Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lịch Sử Nam Tiến Của Dân Tộc Việt (Trúc Khê)

Xét xem lịch sử mở mang bờ cõi của nước ta từ xưa đến nay, có thể gồm vào mà gọi là một cuộc nam tiến; vì trước sau ta chỉ nhằm tiến về một mặt nam mà thôi. Bởi sao mà như thế? Bởi vì địa thế của ta nó khiến như thế. Nước ta ngày xưa phía bắc giáp nước Tàu, phía nam giáp Chiêm, Lạp, phía đông giáp bể lớn, phía tây giáp Ai-lao. Ở giữa cái khoảng núi Tản sông Hồng kia nếu muốn khuếch trương bờ cõi cho rộng lớn thêm có đủ thế lực mà lập nên một nước đứng đắn ở Á-đông, trừ tiến về mặt nam không còn mặt nào hơn nữa. Bởi vì mặt bắc giáp nước Tàu là một nước rất lớn, lo chống chọi với họ để họ khỏi nuốt sống mình còn lo chưa nổi, mong gì khai thác về mặt ấy được; mặt đông thì đã giáp bể; mặt tây giáp với Ai-lao tuy là một nước nhỏ yếu,nhưng vì có nhiều núi cao rừng rậm ngăn cách, thành ra dẫu muốn mở mang về mặt ấy cũng chưa thể được; trừ ra chỉ còn mặt nam giáp với nước Chiêm-thành, nước Chiêm-thành lại giáp với nước Chân-lạp, vì cớ đường thuỷ, đường lục được tiện, vả hai dân ấy đều là dân nhỏ yếu có thể lấn át họ được, vì vậy mà sức bành trướng của dân tộc ta trước sau đều chỉ tràn về mặt nam. Tuy thế mặc lòng, sự khai thác bờ cõi, há có phải là một việc dễ đâu; huống chi dân Chiêm Lạp cũng không phải hoàn toàn là giống hư hèn, cũng là những cái dân đã từng có một nền văn-minh rất sớm, thế mà lấy như một dân tộc nhỏ ở trong mảnh đất Giao-chỉ nọ, ngày lần tháng nữa, đã nghiễm nhiên phá diệt được cả Chiêm-thành lẫn Chân-lạp mà dựng nên một nước lớn Việt-Nam, đủ biết cái công phu huyết hãn của các đứng tiên dân ta xưa, thực đã lớn lao vô cùng vậy.

Cứ như các nhà nhân-chủng-học thì bảo dân tộc ta thuộc giống Mông-cổ, song cỗi gốc từ đâu mà đến thì mỗi sách nói một khác không sao đủ bằng cứ được. Sách thì bảo dân ta là ròng rõi Tây-tạng, sách thì bảo là ròng rõi Giao-chỉ, sách thì bảo là ròng rõi Việt thường, sách thì bảo là ròng rõi nước Việt bên Tàu, tổng chi đều là những nhời ức đoán cả, chứ không lấy gì làm đích xác. Vậy chúng ta chỉ nên biết rằng chúng ta là riêng một dân tộc ở trong thế giới, tức ngày nay gọi là dân tộc Việt-nam.

Xét về cương vực nước ta đời Hùng dựng nước, đồ bản lúc ấy khác hẳn bây giờ; cứ như sử cũ thì nói bấy giờ phía đông giáp bể Nam, phía tây giáp Ba-thục (tỉnh Tứ-xuyên nước Tầu bây giờ) phía bắc hồ Đỗng đình (thuộc tỉnh Hồ-nam) phía nam đến nước Hồ-tôn (sau là Chiêm-thành), quốc hiệu là nước Văn-lang. Cuối đời Hùng-vương (258 trước tây lịch), Thục-Phán diệt nước Văn-lang dựng nước Âu-lạc, tức là Thục An-dương-vương. Năm Đinh Hợi (214 trước T.L) nước Âu-lạc bị nước Tần đem quân sang lấn, lấy đất Lục lương mà đặt ra 3 quận: Nam-hải (Quảng-đông) Quế-lâm (Quảng-tây) Tượng-quận (Quảng-tây) 1. Cuối đời Tần (207 trước T.L) quan Úy quận Nam-hải nhà Tần là Triệu-Đà đêm quân diệt nước Âu-lạc mà dựng nên nước Nam-Việt, xưng là Triệu Vũ-vương, đất cát gồm có 3 quận trên và cả đất của Thục An dương vương. Năm Canh ngọ (111 trước T.L) đời Thuật dương vương nhà Triệu, nước Nam-Việt bị nước Hán diệt mất, thế là từ đó phải nội thuộc về Tầu. Đời Hán Quang-Vũ năm Kiến-vũ thứ 16 (Tây lịch 40) vua Trưng giấy quân đuổi quan Thái-thú nhà Hán là Tô-Định, lấy lại được 65 thành đất Lĩnh-nam. Cứ theo như sách Thoái thực ký văn của cụ Trương Quốc Dụng chép thì nói nước ta sau khi nội thuộc về nhà Tây-Hán, nhà Hán chia đất đặt ra 9 quận là Nam-hải, Uất-lâm, Thương ngô, Hợp-phố, Nhật-nam, Cửu-chân, Giao-chỉ, Đam-nhĩ, Châu-nhai mà gọi chung là bộ Giao-chỉ, sau lại bãi 2 quận Châu-nhai Đam-nhĩ mà hợp vào làm 7 quận, quận Giao-chỉ lĩnh 12 thành, (tức là huyện), quận Cửu-chân lĩnh 5 thành, quận Nhật-Nam lĩnh 5 thành, quận Nam-hải lĩnh 7 thành, quận Thương-ngô lĩnh 11 thành, quận Uất-lâm lĩnh 11 thành, quận Hợp-phố lĩnh 5 thành, cả thẩy là 56 thành; vậy thì Đại-Việt sử ký chép là vua Trưng đánh đuổi Tô-Định lấy được 65 thành, có lẽ là số 56 mà nhầm là 65 chăng? Như thế thì đời vua Trưng cũng có thu phục được cả Quảng-đông Quảng-tây vậy.

Sau khi vua Trưng mất nước, nước ta lại nội thuộc về nhà Đông-Hán. Năm Kiến-an thứ 15 (210) đời Hán Hiến-đế, nhà Hán đổi bộ Giao-chỉ mà đặt làm Giao-châu. Năm Hoàng-vũ thứ 5 (266) nhà Ngô, Ngô-Tôn-Quyền cắt 3 quận Nam hải, Thương-ngô, Uất-lâm lập làm Quảng-châu, còn 4 quận kia vẫn để làm Giao-châu, nhưng không bao lâu lại hợp lại như cũ. Đến năm Vĩnh-an thứ 7 (264) Ngô-Tôn-Hưu lại lấy 3 quận trước mà đặt làm Quảng châu, châu Giao châu Quảng chia hẳn ra bắt đầu từ đấy, mà chính là khởi điểm cho sự mất đi quá nửa phần đất của nước ta vậy. Từ đấy về sau trải qua mấy phen cách mệnh, nhưng người mình cũng chỉ khôi phục được đất châu Giao mà thôi; đến đời Ngô, Đinh độc lập mà đất châu Quảng đã không còn mong gì khôi phục lại được nữa.

Mở xem bản đồ thì nước ta mất đất châu Quảng tức là mất đi quá nửa phần nước, cương vực chỉ còn quanh một xứ Bắc-Kỳ và 3 tỉnh Thanh, Nghệ Tĩnh phía Bắc Trung-kỳ mà thôi. Đất thì nhỏ hẹp mà số dân sinh sản một ngày một nhiều, sự thế không thể không tìm đường bành trướng. Như trên đã nói, ba mặt đông tây bắc không phải là con đường có thể tiến được, tự nhiên là phải tiến xuống mặt nam, huống chi những dân Chiêm-Thành, Chân-Lạp ở mặt nam lại thường hay vào quấy nhiễu nước ta, ta chẳng diệt họ thì họ cũng chẳng để cho ta được yên, nhân thế mà nam tiến là một con đường phải đi của ta, mà sự mở mang bờ cõi của nước ta gồm cả ở trong một cuộc nam tiến vậy. Tìm mua: Lịch Sử Nam Tiến Của Dân Tộc Việt TiKi Lazada Shopee

Nay xin lần lượt chép về cuộc nam tiến ấy. Đời vua Lê Đại-Hành niên hiệu Ứng thiên năm thứ 8 (1000) bấy giờ vì nước Chiêm-Thành bắt giam sứ-giả nước ta là bọn Từ-Mục, Ngô-Tử, vua giận, tự làm tướng đem quân vào đánh chém được tướng Chiêm là Ti-mi-thuế, Chiêm-vương phải bỏ chạy, quân ta lấy được vàng bạc của cải rất nhiều. Vua Đại-Hành lại sai Ngô-Tử-Yên đem 3 vạn quân mở một con đường đi bộ từ cửa bể Nam-giới cho đến châu Đại-lái (đất Chiêm, nay là phủ Quảng ninh thuộc tỉnh Quảng-bình). Lại đào một con sông từ núi Đồng-cổ cho đến con sông Bà-hoà tức là con sông ở xã Đồng-hoà, huyện Ngọc-sơn bây giờ. Ấy tức là khởi đầu cho bước đường nam tiến của dân tộc ta, vì có hai đường thuỷ lục ấy thì quân ta vào đánh Chiêm-Thành mới được tiện đường vận tải vậy.

Nói đến nước Chiêm-Thành tưởng cũng nên thuật về lịch-sử của nước ấy. Nước Chiêm-Thành khi xưa là nước Hồ-Tôn, thuộc về bộ Việt-Thường. Đến nhà Tần đặt làm huyện Lâm-Ấp. Nhà Hán lại đổi làm huyện Tượng-Lâm thuộc về quận Nhật-Nam. Đến thời vua Thuận-Đế nhà Hán năm Vĩnh-Hoà thứ 2 (137) người trong quận ấy tên là Khu-Liên đương làm chức Công-Tào, bèn giết quan huyện lệnh mà giữ lấy đất tự xưng là Lâm-ấp-vương. Truyền được vài đời rồi cháu ngoại là Phạm-Dật kế lập, Dật mất, người tướng là Phạm Văn cướp ngôi 2 rồi đánh lấn lấy đất nước láng giềng. Từ đó nước mới rộng lớn, Đông Tây rộng 700 dặm. Nam Bắc dài 3000 dặm, phía nam gọi là châu Thi Bị, phía tây gọi là châu Thượng Nguyên, phía Bắc gọi là châu Ô lỵ, thống trị cả thẩy 38 châu.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lịch Sử Nam Tiến Của Dân Tộc Việt PDF của tác giả Trúc Khê nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đông Chu Liệt Quốc (Phùng Mộng Long)
Tuyệt tác văn chương phản ánh một gia đoạn 550 năm bão táp của lịch sử Trung Hoa từ Xuân Thu đến Chiến Quốc, hàm chứa những vấn đề phổ biến và sâu xa của nhân loại. Bộ tiểu thuyết sánh ngang cùng với Tam quốc diễn nghĩa, vượt lên đứng đầu những bộ tiểu thuyết lịch sử thời Minh - Thanh. “Đọc bộ sách này bằng mấy mươi sách khác” - Khuyết danh “…Một bức họa bao la về một thời kì lịch sử cổ đại rộng lớn của Trung Hoa” - Cao Xuân Huy “Đọc Đông Chu liệt quốc, người đọc sẽ thích thú được biết những điều bí mật trong cung đình mà sử sách nhà nước xưa không bao giờ nói đến” - Lê Huy Tiêu và Lê Đức NiệmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đông Chu Liệt Quốc PDF của tác giả Phùng Mộng Long nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đông Chu Liệt Quốc (Phùng Mộng Long)
Tuyệt tác văn chương phản ánh một gia đoạn 550 năm bão táp của lịch sử Trung Hoa từ Xuân Thu đến Chiến Quốc, hàm chứa những vấn đề phổ biến và sâu xa của nhân loại. Bộ tiểu thuyết sánh ngang cùng với Tam quốc diễn nghĩa, vượt lên đứng đầu những bộ tiểu thuyết lịch sử thời Minh - Thanh. “Đọc bộ sách này bằng mấy mươi sách khác” - Khuyết danh “…Một bức họa bao la về một thời kì lịch sử cổ đại rộng lớn của Trung Hoa” - Cao Xuân Huy “Đọc Đông Chu liệt quốc, người đọc sẽ thích thú được biết những điều bí mật trong cung đình mà sử sách nhà nước xưa không bao giờ nói đến” - Lê Huy Tiêu và Lê Đức NiệmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đông Chu Liệt Quốc PDF của tác giả Phùng Mộng Long nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đội Cấn Khởi Nghĩa (Nguyễn Quỳnh)
Chuyện kể về nghĩa quân Đội Cấn và khởi nghĩa Thái Nguyên vào những năm đầu thế kỉ 20. Đội Cấn, hay Ông Đội Cấn (1881 - 11 tháng 1 năm 1918) là biệt danh của Trịnh Văn Cấn, một thủ lĩnh trong cuộc binh biến chống chính quyền thực dân Pháp tại Thái Nguyên năm 1917. Ông tên thật là Trịnh Văn Đạt, sinh năm 1881, người làng Yên Nhiên, phủ Vĩnh Tường, nay thuộc xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Nhà nghèo, năm 1910, ông đăng lính khố xanh thay cho anh trai với cái tên là Trịnh Văn Cấn, sau thăng dần lên chức đội lính khố xanh trong cơ binh Pháp đóng ở Thái Nguyên, vì thế ông được gọi là Đội Cấn.Đội Cấn và các chiến hữu đã làm chủ Thái Nguyên được 5 ngày. Sáng ngày 5 tháng 9 năm 1917, nhà cầm quyền Pháp điều 2 ngàn quân lên Thái Nguyên đàn áp. Ngay từ trong những phút đầu Lương Ngọc Quyến bị tử thương do bị trúng mảnh đạn pháo vào đầu (có tài liệu chép ông tự sát vì bị giam giữ quá lâu nên không thể vận động và không muốn ảnh hưởng đến việc rút quân). Do lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân đành phải rút quân ra ngoài thị xã trong đêm đó, rút về vùng núi Tam Đảo, giáp Vĩnh Yên, xây dựng căn cứ chống giữ. Đội Cấn và nghĩa quân cầm cự được hơn 5 tháng. Ngày 11 tháng 1 năm 1918, trong một cuộc phản kích quân Pháp tấn công lên căn cứ tại núi Pháo, nay thuộc huyện Đại Từ, nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, bản thân Đội Cấn bị thương nặng. Để không rơi vào quân Pháp, ông đã tự bắn vào bụng tự sát.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đội Cấn Khởi Nghĩa PDF của tác giả Nguyễn Quỳnh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Định Tường - Xưa Và Nay (Huỳnh Minh)
Mỹ Tho cảnh vật nên thơDệt tình luyến ai bên bờ Long Giang.Khoa Huân tô đậm son vàngTrong Nam Quốc sử rỡ ràng Rồng TiênDanh còn vang dội sơn xuyên Tìm mua: Định Tường - Xưa Và Nay TiKi Lazada Shopee Ngũ Linh Thiên Hộ oai rền muôn thuCồn Phụng rạng tiếng nhà tuNghìn phương mây gió phiêu du đồng vềGió chiều thổi nhẹ lê thêAi người trĩu nặng tình quê Định TườngMau về giải kiếp song phương Trên đường sưu tầm xuyên qua các tỉnh miền Nam tiền giang và hậu giang đã xuất bản như Kiến Hòa xưa và nay, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long, Gò Công nay trở lại tìm hiểu đất đai và nhân vật tỉnh Định Tường qua nhiều khía cạnh, lịch sử, địa lý, danh nhân, di tích, huyền thoại, sinh hoạt v.v... Định Tường từ xa xưa vẫn là một tỉnh lớn trong sáu tỉnh của miền Nam. Tuy có kém quan trọng về mặt hành chánh, vì rất nhiều cơ quan đầu não thiết lập tại Vĩnh Long, nhưng Định Tường lại rất trọng yếu về mặt quân sự. Những địa danh vang lừng về quân sự như Rạch Gầm, Nguyễn Huệ đại phá quân Xiêm, Đồng tháp Mười gắn liền với những tên tuổi lớn Thủ Khoa Huân, Thiên hộ Dương, Lãnh binh Cẩn, có những trang sử oai hùng làm tăng phần quan trọng của Định Tường chẳng nhỏ. Lại nữa, bao nhiêu nhân vật ưu tú của miền Nam, sau khi sáu tỉnh Nam Kỳ thuộc Pháp, lui về sống đời ẩn dật để bảo tồn tiết tháo của bậc sĩ phu, rải rác ở các nơi Thuộc nhiêu, Vĩnh Kim, Cai lậy, càng làm đẹp cho phong khí Định Tường. Đến ngày nay, nhắc lại những Phan Hiển Đạo, Phạm Viết Chánh, Học Lạc, Cử Đa, Mai văn Ngọc, yêu mến các sĩ phu ấy bao nhiêu, ắt lòng càng trìu mến quê hương xứ Mỹ bấy nhiêu. Nhân tài Định Tường về sau và gần đây cũng đều lỗi lạc. Về mọi ngành, đều có người xứng đáng làm tiêu biểu. Như cổ nhạc có nhạc sĩ Trần văn Triều tức bảy Triều xuất sắc, văn học thì có Nguyễn văn Bá, Cao hải Để, Lương khắc Ninh v.v... Riêng về giới phụ nữ, thuở trước có Sương Nguyệt Ánh, về sau có Trần ngọc Diện đều là những người có tài uy tín đạo đức cao, đóng góp tâm huyết để điểm tô trang sử Định Tường đậm nét huy hoàng. Nhìn quá trình lịch sử của tỉnh Định Tường, lắm điều vẻ vang khiến được các thế hệ sau tin tưởng ở khí thiêng non nước đã chung đúc vào mảnh đất « địa linh nhơn kiệt » ấy. Dù không nhiều danh lam thắng cảnh, nhưng những vườn dừa tươi tốt, vườn cây trái xum xuê, nước sông Cửu Long êm đềm, tất cả giúp Định Tường có bộ mặt khả ái nên thơ và quyến rủ du khách. Rồi đây với những chương trình kiến thiết quy mô, trong tương lai tỉnh Định Tường càng nhiều hứa hẹn. Chúng tôi không dám tự phụ sưu tầm đầy đủ, không bỏ sót một khía cạnh nào. Nhưng với tất cả cố gắng của chúng tôi, cuốn sách này ít nữa cũng giúp cho quý vị có một quan niệm tổng quát về tỉnh Định Tường trong dĩ vãng và hiện tại.HUỲNH MINHDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Huỳnh Minh":Bạc Liêu XưaCần Thơ Xưa Và NayĐịnh Tường - Xưa Và NayGò Công - Xưa Và NayTây Ninh XưaĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Định Tường - Xưa Và Nay PDF của tác giả Huỳnh Minh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.