Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa (Bạch Huyết)

Sự tìm tòi của các nhà hiền triết Trung Quốc đối với thiên thời bắt nguồn rất sớm từ phát minh thuật bói rùa.

Sự tìm tòi của các nhà hiền triết Trung Quốc đối với thiên thời bắt nguồn rất sớm từ phát minh thuật bói rùa.

Thời đại thần quyền tiền sử, bộ lạc sớm nhất của dân tộc Trung Hoa đã từng sống cả một miền dọc theo sông Hoàng Hà đến tận Tây phần tỉnh Sơn Đông thuộc miền đông trung du sông Vị. Trong cuộc sống đánh cá và săn bắt, họ bắt đầu tìm hiểu đối với tự nhiên.

Thời đại thần quyền tiền sử, bộ lạc sớm nhất của dân tộc Trung Hoa đã từng sống cả một miền dọc theo sông Hoàng Hà đến tận Tây phần tỉnh Sơn Đông thuộc miền đông trung du sông Vị. Trong cuộc sống đánh cá và săn bắt, họ bắt đầu tìm hiểu đối với tự nhiên.

Có quá nhiều nghi vấn đối với sự biến đổi của tự nhiên nên đã có một số thuật sĩ đi tìm những điều bí ẩn đó xuất hiện. Những thuật sĩ thông minh có nhiều hiểu biết và tâm đắc đối với sự vật, đã dự đoán sự biến đổi khí hậu thiên nhiên có độ chuẩn xác nổi bật do đó đã giành được sự tin cậy và tôn sùng của mọi người trong bộ lạc. Cuối cùng, chính họ và cả phương pháp quan trắc của họ đã được nêu lên và cố định trở thành những ông quan văn hóa cổ xưa nhất trên vùng đất hoang thổ này.

Có quá nhiều nghi vấn đối với sự biến đổi của tự nhiên nên đã có một số thuật sĩ đi tìm những điều bí ẩn đó xuất hiện. Những thuật sĩ thông minh có nhiều hiểu biết và tâm đắc đối với sự vật, đã dự đoán sự biến đổi khí hậu thiên nhiên có độ chuẩn xác nổi bật do đó đã giành được sự tin cậy và tôn sùng của mọi người trong bộ lạc. Cuối cùng, chính họ và cả phương pháp quan trắc của họ đã được nêu lên và cố định trở thành những ông quan văn hóa cổ xưa nhất trên vùng đất hoang thổ này.

Công cụ các thuật sĩ sử dụng khá đơn giản, chỉ là một con rùa đen. Rùa đen là loại động vật biết bò, thân rùa dẹt phẳng, trên mai rùa có một lớp vỏ cứng màu nâu đen, phía trên mặt là những hoa văn. Rùa đen không những có thể hoạt động trên đất cạn mà còn có thể sống ở dưới nước.

Công cụ các thuật sĩ sử dụng khá đơn giản, chỉ là một con rùa đen. Rùa đen là loại động vật biết bò, thân rùa dẹt phẳng, trên mai rùa có một lớp vỏ cứng màu nâu đen, phía trên mặt là những hoa văn. Rùa đen không những có thể hoạt động trên đất cạn mà còn có thể sống ở dưới nước.

Sự trọng thị đối với rùa đen, xuất phát từ hai nhận thức : một là rùa đen có năng lực hoạt động cả trên cạn và dưới nước, so với các loại động vật khác nó tỏ ra có khả năng nổi bật, nên đã được những người đánh cá và săn bắt ngưỡng mộ, sùng bái; hai là những hoa văn trên mai rùa đã làm cho các thuật sĩ ngạc nhiên mãi không thôi. Họ cho rằng những hoa văn này tượng trưng cho một loại ý chỉ của trời.

Sự trọng thị đối với rùa đen, xuất phát từ hai nhận thức : một là rùa đen có năng lực hoạt động cả trên cạn và dưới nước, so với các loại động vật khác nó tỏ ra có khả năng nổi bật, nên đã được những người đánh cá và săn bắt ngưỡng mộ, sùng bái; hai là những hoa văn trên mai rùa đã làm cho các thuật sĩ ngạc nhiên mãi không thôi. Họ cho rằng những hoa văn này tượng trưng cho một loại ý chỉ của trời.

Trong lòng người bộ lạc nguyên thủy, sự biến đổi của các hiện tượng tự nhiên và mọi hoạt động của xã hội loài người đều chịu sự chi phối của một sức mạnh nào đó. Do đó họ đã sáng tạo ra Thượng đế, một sự sáng tạo vừa vĩ đại vừa ngu xuẩn.

Trong lòng người bộ lạc nguyên thủy, sự biến đổi của các hiện tượng tự nhiên và mọi hoạt động của xã hội loài người đều chịu sự chi phối của một sức mạnh nào đó. Do đó họ đã sáng tạo ra Thượng đế, một sự sáng tạo vừa vĩ đại vừa ngu xuẩn.

Các hoa văn trên mai rùa được họ cho là sách của Thượng đế, nên đã từng có một loạt người chuyên nghiên cứu mai rùa.

Các hoa văn trên mai rùa được họ cho là sách của Thượng đế, nên đã từng có một loạt người chuyên nghiên cứu mai rùa.

Chính sự nghiên cứu mai rùa đã sản sinh ra nền văn hóa Trung Quốc. Các hoa văn trên mai rùa sau khi chỉnh lí lại đã hình thành chữ viết tượng hình sớm nhất của Trung Quốc.

Chính sự nghiên cứu mai rùa đã sản sinh ra nền văn hóa Trung Quốc. Các hoa văn trên mai rùa sau khi chỉnh lí lại đã hình thành chữ viết tượng hình sớm nhất của Trung Quốc.

Ý chỉ của Thượng đế về sau được diễn biến thành Thiên mệnh. Thủ lĩnh của bộ lạc liền trở thành nguời làm việc theo lệnh trời, cho nên những việc họ làm đều là những việc Thượng đế bảo họ làm như thế.

Ý chỉ của Thượng đế về sau được diễn biến thành Thiên mệnh. Thủ lĩnh của bộ lạc liền trở thành nguời làm việc theo lệnh trời, cho nên những việc họ làm đều là những việc Thượng đế bảo họ làm như thế.

Bói rùa cũng như Sử, Phệ, Chúc (lời khấn) đều đứng ra làm việc nối liền công việc giữa thần linh và con người. Các thuật sĩ bói rùa không những có thể suy đoán khí hậu thiên nhiên mà còn có thể xem được các điều lành dữ. Từ những việc lớn như sự tồn vong của bộ lạc, đến việc nhỏ như cát hung của mỗi cá nhân, không việc gì là không xem và bói toán cả.

Bói rùa cũng như Sử, Phệ, Chúc (lời khấn) đều đứng ra làm việc nối liền công việc giữa thần linh và con người. Các thuật sĩ bói rùa không những có thể suy đoán khí hậu thiên nhiên mà còn có thể xem được các điều lành dữ. Từ những việc lớn như sự tồn vong của bộ lạc, đến việc nhỏ như cát hung của mỗi cá nhân, không việc gì là không xem và bói toán cả.

Nghe nói, mọi khi trong bộ lạc có sự kiện trọng đại nào xảy ra thì thủ lĩnh của bộ lạc đều phải triệu tập toàn bộ người trong bộ lạc lại, sau đó đốt mai rùa để xem bói lành dữ.

Nghe nói, mọi khi trong bộ lạc có sự kiện trọng đại nào xảy ra thì thủ lĩnh của bộ lạc đều phải triệu tập toàn bộ người trong bộ lạc lại, sau đó đốt mai rùa để xem bói lành dữ.

Bốc từ đã ghi : Đế lệnh vũ túc niên ? Đế lệnh vũ phất kĩ túc niên ? Chính là xem tình hình mưa gió và thu hoạch. Lại như : phạt cát phương, Đế thụ phạt hựu ? Chính là dùng mai rùa để xem phương hướng tốt để đem quân di đánh nhau, để giành được thắng lợi.

Bốc từ đã ghi : Đế lệnh vũ túc niên ? Đế lệnh vũ phất kĩ túc niên ? Chính là xem tình hình mưa gió và thu hoạch. Lại như : phạt cát phương, Đế thụ phạt hựu ? Chính là dùng mai rùa để xem phương hướng tốt để đem quân di đánh nhau, để giành được thắng lợi.

Những ví dụ loại này còn rất nhiều. Ngày nay chúng ta nhìn lại xem chừng rất ấu trĩ, nhưng trái lại lại bày tỏ sự tìm tòi của con người đối với sức mạnh siêu nhiên nằm ngoài khả năng của mình.

Những ví dụ loại này còn rất nhiều. Ngày nay chúng ta nhìn lại xem chừng rất ấu trĩ, nhưng trái lại lại bày tỏ sự tìm tòi của con người đối với sức mạnh siêu nhiên nằm ngoài khả năng của mình.

Sức mạnh siêu nhiên mà về sau này nói đến chính là Thiên thời. Nó là một loại công năng kết cấu, các nhà triết học gọi nó là tính tất yếu. Từ sự hiểu biết và lí giải tính tất yếu, có thể nhìn thấy trình độ trí tuệ của một bộ lạc hoặc một cá nhân. Sự phát minh ra bốc phệ, với khoa học ngày nay thật ra không thể xem là việc làm cao siêu, nhưng ít nhất nó cũng đã chứng minh các nhà hiền triết cổ Trung Quốc đã có tài trí tương đối thông minh.

Sức mạnh siêu nhiên mà về sau này nói đến chính là Thiên thời. Nó là một loại công năng kết cấu, các nhà triết học gọi nó là tính tất yếu. Từ sự hiểu biết và lí giải tính tất yếu, có thể nhìn thấy trình độ trí tuệ của một bộ lạc hoặc một cá nhân. Sự phát minh ra bốc phệ, với khoa học ngày nay thật ra không thể xem là việc làm cao siêu, nhưng ít nhất nó cũng đã chứng minh các nhà hiền triết cổ Trung Quốc đã có tài trí tương đối thông minh.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Địa lý Tảo Ao - Cao Trung
Khoa Địa Lý của Trung Hoa, xưa kia, là khoa phối hợp thuyết âm dương, ngũ hành với sự quan sát cách thế, hình thể của các mạch đất cùng lối đi của sông, ngòi, suối, lạch mà tìm ra nơi có chứa tụ khí mạch của đất, dùng nơi đó làm đất kết. Họ quan niệm rằng nơi có đất kết, có thể chôn xương người chết nếu là kết âm - phần và có thể làm nhà, đình chùa, lập Doanh trại, Thị Trấn, Đô thị lên trên nếu là đất kết dương cơ, để người sống được hưởng sự thịnh vượng, phát đạt do tụ khí của vùng đất kết đó.  Khoa Địa lý có từ lâu, sự ích lợi của đất kết đã được Ông cha chúng ta tin tưởng và cả chúng ta cũng có nhiều người công nhận là đúng; sử sách có ghi chép nhiều sự kiện chứng tỏ là khoa Địa Lý có một giá trị nào ảnh hưởng đến đời sống con người.Câu ca dao: " Sống về mồ mả chứ không ai sống về cả bát cơm" đã chứng minh sự quan trọng của khoa học địa lý với con người Việt Nam. Khoa địa lý, có một huyền thoại vàng son như vậy tiếc thay đến nay đã gần như thất truyền, vì phép địa lý chính tông đã bị những man sư và man thư làm cho sai lạc đi nhiều. Lý do của sự tàn tạ sa sút của khoa này trước kia do quan niệm người xưa để giữ ngôi vị của một số dòng họ nên họ giữ bí mật chỉ một số ít được truyền lại....Địa Lý Tả Ao Địa Đạo Diễn CaNXB Sài Gòn 1969Cao Trung112 Trang
Hi Di với vền văn hóa Trung Hoa đời Tống
Cuốn sách Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống được soạn giả Dương Thành sưu tầm và biên soạn, gồm 2 phần: Phần 1: Khoa Lý số học – giới thiệu xuất xứ và trình bày những nét văn hóa Trung Hoa đời Tống trong này. Nhận định của soạn giả về những căn bản của Lý số học. Phần 2: Thuật Lý số học – xưa và nay – giới thiệu các cách phân tích, sử dụng những kiến thức của Khoa Lý số học, xưa và nay.​ Cuốn sách Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống được soạn giả Dương Thành sưu tầm và biên soạn, gồm 2 phần: Phần 1: Khoa Lý số học – giới thiệu xuất xứ và trình bày những nét văn hóa Trung Hoa đời Tống trong này. Nhận định của soạn giả về những căn bản của Lý số học. Phần 2: Thuật Lý số học – xưa và nay – giới thiệu các cách phân tích, sử dụng những kiến thức của Khoa Lý số học, xưa và nay.​ Lý số học, theo tương truyền được đạo sĩ Trần Đoàn, tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di, ở núi Vũ Dương sáng lập ra vào cuối đời Đường, đầu nhà Tống ở Trung Quốc. Trong dân gian còn được gọi là Tử Vi, gọi theo tên ngôi sao đứng đầu các sao trong môn học này.Môn học này đã được truyền vào Việt Nam hơn 1000 năm nay và được người Việt Nam tiếp nhận một cách sáng tạo, có thể nói, trường phái Lý số học Việt Nam đã có những khác biệt nhất định so với Trung Quốc. Kể cũng kỳ lạ, hiện nay Lý số học không còn được thịnh hành lắm ở Trung Quốc. Người Trung Quốc bây giờ thường hay dùng Tử Bình và bốc Dịch để giải lý xem số! Điều này phải chăng cũng cảy ra giống quy luật lan truyền văn hóa, lan truyền đạo Phật, là truyền từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam.Những bí ẩn về Lý số học chắc chắn chưa thể khai thác hết, vì môn học này liên quan chặt chẽ đến thiên văn, địa lý và cấu trúc con người ở tầm vũ trụ, ở tầm tâm linh. Cũng vì thế mà nó mang một dáng dấp mơ hồ, vì cơ sở khoa học của nó dường như vẫn còn nằm trên ngưỡng nhận thức của khoa học hiện đại, nhưng cũng vì thế có nhiều phiên bản sáng tạo một cách chủ quan hạn hẹp đã xuất hiện, phủ lên cho nó một tấm áo dị đoan. Nhưng hàng nghìn năm tồn tại của nó đã chứng minh sức sống mạnh mẽ của một cốt lõi có giá trị thật.Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời TốngDương Thành biên soạnNXB Lao ĐộngSố trang: 639
THÁI ẤT THẦN KINH - TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Đức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà triết lý, nhà văn hóa vĩ đại. Ông được xếp vào là một trong 3 vị Thánh tiên tri của nhân loại. Đức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà triết lý, nhà văn hóa vĩ đại. Ông được xếp vào là một trong 3 vị Thánh tiên tri của nhân loại.“Thái Ất Thần Kinh”  là một tác phẩm kỳ thư huyền bí của ông. Đây là một công trình nghiên cứu công phu, vĩ đại. Nó tổng hợp sức mạnh chuẩn xác của triết học toán rút ra từ những luồng vũ trụ. Là nguồn tri thức hữu thể để hiện thực mệnh sống của con người, với môi trường cảm ứng giữa người và trời đất cùng vạn vật. “Thái Ất Thần Kinh”  là một tác phẩm kỳ thư huyền bí của ông. Đây là một công trình nghiên cứu công phu, vĩ đại. Nó tổng hợp sức mạnh chuẩn xác của triết học toán rút ra từ những luồng vũ trụ. Là nguồn tri thức hữu thể để hiện thực mệnh sống của con người, với môi trường cảm ứng giữa người và trời đất cùng vạn vật. “Thái Ất Thần Kinh”“Thái Ất Thần Kinh”  cung cấp những tri thức để ta hiểu về vũ trụ và con người có luồng thông lưu với nhau trong định luật cảm ứng. Bản thân cơ thể con người là một sinh cơ nhạy bén, quan hệ ba chiều sinh hóa nhiên với vạn vật và vũ trụ. “Thái Ất Thần Kinh”  cung cấp những tri thức để ta hiểu về vũ trụ và con người có luồng thông lưu với nhau trong định luật cảm ứng. Bản thân cơ thể con người là một sinh cơ nhạy bén, quan hệ ba chiều sinh hóa nhiên với vạn vật và vũ trụ.“Thái Ất Thần Kinh”
HOÀNG ĐẾ NỘI KINH - NGUYỄN ĐỒNG DI
"Hoàng Đế Nội Kinh" là loại sách y học, tùng thư, tự thuật khoa y học ở thời thượng cổ ra đời sớm nhứt thế giới, cách đây trên bốn ngàn sáu trăm năm. Sách này chia ra làm hai phần:Phần đầu thuộc về nguyên tắc của Sách Linh Khu, luận về Giải Phẫu Học và Châm Cứu Học.Phần sau thuộc về nguyên tắc của sách Tố Vấn, luận về Sinh Lý Học, Bịnh Lý Học và Chẩn Đoán Học. Đại khái, nội dung của toàn bộ HOÀNG ĐẾ NỘI KINH chỉ chú trọng trên học thuyết, chuyên luận về NGUYÊN TẮC TRỊ LIỆU, mà không đề cập đến PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU. Lấy sự động biến đổi lập của hai khí âm dương, hỗ tương sinh trưởng, hỗ tương hủy diệt của Ngũ Hành và hiện tượng SINH, TRƯỞNG, THU, TÀNG, tân trần đại tạ của bốn mùa làm biện chứng cho luận thuyết - Đề cập đến vấn đề vệ sinh và miễn dịch thì chú trọng trên TINH THẦN VỆ SINH và TÂM LÝ MIỄN DỊCH. Cứu cánh lại lấy phương pháp điều tiết liệu năng làm cơ bản lập luận.Sách HOÀNG ĐẾ NỘI KINH tuy đáng quý thật nhưng vì văn chương cổ áo mà lại ra đời quá sớm, trải qua rất nhiều thời đại nên không tài nào tránh khỏi cái nạn "tam sao thất bổn" và người sau đem ý kiến riêng của mình phụ hội vào, khiến cho ngọc đá xô bồ, vàng thau lẫn lộn...Nếu không chọn lọc lại cẩn thận, xưa sao nay vậy, cứ ôm trọn cả bộ sách tối cổ điển kia ra làm Sách Đông Y Giáo Khoa, bắt kẻ học phải ăn tươi nuốt sống, thì nhất định không tài nào tiêu hóa nổi. Kẻ học không lĩnh hội nổi cũng là việc thường, thậm chí có nhiều chỗ người dạy cũng không biết đường nào mà giảng giải.Sách HOÀNG ĐẾ NỘI KINH hoàn thành trên một tư tưởng nhất quán, tổ chức trên một học thuyết hoàn bị, là nền tảng văn hóa học thuật của Đông Y, là kinh điển y gia, cũng như Ngũ Kinh, Tứ thư của Nho gia, Đạo đức knh của Đạo gia vậy. Thế nên người đời sau muốn biên soạn các loại Y thơ xây dựng thêm những tòa lâu đài mới cho Đông Y, tất phải xây dựng trên nền tảng này (Nội Kinh), muốn nghiên cứu Y học cũng phải nghiên cứu theo học thuyết này (Nội Kinh). (Trích dẫn trong LỜI NÓI ĐẦU của Nguyễn Đồng Di - Đông Y Sĩ - Đầu mùa xuân năm Canh Tuất 1970).