác sĩ run rẩy nói. - Ông sợ ai? – Bà Olga cười khẩy. - Tôi sợ ông Alexander Mikhailovich. – Bác sĩ Anton thì thào đáp. - Điều đó cũng tốt, thậm chí rất tốt! – Bà Olga gật đầu. – Nhưng trong trường hợp này, tốt hơn hết ông phải sợ tôi. Chớ có mà làm hỏng chuyện! – Bà Olga đưa ngón tay điểm mặt, hăm dọa. - Có chết tôi cũng không dám, thưa bà! – Ông bác sĩ run run thề thốt. – Tôi còn có lối thoát nào nữa đâu. - Giỏi. Biết thế là tốt! – Bà Olga khen một câu rồi tiến về phía cửa, nhưng ở ngay ngưỡng cửa, bà ấy quay ngoắt lại hỏi: - Hi vọng, trong vòng một tháng, chúng ta có thể biến con chó này thành con Grin chứ? Làm được không? - Làm được! – Ông bác sĩ trả lời, giọng đã có phần tự tin. – Hai con khá giống nhau. Thực ra cũng cần “cải trang” lại đôi chút, tô màu mấy vệt lông cho giống, cắt xẻ đôi chỗ, kiểu như phẫu thuật thẩm mỹ, chỉnh hình ấy mà. Tai của con Grin có bị sứt sẹo đôi chỗ vì từng cắn nhau với một con chó Stafford, bà nhớ chứ, vì vậy phải chỉnh tai của con chó này sao cho giống. Nhưng mọi công việc ấy chỉ là chuyện vặt. Tôi thuộc từng sợi lông trên mình con Grin mà. - Được rồi, cứ thế tiến hành đi. Sáng mai tôi với ông Alexander Mikhailovich sẽ đến. Ông hãy liệu làm sao để chồng tôi không hề tỏ ý nghi ngờ gì cả. Nhớ băng bó thật kỹ con chó “hiến tặng nội tạng” này đấy nhé, – bà Olga mỉm cười và hất hàm về phía tôi, – vì nó sẽ phải đóng vai con Grin sau ca mổ cấy ghép. - Mọi chuyện sẽ “trên cả tuyệt vời”, thưa bà chủ! – Ông bác sĩ hứa. - Tôi rất hi vọng ở ông, bác sĩ Anton ạ. – Bà Olga vẫy tay chào rồi bước ra khỏi phòng, khép cửa lại. Ôi, cuối cùng thì đã có thể thở phào nhẹ nhõm. Như vậy có nghĩa là án tử dành cho tôi một lần nữa lại được hoãn chăng? Hình như số tôi luôn may mắn gặp được những người tốt bụng như bà Olga Semionovna. Cầu Chúa cho bà sống lâu, bà quả là một người phụ nữ tuyệt vời. Tôi sẽ chịu được ba cái vụ “cải trang” kia, xin bà đừng lo. Sơn sửa màu lông chỉ là chuyện nhỏ. Cần xẻ vành tai một chút cho giống vết thương do bị chó cắn ư? Cũng là chuyện nhỏ! Có xẻ te tua nham nhở ra cũng chẳng sao. Thậm chí cứ việc biến tôi thành giống chó doberman hay chó chăn cừu Trung Á cũng được. Tôi chấp nhận tuốt. Đã có ai nhìn thấy những giống chó ấy chưa? Chúng hoàn toàn không có vành tai, nhưng vẫn sống khỏe như thường. Quan trọng nhất là buồng gan vẫn còn nguyên trong bụng tôi và tôi tiếp tục được sống trên cõi đời này. Như vậy, tôi sẽ phải sống dưới một cái tên khác. Tên gì ấy nhỉ? Ờ, Grin. Thì đã sao nào. Một cái tên không đến nỗi tồi. Tuy nhiên, nếu tôi tìm được cách trốn thoát và trở về trường, không biết các thầy cô huấn luyện viên có nhận ra tôi không, vì lúc đó tôi đã bị tô lông thành màu khác, có khi trông sặc sỡ như con vẹt chứ chẳng chơi. Nhưng hình như tôi đã thả hồn đi quá xa. Chớ có vội mơ về ngày được trở lại trường. Để còn xem, liệu cái ông… ông gì ấy nhỉ, ờ ông Alexander Mikhailovich bạo chúa ấy có chấp nhận mi là con chó Grin của ông ấy hay không. Nhỡ chẳng may ông ấy phát hiện ra tôi chỉ là con Grin giả, nghĩa là bị đánh tráo thay cho con Grin thật của ông ấy, thì sao? Thôi thì phó mặc rủi may. Giờ đây, mọi sự chỉ có thể trông mong vào bà Olga Semionovna kính mến mà thôi. Một khi đã trót cưỡi lên lưng cọp thì ráng cưỡi cho khéo, chớ để ngã xuống, cọp nó xơi mất. Dĩ nhiên, trong chuyện này, tôi chẳng có tội lỗi gì cả. Người ta nghĩ ra những trò lừa dối gì đó, còn tôi thì lãnh hậu quả. Nhưng biết làm sao giờ, kiểu gì thì giờ đây tôi cũng sẽ phải trở thành con chó mang tên Grin của một đại gia nào đó. Dù sao thì như vậy cũng còn tốt hơn so với việc bị mổ bụng moi gan. Hai người đàn ông bước vào phòng mổ. Về sau tôi hiểu rằng đó là các phụ tá của ông bác sĩ. Cuộc “lột xác” của tôi bắt đầu.   Mời các bạn đón đọc Chó Dẫn Đường - Đại Gia Và Nhân Quả của tác giả Mikhail Samarsky & Phạm Bá Thủy (dịch).