Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ma Ám Ở Dinh Thự Hill

Được mệnh danh là một trong những truyện ma xuất sắc nhất từng xuất bản, CHUYỆN MA ÁM Ở DINH THỰ HILL đã hai lần có phim điện ảnh chuyển thể vào các năm 1963 và 1999, dựng kịch sân khấu vào năm 1964 và 2015. Tiểu thuyết này cũng là nguồn cảm hứng cho bộ phim truyền hình cùng tên ra mắt năm 2018 của dịch vụ trực tuyến Netflix - được đánh giá là phim kinh dị hay nhất của năm. *** “Một trong hai tiểu thuyết siêu nhiên vĩ dại duy nhất trong suốt một trăm năm qua.” — STEPHEN KING   “Có rất ít cuốn sách có thể dọa tôi sự hãi vô cùng... Nhưng CHUYỆN MA ÁM Ở DINH THỰ HILL của Shirley Jackson đã đánh bại tất cả. Tiểu thuyết này từng làm tôi kinh hãi khi còn là thiếu niên và vẫn còn ám ảnh tôi tới tận bây giờ.” — NEIL GAIMAN   *** SHIRLEY JACKSON (1916 - 1965) là một nhà văn người Mỹ được biết đến chủ yếu nhờ các tác phẩm trong dòng truyện bí ẩn và kinh dị. Bà sinh ra tại San Francisco và theo học Đại học Syracuse ở New York, nơi bà gặp chồng mình. Bà đến sống ở North Bennington, Vermont, và đã viết hầu hết các tác phẩm của mình tại đó. Bà xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên vào năm 1948, nhưng thứ khiến danh tiếng bà trở nên nổi như cồn lại là một truyện ngắn được viết cùng năm. Xổ số (The Lottery), với cốt truyện xoay quanh những điều tồi tệ của cuộc sống tại một thị trấn nhỏ, được mệnh danh là một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học Mỹ. Năm 1959, bà sáng tác Chuyện ma ám ở Dinh thự Hill (The Haunting of Hill House), cuốn tiểu thuyết kinh dị siêu nhiên được nhiều người coi là một trong những truyện ma hay nhất từng xuất bản. Bà có bản tính ẩn dật, hiếm khi nói về các tác phẩm của mình, và từng được những nhà văn tài ba như Stephen King, Sarah Waters và Neil Gaiman nói rằng đã ảnh hưởng đến văn phong của mình. *** Không một sinh vật sống nào có thể liên tục chỉ tồn tại trong thế giới thực mà không hóa điên. Ngay cả chim sơn ca và châu chấu cũng được một số người cho là có biết mơ. Dinh thự Hill thì chẳng còn tỉnh táo nữa. Nó đứng một mình trên những ngọn đồi, lưu giữ bóng tối trong lòng. Nó đã đứng như vậy trong suốt tám mươi năm và có thể sẽ tiếp tục đứng vững thêm tám mươi năm nữa. Bên trong, các bức tường tiếp tục vươn thẳng, gạch xếp chỉn chu, sàn nhà chắc chắn, và cửa nẻo đóng kín rất hợp lí. Sự im lặng kiên định phủ lên các lớp gỗ và đá của Dinh thự Hill, và nếu ở nơi đó mà có bất cứ thứ gì qua lại thì nó cũng qua lại một mình. John Montague là một tiến sĩ; ông ta đã lấy bằng nhân chủng học, mơ hồ cảm thấy rằng nếu hoạt động trong lĩnh vực này, ông ta sẽ có thể làm được những việc sát với nghề nghiệp đích thực của mình nhất, ấy chính là phân tích các hiện tượng siêu nhiên. Bởi vì các công cuộc điều tra của mình là hoàn toàn phi khoa học, ông ta sử dụng học vị của bản thân rất cẩn trọng, hi vọng rằng học vấn của mình sẽ giúp công việc mang vẻ khả kính hơn, hay thâm chí mang tính học thuật. Vì không phải hạng người hay xin xỏ, ông ta đã phải chi ra cả một khoản tiền khổng lồ, đồng thời chấp nhận vứt bỏ sĩ diện để thuê Dinh thự Hill trong ba tháng, nhưng ông ta hết sức tin tưởng rằng mọi nhọc nhằn của mình đều sẽ được bù đắp hoàn toàn. Nguyên nhân là bởi dư luận kiểu gì cũng sẽ xôn xao hết cả lên ngay khi ông ta xuất bản công trình chuẩn mực của mình về các nguyên nhân và hậu quả của những nhiễu loạn ngoại cảm trong một ngôi nhà thường bị gọi là “có ma ám”. Ông ta đã dành cả đời tìm kiếm một ngôi nhà bị ma ám đích thức Khi nghe về Dinh thự Hill, mới đầu ông ta cảm thấy nghi ngờ, sau đó là hi vọng, và rồi kiên trì không biết mỏi mệt. Một khi đã tìm thấy Dinh thự Hill, sẽ không có chuyện ông ta buông bỏ nó. Điều Tiến sĩ Montague định làm đối với Dinh thự Hill bắt nguồn từ các phương thức hoạt động của những thợ săn ma dũng cảm thời thế kỉ mười chín; ông ta sẽ đến sống trong Dinh thự Hill và xem chuyện gì xảy ra ở đó. Ban đầu, ông ta định bụng sẽ bắt chước cái bà vô danh từng đến ở tại Ngôi nhà Ballechin* và tổ chức bữa tiệc tại gia kéo dài suốt mùa hè cho những người hoài nghi và các tín đồ, với bóng cửa* và theo dõi ma là những hoạt động thu hút nổi bật. Nhưng người hoài nghi, tín đồ, và tay chơi bóng cửa giỏi ngày nay khó kiếm lắm. Tiến sĩ Montague buộc phải thuê trợ lí. Có thể nguyên cớ là bởi bản chất nhàn nhã của cuộc sống thời Victoria phù hợp với công việc điều tra tâm linh hơn, hoặc có lẽ là chẳng còn mấy ai đo lường thực tại bằng cách tỉ mẩn ghi chép lại các hiện tượng sự việc nữa. Dù gì thì gì, Tiến sĩ Montague không chỉ cần phải thuê trợ lí, mà còn phải đi tìm kiếm họ. Ngôi nhà Ballechin: Một ngôi nhà bị đồn là có ma ở Scotland. Croquet: Một môn thể thao mà trong đó người chơi dùng gậy để đánh trái bóng gỗ qua khung sắt trên sân cỏ. Ra đời vào thế kỉ 13 tại Pháp, đây là môn thể thao dành cho giới thượng lưu. Vì tự coi bản thân là một con người cẩn thận và chu đáo, ông ta đã dành ra cả một khoảng thời gian đáng kể để tìm kiếm các trợ lí của mình. Ông ta tra cứu hồ sơ của các hội tâm linh, những ấn bản báo chí đăng tin giật gân được lưu trữ, báo cáo của những chuyên viên nghiên cứu về các hiện tượng siêu linh, và đã tập hợp được một danh sách tên của những người từng dính líu với các sự kiện phi thường, không bằng cách này thì cũng bằng cách khác, tại bất cứ mốc thời điểm nào, bất kể ngắn ngủi hay khó đáng tin cậy đến cỡ nào. Trước tiên ông ta loại bỏ khỏi danh sách tên của những người đã chết. Sau đó, ông ta gạch bỏ tên của những người xem chừng muốn đánh bóng tên tuổi, không đủ thông minh, hoặc không phù hợp, bởi rõ ràng là họ rất hay chiếm ánh hào quang. Và rồi ông ta đã có được danh sách với tầm một tá cái tên. Sau đó, mỗi người trong số họ đều nhận được thư từ Tiến sĩ Montague, mời đến nghỉ cả hè hay một phần của mùa hè tại một ngôi nhà thôn quê tiện nghi. Nhà đã cũ, nhưng được trang bị đầy đủ hệ thống dẫn nước, điện đóm, hệ thống sưởi tập trung, và chăn nệm sạch. Những lá thư nêu rõ rằng mục đích ở lại tại đây của họ sẽ là quan sát và tìm hiểu về những câu chuyện ghê rợn đã được đồn đại về ngôi nhà trong gần như toàn bộ quãng thời gian tám mươi năm tồn tại của nó. Những lá thư của Tiến sĩ Montague không nói thẳng thừng rằng Dinh thự Hill bị ma ám bởi vì Tiến sĩ Montague là dân làm khoa học, và cho đến khi đã thực sự trải nghiệm một hiện tượng tâm linh ở trong Dinh thự Hill, ông ta sẽ không làm gì quá liều. Do đó, những lá thư của ông ta mang vẻ nghiêm trang mơ hồ nào đó, được gài vào đầy chủ tâm nhằm khơi gợi óc tưởng tượng của một kiểu độc giả rất đặc biệt. Tiến sĩ Montague đã có bốn thư phúc đáp cho những lá thư của mình. Tám ứng viên còn lại có lẽ đã chuyển nhà và không để lại địa chỉ chuyển tiếp, hoặc có thể đã không còn hứng thú với các hiện tượng siêu thường, hay thậm chí còn có khả năng là chưa bao giờ tồn tại. Tiến sĩ Montague viết thư trả lời bốn người đã phúc đáp kia, nêu cụ thể ngày tháng ngôi nhà chính thức dùng để ở được, và gửi kèm theo hướng dẫn chỉ đường chi tiết. Như ông ta buộc phải giải thích, thông tin về đường đến ngôi nhà này khó kiếm vô cùng, đặc biệt là từ cộng đồng người dân quê sống quanh nó. Vào cái ngày trước khi lên đường đến Dinh thự Hill, Tiến sĩ Montague đã được thuyết phục để cho một đại diện của gia đình sở hữu ngôi nhà đến ở cùng mình. Bên cạnh đó, ông ta nhận được bức điện tín từ một trong những người tham gia, xin rút với cái lí do nghe rõ ràng là bịa đặt. Thêm một người khác không hề trình diện hay viết thư nhắn lại gì cả, có lẽ vì vướng phải vấn đề cá nhân cấp bách nào đấy. Hai người còn lại thì đến.   Khi đến Dinh Thự Hill, Eleanor Vance ba hai tuổi. Vì bây giờ mẹ đã mất, người duy nhất trên đời mà cô thực sự căm ghét chính là chị gái của cô. Cô không thích gã anh rể và đứa cháu gái năm tuổi của mình, và cô cũng chẳng có bạn bè gì cả. Nguyên nhân chủ yếu là do quãng thời gian mười một năm cô phải bỏ ra để chăm sóc người mẹ ốm yếu của mình. Giai đoạn ấy đã giúp cô phần nào trở thành một y tá thạo việc, đồng thời cũng khiến cô không thể không chớp mắt trong ánh nắng chói chang. Cô chẳng thể nhớ nổi liệu mình đã có lần nào cảm thấy thực sự hạnh phúc trong quãng đời trưởng thành hay chưa. Những năm tháng cô sống cùng mẹ chỉ toàn cảm giác tội lỗi, với các màn trách mắng vặt vãnh, mệt mỏi triền miên, và nỗi tuyệt vọng khôn nguôi. Cô chưa bao giờ muốn hình thành một bản tính dè dặt và nhút nhát, nhưng do đã phải ở một mình quá lâu, không có ai để yêu thương, thế nên cô luôn thấy ngại và chẳng biết lựa lời ra sao khi nói chuyện với người khác, kể cả khi chỉ là vài lời xã giao. Tên của cô xuất hiện trong danh sách của Tiến sĩ Montague bởi vì một ngày nọ, hồi cô mười hai tuổi và chị gái cô mười tám tuổi, bố của họ bấy giờ mới chết chưa được một tháng, một trận mưa đá đã trút xuống nhà họ, không chút dấu hiệu cảnh báo hay chút mục đích, lí do nào, đá cục rơi xuống từ trần nhà, ồn ã lăn xuống dưới tường, phá vỡ các cửa sổ và đập điên cuồng trên mái. Trận đá tiếp tục trút xuống cách quãng suốt ba ngày. Trong suốt thời gian đó, Eleanor và chị gái cô không sợ mớ đá bằng những người hàng xóm và người hiếu kì hằng ngày vẫn tụ tập ngoài cửa trước, và cả sự quả quyết đầy mù quáng, cuồng loạn của mẹ họ rằng đứng đằng sau toàn bộ vụ việc này là những cư dân độc ác, ném đá giấu tay sống trong khu, vốn đã thù ghét bà kể từ khi bà đến đây. Sau ba ngày, Eleanor và chị gái cô được chuyển đến nhà một người bạn và những viên đá ngừng rơi, đồng thời cũng không bao giờ còn tái xuất hiện nữa, mặc dù Eleanor cùng với chị và mẹ đã trở về sống trong căn nhà ấy, và mối thù hẳn với người dân trong khu mãi không đi đến hồi kết. Ngoài những người mà Tiến sĩ Montague đã tham vấn thì câu chuyện đã bị tất cả mọi người lãng quên. Eleanor và chị gái của cô thì chắc chắn đã quên chuyện ấy, dù lúc vụ việc diễn ra, mỗi người bọn họ đều cho rằng người kia là thủ phạm. Trong suốt quãng đời khốn khổ của mình, kể từ hồi có những kí ức đầu tiên, Eleanor đã chờ đợi một thứ như Dinh thự Hill. Trong suốt quãng thời gian chăm sóc mẹ, nhấc một bà già cáu bẳn từ ghế lên giường, bày ra một lượng bất tận những khay nhỏ gồm xúp và bột yến mạch, giặt giũ mớ đồ bẩn thỉu, Eleanor luôn vững tin rằng đến một ngày nọ, sẽ có chuyện gì đó xảy ra. Cô đã gửi thư chấp nhận lời mời đến Dinh thự Hill, mặc dù anh rể của cô nhất quyết đòi gọi cho một vài người để đảm bảo rằng cái tay tiến sĩ này không có ý định làm trò gì với Eleanor, mấy trò mọi rợ liên quan đến cái chuyện mà chị gái Eleanor tin rằng một phụ nữ trẻ chưa lập gia đình không nên biết. Trong phòng ngủ riêng của hai vợ chồng, chị của Eleanor đã thì thầm rằng, Chưa biết chừng Tiến sĩ Montague nêu đó rốt cuộc đúng là tên của ông ta - chưa biết chừng cái ông Tiến sĩ Montague này SỬ DỤNG phụ nữ để phục vụ cho một... ờm... THÍ NGHIỆM nào đó. THÍ NGHIỆM ấy... em BIẾT mà, cái kiểu ngữ ấy vẫn hay làm đó. Chị Eleanor cứ nói luôn miệng về các thí nghiệm mà mình từng nghe bảo giới tiến sĩ vẫn hay làm. Eleanor không biết gì về những chuyện như thế, hoặc nếu có thì cũng không sợ. Nói tóm lại, Eleanor sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu. Theodora - đó là cái tên dài nhất mà chị sử dụng. Các bản vẽ của chị được kí tên là “Theo”, và trên cửa căn hộ cũng như cửa sổ xưởng vẽ, danh bạ điện thoại, mớ giấy trắng và phía dưới bức ảnh đáng yêu đứng trên bệ lò sưởi của chị, cái tên luôn luôn chỉ là Theodora. Theodora hoàn toàn khống giống với Eleanor. Đối với Theodora, bổn phận và lương tâm là những đức tính của hội Nữ Hướng Đạo. Thế giới của Theodora tràn đầy niềm vui và sặc sỡ những sắc màu mềm mại. Chị lọt vào danh sách của Tiến sĩ Montague bởi vì sau một lần vừa cười đùa vừa mang trên mình hương nước hoa thảo dược vào trong phòng thí nghiệm, bằng cách nào đó chị đã xác định được chuẩn xác mười tám trong số hai mươi thẻ do một người trợ lí giơ khuất tầm mắt và tầm tai, rồi đến mười lăm trong hai mươi thẻ, và đến mười chín trong hai mươi thẻ, chí lấy làm thích thú và hào hứng trước tài năng đáng kinh ngạc của mình. Tên của Theodora nổi bật hẳn trong hồ sơ của phòng thí nghiệm, thế nên lẽ đương nhiên, nó lọt vào tầm ngắm của Tiến sĩ Montague. Theodora lấy làm khoái chí trước lá thư đầu tiên của Tiến sĩ Montague và đã phúc đáp vì tò mò (chưa biết chừng chính khả năng được khơi dậy trong Theodora, thứ từng giúp chị đoán biết biểu tượng ghi trên những tấm thẻ được giơ khuất tẩm nhìn là gì, đã thúc đẩy chị tìm đến với Dinh thự Hill), ấy nhưng chị lại hoàn toàn có ý định từ chối lời mời. Dẫu vậy, khi thư xác nhận của Tiến sĩ Montague được gửi đến, Theodora chẳng hiểu sao lại tự nhiên nổi hứng đi cãi nhau nảy lửa với người bạn ở chung căn hộ. Có thể thủ phạm lại là cái cảm giác thôi thúc đầy cấp bách kia. Cả hai bên đều đã thốt ra những lời mà chỉ thời gian mới có thể xóa nhoà. Theodora đã cố tình và đầy lạnh lung đập vỡ bức tượng nhỏ đáng yêu khắc họa hình ảnh của chị mà người bạn kia đã làm ra, và bạn chị đã tàn nhẫn xé nát tập thơ của Alfred de Musset*, món quà sinh nhật từ Theodora, đặc biệt chú tâm hành hạ cái trang có dòng chữ đề tặng đầy thương mến, cợt nhả của Theodora. Đây tất nhiên là những hành động không thể lãng quên được, và sẽ phải mất thời gian lâu sau họ mới có thể cười đùa được với nhau về chuyện này. Ngay tối hôm đó, Theodora đã viết thư chấp nhận lời mời của Tiến sĩ Montague và ra đi trong sự im lặng đầy lạnh nhạt vào ngày hôm sau. Alfred de Musset (1810 - 1857): Nhà viết kịch, nhà thơ, và tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp giai đoạn thế kỉ 19. Luke Sanderson là một kẻ dối trá. Hắn cũng là một tên trộm. Dì hắn, chủ nhân của Dinh thự Hill, rất thích khoe rằng cháu mình là người được cho ăn học ở những nơi tốt nhất, quần là áo lượt nhất, ăn sơn hào hải vị ngon nhất, và giao du với những thành phần bất hảo nhất mà bà từng biết. Bà sẵn sàng tận dụng mọi cơ hội có thể để tống hắn đi xa cho an toàn trong vòng vài tuần. Luật sư của gia đình đã thuyết phục được Tiến sĩ Montague rằng ông ta sẽ không thể thuê ngôi nhà để thực hiện mục đích của mình nếu không có sự hiện diện tại gia của một thành viên gia đình trong quãng thời gian ông ta lưu lại ở đó. Và có thể là ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ, ông tiến sĩ đã nhận thấy Luke sở hữu một sức mạnh hay bản năng sinh tồn nào đó chẳng khác gì loài mèo, và chính thế mà ông ta cũng muốn đưa Luke đến sống trong ngôi nhà chẳng kém gì bà Sanderson. Dù sao đi nữa, Luke cũng thấy thích thú, bà dì của hắn thì lấy làm biết ơn, và Tiến sĩ Montague thì hết sức hài lòng. Bà Sanderson nói với luật sư gia đình rằng đằng nào thì trong nhà cũng không có gi Luke ăn cắp được cả. Bà bảo rằng chỗ đồ bạc cũ cũng có chút giá trị, nhưng nó tượng trưng cho một khó khăn mà Luke gần như không đời nào vượt qua nổi: sẽ phải bỏ công bỏ sức ra để đánh cắp và biến được chúng thành tiền. Bà Sanderson nói thế là oan cho Luke. Khó có chuyện Luke cuỗm đồ bạc của gia đình, hoặc đồng hồ của Tiến sĩ Montague, hoặc vòng đeo tay của Theodora. Mấy trò bất lương của hắn chủ yếu chỉ giới hạn trong việc lấy mấy xu lẻ từ túi của dì mình và cờ gian bạc lận. Hắn cũng hay bán đồng hồ và hộp thuốc lá do bạn bè của dì hắn quý mến và đỏ mặt tặng. Một ngày nào đó Luke sẽ thừa kế Dinh thự Hill, nhưng hắn chưa bao giờ nghĩ mình sẽ sống trong đó. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Dinh Thự Hill của tác giả Shirley Jackson & Nguyễn Thành Long (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hẹn Mùa Hoa Cúc - Ueda Akinari
Nhật Bản thế kỷ 18 đã sản sinh ra một tác phẩm kinh điển của thể loại chí quái, không thua kém "Liêu Trai chí dị" hay... phim Hollywood ngày nay. Chẳng cứ phim Hollywood, yếu tố này trong Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh là một ví dụ cổ điển vô cùng nổi tiếng. Nhưng Liêu Trai chí dị có lẽ chỉ nổi tiếng hơn vì Trung Quốc đông dân, chứ một cấu tứ như vậy không hề hiếm gặp, ở Việt Nam thì có Truyền kỳ mạn lục, còn Nhật Bản, tuy có lẽ hiếm được độc giả Việt Nam biết đến về mảng này, cũng có Hẹn mùa hoa cúc, một tác phẩm không kém cạnh chút nào về những yếu tố ma quỷ ảo diệu hay những thông điệp ẩn giấu đằng sau sự ma mị. Trong Hẹn mùa hoa cúc, cũng như Liêu Trai chí dị, ma quỷ thì nhiều, nhưng những hồn ma bóng quỷ ấy chẳng đủ sức làm những độc giả đã quen với kỹ xảo doạ dẫm của điện ảnh hiện đại phải e ngại. Những câu chuyện hồn ma vượt đường xa để giữ lời hứa với bạn, người vợ đã chết vẫn thuỷ chung chờ chồng, hay ngay cả người vợ bị bỏ rơi hoá thành ma nữ đuổi theo người chồng bội bạc và nhân tình, dù là ma đấy quỷ đấy nhưng không hề giật gân hù doạ. *** Nguyên tác Kikka no Chigiri ( lời ước hẹn gặp lại nhau giữa mùa hoa cúc) của Ueda Akinari (Thượng Điền Thu Thành) đã in trong Ugetsu Monogatari (Vũ Nguyệt Vật Ngữ) hay Truyện Đêm Mưa Trăng Lu. Theo lời tựa, tập truyện được viết xong vào một đêm tháng ba trời mưa trăng lu năm Minh Hòa thứ 5 (1768), lúc tác giả 34 tuổi. Bản đầu tiên in năm An Vĩnh thứ 5 (1776). Người dịch dùng bản được Asano Sampei hiệu chú và nhà xuất bản Shinchô phát hành năm 1979. Sinh năm 1734 trong một xóm yên hoa ở Osaka (1) , Ueda là đứa con vô thừa nhận của một cô gái làng chơi. Lên bốn, mẹ bỏ không nuôi, được một thương gia giàu có và tốt bụng nhưng không con trai, đem về cho ăn học. Ông bị lên đậu ngặt nghèo, tuy thoát chết nhưng liệt hết mấy ngón tay (nên một trong những bút hiệu của ông là Zenshi Kijin (2) nghĩa là Quái Nhân Cụt Ngón). Sau khi sống một quãng đời thanh niên đồi trụy, ông sớm thức tỉnh trở lại nối nghiệp cha nuôi buôn dầu và buôn giấy nhưng không mấy chí thú vì vẫn mang giòng máu nghệ sĩ. Năm 1771, sau trận hỏa tai làm tiêu tan sản nghiệp, ông chuyển sang nghề đông y và viết văn. Cuối đời (1793), về sống ở Kyoto và mất năm 1809, trong nghèo túng, vợ chết, không con cái và hầu như mù. Tên tuổi Ueda Akinari gắn liền với văn xuôi Nhật Bản cận đại. Ảnh hưởng của ông rất sâu đậm đối với Kyokutei Bakin (1767-1848), tiểu thuyết gia số một thời Edo và những thế hệ đi sau (3). Phần ông thì chịu ảnh hưởng của các tiểu thuyết gia đời Minh như La Quán Trung (4), Phùng Mộng Long (5) ... Riêng Hẹn Mùa Hoa Cúc đã mượn đề tài truyện " Phạm Cự Khanh Kê Thực Sinh Tử Giao " (6) sưu tập trong tiểu thuyết bạch thoại Trung Quốc của họ Phùng, Cổ Kim Tiểu Thuyết, quyển thứ 16. Akinari thích viết truyện quái đản vì nó là loại văn phổ biến nhất trong quần chúng đương thời nhưng có thể một phần do bản chất thần bí của chính ông. Suốt đời, ông hay viếng đền thần chồn Inari vì tin thần đã cứu mạng lúc mình lâm bạo bệnh. Giáo sư René Sieffert đã dịch truyện nầy sang Pháp văn (xem Le Rendez-vous aux Chrysanthèmes trong Contes de pluie et de lune, Unesco, Folio, Paris, 1956). Xin để ý lời văn trong truyện nầy tuy có dụng công nhưng chung qui rất thô phác, cổ kính, ngay khi đã được chuyển ra kim văn. Niên hiệu An Vĩnh (An-ei, 1772-1781) bên Nhật, lúc tác phẩm ra đời, tương đương với thời Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phù Lê diệt Trịnh ở nước ta. Mời các bạn đón đọc Hẹn Mùa Hoa Cúc của tác giả Ueda Akinari.
Lồng Đèn Hoa Mẫu Đơn - Lafcadio Hearn
Ngày xưa ở quận Ushigome, vùng Yedo, có một hatamoto tên là Iijima Heizayemon, người mà cô con gái độc nhất, Tsuyu, có một sắc đẹp thanh khiết như Sương Mai, hệt như ý nghĩa của tên nàng. IIijima cưới người vợ thứ khi con gái của mình khoảng mười sáu tuổi; và, thấy rằng O-Tsuyu không thể vui sống với mẹ kế, ông cho người xây một dinh thự xinh xắn ở Yanagijima cho con gái ra riêng, và cấp một tỳ nữ giỏi dang, tên là O-Yone, để hầu hạ nàng. O-Tsuyu sống hạnh phúc trong căn nhà mới của mình cho đến một ngày kia, y sĩ của gia đình, ông Yamamoto Shijo, viếng thăm, đi cùng một chàng võ sĩ đạo trẻ tuổi tên là Hagiwara Shinzaburo, nhà ở khu Nedzu. Shinzaburo là một thanh niên tuấn tú khác thường, và rất phong nhã, và hai người trẻ tuổi đã yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên. Ngay cả trước khi cuộc viếng thăm chấm dứt, họ đã tìm được cách thề ước trọn đời bên nhau -- mà vị lương y không hay biết. Và, khi chia tay, O-Tsuyu khẻ nói với chàng tuổi trẻ, -- "Nhớ nhé! Nếu chàng không quay lại, chắc thiếp sẽ chết mất!" Shinzaburo không bao giờ quên những lời này; và chàng nóng lòng gặp gỡ O-Tsuyu. Nhưng lễ giáo không cho phép chàng một thân một mình đến thăm nàng: chàng bắt buộc phải chờ một dịp khác để tháp tùng người y sĩ, ông đã hứa sẽ dẫn chàng đến dinh thự ấy một lần nữa. Thật chẳng may, ông lão không giữ lời. Ông đã nhận biết tình cảm bộc phát của O-tsuyu; và ông sợ rằng thân phụ của nàng sẽ buộc ông nhận trách nhiệm cho bất kỳ hậu quả nghiêm trọng nào. Iijima Heizayemon đã lừng danh với thói chặt đầu. Và càng nghĩ đến những hậu quả có thể xảy ra vì đã giới thiệu Shinzaburo đến dinh thự Iijima, ông càng lo sợ. Do đó ông cố tình không nhắn gọi người bạn trẻ của mình. Nhiều tháng trôi qua, và O-Tsuyu, không biết lý do thực sự việc trễ nãi của Shinzaburo, tin rằng tình của mình bị rẻ rúng. Rồi ôm nỗi khổ sầu, nàng phát bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu, O-Yone tỳ nữ trung thành của nàng, cũng mất theo vì thương tiếc tiểu thư của mình; và hai người được chôn cất bên nhau trong nghĩa trang của Shin-Banzui-In, một ngôi chùa cho đến nay vẫn tồn tại ở ngoại ô Dango-Zaka, nơi lễ hội hoa cúc nổi tiếng diễn ra hàng năm. ... Mời các bạn đón đọc Lồng Đèn Hoa Mẫu Đơn của tác giả Lafcadio Hearn.
Đêm Đen Buông Xuống - Dean Koontz
Dean Koontz, sinh ngày 9 tháng 7 năm 1954 tại Everett, Pennsylvania, Hoa Kỳ. Ông tốt nghiệp Đại học Shippensburg Pennsylvania vào năm 1967, sau đó ông là giáo viên dạy tiếng Anh tại trường trung học Mechanicsburg ở Mechanicsburg, Pennsylvania. Là nhà văn chuyên viết về thể loại li kì, khoa học viễn tưởng. Ông viết viết tiểu thuyết để người đọc quên mình và rơi vào thế giới đầy mạo hiểm và kinh dị, giao dịch với thế giới khoa học viễn tưởng, du lịch vượt thời gian, đồng hành cùng kẻ giết người... Một số tiểu thuyết của Dean Koontz được New York Times đánh giá là một trong những sách bán chạy nhất (Lightning, Midnight, Cold Fire, Hideaway, Dragon Tears, Intensity và Sole Survivor)... Sớm nổi tiếng trong sự nghiệp của mình, Dean Koontz đã viết dưới nhiều bút danh, bao gồm: Deanna Dwyer, K. R. Dwyer, Aaron Wolfe, David Axton, Brian Coffey, John Hill, Leigh Nichols, Owen West, Richard Paige, Leonard Everett. Có thể cái tên Dean Koontz không đủ để gợi nhắc cho người đọc biết ông là ai, nhưng những cuốn sách của ông lại vô cùng quen thuộc với độc giả. Dean Koontz có một sự nghiệp văn học đồ sộ với hàng chục tiểu thuyết và truyện ngắn, bao gồm cả tiểu thuyết viễn tưởng. Những tác phẩm của ông đã bán được hơn 450 triệu bản trên toàn thế giới kể từ lần xuất bản đầu tiên năm 1968. Những tác phẩm đã xuất bản tại Việt Nam: Frankenstein, Giao Lộ Sinh Tử (Odd Thomas #1), Bóng Ma Trong Gương (The Face), Đêm Đen Buông Xuống (Dark Fall) Thập Đại Tùng Thư - 10 Đại Hoàng Đế Thế Giới *** 1 giờ 12’ sáng thứ tư ngày 8 tháng 12. Penny Dawson thức giấc và nghe trong đêm có một tiếng động vụng trộm lén lút. Bé tưởng mình vẫn đang mơ. Lúc nãy, trong giấc ngủ bé đã mơ thấy các chú ngựa và đó là giấc mơ tuyệt vời nhất trong suốt quãng đời ngắn ngủi mười một năm của bé. Bé cố ngủ lại để trở về với giấc mơ dịu dàng đó, nhưng tiếng động lạ thường làm bé khiếp sợ. bé thầm nghĩ: Hẳn đó chỉ là tiếng động gây ra bởi con ngựa trong giấc mơ của bé hoặc tiếng rơm rạ trong chuồng ngựa và chẳng có gì để phải hốt hoảng. Tuy vậy, ý nghĩ đó không làm bé an tâm; bé không thể tin cái tiếng động lạ lùng đó xuất phát từ giấc mơ và vì thế bé sực tỉnh hẳn. Tiếng động đó xuất phát từ giường Davey ở cuối căn phòng! Nhưng đó chẳng phải là tiếng khò khè của đứa bé trai đang ngủ sau bữa ăn tối no nê. Đó là thứ tiếng xuẫn động, vờ vĩnh. Rõ ràng là thế. Penny thầm nghĩ: Không biết thằng bé đang giở trò gì đây? Cô bé ngồi dậy và nhướng mắt nhìn vào bóng đêm dày đặc nhưng không thể trông thấy gì. Bé ngẩng đầu, lắng tai nghe ngóng. Sự tĩnh mịch của đêm bị phá vỡ bởi tiếng rì rào, một tiếng thở dài. Rồi im bặt. Penny nín thở, cố lắng tai nghe cho rõ. Một tiếng rít. Rồi một thứ tiếng giống như tiếng cào hoặc tiếng cọ xát. Tối đen như mực, nhưng cửa phòng vẫn để hé mở. Hai đứa bé luôn để cửa mở khi ngủ để cha chúng có thể nghe thấy tiếng, trong trường hợp chúng thức giấc và gọi bố. Tuy nhiên, mọi ngọn đèn trong căn hộ đều tắt cả. Penny gọi nhỏ: — Davey? Không có tiếng trả lời. — Davey, em đó hả? Hou-Hou. Hou-Hou... — Thôi đi Davey! Vẫn không có tiếng trả lời. Penny thầm nghĩ: Bọn nhóc bảy tuổi quá tinh nghịch đến mức không thể chịu nổi. cô bé nói: — Nếu em còn tiếp tục chơi cái trò ngu xuẩn đó thì em sẽ biết tay chị! Một tiếng động khô khốc, tựa như chiếc lá vàng bị bàn chân ai giẫm và thứ tiếng động đó đang tiến gần lại. — Này Davey, chớ có làm trò quỷ quái! Và tiếng động lại càng gần hơn! Một cái gì đó đang đi ngang qua căn phòng, hướng về cái giường. Penny biết đó không phải Davey bởi thằng bé còn quá nhỏ để có thể đùa dai ở mức độ tài tình như vậy. Tim Penny đập nhanh trong lồng ngực khi cô bé cho rằng đây có thể là mơ, tựa như giấc mơ về ngựa ban nãy, nhưng lần này thì không êm ái chút nào. Nhưng đồng thời Penny biết rõ mình đang tỉnh. Cô bé chảy nước mắt khi nhìn chăm chăm vào bóng tối. Bé đưa tay bật cây đèn ngủ ở đầu giường nhưng trong một lúc lâu, bé không tìm được công tắc. Bé vô vọng sờ soạng trong bóng tối. Giờ đây, có thứ âm thanh êm nhẹ đang phát ra cạnh giường bé. Cái vật đó đang ở rất gần! Cuối cùng, bàn tay bé đã chạm được công tắc đèn. Ánh sáng tỏa xuống giường và sàn nhà. Chẳng thấy một sinh vật đáng sợ nào trong vùng sáng cả. Tuy sánh sáng không đủ mạnh để đẩy lùi toàn bộ bóng tối nhưng cũng đủ để Penny hiểu rằng chẳng có gì nguy hiểm và đáng sợ. Ở giường bên kia, Davey đang ngủ ngon lành. Penny không còn nghe thấy tiếng động lạ nữa. Nhưng bé đã biết đây không phải mình tưởng tượng và bé cũng không phải loại người chỉ biết tắt đèn rồi trùm kín chăn để quên đi mọi chuyện. Bố thường bảo bé là người tò mò nhất trên đời mà! Và thế là bé tung chăn, ra khỏi giường và đứng lặng im để nghe ngóng. Không một tiếng động. Penny bước về phía giường Davey để nhìn kỹ thằng bé hơn. Ở đây tuy không sáng lắm, nhưng đủ để bé thấy Davey đang ngủ say. Penny cúi người để xem đôi mi của Davey có xao động không và cô bé biết thằng bé không hề giả vờ ngủ. Tiếng động lại phát ra từ phía sau Penny. Cô bé quay phắt lại. Lúc này, tiếng động phát ra từ dưới giường. Đó là thứ tiếng nghe như tiếng rít, tiếng cào cào hoặc như tiếng cái lúc lắc ngân lên nhè nhẹ, không ồn lắm những cũng chẳng êm tai. Cái vật dưới giường hình như hiểu rõ Penny đang nghĩ gì và nó cố ý gây ra tiếng động để trêu chọc, dọa dẫm bé! Penny nghĩ thầm: Hẳn vật đó không phải ông Ba Bị đi. Chuyện ông ba bị chỉ mỗi Davey mới tin...chứ Penny này thì lớn rồi mà. Chắc là con chuột. Đúng vậy! Penny cảm thấy đôi chút nhẹ nhõm. Bé không thích chuột, nhất là khi chúng chui xuống giường để phá phách. Nhưng một chú chuột nhắt thì không việc gì phải sợ chứ! Penny đứng như thế một lúc, tự hỏi bây giờ mình nên làm gì. Cuối cùng bé nghĩ đến bố. Penny không muốn đánh thức bố dậy khi mà bé chưa biết chắc đó có phải chuột hay không. Nếu bố sang mà không nhìn thấy con chuột nào chẳng phải mất mặt lắm sao? Trong hai tháng nữa, bé sẽ được mười hai tuổi và điều mà bé ghét nhất là bị xem như con nít. Bé biết mình không thể nhìn xuống dưới giường bởi dưới đó quá tối, đã vậy còn bị chăn mền che khuất. Vật dưới giường (hay con chuột) rít lên rồi phát ra tiếng ùng ục như tiếng người, thứ tiếng khàn đục, lạnh lùng, hung dữ, như muốn nói với Penny bằng một thứ ngôn ngữ mà cô bé không thể hiểu. Penny thắc mắc, không biết con chuột có thể gây ra tiếng động như vậy chăng? Rồi bé nhìn sang Davey. Thằng nhóc đang ngủ, nơi góc tường cạnh giường nó là cây gậy bóng chày bằng nhựa. Penny cầm lấy. Dưới giường, cái tiếng động lạ lùng khó chịu đó – thứ tiếng rít – cào – cọ xát – vẫn liên tục vang lên. Penny đi về phía giường và quỳ xuống. Bé cầm gậy bóng chày trong tay, hất mớ chăn mền lên. Không thể nhìn thấy gì: dưới giường tối thui như hang động. Tiếng động ngưng hẳn. Penny cảm thấy khiếp đảm. Bé tưởng chừng như có cái gì đó núp trong bóng tối rình rập bé ... một cái gì đó không phải chuột ... Một cái gì đó biết rằng bé chỉ là đứa bé gái nhỏ ... Một cái gì đó quỷ quái, xảo trá, có thể vồ lấy bé mà nuốt chửng! Rồi bé thầm nghĩ: Đó chỉ là ý tưởng của một đứa con nít! Bé cắn môi, dứt khoát không thể cam chịu như vậy. Rồi bé dùng gậy bóng chày quơ lung tung dưới giường nhằm để con chuột kêu lên hoặc buộc nó phải chạy ra. Khổ nỗi, có cái gì đó đã bấu vào đầu cây gậy! Penny cố đẩy nó ra nhưng không thể được. Bé cố lắc mạnh cây gậy, vặn vẹo đủ kiểu nhưng không bứt ra được. Thế rồi bỗng nhiên, cây gậy vuột khỏi tầm tay bé và biến mất dưới giường trong một tiếng động khô đục. Penny ngã bật ra sau, chạm vào giường Davey, vậy mà bé tưởng mình bất động. chỉ mới vài giây trước, bé đã quỳ bên giường Davey nhìn thằng nhóc ngủ. Vậy mà bây giờ, đầu bé đập xuống trên tấm nệm của giường nó. Trong giấc ngủ, Davey ú ớ vài tiếng, thở dài rồi lại tiếp tục say ngủ. Dưới giường Penny, chẳng còn một tiếng động nào nữa. Giờ đây, Penny đang nghĩ đến chuyện kêu cứu bố. Cô bé gào lên nhưng tiếng kêu chỉ vang vang trong tâm trí. ‘Ba, ba, ba ơi!’, không một thanh âm nào thoát ra. Trong phút chốc bé hoàn toàn chết lặng. Ánh đèn bỗng dưng nhấp nháy. Sợi dây đèn được cắm vào một ổ điện phía sau giường và cái vật đó đang tìm cách rút sợi dây. “Ba!” Penny rốt cuộc thốt lên nhưng chỉ là tiếng thì thào bị bóp nghẹn. Cây đèn nhấp nháy một lúc rồi tắt ngấm. Một lần nữa, căn phòng lại chìm vào bóng tối. Penny nghe có sự chuyển động. Cái vật đó đã ra khỏi gầm giường và chạy trên sàn. “Ba ơi!”, Penny lại gào lên. Nhưng vẫn chỉ là tiếng thều thào. Cổ họng cô bé khô khốc. Bé cố nuốt nước bọt để cổ họng thông thoáng. Có tiếng ken két. Nhìn chăm chăm vào bóng đèn bằng đôi mắt sợ hãi, Penny bắt đầu run rẩy và thốt lên những tiếng kêu nho nhỏ. Thế rồi bé hiểu ra rằng tiếng ken két là tiếng cái bản lề cửa bị khô dầu. Bé đoán rằng cái cửa đang chuyển động tuy không nhìn thấy, cánh cửa vốn hé mở và giờ đây, nó được mở toang. Không còn tiếng ken két cũng như cái tiếng rít – cào bí ẩn đó đang xa dần. Dẫu sao, cái vật đó sẽ không tấn công bé. Bây giờ, nó đang ở ngưỡng cửa. Bây giờ, nó đang ở ngoài hành lang. Bây giờ, nó đang cách cánh khoảng ba bốn bước. Và ... nó đi rồi! Những giây phút trôi qua chậm như cả thế kỷ. Đó không phải chuột, cũng không phải mơ. Thế thì là cái gì nhỉ? Cuối cùng, Penny nhổm dậy. Đôi chân bé mềm nhũn. Bé bước đi, dò dẫm trong bóng tối để tìm cây đèn ngủ ở đầu giường Davey. Công tắc phát ra tiếng kêu “tách" và ánh sáng tỏa xuống đứa bé trai đang ngủ. Penny vội vàng đưa tay đẩy chụp đèn sang một bên. Rồi bé đi về phía cửa, đứng im mà lắng nghe. Tất cả đều im lặng. Vẫn còn run rẩy, bé đóng cửa lại rồi chùi hai tay ướt đẫm mồ hôi vào áo ngủ. Giờ đây căn phòng đã đủ sáng để bé có thể trở lại giường. Bé khom người nhìn xuống dưới giường một lần nữa. Chẳng còn gì đáng sợ nữa rồi. Bé cầm lấy cây gậy bóng chày: đầu cây gậy đã bị khoét sâu bởi những lỗ nhỏ. Penny thắc mắc không hiểu nó bị đục thủng bởi cái gì? Móng vuốt à? Penny vặn người để cắm lại sợi dây đèn đã bị rời ra khỏi ổ. Rồi bé tắt cây đèn ngủ trên đầu giường Davey. Ngồi ở đầu giường, bé nhìn chăm chăm cái cửa đang đóng kín một lúc. Cuối cùng bé thốt lên: “Chuyện gì đã xảy ra vậy nhỉ?" Càng suy nghĩ bé càng thấy sự việc vừa xảy ra thật không thực tế. Có thể cây gậy bóng chày đã bị vướng trong giắt lò xo giường và bị mớ đinh ốc ở đó đâm thủng chăng? Còn cái cửa có thể bị gió đẩy ra cũng không chừng? Có thể lắm chứ ... Cuối cùng, không dằn được sự tò mò, bé đứng dậy, đi ra hành lang, bật đèn sáng rồi cẩn thận đóng cửa lại. Yên lặng ... Như thường lệ, cánh cửa phòng bố vẫn mở hé. Bé thò đầu vào nghe ngóng. Có tiếng ngáy đều đều của bố, ngoài ra chẳng còn tiếng động gì khác lạ. Một lần nữa, bé nghĩ liệu mình có nên đánh thức bố dậy không. Bố là sỹ quan cảnh sát: trung úy Jack Dawson. Và bố có súng. Nếu thực sự căn hộ này bị xâm nhập thì bố sẽ bắn kẻ thù ngay. Nhưng nếu bé đánh thức bố rồi sau đó không phát hiện được gì thì bố sẽ xem bé như trẻ con cho xem. Nếu thế thì xấu hổ lắm! Nghĩ đến đó, bé thở dài và trở về phòng. Hồi hộp, bé đi dọc hành lang, đến cửa chính để kiểm tra: cửa đã khóa kỹ. Nơi mắc áo gắn trên tường, gằn cửa, có treo cây dù. Bé cầm lấy nó, chĩa cái mũi nhọn về phía trước, đi vào phòng khách, bật sáng đèn và quan sát mọi nơi. Rồi bé sang phòng ăn và căn bếp nhỏ hình chữ L. Không có gì khác thường cả. Phía trên bồn rửa chén, cửa sổ để mở. Không khí lạnh tháng mười hai len qua khe hở khoảng vài chục phân thổi vào. Penny biết rõ cái cửa sổ này đã được đóng lại và cài chốt lúc chập tối, trước khi cô bé đi ngủ. Bé biết chắc như thế. Nếu sau đó bố có mở ra để hít thở đôi chút khí trời thì hẳn bố đã đóng lại rồi. Kéo chiếc ghế lại gần bồn rửa chén, bé leo lên đẩy cửa để có thể nghiêng người nhìn ra ngoài. Cơn gió lạnh buốt khiến bé nhăn mặt. Mọi vật đều yên tĩnh. Dọc theo tòa nhà, gần cửa sổ phòng ngủ, có một cái thang cấp cứu bằng sắt chạy thẳng xuống con hẻm. Nhưng phía căn bếp thì chẳng có thang cũng chẳng có mép tường. Chẳng một phương tiện khả dĩ để cho kẻ trộm có thể leo lên hoặc bám vào để xâm nhập cả. Bé biết thứ tiếng động phát ra lúc nãy không phải do trộm bởi hắn không thể nào núp dưới giường của bé được. Penny đóng cửa sổ lại, đặt chiếc ghế vào chỗ cũ. Bé miễn cưỡng cất cây dù. Luyến tiếc phải rời bỏ vũ khí, bé tắt đèn và không dám nhìn về khoảng tối đằng sau. Bé về phòng, nằm xuống giường và kéo chăn lên cổ. Davey vẫn ngon giấc. Bên ngoài cửa sổ, gió đêm rít lên từng cơn. Xa xa có tiếng còi hụ thê lương của một xe cấp cứu. Penny ngồi dậy, tựa người vào gối kê, dưới vùng sáng che chở của ngọn đèn ngủ. Bé cảm thấy thiu thiu, muốn ngả lưng xuống nhưng lại sợ phải tắt đèn. Nỗi sợ làm bé khó chịu. Bé thầm nghĩ: Ta đã lớn rồi chứ? Kể từ khi mẹ mất, ta đã là người nội trợ cai quản gia đình mà. Khoảng mười phút sau, tự ái nổi lên, bé tắt đèn và ngã người xuống giường. Tuy vậy, tâm trí bé vẫn còn ray rứt. Bé thầm nghĩ: Đó là cái gì chứ? Bé chờ đợi ... Im lặng ... Rồi bé chìm vào giấc ngủ. ... Mời các bạn đón đọc Đêm Đen Buông Xuống của tác giả Dean Koontz.
Vị Khách Phòng 44 - Khang Tĩnh Văn
Hàng loạt vụ án mạng rùng rợn liên tiếp xảy ra trong một tiểu khu cao cấp dành cho giới trí thức, mang đến nỗi ám ảnh kinh hoàng không chỉ cho người dân mà còn cho cả chính quyền thành phố. Những bóng ma vật vờ, những xác chết kì bí, những bộ phận cơ thể người thối rữa thoắt ẩn thoắt hiện, tựa như đốm lửa ma trơi ngày ngày ám ảnh tâm trí người dân, làm đau đầu đội cảnh sát hình sự. Vị khách phòng 44 là ai? Tại sao cô luôn bị tiếng mèo kêu lúc nửa đêm đánh thức, luôn là người đầu tiên phát hiện ra những xác chết không toàn thây? Liệu trong tiểu khu này có thực sự tồn tại thứ gọi là ma quỷ hay đơn giản chỉ là âm mưu giết người của một tên bệnh hoạn? Sau khi bí mật được vén màn, bóng ma lộ diện, nỗi ám ảnh kinh hoàng liệu đã thực sự kết thúc? Không một ai biết, cho đến khi, tiếng mèo kêu lại lần nữa vang lên giữa màn đêm mờ mịt… *** Màn đêm mịt mù buông xuống, ngoài ánh đèn hắt ra từ tiểu khu, khắp nơi đều chìm trong một dải tối đen như mực, không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì. Hà Tích Mộ khoác một chiếc áo ngoài mỏng manh, cầm theo đèn pin, đi ra phía ngoài tiểu khu. Thục ra, cô chẳng muốn đi chút nào, nhưng không biết tiếng mèo đáng ghét ở đâu cứ kêu liên hồi, thứ âm thanh đó quả thực rất kì quái, giống hệt tiếng khóc của một đứa trẻ. Mặc dù đã cố gắng trấn định tâm trí, rằng không nên nghe hay nghĩ đến nó nữa, thậm chí còn cố tình nằm cuộn tròn, kéo chăn lên đỉnh đầu, thế nhưng âm thanh đó vẫn chiến thắng lí trí của cô. Từ khi mua căn nhà này, Hà Tích Mộ cảm thấy không có lúc nào được thảnh thơi. Ngay từ khi bắt đầu bày biện đồ đạc đã có rất nhiều sự việc kì quái xảy ra, khi ấy cô còn cho rằng đó chẳng qua chỉ là những chuyện tình cờ. Hai tháng sau, khi bắt đầu vào ở, cô mới phát hiện những chuyện kì quái đó không đơn giản chỉ là những sự trùng hợp ngẫu nhiên. Đặc biệt là tiếng mèo kêu lúc nửa đêm. Hà Tích Mộ không ghét mèo, chỉ là âm thanh này ngày nào cũng lặp đi lặp lại lúc nửa đêm đã giày vò cô đến mức nhức nhối khắp người, hầu như sáng nào cũng đi làm với cặp mắt thâm quầng như mắt gấu trúc. Không những thế, vì không ngủ đủ giấc nên cô đã gây ra không ít sai sót trong công việc, tạo cơ hội cho người quản lý tóm được điểm sơ hở, mỗi lần đến gặp cô đều mang theo cả xe tải những lời quở trách khiến cô vô cùng khó chịu. Hà Tích Mộ phát điên, hận bản thân không thể biến thành một con mèo để cào cấu, cắn xé con mèo đáng ghét kia một trận. Nhưng cô không có khả năng đó, cũng chẳng có nhiều thời gian và sức lực đến vậy. Sau vài đêm bị tiếng mèo kêu làm cho mất ngủ, Hà Tích Mộ bất đắc dĩ phải bò ra khỏi giường, muốn xem xem rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra. Hà Tích Mộ vốn là người hài hước, nhưng sau mười ngày sống ở tiểu khu, trải qua một số chuyện kì quái, tâm trạng vui vẻ của cô bỗng tan biến như mây khói. Ví dụ như, chỉ cần đặt chân đến nơi này là phanh xe của cô sẽ không hoạt động như bình thường nữa, từng có mấy lần suýt thì xảy ra tai nạn, may mà cô phản ứng kịp. Còn có lần, một chậu hoa vô duyên vô cớ bay thẳng vào trán cô, sưng một cục to tướng...Đương nhiên những chuyện kì quái đó đều xảy ra trước khi cô dọn đến ở. Điều quan trọng là mỗi lần đến tiểu khu này, Hà Tích Mộ luôn cảm thấy hình như có người nào đó đang nhìn chằm chằm về phía mình, nhưng khi cô quay đầu nhìn về hướng đó thì lại chẳng thấy bất cứ thứ gì. Lúc đầu, Hà Tích Mộ còn tự an ủi mình, cho rằng mình chỉ bị ảnh hưởng tâm lý, nhưng sau vài lần thấp thoáng thấy có chiếc bóng đằng sau lưng mình, cô thực sự tin rằng có người đang ở phía sau. Sau khi rời khỏi phạm vi ánh đèn chiếu rọi trong tiểu khu, Hà Tích Mộ thở hổn hển, mỗi bước chân đều phải dè chừng, cuối cùng thì cô cũng hiểu thế nào là cảm giác “như bước trên ... Mời các bạn đón đọc Vị Khách Phòng 44 của tác giả Khang Tĩnh Văn.