Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bay Bằng Đôi Cánh Gãy

Willem 12  tuổi sống với bà ngoại ở tầng 18, Chung cư Beckham, London. Do mắc một dạng rối loạn tự kỷ, Willem hơi ngô nghê trong giao tiếp, ai nói sao cậu hiểu đúng y nghĩa đen vậy, không hiểu người ta nói đùa, với bất cứ việc gì cậu cũng hết sức nghiêm túc, từ làm bài tập về nhà cho đến thức ăn phải để riêng từng đĩa, đến quần áo mặc đúng ngày, và rất nhiều chuyện đặc biệt kỳ lạ (và kỳ cục) khác... Tất nhiên Willem không chỉ rất khó có bạn, mà còn là đối tượng để đám lêu lổng trong trường lẫn trong chung cư bắt nạt. Thế mà, cô Hubert, giáo viên Toán đồng thời là chủ nhiệm lớp, lại không giao cho Willem bài tập về nhà giải 10 phương trình như những đứa khác trong lớp; cô bảo Willem phải kết được hai người bạn cùng tuổi. Vậy nên Willem không được tính bà ngoại, chú bán burger vào được rồi! Lớp học nào cũng có mấy đứa "xóm nhà lá" chuyên nghề quậy phá. Nhưng lũ học trò nhất quỷ nhì ma của lớp Willem còn hơn vậy nhiều, có tới hai băng đảng xưng hùng xưng bá. Một phe là băng Giang hồ Phố Beckham - nghe là biết lũ trẻ trâu trong chung cư của Willem rồi. Phe kia là Băng Tarkey, mà tụi nó khoái xưng là Băng T hơn, đích thị lũ trẻ choai bên Chung cư Tarkey gần đó.  Cầm đầu mấy đứa Giang hồ Phố Beckham trong lớp Willem là thằng Finn. Hai đứa "tà lọt" cho thằng Finn là thằng Laurence và TJ. Ba thằng ôn con này gặp Willem đâu là bắt nạt đó, cái trò thằng Finn khoái nhất là bắt Willem leo lên bàn, leo lên kệ... leo lên bất cứ gì và nhảy xuống theo tiếng hô của nó! Nhưng bữa đó thật bá đạo quá quắt, ba thằng dí Willem trèo lên bờ tường bao khuôn viên trường và bắt thằng nhỏ phải nhảy xuống. Cái tường cao thế kia, lại còn găm đầy miểng chai trên bề mặt...  Giữa lúc ba thằng Finn, Laurence và TJ thi nhau hú hét, chế nhạo, khủng bố tinh thần Willem, chợt có tiếng kêu khóc can ngăn của Sasha Barton. Sasha và Finn là bạn từ hồi chơi hố cát nhà trẻ. Gần đây, thằng Finn nắm tay Sasha làm con bé thấy bủn rủn kỳ cục! "Cảm nắng" thằng Finn ư? Lẽ nào! Nhưng khi Willem liều mạng nhảy từ trên tường xuống, vẫy hai tay như cánh chim và té "rắc" một phát, gãy chân, thằng Finn nắm tay Sasha lôi tuột đi thì con nhỏ răm rắp làm theo, bỏ mặc Willem nằm rên la trên đất.  Willem được đưa đi bệnh viện, cái chân gãy bó bột to đùng. Và cô Hubert quét ánh mắt tia laser nhìn cả hai băng trẻ trâu trong lớp, nghi ngờ không biết ai là thủ phạm vụ kinh thiên động địa này! Trong khi Sasha đang bứt rứt hối hận, cô Hubert lại hỏi ai có thể thay mặt cả lớp đến bệnh viện thăm nom Willem, tỏ tình bằng hữu không. Mặc kệ thằng Finn tức lồi mắt, Sasha đứng bật dậy xung phong.  Đến bệnh viện và chăm một cậu bạn tự kỷ, giao tiếp ngô nghê, nói năng nghiêm trọng như ông cụ non... không phải là phiền phức và chán òm sao? Dĩ nhiên rắc rối chẳng phải dạng vừa! Và Finn đời nào để yên.  Nhưng câu chuyện "tay ba" Finn - Sasha - Willem lọt thỏm giữa câu chuyện lớn hơn nhiều trong cuộc sống ở trường và ở chung cư của chúng. Lũ vô công rỗi nghề đàn anh - đại ca - của hai băng đảng Phố Beckham và Băng T bắt tay nhau chơi lớn: bạo động, cướp phá cửa hàng, thiêu rụi ô tô, đập vỡ kính cửa sổ, choảng nhau đến đổ máu... Những tháng ngày mà nơi này nơi kia ở London bùng lên những cuộc nổi loạn của thanh niên thất nghiệp và bọn trẻ mới lớn a dua, vào hùa... Tuy nhiên, tình bạn bắt đầu từ chiếc xe lăn đẩy Willem chân bó bột, Sasha tả xung hữu đột qua đám bạo loạn đưa bạn về nhà, và thằng Finn thoắt ẩn thoắt hiện, lúc là bạn lúc là kẻ làm loạn - hết sức khó hiểu - dẫn đến nhiều cơ duyên khác cho cuộc đời của ba đứa trẻ. Đầu tiên chúng được gặp Ông già phép màu Archie và Dự án Cộng đồng sửa ô tô ông mở ở tầng hầm chung cư Beckham. Cơ duyên thứ hai, hết sức phi thường, chạm đúng giấc mơ thầm kín - được bay - của Willem và Sasha là gặp gỡ nàng Tiêm kích Spitfire Maisy - một trong những chiến đấu cơ anh hùng của Không quân Anh trong Thế chiến II còn sót lại. Ba là: bài tập thuyết trình nhóm do cô Hubert giao, dẫn đến việc ba đứa Finn - Sasha - Willem và chú chó Buster của Finn lập Hội Spitfire. Và cuối cùng: Đôi cánh bằng gỗ Willem tự chế tạo theo bản vẽ của danh họa đồng thời cũng là nhà sáng chế người Ý Leonardo da Vinci - và lần tung cánh chim trời của cậu ta từ tầng mái chung cư Beckham... hạ cánh nơi chảo ăngten cửa sổ phòng thằng Finn ở tầng 11!  Hồi hộp, cuốn hút theo sự phát triển của từng nhân vật... Bay bằng đôi cánh gãy là câu chuyện cảm động tuyệt vời về tình bạn, tình yêu, những tổn thương tâm lý của trẻ em là nạn nhân bạo hành gia đình; lòng tốt giữa người và người; và dành tặng cho những bóng hồng cánh gió của nước Anh trong Thế chiến II. Cuộc sống đương đại của thành phố London, những vấn đề của giới trẻ ngày nay hiện lên sống động và xúc động trong từng câu chữ! Bay bằng đôi cánh gãy sẽ đưa trí tưởng tượng của các em không chỉ đến những tầng mây đẹp của trời cao mà còn đến những cảm xúc tinh tế nhất trong tâm hồn để làm một con người tự do, dám ước mơ và dám theo đuổi ước mơ... đến vô cùng và xa hơn nữa! *** WILLEM Khi thằng Finn Mason gào ‘nhảy đi’, tức là phải nhảy bật lên cao hết sức bình sinh, bằng không thì chết chắc. Tôi hít một hơi sâu. ‘Nhảy đi, thằng ngu,’ Finn hét lên, một cục nước bọt bắn ra khỏi mép nó. Đứng hai bên thằng Finn là TJ và Laurence. Bọn nó nhìn tôi chằm chằm. Miệng chúng há hốc. Tôi nhích nhích ngón chân ra gờ tường bao khuôn viên trường. Một miếng mảnh chai do thầy Patricks, thầy giám thị, cắm lên trên bậu tường để giữ lũ học trò bất xuất và lũ trộm bất nhập, nghiến lạo xạo dưới chân tôi. Chẳng có tên trộm nào thèm đột nhập vào cái trường này vì đâu còn gì mà chôm chỉa. Thằng Finn Mason đã vét sạch sành sanh rồi. ‘Nhảy đê! Nhảy đê! Nhảy đê!’ Laurence và TJ hô vang. Laurence cười ha hả. Còn TJ trông như thể sắp đổ bệnh đến nơi. Mấy ngón tay tôi bắt đầu run. Tôi thò tay vào túi phải tìm con máy bay mô hình Spitfire Mark 1 của mình. Nó đã biến đâu mất! Xoay xoay cánh quạt ở mũi con máy bay mô hình này thường giúp tay tôi bớt quýnh quáng và đầu óc tôi có thể tập trung giải quyết những bài toán khó nhằn, ví dụ như lần này, khi tôi đang bị ép phải nhảy từ trên bờ tường cao chót vót xuống. Tôi sục tay qua túi trái, dù biết chắc mình luôn cất con mô hình Spitfire Mark 1 ở túi bên phải thôi. Nó cũng không có ở đó. Mất rồi. Mấy ngón tay tôi run bần bật. Lẽ ra tôi không nên đứng trên gờ tường bao khuôn viên trường mới phải. Lẽ ra giờ này tôi đang làm bài tập về nhà. Cô Hubert dạy toán đã giao riêng cho tôi một bài tập khác với cả lớp. Chúng nó phải giải 10 phương trình. Còn tôi phải kết được hai người bạn. Cô Hubert nói bà tôi thì không tính vì là người nhà. Chú Bernie ở Quầy Burger Bernie cũng không được vì chú ấy là người bán hàng. Tôi hỏi cô Hubert có phải là bạn tôi không thì cô trả lời không, cô là cô giáo dạy môn toán của tôi thôi. ‘Em phải kết bạn với hai người cùng tuổi em,’ cô nói. ‘Nhảy đi!’ thằng Finn gào. Nó không phải là bạn tôi. Tôi nhích tới thêm một chút. Một miếng miểng chai đâm xuyên qua vạt đế giày mỏng lét, đôi giày đi học tôi ưa thích thứ nhì, màu đen cột dây, và cứa vào ngón cái chân trái. Thầy Patricks không nên gắn miểng chai lên bậu tường, vì lý do sức khỏe và an toàn mới phải chứ. Thầy Patricks không nên làm giám thị. Thầy ấy nên làm gián điệp ám sát của SAS[1] mới đúng. Thật tức cười, phải không, những chuyện như vậy lại hiện lên trong đầu khi bạn sắp phải nhảy xuống khỏi bậu tường và chết ngắc. Có tiếng máy bay bay ù ù trên trời. Tôi ngước lên. Hình như là một chiếc Boeing 747-400, nhưng cũng khó mà nói trúng được khi bạn đang cố giữ thăng bằng trên gờ tường cao chót vót thế này. Loại máy bay đó có thể bay một mạch không ngừng đến 7.670 hải lý. Mấy thông số máy bay giúp tôi bình tĩnh một chút. ‘Nhảy đi,’ thằng Finn quát. Thằng Finn có quả đầu tóc vàng loăn xoăn. Nó không chải đầu. Mũi nó có bảy nốt tàn nhang. Tôi đã nhẩm đếm tàn nhang trên mũi thằng ấy khi nó bắt tôi nhảy từ bàn học xuống đất giờ ra chơi ngày hôm qua. Từ trên tường cao nhìn xuống, thằng Finn, TJ và Laurence trông bé xíu. ‘Tao đã bảo NHẢY!’ Finn gào. Tôi nhìn xuống. Tôi, Willem Edward Smith, xin tuyên bố ở đây rằng tôi không hề sợ độ cao. Gia đình tôi sống ở tầng 18 Chung cư Beckham. ‘Chúng ta ngủ cao hơn cả lũ chim,’ bà tôi vẫn thường nói. Nếu đúng là tôi sắp chết thật thì tôi sẽ xin vị thánh nào phụ trách trên ấy - Chúa chẳng hạn, hoặc nếu ngài bận thì có thể phụ tá của ngài Thánh Phêrô cũng được - cho tôi đầu thai thành một chú chim vì tôi không thích làm Willem Edward Smith cho lắm. Bà tôi dạy phải luôn vươn tới đỉnh cao. Nên tôi hy vọng Chúa sẽ có mặt ở đó khi tôi đưa lời thỉnh cầu. Có lẽ tôi nên đặt lịch hẹn gặp ngài. Bà còn dạy tôi một điều nữa là phải luôn lên kế hoạch cho mọi chuyện, có như vậy mới đối phó được những bất ngờ quái gở trong đời. Thế nên mỗi khi nhìn thấy Finn đi trên hành lang trong trường là tôi sẽ bắt đầu nhảy lên nhảy xuống tại chỗ trước cả khi nó bảo tôi làm vậy. Tôi vò tóc bù xù và kéo đứt một chiếc cúc áo và tự tát vào mặt mình cho đến khi má tôi hằn một vệt đỏ. Kế hoạch của tôi là lừa thằng Finn tin nó đã đánh tôi rồi. Finn là thằng não cá vàng nên đôi khi kế hoạch này thành công, nhưng những lần còn lại nó toàn bắt tôi nhảy cao hơn nữa và đạp vào bụng tôi. ‘Nhảy đi! Nhảy đi! Nhảy đi!’ Chúng nó đồng thanh gào mỗi lúc một to hơn. Ngón tay tôi run rẩy hơn nữa. Nếu tôi nhảy xuống bờ tường này rồi chết đi thì mỗi sáng ai sẽ pha trà và bưng cho bà tôi đĩa bánh quy ăn nhẹ đây? Mà tiện thể, tôi cho rằng chấm dứt cuộc đời ngắn ngủi mới 12 năm của tôi như này là hết sức ngớ ngẩn, và tôi bắt đầu nhẩm đếm số ngày, phút và giây mình có mặt trên Trái Đất. ‘Nhảy đi, cái thằng rác rưởi thảm hại,’ Finn cắt ngang phép tính nhẩm trong đầu tôi. Tôi hít sâu một hơi và nhích mấy ngón chân ra khỏi gờ tường thêm nữa. Mặt đất bắt đầu xoay mòng mòng. Tôi lảo đảo. TJ đưa tay lên che mắt. Một đứa con gái nào đó hét lên. Sasha Barton chạy bổ đến chỗ chúng tôi. ‘Finn, cậu đang làm gì đấy? Cậu làm hại Willem thì sẽ bị tống cổ ra khỏi trường lần nữa là cái chắc! Và đừng hòng gặp lại nhau. Vĩnh viễn luôn nha. Rồi bố tớ sẽ cấm cậu xuất hiện trong đời tớ luôn, lần thứ sáu trong năm nay rồi đó.’ Sasha ngước nhìn tôi và lén nháy mắt một cái cực khẽ. Một cái chớp nhẹ, nhưng tôi đã kịp thấy. Nếu ai đó nháy mắt với bạn, có phải họ là bạn của bạn không? Thế rồi con nhỏ hất mái tóc đen dài ra sau tai, lắc lắc đôi khuyên vàng và phẩy tay với thằng Finn. ‘Để yên cho Willem đi Finn, làm ơn mà,’ Sasha nói, nhìn thẳng vào mắt Finn. Thằng Finn không thèm nhìn vào mắt Sasha. Nó nhìn chằm chằm ngực con bé. Có điều ngực con nhỏ không lớn lắm - không đủ để ngăn Finn muốn giết tôi. ‘NHẢY XUỐNG!’ nó gầm lên. Thế là tôi NHẢY XUỐNG. Tôi vờ như mình đang ở trong một chiếc máy bay và dù không cố ý nhưng hình như tôi đã đập đập hai cánh tay như cánh chim khi lao xuống và thế là làm lộ bí mật. Và khi chân tôi gãy rắc một cái, tôi thét lên đau đớn. Nhưng tôi đã không chết. Tôi vẫn là Willem Edward Smith sống ở tầng 18, Căn hộ 103 Chung cư Beckham, Phố Beckham, Tây bắc London, NW1 7AD. Thằng Finn cười phá lên. Rồi cả đám bắt đầu cười hùa theo thằng đó. Nó cúi sát xuống, rít vào mặt tôi, ‘Nó nghĩ nó là chim cơ đấy. Bay đi, con, bay đi.’ ‘Này các em kia! Mấy đứa đang làm gì thế?’ Là thầy giám thị Patricks đang lao về phía chúng tôi. ‘Chuồn thôi!’ thằng Finn thét lên. Finn chộp lấy tay Sasha lôi tuột đi và cả đám bỏ chạy theo, để mặc tôi nằm đó với một chân bị gãy. Có cái gì lấp lánh trong đám cỏ. Là một chiếc khuyên tai của Sasha. Tôi với tay chộp lấy, dù về lý thuyết thì người mới bị thương không nên cử động. Đau điếng. Tôi lén giấu chiếc khuyên vào túi. Nó là bằng chứng tố cáo Sasha đã có mặt ở đây khi tôi nhảy từ trên tường xuống đất, mà tôi thì không muốn một người có thể là bạn mình phải gặp rắc rối. ‘Đợi đấy,’ tôi gào với theo chúng nó. ‘Một ngày nào đó nhất định tao sẽ bay được.’ Mời các bạn đón đọc Bay Bằng Đôi Cánh Gãy của tác giả Jane Elson & Nhung Nhung (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân
Nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh đã cho ấn hành một trong những tác phẩm nổi tiếng của Pearl Buck đã được trao giải Nobel Văn Chương năm 1938 với tựa đề: Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Đã qua nửa đêm... Lương phu nhân hạ bút và gấp sổ thu chi lại. Ngôi nhà hoàn toàn im vắng. Tại tầng dưới, trong nhà hàng chỉ còn thưa thớt một vài thực khách đang ngồi nán lại. Ba xô ghế đứng dậy, chiếc ghế bành lớn bằng gỗ gụ, cùng bộ với cái bàn viết kiểu Trung Hoa nặng nề mà bà đã thừa hưởng của thân phụ, và mang từ quê nhà, tại một tỉnh xa đến đây. Bà đến bên cửa sổ, nhưng không vén mơ cánh rèm xa tanh màu đỏ. Mặc dầu được sống yên ổn, với tư cách là chủ nhân một nhà hàng đẹp nhất trong các khu tân tiến ở thành phố Thượng Hải, bà cũng không dại gì để bóng dáng mình in lên khuôn kính một căn phòng sáng trưng ánh đèn. Nào ai biết được kẻ thù đang ẩn nấp nơi đâu. Thiếu gì kẻ thấy bà nổi tiếng rồi ghen ghét. Chẳng ai biết bà đã xoay sở cách nào, để hàng ngày vẫn cung cấp được những món ăn thật đặc biệt, cho khách hàng là các nhân vật quan trọng trong chính giới, các đại thương gia tỷ phú, và các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Hầu hết họ là bạn thân của bà. Bà ung dung đi đi lại lại trong nhà hàng, bề ngoài xem như chẳng quan tâm gì đến các sự lộn xộn chính trị. Chắc có nhiều kẻ ghen ghét, hậm hực với bà. Vì thế bà không vén rèm, mà chỉ luồn người ra ngoài để hé mở cửa sổ. Trong bầu không khí ấm áp của một buổi tối đầu hè, hương hoa nhài bay lên thoang thoảng. Ngôi nhà của bà trước kia là của một gia đình người Mỹ giàu có, bạn thân của bà. Sau khi có cuộc sung công các nghiệp vụ xuất nhập cảng tại Trung Hoa, gia đình này đã phải trở về nước. Lương phu nhân đã mua lại ngôi nhà này, cùng các khu vườn trong tô giới Anh cũ. Có rất nhiều người Mỹ cư ngụ trong tô giới Pháp và Anh, vì họ không có tô giới riêng. Trước khi Hồng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Lương phu nhân có nhiều bạn hữu trong đám người Mỹ này, vì vậy bà đã gởi ba ái nữ sang Hoa Kỳ du học. Giờ đây, dĩ nhiên là không còn một người Mỹ nào tại Trung quốc, nên cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa, lớn lên mà chẳng biết mặt một người Mỹ nào, cũng như chẳng được nghe đến một tiếng Anh nào. Họ chỉ được nghe tiếng nói của hận thù đối với một dân tộc, mà riêng bà lại thấy là ít đáng hận thù hơn các người Tây phương khác. Người Mỹ là những người da trắng duy nhất không tàn ác, không cướp đất của người Trung Hoa. Bà thở dài nghĩ đến cái gia đình đầm ấm xưa kia đã cư ngụ dưới mái nhà này: Ông bà Brandon và năm người con. Họ yêu quí nước Trung Hoa biết dường nào. Họ yêu quí nước này đến nỗi đồ đạc trong nhà hoàn toàn theo kiểu Trung Quốc, với những bức tranh thủy mặc treo trên tường. Họ đã phải hấp tấp lìa bỏ tất cả, và Lương phu nhân đã lén bước sang nhà họ để tiễn chào vĩnh biệt. Bà Brandon đã tựa vào vai bà, khóc nức nở: - Ba Lương ơi: Sau này họ có cho chúng tôi trở lại nữa không? Bà xiết chặt người đàn bà Mỹ trong vòng tay mà chẳng trả lời. Làm sao ba có thể trả lời được rằng: “Bà sẽ không bao giờ được trở lại nữa”. Bởi vậy, tốt hơn là bà lặng thinh, và năm tháng cứ trôi qua trong khi đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn hơn. Nhưng bà đã gởi mấy cô con gái của bà sang Hoa Kỳ sống với gia đình Brandon, và thỉnh thoảng... Mời các bạn đón đọc Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân của tác giả Pearl S. Buck.
Uyên Ương Gãy Cánh
"Với những trang sách chứa chan tình người, tràn ngập hình ảnh thơ mộng, sóng sánh chất thơ và bát ngát hương vị cảm xúc, Uyên Ương Gãy Cánh mang tình yêu xuống chiều sâu thẳm tận đáy hồn người với những lý luận ngọt ngào của trái tim, và nâng tình yêu lên độ cao nhất, bất diệt với thực tại siêu việt. Từ đó, người đang yêu đọc nó và mỗi sớm mai "được thức dậy lúc rạng đông với con tim chắp cánh, đưa lời cảm tạ vì có thêm một ngày yêu thương nữa." (Nguyễn Ước) *** Bản Việt ngữ này dịch từ cuốn The Broken Wings do Anthony R. Ferris dịch từ nguyên tác của Kahlil Gibran bằng tiếng Ả Rập sang Anh ngữ. Chúng tôi đã ngẫu cảm chuyển tựa đề Việt ngữ thành Uyên Ương Gẫy Cánh vì thấy nó rất phù hợp với những trang tình sử này. Người Đông phương đã đem vào huyền thoại loài chim Uyên ương sống từng đôi trống mái, mỗi con chỉ còn một cánh, phải chấp nhau mà bay cùng. Chúng ăn ở với nhau tình thâm nghĩa trọng đến nỗi nếu một trong đôi lứa có mệnh hệ nào thì con kia đành xếp cánh tuyệt vọng trước những từng trời thăm thẳm. Chim Uyên Kahlil Gibran đã nhỏ từng giọt máu trong tim chép lại chuyện tình của chính mình như một chúc thư cho những tình nhân mai sau. Mối tình đầu của con người tài hoa đa cảm đó cũng là mối tình không-thể-thay-thế của ông; sau khi bị quê hương hắt hủi lưu đày biệt xứ, tác giả suốt đời lang thang phiêu bạt và không bao giờ lập gia đình. Đủ thấy vết thương ở tim tác giả còn đau buốt mãi cho đến lúc vĩnh viễn nhắm mắt. Nhưng con chim Uyên cao thượng khác thường đó không phải chỉ biết cất tiếng hót sầu thảm để oán trách Trời Đất đã ghen với tài tử và hồng nhan. Cho nên người đời còn được đọc những tác phẩm hào sảng hùng tráng khác của Kahlil Gibran. Đó chính là nhờ ngọn lửa thiêng bất khả diệt trong tâm hồn tác giả. Và cũng nhờ sự hy sinh cao quý của chim Ương: tự mình cắt lìa chiếc cánh bị thương để chim Uyên có thể bay đi đem tiếng hót tặng cho đời... Người dịch mong mỏi rằng quý vị độc giả sẽ vì mủi lòng cho mối tình tan tác của hai tâm hồn u uất mà rộng lượng gạt đi những thành kiến, nhất là trong địa hạt tôn giáo, khi quý vị đọc bản chúc thư tình yêu này. Nghĩa cử đó sẽ muôn ngàn lần cao đẹp hơn là... nếu có dịp quý vị đặt những bó hoa lên mồ của những Uyên Ương gẫy cánh... Sau cùng, chúng tôi xin mạn phép tặng bản Việt dịch này cho một phụ nữ Việt Nam - chúng tôi không tiện nêu lên - đã can đảm sống theo một luân lý tự mình tìm ra, giữa một xã hội còn vương lại quá nhiều gông cùm của thành kiến và hủ bại. N. N. M.   *** Khalil Gibran (tên đầy đủ tiếng Ả Rập Khalil Gibran Gibran, đôi khi viết là Kahlil) (6/1/1883 - 10/4/1931) là một nghệ sĩ, nhà thơ và nhà văn Liban. Sinh ra tại thị trấn Bsharri ở phía bắc Liban ngày nay (lúc đó là một phần của Mount Lebanon Mutasarrifate, Đế quốc Ottoman), khi còn trẻ ông di cư cùng gia đình đến Hoa Kỳ, tại đó ông nghiên cứu nghệ thuật và bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình, viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Ả Rập. Trong thế giới Ả Rập, Gibran được coi là một kẻ nổi loạn trong văn học và chính trị. Phong cách lãng mạn của ông là tâm điểm của sự phục hưng trong văn học tiếng Ả Rập hiện đại, đặc biệt là thơ văn xuôi, tách ra từ trường phái cổ điển. Tại Lebanon, ông được coi như một thiên tài văn học. Ông chủ yếu được biết đến trong thế giới nói tiếng Anh vì cuốn sách The Prophet (tiên tri) năm 1923 của ông, một ví dụ đầu tiên của tiểu thuyết truyền cảm hứng bao gồm một loạt các bài tiểu luận triết học được viết bằng thơ văn xuôi tiếng Anh. Cuốn sách bán rất chạy mặc dù bị chỉ trích lúc đầu. Nó được phổ biến trong những năm 1930 và một lần nữa trong những năm 1960 với nền văn học chống văn minh xã hội. Gibran là nhà thơ có sách bán chạy nhất thứ ba của mọi thời đại, sau Shakespeare và Lão Tử. Tác phẩm: Uyên ương gãy cánh Đóa Hoa Khát Vọng Ngôn Sứ (Kẻ Tiên Tri) Trầm Tưởng Tiếng vô thanh và người tình vĩnh cửu Giêsu Con của Con người Hoài vọng phương Đông Mật khải Tình yêu tận hiến Mây trên đỉnh núi và kẻ mộng du Nhà Tiên Tri ... Mời các bạn đón đọc Uyên Ương Gãy Cánh của tác giả Kahlil Gibran.  
Người Đàn Ông Đào Hoa
Nguyên văn tiếng Anh: The Ginger Man Dịch giả: Nguyễn Bích Lan  Tác phẩm Người Đàn Ông Đào Hoa được xuất bản vào năm 1955. Cuốn tiểu thuyết này đã trở thành kiệt tác, khiến tên tuổi Donleavy nổi tiếng khắp thế giới.  Nhân vật chính - Sebastian Dangerfield là người đàn ông được mệnh danh là "người ngoài "cô đơn trong một xã hội đầy thù địch , một kẻ luôn bị rượu và gái dẫn dắt bởi sự tham lam và lòng đố kỵ. Tuy nhiên, đằng sau thói phóng túng và hoa đường đó vẫn ẩn chứa một trái tim dịu dàng và ước muốn có được mái ấm gia đình mà trước đó anh ta đã từ bỏ .... *** J. P. Donleavy sinh năm 1926 tại Brooklyn. New - York trong một gia đình người Ailen nhập cư. Ông tham gia hải quân Mỹ trong thế chiến thứ hai sau đó sang Ailen theo học tại trường đại học Trinity, ở Dublin.  James Patrick Donleavy là một tiểu thuyết gia và nhà viết kịch người Ireland / Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là cuốn tiểu thuyết The Ginger Man (Người Đàn Ông Đào Hoa), ban đầu bị cấm vì tục tĩu. *** Một ngày nắng hiếm hoi của mùa Xuân. Chiếc xe ngựa lóc cóc chạy trên đường Tara xuôi về khu bến cảng trong khi bọn nhóc mặt trắng đi chân đất đua nhau hò hét.  O'Keefe bước vào quán rượu, đặt mông lên một chiếc ghế cao. Lúc lắc chiếc ba lô trên lưng , anh ta đưa mắt nhìn Sebastian Dangerfield.  - Bồn tắm ở đó to đùng. Hai tháng tớ mới tắm. Càng ngày tớ càng giống người Ailen. Muốn vào tắm cậu phải đi qua một cái cửa quay, giống như đi tàu điện ngầm ở Mỹ vậy.  - Cậu đi hạng nhất hay hạng ba, Kenneth?  - Hạng nhất. Tớ đến vỡ mông vì phải ngồi vò đồ lót và trong những căn phòng ẩm ướt ở Trinity thì chẳng cái quái gì có thể khô được. Cuối cùng tớ phải mang khăn tắm ra hiệu giặt là. Ở Havard tớ có thể tắm thỏa thích dưới vòi sen và có thể thọc chân vào đồ lót sạch sẽ.  - Cậu sẽ được uống gì đây nhỉ, Kenneth?  - Ai trả tiền?  - Tôi vừa mới đem cái lò sưởi điện ra hiệu cầm đồ.  ​​​​​​​ Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Đào Hoa của tác giả J. P. Donleavy.
Máu Hồng Y
Brian Moore, người được văn hào Graham Greene xem là một trong những tiểu thuyết gia đương thời mà ông ái mộ, sinh năm 1921 tại Belfast, Bắc Ireland. Cuối Thế Chiến Hai, ông phục vụ trong Bộ Vận tải Quân sự của Anh. Sau chiến tranh, ông làm việc cho Liên Hiệp Quốc ở châu Âu rồi di cư tới Bắc Mỹ năm 1948, làm ký giả và nhập tịch Canada. Từ năm 1955, ông nổi tiếng trên văn đàn với tác phẩm The Lonely Passion of Judith Hearne - Sự Thương Khó Hiu Quạnh Của Judith Hearne, một chuyện kể đầy buốt nhói về nỗi cô đơn và sự tan vỡ các ảo tưởng. Hai cuốn tiểu thuyết kế đó: The Luck of Ginger Coffey - Vận Số Của Ginger Coffey, 1975 và The Great Victorian Collection - Bản Sưu Tập Quí Báu Thời Victoria, 1975 đều được giải thưởng văn chương của Phủ Toàn Quyền Canada. Các cuốn tiểu thuyết khác của ông như Catholics - Người Công Giáo (1972), The Mangan Inheritance - Quyền Thừa Kế Mong Manh (1979), đều nằm trong danh sách đề cử nhận giải thưởng văn học danh tiếng Booker. Riêng cuốn Máu Hồng Y, tên nguyên tác là The Color of Blood - Màu Của Máu, 1987, cùng một lúc được hai giải thưởng, The Sunday Express Book of the Year Award và Canadian Authors Association Literary Award for Fiction. Ông hiện cùng gia đình sống ở Malibu, California, Hoa kỳ. Tuy tác giả không nêu tên quốc gia bối cảnh Máu Hồng Y nhưng xét theo tình tiết, có lẽ đó là Tiệp Khắc, một nước Trung Âu mà đại đa số dân chúng là người Công giáo. Từ năm 1948, Tiệp Khắc (Czech) bị đảng Cộng sản cai trị, và cùng với các nước Cộng sản Đông Âu khác, trở thành chư hầu của Liên bang Sô Viết tàn độc. Cuộc quật khởi “Mùa xuân Praha” 1968 thất bại trước đoàn xe bọc sắt của Sô Viết. Người Nga nhân đó chiếm đóng Tiệp Khắc và kìm kẹp nghiệt ngã hơn. Mãi đến 1989, nhờ chuyển biến ngay tại Nga và vận hội mới của các nước Đông Âu, cuộc “Cách mạng nhung” mới thành tựu, bắt đầu thể chế tự do dân chủ mà không có bạo động, đổ máu. Cuốn Máu Hồng Y, xuất bản năm 1987, viết về cuộc xung đột tối hậu giữa Giáo hội Công giáo với Nhà nước mà thực chất chẳng liên quan tới “Tình yêu Thiên Chúa”. Khi sắp bùng lên một cuộc nổi loạn nhằm lật đổ chế độ Cộng sản, Hồng y giáo chủ Stephan Bem thấy mình bị mắc kẹt và bí lối trong một mạng lưới của những lừa lọc, bạo động và dàn dựng chính trị không chút xót thương. Sau khi may mắn thoát khỏi một lần mưu sát tàn bạo và một cuộc bắt cóc mờ mịt, ông trở thành kẻ chạy trốn, không biết cất chân bước về hướng nào vì bốn phía đều trùng điệp kẻ nghịch. Tuy bối cảnh Máu Hồng Y không phải là Việt Nam nhưng đi vào tác phẩm, độc giả Việt có cơ hội nhìn lại những vấn đề thiết thân như bản chất và cùng đích của tôn giáo; phẩm chất của con người tôn giáo; tương quan giữa tôn giáo và chính trị trong lòng dân tộc… Độc giả cũng sẽ bắt gặp những bóng dáng không xa lạ gì với hoàn cảnh Việt Nam. Một chế độ toàn trị; một mặt xem tôn giáo như một thế lực gây thương tổn và sỉ nhục chính quyền; một mặt muốn sử dụng vài phần tử tôn giáo làm kẻ chính trị ngoại vi cho mình. Những tín đồ “thuần thành” và những tín đồ “yêu nước”. Các khuynh hướng chính trị tuy đối kháng nhau nhưng đều muốn dùng tôn giáo và tín đồ của nó để làm sức lực và phương tiện cho cái gọi là “phục vụ quyền lợi của quốc gia dân tộc” mà thực chất chỉ là tranh đoạt quyền lực… *** Vào khoảng giữa chín giờ và chín giờ rưỡi tối, chiếc xe hơi đưa ông về Nhà Chung chạy vào Quảng trường Tuyên ngôn Độc lập. Trời mưa, mưa mùa hạ. Trong quảng trường, các bức tượng, các mái nhà và các đài tưởng niệm sũng ướt, trơn mượt; vỉa hè bóng loáng. Ông bấm chiếc đèn pin nhỏ bằng cây bút rọi vào kẹp hồ sơ, không phải để coi lại những điều ông vừa ghi trong cuộc họp mà là để đọc cuốn sách nhỏ của thánh Bernard thành Clairvaux:[1] Bạn có nghĩ rằng con người bẩm sinh với lý trí mà không sống theo lý trí của mình thì, theo cách nào đó, không thua kém gì thú vật? Khi thú vật không tự chế được bằng lý trí thì nó có lý do gì về mặt tự nhiên, nó không được ban cho tặng phẩm ấy. Nhưng con người mà sống như thế thì không gì có thể biện minh được. Đôi lúc trong khi đọc thánh Bernard, ông có thể buông rơi thế giới đầy trách vụ của mình để rút vào cõi thinh lặng, nơi Thiên Chúa chờ đợi và phán xét. Nhưng lúc này, cùng với cảm giác đó, ông thấy có một chiếc xe hơi màu đen đang lạng sát vào xe mình. Ông quay mặt ngó. Người lái xe đen là một phụ nữ đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Trên chiếc ghế bên cạnh cô, một người đàn ông rậm râu hai tay cầm súng lục, giơ lên, nhắm thẳng mặt ông. Trong chớp mắt, Joseph, tài xế của ông, quặt mạnh tay lái, cố ý táng xe mình vô chiếc xe đen. Sức ly tâm làm người ông bật lên, quay tròn và văng ra ngoài. Người ông rơi uỵch xuống vệ đường ẩm ướt. Trong một lúc lâu, ông nằm đau đớn, nửa mê nửa tỉnh, mắt nhìn lên bóng tối trời đêm mịt mùng. Có tiếng còi xe hơi; ông nghe bước chân tiến tới gần. Từ phía trên ông, một phụ nữ trẻ đang ngó xuống, đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Mặt cô ứa máu, ghim đầy mảnh kính nhỏ li ti. Ông cố nhỏm dậy, thấy trên đùi cô loang lổ vết đen đặc, chỗ máu ứa ra thấm loang qua váy. “Cô không sao chứ?” ông hỏi, một cách ngớ ngẩn và bối rối. “Cô bị thương ư?” Không trả lời, cô xoay người đi thẳng, bước rất lẹ tuy khập khễnh, nhắm hướng Đường Trung Tâm Chợ. Dòng xe cộ chạy vào quảng trường bị cuốn hút bởi tai nạn, chậm dần và ngừng hẳn. Ông đứng lên, xâm xoàng. Khi mắt đã thôi mờ mịt, ông thấy có người đàn ông đang ngồi trong một chiếc xe, nhìn ông. “Ngài…” người ấy nói, như thể đang suy tính gọi ông theo danh xưng nào. “Cha không sao chứ… thưa Đức cha?” ... Mời các bạn đón đọc Máu Hồng Y của tác giả Brian Moore.