Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Miền Linh Dị - Thái Lan

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Another S/0 (Tiếng Việt)
Another S/0 là bộ truyện gồm hai cuốn: tiểu thuyết Another S và manga Another 0, lần lượt nằm vào hai thời điểm sau và trước Another. Lấy điểm rơi là lúc Sakakibara đã tìm ra đối sách để chấm dứt “hiện tượng”, trả kẻ đã chết về cho Thần Chết, Another S dõi theo bước chân của Misaki đến biệt thự bờ biển cách đó khá xa. Tưởng đã được nghỉ ngơi sau một năm sóng gió bị xung quanh coi là người cõi âm, nào ngờ ở đây cô lại gặp một tiền bối khóa trên, người đã tháo chạy khỏi Bắc Yomi để trốn tránh tai ương, nhưng cuối cùng vẫn không thoát được vệt loang định mệnh. Rốt cuộc thì bàn tay đen của “hiện tượng” Bắc Yomi có thể lan xa đến đâu, sau khi đã sống lâu đến hai mươi mấy năm như thế? Another 0 lại chọn điểm rơi là trước ngày Sakakibara đến Bắc Yomi, đặt chân vào mạng nhện tai ương của trường, với các chi tiết đậm tính báo hiệu điềm gở, từ một góc nhìn mà sau này ta mới nhận ra là rất đáng thương. Another 0 vốn là phần không xuất bản riêng ở Nhật, mà được đính kèm đĩa anime Another, nay được IPM in gộp vào bộ S/0 này để độc giả có cái nhìn hoàn chỉnh về ba thời điểm trước/trong/sau của vở bi kịch vô tình mà thành tội tình của các học sinh Bắc Yomi, khi cố níu kéo người đã chết ở lại thế giới không còn phù hợp với họ. Đầy tính chiêm nghiệm và điềm báo, Another S/0 còn mở đường cho Another 2001, khi tai ương trở lại với Bắc Yomi vào năm 2001… *** Introduction “Tôi kể cho cậu nghe nhé.” Misaki Mei nói, những ngón tay mảnh khảnh khẽ vuốt miếng băng trắng trên mắt trái, “Để tôi kể cậu nghe, Sakakibara. Về câu chuyện mùa hè cậu chưa từng biết đến.” Tôi bất giác nghiêng đầu, “Hử?” “Về một ‘Sakaki khác’. Cậu muốn nghe chứ?” Chúng tôi đang ở khu phố Misaki, cụ thể là ở hiệu búp bê “Đôi mắt xanh trống rỗng. Dưới ánh chiều tà của Yomi”. Trong không gian quen thuộc, tức là vẫn cứ mờ tối như buổi hoàng hôn, nụ cười của Mei trông thật gượng gạo. Cô có vẻ do dự, dù chính cô là người chủ động gợi chuyện. “Nếu cậu hứa không nói với bất kỳ ai, tôi sẽ kể cho mà nghe.” “Chuyện về một Sakaki khác.” “Không phải Sakaki của cậu đâu. Người này tên là Sakaki Teruya.” Cô cho biết, Sakaki Teruya viết theo Hán tự là “Hiền Mộc Hoảng Dã”[1]. Đây là lần đầu tôi nghe thấy cái tên này. “Trước buổi dã ngoại với lớp vào tháng Tám, tôi đã rời Yomiyama khoảng một tuần, nhớ không?” “À… Cậu cùng gia đình đến căn biệt thự ở bờ biển nhỉ.” “Tôi gặp vào lúc ấy đấy.” “Gặp Sakaki Teruya?” “Nói sao nhỉ? Tôi gặp hồn ma của anh ấy.” “Hả?” Tôi lại bất giác nghiêng đầu. “Hồn ma…” “Sakaki qua đời vào mùa xuân năm nay. Anh ấy chết rồi. Vì vậy, thứ mà tôi gặp hồi mùa hè là hồn ma của anh ấy.” “Hừm, vậy là…” “Không liên quan gì đến ‘hiện tượng’ ở Yomiyama đâu. Không giống ‘kẻ đã chết’ hồi sinh ở lớp 9-3.” Mei chậm rãi chớp con mắt bên phải, “Hồn ma thật đấy.” Bởi con mắt búp bê dưới băng gạc của Mei có thể nhìn thấy “màu của cái chết”. Vậy nên, việc cô thấy thứ đó… Giữa bầu không khí lắng đọng và lạnh lẽo thường trực trong phòng trưng bày dưới tầng hầm, tôi đảo mắt nhìn quanh, cảm thấy câu chuyện này rất đáng ngờ. Từ đêm dã ngoại hồi tháng Tám, “hiện tượng” của năm nay đã dừng lại, kỳ nghỉ hè kết thúc, học kỳ hai cũng bắt đầu. Hạ tuần tháng Chín, tiết trời chuyển sắc thu rõ rệt. Hôm ấy là ngày thứ Bảy thứ tư của tháng, buổi chiều, chúng tôi được nghỉ học. Tôi vừa ghé bệnh viện thành phố ở Yumigaoka để kiểm tra hậu phẫu xem phổi hồi phục đến đâu, và lúc này đang trên đường trở về nhà. Nói mới nhớ, khá lâu rồi tôi chưa tạt vào Dưới ánh chiều tà của Yomi. Tiếc thay, phòng trưng bày tầng một lại đóng cửa. Tôi băn khoăn không biết có nên gọi vào điện thoại bàn nhà Misaki ở tầng trên không, nhưng rốt cuộc lại thôi. Đang định rời đi, di động trong túi áo bỗng đổ chuông. Là Misaki Mei. “Sakakibara? Cậu đang ở trước cửa nhà tôi phải không?” “Sao cậu biết?” Tôi hết sức bất ngờ. Trước sự kinh ngạc của tôi, Mei chỉ lạnh lùng đáp, “Tình cờ thôi. Tôi vô tình nhìn ra ngoài.” “Vô tình nhìn ra từ cửa sổ tầng ba á?” Tôi bối rối ngước lên, thấy một bóng đen thấp thoáng sau dãy cửa sổ tầng ba. “Cậu gọi… bằng di động à?” “Ừ. Tôi có lưu số điện thoại của cậu.” Sau buổi dã ngoại đó, Mei kể rằng đã ném di động xuống sông. Nhưng cô cũng bảo, dù có ném đi, Kirika sẽ lại bắt cô dùng máy mới ngay thôi. “Hôm nay phòng trưng bày đóng cửa nhỉ?” “Ừ, một chuyện hiếm, bà Amane đột nhiên đổ bệnh.” “Ồ!” “Cậu không vào à?” “Vào được không?” “Lâu rồi cậu mới đến. Kirika… mẹ tôi cũng ra ngoài rồi. Tôi xuống mở cửa cho cậu đây. Chờ một chút nhé.” Phải tầm hai tháng rồi. Nếu nhớ không nhầm, lần gần nhất tôi ghé thăm Dưới ánh chiều tà của Yomi là ngày 27 tháng Bảy. Hôm ấy là ngày giỗ mẹ tôi. (Mẹ đã sang thế giới bên kia từ mười lăm năm trước, gần như ngay sau khi tôi chào đời.) Cùng ngày, tôi có hẹn với Teshigawara ở quán cà phê Inoya. Hẹn xong ra về thì vào hiệu búp bê. Hình như chính hôm đó tôi được biết Mei cùng gia đình sắp đi nghỉ ở biệt thự bên bờ biển. Bố tôi vừa về. Dứt lời, trông Mei có vẻ khá ưu phiền. Muốn cùng hai mẹ con tới biệt thự của gia đình. Tôi chẳng ham, nhưng trước giờ vẫn thế, nên không thể từ chối. Nhà cậu có biệt thự à? Ở đâu? Gần biển. Đi ôtô từ đây thì mất cỡ ba tiếng. Không thuộc Yomiyama chứ? Ừ. Ở Yomiyama làm gì có biển, đúng chưa nào? Sau khi đứng đợi lâu hơn “một chút”, tôi được mời vào cửa hiệu không bóng người. Tiếng chuông cửa leng keng vang lên. Misaki Mei xuất hiện trong chiếc váy dài liền thân, vạt váy điểm những mũi khâu màu xanh rải rác trên nền vải đen, mắt trái vẫn là miếng băng gạc thường ngày. “Cậu vào đi.” Cô nói gọn rồi bước về góc phòng, theo cầu thang đi xuống tầng hầm. Tôi bước sau Mei, chợt nhận ra cô đang kẹp dưới cánh tay một quyển ký họa. Quyển sổ khổ tám[2], bìa màu xanh ô liu. Phòng trưng bày dưới tầng hầm trông có phần giống kho chứa đồ, la liệt toàn búp bê và các bộ phận cơ thể. Cách bài trí vẫn y như lần tôi ghé hai tháng trước, trừ chiếc bàn tròn sơn đen và hai chiếc ghế bành bọc vải đỏ mới được kê thêm ở góc phòng. “Cậu ngồi đi.” Mei nói, và chỉ chiếc ghế. “Hay cậu muốn nói chuyện ở chỗ khác?” “À, không sao đâu.” Tôi ngồi xuống, tay để ngang ngực, hít thở sâu. “Có lẽ tớ quen rồi.” “Hôm nay cậu cũng vừa từ viện về à?” “Sao cậu biết?” “Lần trước cậu có nói.” “À. Có nói sao?” Nhờ trời, quá trình hồi phục khá suôn sẻ. Bác sĩ phụ trách còn phấn khích động viên rằng, bởi tôi quyết định phẫu thuật nên nguy cơ tái phát bệnh chắc chắn sẽ giảm đi nhiều. Mei ngồi vào ghế đối diện, nhẹ nhàng đặt lên bàn quyển ký họa lúc nãy. Tôi để ý đến số “1997” nhỏ xíu ở góc bìa màu xanh ô liu, và bất chợt lẩm bẩm, “Quả nhiên.” “Quả nhiên gì cơ?” “Quyển này có màu khác với quyển Misaki thường mang theo. Quyển kia màu nâu sẫm nhỉ? Với cả, trên bìa quyển này còn ghi số ‘1997’ nữa.” “Cậu tinh ý hơn tôi tưởng đấy.” “Đây là sổ vẽ năm ngoái mà, sao cậu lại đem nó theo?” Chẳng lẽ là cố tình à? “À. Tôi định cho cậu xem.” “Có bức tranh nào đặc biệt sao?” “Không hẳn,” Mei khẽ bật cười, rồi ngồi thẳng dậy, ngước mắt nhìn. “Nhưng mà, tôi nghĩ ít nhiều nó cũng có ý nghĩa.” Ít nhiều có ý nghĩa? Ý nghĩa gì cơ? “À ừm, vậy thì…” Tôi bỏ lửng câu nói, cũng không thể thẳng thắn đón nhận ánh nhìn trực diện của Mei. “Tôi kể cho cậu nghe nhé.” Misaki Mei nói, những ngón tay mảnh khảnh khẽ vuốt miếng băng trắng trên mắt trái, “Để tôi kể cậu nghe, Sakakibara. Về câu chuyện mùa hè cậu chưa từng biết đến.” Sakaki Teruya, một “Sakaki khác”. Mei gặp anh ta lần đầu vào mùa hè năm 1996, năm cô 13 tuổi. Kỳ nghỉ hè đầu tiên của cấp hai, như thường lệ, cô cùng gia đình đến căn biệt thự bên bờ biển… “Ở thị trấn Hinami. Không xa biệt thự có gia đình Hiratsuka, người quen của bố tôi. Hai nhà thường qua lại thăm chơi, đôi khi còn bày biện ăn uống kiểu tiệc tại gia.” Nếu bày biện ở nhà Misaki thì ai sẽ là người nấu nướng? Một thắc mắc nhảm nhí thoáng qua đầu tôi. Kirika có vẻ không giỏi bếp núc, khả năng gia chánh của Mei cũng chẳng hơn gì con số không. Vậy là, ông bố? Thật ra đó chỉ là thắc mắc tầm phào, nhưng Mei đã lên tiếng như thể nhìn thấu suy nghĩ của tôi, “Người ấy… bố tôi, chắc quen với nếp sống nước ngoài nên có vẻ thích tiệc tùng. Song hầu như chỉ tổ chức theo kiểu catering[3] thôi, đại loại vậy.” Ra thế. Cũng phải nhỉ! “Sakaki là em vợ ông Hiratsuka. Kỳ nghỉ hè năm ấy gia đình họ sang chơi, anh cũng đi cùng.” Mei lật bìa ký họa, lấy ra một tấm hình cỡ 2L[4] kẹp bên trong. “Đây là ảnh chụp hôm đó.” Nói đoạn, cô lặng lẽ chìa ảnh cho tôi. Tôi nghiêm nghị gật đầu và cúi xem. Hẳn là chụp trên hiên biệt thự, trong ảnh có Kirika và Mei. Dáng vẻ Mei hai năm về trước đã nhuốm màu bí ẩn rồi (chỉ khác là không đeo băng mắt). Ngoài hai mẹ con họ còn có năm người nữa, cả nam lẫn nữ. “Sao cậu không đeo băng mắt?” “Mẹ tôi bảo tháo ra vì có khách tới chơi.” Con mắt giả màu xanh thay cho bên mắt trái đã mất khi còn nhỏ của Mei là do bà mẹ nghệ nhân búp bê đặc biệt chế tác cho. Vậy mà Mei lại dùng băng mắt che nó đi, mẹ cô hẳn không khỏi đau lòng. “Người ngoài cùng bên phải là Sakaki, 24 tuổi vào thời điểm ấy.” “Bố của Misaki đâu?” “Người đó chụp ảnh, nên không có mặt trong hình.” Đôi nam nữ tầm tuổi trung niên này chắc là vợ chồng Hiratsuka, ngồi lọt thỏm giữa họ là một bé gái. Cách xa hai vợ chồng một chút, bên cạnh Sakaki Teruya, là một cậu bé nhỏ nhắn. Trừ Mei và Sakaki, mọi người trong hình đều cười tươi và nhìn thẳng vào máy ảnh. “Cậu bé cạnh Sakaki là So, con riêng của cô Tsukiho vợ ông Hiratsuka. Lúc đó cậu bé đang học lớp Bốn.” Tức là dưới tôi và Mei ba khóa. Da cậu bé rất trắng, nhưng không bằng Mei. Trông khá trầm tính. Nhìn thì rõ là mỉm cười, nhưng không hiểu sao cứ toát ra vẻ gì cô đơn. “Còn bé gái?” “Mirei. Bấy giờ cô bé mới được ba tuổi thì phải. Mirei là em gái khác cha của So.” “Vậy là…” “Cô Tsukiho tái giá với ông Hiratsuka rồi sinh bé Mirei. So là đứa con với người chồng trước. Ông ta mất sau khi So chào đời.” Ừm. Câu chuyện tuy hơi lắt léo, nhưng cũng không tới mức khó hiểu. “Nói chung,” Mei đặt hai khuỷu tay lên mép bàn, vừa đỡ cằm vừa rướn người nhìn vào tấm hình trên tay tôi. “Đó là lần đầu tôi gặp Sakaki. Anh sẽ đáp lại nếu có ai hỏi chuyện, nhưng không bao giờ chủ động mở lời. Ấn tượng của tôi về anh ấy là, một con người ít nói và khó gần.” “Trông hơi giống thầy Chibiki nhỉ?” “Chắc thế.” “Không phải là giống thầy Chibiki sôi nổi hoạt bát thời trẻ đâu. Cứ xem ảnh cũ của thầy thì thấy thời đó với bây giờ cứ như hai người khác nhau vậy. Ý tớ là Sakaki trông hơi giống thầy Chibiki trầm lặng của hiện tại ấy, nhưng chỉnh tuổi về lứa ngoài hai mươi. Nếu đeo kính có khi còn giống hơn nữa.” “Có vẻ cũng đúng.” “Anh này không sống cùng gia đình Hiratsuka à?” “Ừm,” Mei trả lời rồi lấy lại tấm hình. “Anh ấy sống một mình ở biệt thự bên hồ.” Cô đặt tấm hình sang bên, do dự một hồi lại với lấy quyển ký họa, mở đến trang giữa rồi nói “Đây này!” và cho tôi xem. Bức tranh vẽ một ngôi nhà. Dù ký họa bằng bút chì, nhưng có thể nói, khả năng của người vẽ vượt trội so với học sinh cấp hai bình thường. Viền sau ngôi nhà là một vạt rừng hay rặng cây. Nhìn qua cũng thấy nhà cửa khá lớn và bề thế. Có lẽ đây là “biệt thự bên hồ” mà Mei đang nói đến. Biệt thự gồm hai tầng, xây dựng theo kiến trúc phương Tây. Tường ốp ván gỗ. Cửa sổ cơ bản là kiểu cao hẹp, đóng mở bằng cách đẩy lên đẩy xuống. Mái nhà không mang hình tam giác thông thường, mà ở lưng chừng lại gập xuống, tạo thành độ nghiêng dốc hơn so với phía trên[5]. Ở phần tường sát mặt đất là một dãy cửa sổ nhỏ. “Trang tiếp theo cũng là căn biệt thự ấy.” Nghe Mei nói, tôi lật sang xem. Bức này thay góc nhìn. Khác với các cửa sổ còn lại, cửa sổ tầng hai khá độc đáo, có hình ô van cắt bỏ nửa dưới, rồi lại bổ dọc thành hai phần nằm đối xứng nhau. Cứ như đôi mắt vậy! “Hơi giống ngôi nhà Amityville[6].” Tôi buột miệng. “Đó là gì?” Mei nghiêng đầu. “Cậu chưa xem Chuyện rùng rợn ở Amityville[7] à? Ngôi nhà xuất hiện trong phim ấy đấy.” Hơn nữa, còn là một ngôi nhà cực kỳ ma quái. “Tôi không biết.” Mei đáp ngay, vẫn nghiêng đầu. “Ừm, bức này vẽ vào hè năm ngoái à? Vì ở góc phải bức tranh có nguệch ngoạc mấy số “8/1997”. “Giờ này năm ngoái, tôi cũng đến biệt thự bên bờ biển. Trong lúc đi dạo, tôi phát hiện ra ngôi nhà và bỗng muốn vẽ thử.” Mei trả lời, nhẹ nhàng gấp sổ lại. “Tình cờ nó lại là nhà của Sakaki.” “Nghĩa là năm ngoái cậu cũng gặp anh Sakaki đó?” “Gặp mấy lần.” “Trong lúc vẽ tranh?” “Lúc ấy cũng có gặp, nhưng gặp lại lần đầu là ở bờ biển cơ.” “Biển? Ban nãy cậu nói là ‘biệt thự bên hồ’ mà?” “À, thế hả? Chỗ này là hồ, mà cũng không lớn tới mức đó, có vẻ giống cái ao hơn.” Mei khẽ nheo mắt phải, “Ở đấy có biển, từ bờ biển đi xa khỏi khu rừng một lúc sẽ gặp cái ao. Tên nó là Minazukiko[8]… À, vậy đúng là hồ rồi.” Dù nghe giải thích, nhưng tôi không mường tượng nổi địa hình khu vực Mei đang miêu tả, nên vẫn chẳng hiểu gì cả. “Bấy giờ Sakaki đang chụp ảnh ở bờ biển. Chụp ảnh là sở thích của anh ấy thì phải. Sakaki đi cùng So, còn tôi thì đi một mình. Đấy là lần gặp mặt tình cờ đầu tiên sau một năm từ giã. Cậu cháu họ cũng nhớ chúng tôi từng gặp nhau vào năm kia.” “Ừm, vậy là hai người đã nói chuyện?” “Chút đỉnh.” Là chuyện gì? Tôi định hỏi nhưng lại thôi, cứ hỏi dồn hết câu này đến câu khác thì sớm muộn gì cô cũng nói “Tôi ghét bị hỏi nhiều” và từ chối trả lời cho mà xem. Thế nhưng, Mei vẫn tiếp tục kể, “Tự dưng Sasaki bắt chuyện với tôi, ‘Ồ! Em đeo băng mắt đấy à…’” Em là Mei phải không? Năm ngoái, chúng ta gặp nhau tại biệt thự nhà Misaki đúng chứ? Sakaki Teruya tiến lại gần, tay vẫn cầm chiếc máy ảnh cơ. Anh kéo lê chân trái, điệu bộ hơi mất tự nhiên. Anh bị thương ư? Mei hỏi. À, không… Sakaki đáp, nhưng lại khẽ gật đầu. Tôi gặp tai nạn, từ rất lâu rồi. Vết thương từ dạo ấy không hồi phục, đến tận bây giờ vẫn phải lê chân trái để đi. Tai nạn xảy ra khi Sakaki còn học cấp hai. Chiếc xe buýt của lớp bị xe tải đâm… “Hả?” Nghe chuyện, một ký ức trỗi dậy, tim tôi run rẩy đến lạnh toát cả người. “Tai nạn xe buýt trường cấp hai?” Ban nãy Mei có nói, vào thời điểm trong hình, Sakaki Teruya 24 tuổi. Tức là năm nay anh ta 26 tuổi, thời anh ta còn học trung học cơ sở, là hơn mười năm về trước. “Lẽ nào…” Tôi lẩm bẩm, rồi hít một hơi thật sâu. “Cái người tên Sakaki đó, ngày xưa cũng ở Yomiyama? Anh ta từng học trường Bắc Yomi, lớp 9-3, lẽ nào lại như vậy?” “Tai nạn thảm khốc năm 87 nhỉ?” Mei gật đầu lặng lẽ. “Tôi cũng từng nghĩ như vậy. Khi bắt đầu thực hiện ‘đối sách’ cho năm nay, trong lúc nghe thầy Chibiki kể chi tiết những câu chuyện về tai ương ngày xưa, tôi chợt nhớ đến chuyện của Sakaki.” Mười một năm trước, mùa xuân năm 1987, tai ương ập đến với lớp 9-3 trong buổi du lịch ngoại khóa. Xe buýt riêng của lớp xuất phát từ Yomiyama hướng đến sân bay ngoại thành, tai nạn xảy ra giữa đường đi. Một chiếc xe tải từ làn đường bên kia đâm thẳng vào xe buýt do tài xế ngủ gật… Tính cả học sinh và giáo viên phụ trách, có tất cả bảy người thiệt mạng. Sự cố khiến Sakaki Teruya mang thương tật bên chân trái, lẽ nào lại là vụ việc ấy? “Vì vậy, mùa hè năm nay,” Mei lặng lẽ cất lời. “Tôi định sau khi đến biệt thự ở biển sẽ đi gặp anh Sakaki để xác nhận chuyện này. Giá biết thêm thông tin gì đó hữu ích thì tốt quá, nhỏ nhặt thôi cũng được.” Ầy, thật tình! Tôi nhìn chăm chăm vào khuôn mặt Mei. Cô ấy cứ im ỉm hành động là sao, chí ít cũng nên nói một tiếng cho tôi biết chứ. Dù sao thì, tôi buộc phải công nhận đây đúng là một biểu hiện rất Misaki Mei của Misaki Mei. Không bận tâm đến những suy tư của tôi, Mei tiếp tục, “Thế nhưng khi tôi đến gặp Sakaki thì anh ấy mất rồi, mất vào mùa xuân vừa qua, đâu tháng Năm.” Mei khẽ vén tóc mái, thở dài. “Cuối cùng tôi chỉ gặp được hồn ma Sakaki… Sao, Sakakibara? Cậu có muốn nghe tiếp không? Hay là chúng ta dừng ở đây, để tránh gợi lại những ký ức cũ buồn đau?” “À…” Tôi chau mày, ngón cái ấn vào thái dương bên phải. Cùng lúc, tôi cảm nhận được âm thanh trầm thấp nặng nề, yếu ớt vang lên đâu đó trong đầu. Ùng, ùnggg… “Tớ muốn nghe chứ, tất nhiên rồi.” Mei mím chặt môi, gật đầu, “Sakaki đã chết vào mùa xuân năm nay. Nhưng không thấy thi thể đâu cả. Anh ấy biến thành hồn ma để tìm kiếm xác mình.” Mời các bạn mượn đọc sách Another S/0 (Tiếng Việt) của tác giả Yukito Ayatsuji & Trang Phạm (dịch).
Quái Đàm - Chuyện Yêu Quái Và Dị Trùng Nhật Bản
Ở Nhật, kem đá, cá vàng, chuông gió, pháo hoa và lễ hội các xứ là những thứ có tính đặc trưng của mùa hè, đem mát lành và thơ mộng đến làm dịu không khí oi nồng. Nhưng ngoài những thứ nghe rất tao nhã ấy ra, Nhật Bản còn một cách làm mát truyền thống, đó là truyện ma quái. Truyện ma quái được lồng vào rất nhiều hình thức sinh hoạt hè, như kịch kabuki, tấu nói rakugo, trò chơi gọi ma bách vật ngữ. Và đơn giản nhất, là ngồi quây quần với nhau, mỗi người kể một câu chuyện thật rùng rợn, sao cho sống lưng lạnh toát, mồ hôi dầm dề, cứ tự làm mát như thế đến khuya, tiết trời dịu đi là có thể ngủ được. Ma quái ở Nhật không chỉ có linh hồn người chết, mà còn đồ vật-thực vật-hiện tượng tự nhiên thành tinh, lảng vảng ở nhân gian với tâm tư mục đích vô cùng đa dạng, bày ra những trò rất đỗi ly kì. Tất cả những truyện như thế được xếp vào một thể loại, gọi là QUÁI ĐÀM (chuyện về ma quái hoặc sự lạ). Nhờ những hoạt động mùa hè ấy, và nhờ cả những bản chép tay quý báu của các tác giả dân gian, kho tàng quái đàm Nhật Bản được lặng lẽ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nhưng cũng trong rất nhiều thế hệ, chúng chỉ đi loanh quanh ở các thành trấn thôn làng trên đảo quốc này. Phải bước sang thế kỉ 20, kho tàng ấy mới lần đầu phát sáng ra ngoài biên giới, rọi sang châu Âu châu Mỹ, nhờ công sức của một tác giả phương Tây là Lafcadio Hearn. Ông đã lắng nghe bao truyện xưa tích cũ trên khắp đất Nhật, chắt lọc những điển lạ lùng nổi tiếng nhất và tiến hành nhuận sắc, tái hiện trên giấy bằng những kiến giải và cảm xúc của mình, để tạo ra một tác phẩm rồi đây sẽ trở thành nguồn mạch cho thể loại quái đàm cận đại Nhật Bản. Tác phẩm đó là QUÁI ĐÀM ~ Chuyện yêu quái và dị trùng Nhật Bản, triệu hồi những yêu quái nổi tiếng như quỷ ăn thịt người, yêu quái cổ dài, vô diện, nàng tuyết… tập hợp những điển tích lạ như uyên ương, Hoichi cụt tai, giấc mơ hóa kiến, kèm một bản ballad dịu dàng hoài niệm về cổ tích phương Tây, cuối cùng là ba tùy bút về thế giới côn trùng, trong đó khéo léo đan cài nhiều cảm nhận về hội họa, âm nhạc, tôn giáo, tiến hóa sinh vật và triết học. Từ sau QUÁI ĐÀM của Hearn, ma mãnh chúng nó không chịu ở yên đồng sâu nước đọng, mà chuyển về làm ma đô thị, ma trường học… không chỉ trườn bò trên câu chữ, mà vươn lên phim ảnh, kịch nghệ, diễn xướng, bò ra cả màn hình, cuối cùng biến thành một thứ văn hóa kinh dị riêng. Tác phẩm này cũng đã được chuyển thể thành phim, thành nguồn tham chiếu không thể thiếu khi cần tìm hiểu về yêu ma xứ Phù Tang. QUÁI ĐÀM ~ Chuyện yêu quái và dị trùng Nhật Bản của Lafcadio Hearn  nằm trong tủ sách kinh điển của IPM, sẽ có dạng bìa cứng ở lần đầu phát hành và bìa mềm từ lần thứ hai trở đi. *** Có lẽ "Quái đàm" không phải món ngon dành cho kẻ vội vàng, vì nó đúng như đầu đề "Quái đàm" - đàm luận về quái, hay câu "Chuyên yêu quái và dị trùng Nhật Bản". Cuốn sách chia ra làm hai phần, 17 truyện đầu tiên về yêu quái, 3 chương cuối về dị trùng. Những câu chuyện ngắn, ghi chép gãy gọn, nếu đọc nhanh sẽ khó đọng lại gì. Thực lòng rất khó đánh giá "Quái đàm" có phải một cuốn sách hay hay không, nếu mê kinh dị, thì cuốn sách không quá hấp dẫn, những câu chuyện khá ngắn, nội dung đơn giản. Nhưng nếu muốn tìm hiểu về văn hóa, những câu chuyện kỳ bí của Nhật, thì đây có thể là một cuốn sách hay đáng đọc. "Quái đàm" có phần hơi giống Truyền kỳ mạn lục, đều là những ghi chép những truyện kỳ bí trong dân gian, so ra, nếu Quái đàm nhỉnh hơn Truyền kỳ mạn lục ở những câu chuyện có đầu có kết hơn, cũng có phần dễ hiểu hơn, cũng có những lời bình, trích dẫn của tác giả ở phần dị trùng. Không chỉ trong mắt người phương Tây mà thực ra người phương Đông cũng cảm thấy nền văn hóa của mình rất kỳ bí. Nhưng nhìn chung, dù có khác ở vài điểm, nhưng nếu đặt lên bàn cân thì những câu chuyện truyền miệng từ xa xưa đều có rất nhiều điểm giống nhau. Cuốn Quái đàm này cũng có ghi chép lại một số truyện, có liên quan tới văn hóa Trung Hoa. Bản in lần đầu của "Quái đàm" có bìa cứng và áo, bìa cứng bên trong khá đẹp, có điều cảm giác giấy hơi mỏng, và cuốn sách này cũng chỉ dày gần 200 trang, đọc chút là hết. Điểm: 7.5/10 *** Review sách Quái Đàm Lafcadio Hearn để hiểu thêm về dòng chảy văn hóa Nhật Bản. Quái Đàm là một tác phẩm văn học đặc biệt, tạo nên từ sự cống hiến và sự tổng hợp của tác giả Lafcadio Hearn, một người mê mẩn văn hóa truyền thống Nhật Bản đến mức kết hôn với một phụ nữ Nhật, nhập quốc tịch vào đất nước này và có tên Nhật riêng là Koizumi Yakumo. Nội dung của truyện Quái Đàm tập trung vào những câu chuyện cổ truyền về yêu ma quỷ quái đã tồn tại từ thời cổ đại trong dân gian Nhật Bản. Tập truyện được chia thành hai phần: phần Yêu quái và phần Dị trùng. Với tác phẩm Quái Đàm, Lafcadio Hearn đã đưa độc giả vào một thế giới đa sắc, đa màu sắc của những câu chuyện kỳ ảo đậm đà truyền thống Nhật Bản. Truyện đưa chúng ta vào những hình ảnh về yêu quái, hiện tượng và con người mà chúng ta thường nghe được nhưng không phải ai cũng hiểu rõ về sự tồn tại và hoạt động của những yêu quái đó. Chẳng hạn như những câu chuyện về loài hoa anh đào, biểu tượng của Nhật Bản, và lòng kiên cường của người Nhật trong hình tượng việc hi sinh của một bà vú để cứu người con gái trẻ, hoặc hình bóng của một người đàn ông sẵn lòng đánh đổi cuộc sống của mình để bảo vệ sinh mệnh của loài hoa. Đó là những câu chuyện đáng sợ về con lửng có thể biến hình thành người nhưng thiếu hoàn toàn ngũ quan, hoặc về những yêu quái cổ dài dụ dỗ con người và ăn thịt. Còn có câu chuyện về Yuki, một nàng tuyết mang trong lòng tình yêu và hận thù, hay về Aoyagi, một cô gái liễu đầy tình yêu đối với một samurai tài ba… Quái Đàm – Truyện yêu ma quỷ quái lưu truyền trong dân gian nước Nhật Giới thiệu tác giả Quái Đàm – Lafcadio Hearn Lafcadio Hearn (1850-1904) là nhà báo và nhà văn gốc Hy Lạp, đã dành nhiều năm nghiên cứu về những câu chuyện yêu ma vô cùng hấp dẫn của Nhật Bản và cho ra đời tác phẩm Quái đàm. Lafcadio Hearn đã thay đổi tên thành Koizumi Yakumo sau khi cưới vợ là một người phụ nữ Nhật Bản và nhập quốc tịch vào Nhật Bản. Hearn có một cuộc đời đa sắc, đa văn hóa. Ông lớn lên ở Ireland và sau đó di cư sang Mỹ. Sau khi làm việc như một nhà báo tại Mỹ, ông đã có cơ hội du học và làm việc ở Nhật Bản từ năm 1890. Tại Nhật, Hearn đã phát triển sự đam mê với văn hóa truyền thống và thần thoại Nhật Bản. Ông đã tìm hiểu và sưu tầm rất nhiều câu chuyện cổ truyền, truyền thuyết và truyện dân gian Nhật Bản. Công lao lớn nhất của tác giả Quái Đàm Lafcadio Hearn là viết và dịch nhiều tác phẩm văn học về Nhật Bản, giúp đưa văn hóa Nhật Bản đến với công chúng quốc tế. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Kwaidan: Stories and Studies of Strange Things” (Quái Đàm – Chuyện Yêu Quái Và Dị Trùng Nhật Bản), xuất bản năm 1903. Lafcadio Hearn đã đóng góp quan trọng vào việc giới thiệu và khám phá văn hóa Nhật Bản đến với thế giới phương Tây. Ông đã tạo nên sự kết hợp độc đáo giữa tư duy phương Tây và truyền thống phương Đông trong những tác phẩm của mình, và trở thành một trong những tác giả tiên phong trong việc khám phá và phân tích văn hóa Nhật Bản. Sách Quái Đàm và chuyện Yêu Quái Dị Trùng Nhật Bản Là tác phẩm kết tinh từ công sức sưu tầm, tập hợp, nhuận sắc của tác giả Lafcadio Hearn, một người yêu văn hóa cổ truyền Nhật Bản vô ngần. Bao chứa trong Quái Đàm chính là mạch nguồn những câu chuyện cổ liêu trai về yêu ma quỷ quái lưu truyền trong dân gian nước Nhật từ cổ chí kim. Tập truyện được chia ra làm hai phần: phần Yêu quái và phần Dị trùng. Có thể nói sách hay Quái Đàm là “Liêu Trai Chí Dị” phiên bản Nhật. Tuy nhiên, Liêu Trai Chí Dị của tác giả Bồ Tùng Linh xoay quanh nhiều về những câu chuyện tình nam nữ, người âm kẻ dương cách trở với những pha 18+ dày đặt đến kì cục, thì Quái Đàm chỉ đơn thuần là sưu tầm lại những câu chuyện về yêu quái và dị trùng ở khắp nơi trên đất nước Nhật Bản mà tác giả đã gom nhặt từ những người địa phương. Mặc dù cuốn này khá ít truyện nhưng phần nào khiến đọc giả hiểu thêm 1 chút về truyện yêu quái và dị trùng trong văn hóa Nhật Bản. Ở Nhật, truyện ma quái được lồng vào rất nhiều hình thức sinh hoạt hè, như kịch kabuki, tấu nói rakugo, trò chơi gọi ma bách vật ngữ. Và đơn giản nhất, là ngồi quây quần với nhau, mỗi người kể một câu chuyện thật rùng rợn, sao cho sống lưng lạnh toát, mồ hôi dầm dề, cứ tự làm mát như thế đến khuya, tiết trời dịu đi. Ma quái ở Nhật không chỉ có linh hồn người chết, mà còn đồ vật-thực vật-hiện tượng tự nhiên thành tinh, lảng vảng ở nhân gian với tâm tư mục đích vô cùng đa dạng, bày ra những trò rất đỗi ly kì. Nhờ những hoạt động mùa hè ấy, và nhờ cả những bản chép tay quý báu của các tác giả dân gian, kho tàng quái đàm Nhật Bản được lặng lẽ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nhưng cũng trong rất nhiều thế hệ, chúng chỉ đi loanh quanh ở các thành trấn thôn làng trên đảo quốc này. Phần Quái Đàm – Yêu Quái gần với thể ghi chép một cách chân thực các câu chuyện được truyền miệng còn phần Quái Đàm – Dị Trùng ghi chép các tích truyện xưa chỉ là yếu tố phụ trợ cho những bình luận, triết lý, chiêm nghiệm của riêng tác giả. Vì thế, chất Nhật cổ xưa, liêu trai huyễn ảo vừa thể hiện ở không gian cổ tích, huyền thoại vừa thể hiện ở cách nhìn nhận của con người vào sâu lớp trầm tích văn hóa dân gian. Đặc biệt, bản thân Lafcadio Hearn còn có sự sáng tạo huyền thoại cho riêng bản thân trong chính tác phẩm ông sưu tầm, biện giải ở truyện Hoa hướng dương. Đọc review sách Quái Đàm sẽ biết đây không chỉ là sự ghi chép một cách giản đơn tất cả những gì Lafcadio Hearn sưu tầm được trong dân gian. Ở tác phẩm này có sự gia công, gọt giũa, nhuận sắc viên ngọc thô từ những câu chuyện liêu trai truyền miệng. Để từ đấy, tạo lên một tập truyện vừa mang âm hưởng cổ xưa, cũng vừa mang nét hiện đại đương thời “tác phẩm dung hòa được hình thức hiện đại với chất liệu cổ điển, chan chứa mỹ cảm Đông – Tây, vừa có giá trị thưởng thức vừa có giá trị kiến thức”. Cũng bởi vậy, Quái đàm không chỉ là tập hợp những câu chuyện dân gian về một thời đã qua, do những con người vô danh kể lại mà còn là câu chuyện hôm nay, trong trục thời gian vẫn đang tiếp diễn. Truyện Quái đàm và dòng chảy văn hóa Nhật Bản Quái Đàm là tập hợp những truyện kỳ ảo về yêu ma và dị trùng. Nhưng sâu trong tác phẩm ấy là dòng chảy lịch sử cũng như đời sống, tâm thức con người Nhật Bản qua các thời kỳ. Và chính yếu tố lịch sử cùng yếu tố con người càng làm đậm sâu thêm tính đặc trưng riêng biệt cho mỗi câu chuyện xuất hiện trên trang sách. Đó là truyện về thời loạn Jisho – Juei với cuộc chiến giữa hai gia tộc Genji và Heike cùng những hệ lụy cuộc chiến đó gây ra với đời sống con người Nhật Bản dẫu chiến trận có kết thúc. Đó là thời loạn Eikyo đã xuất hiện một vị samurai kiệt xuất Isogai làm việc cho gia tộc Kikuji. Sau khi gia tộc sụp đổ, Isogai trở thành một vị sư mang dòng máu ngang tàng, kiên cường của người samurai năm nào. Hay đó là thời Bummei (1469 – 1486) đã diễn ra mối tình cảm động giữa người samurai trẻ tuổi Tomotada với nàng liễu Aoyagi khiến lãnh chúa cũng phải cảm động mà tác thành cho hai người… Từ những câu chuyện kỳ ảo về yêu ma và dị trùng đó, người xưa đã gián tiếp phê phán những cuộc chiến tranh phong kiến đẫm máu. Mặc dù chiến tranh đã xa xôi, nhưng hồn ma của quá khứ vẫn tiếp tục tồn tại và ảnh hưởng đến cuộc sống người dân, bất kể thời đại hay mức độ chúng ta “không nghe, không thấy”. Các câu chuyện cũng vẽ lên hình ảnh của con người Nhật Bản, sống đắm mình trong lịch sử với ý chí, nghị lực và tình thương, theo nguyên tắc “đạo” đã được ghi dấu mãi mãi. Ví dụ như câu chuyện về chàng mù Hoichi, tài năng và bất hạnh, nhưng dù bị yêu quái cắt mất đôi tai, anh ta vẫn quyết không than khóc. Có cả những samurai và những người theo đạo võ sĩ sẵn sàng hi sinh tính mạng vì người khác. Có những đôi vợ chồng trung thành, vượt qua ranh giới và định kiến để tìm kiếm hạnh phúc hoặc giữ trọn vẹn tình yêu của họ. Đồng thời, thông qua Quái đàm, độc giả cũng có thể hiểu sâu hơn về phong tục, tập quán và đời sống của người Nhật trong lịch sử. Nơi đó có truyền thống kể chuyện kèm theo nhạc đàn biwa, lễ nghi đối với người đã khuất hoặc nguyện vọng của người sống tới kiếp sau. Tất cả này tạo nên một Quái đàm, đúng như nhận định: “Không chỉ chứa đựng tinh túy của văn học dân gian, Quái đàm còn phác họa diện mạo lịch sử Nhật Bản thông qua một số sự kiện và nhân vật đáng chú ý.” Hay nói cách khác, Quái đàm như một mảnh ghép chứa đựng những dấu vết quá khứ của đất nước Nhật. Thật vậy, qua tác phẩm Quái đàm, Lafcadio Hearn đã đưa độc giả từ một quốc gia khác, sống trong một nền văn hóa khác, đến một thế giới phong phú, đa dạng của truyền thuyết kỳ ảo đậm chất truyền thống của Nhật Bản. Những hình ảnh yêu quái, hiện tượng, con người mà chúng ta thường nghe kể, nhưng không phải ai cũng hiểu rõ về tính cách và hoạt động của những yêu quái đó. Đó là các câu chuyện về hoa anh đào, biểu tượng của Nhật Bản, về lòng kiên cường của con người Nhật trong hình tượng bà vú hy sinh để cứu người con gái trẻ hoặc người đàn ông sẵn sàng đánh đổi mạng sống để bảo vệ hoa anh đào. Đó là những câu chuyện đáng sợ về con lửng biến hình thành người nhưng không có mắt, mũi, miệng hoặc về những yêu quái dài có khả năng lừa dối và ăn thịt con người. Đó là câu chuyện về Yuki, nàng tuyết mang lòng yêu hận, hay chuyện Aoyagi, nàng liễu đầy tình yêu với samurai tài ba. Phải đến thế kỷ 20, những kho tàng đó mới được khám phá bên ngoài biên giới, lan rộng đến châu Âu và châu Mỹ, nhờ Lafcadio Hearn, một tác giả phương Tây. Ông lắng nghe những truyền thuyết cổ xưa trên khắp Nhật Bản, chọn lọc những câu chuyện nổi tiếng nhất và tái hiện chúng trên trang giấy bằng những giải thích và cảm xúc của mình, tạo ra một tác phẩm sẽ trở thành nguồn cảm hứng cho thể loại quái đàm hiện đại của Nhật Bản. Kết luận review truyện Quái Đàm Như đã đề cập, Quái Đàm không chỉ đơn thuần là một sưu tập ghi chép của Lafcadio Hearn về những câu chuyện dân gian. Trong tác phẩm này, có sự khéo léo, chỉnh sửa và tinh tế để tạo nên một tập truyện kết hợp giữa sự cổ xưa và cái mới, kết hợp hài hòa hình thức hiện đại với tinh thần cổ điển. Tác phẩm này mang trong mình sự kết hợp của cảm nhận Đông – Tây, mang đến giá trị vừa về mặt thẩm mỹ vừa về mặt kiến thức. Quái Đàm – Lafcadio Hearn không chỉ đơn thuần là một tập hợp các câu chuyện dân gian về quá khứ, kể lại bởi những người vô danh, mà còn là một câu chuyện ngày nay, trong bối cảnh thời gian vẫn đang diễn ra. Mọi sự tinh tế và tạo hình trong tác phẩm này đã biến Quái Đàm trở thành một tác phẩm vừa dành cho hiện tại và cả tương lai. Bởi vì con người, bất kể sống ở thời đại nào, đều cần một nguyên tắc để không bị lạc lối, và cần trân trọng tình yêu và ý nghĩa trong cuộc sống, bởi cuối cùng, phú quý và vinh hoa chỉ là những giấc mộng thoáng qua. Và xã hội, cộng đồng loài người luôn tiến bộ để đạt đến sự hoàn thiện, cả về tổ chức và đạo đức cá nhân. Quái Đàm kể về những yêu ma nhưng nó cũng kể về con người như thế. Mời các bạn mượn đọc sách Quái Đàm - Chuyện Yêu Quái Và Dị Trùng Nhật Bản của tác giả Lafcadio Hearn & Khánh Linh (dịch).
Chỉ Đen
Trút nỗi đau quá khứ lên những trang sách, nữ nhà văn Senna Richards nhanh chóng nổi tiếng khi cuốn tiểu thuyết của cô được chuyển thể lên màn ảnh rộng. Những tưởng cô sẽ tiếp tục tận hưởng thành công hiện tại của mình trong cô độc. Nhưng khi cô tỉnh dậy vào ngày sinh nhật thứ ba mươi ba, mọi thứ đã hoàn toàn thay đổi. Bị giam cầm trong một căn chòi xa lạ giữa núi tuyết hoang vu, phải chống chọi với con đói và cái rét, chìm đắm trong các cơn trầm uất và những câu hỏi không lời giải thích… Senna buộc phải tìm ra danh tính kẻ bắt cóc và lí do của hắn. Kẻ đứng đằng sau chuyện này không lộ diện, nhưng hắn biết về Chỉ Đen – bí mật đen tối nhất của cô và đã bày sẵn một trò chơi nguy hiểm. Một lần nữa, Senna phải đối diện với quá khứ và tìm mật mã mở cánh cửa giam giữ mình. Chỉ sự thật mới có thể giải phóng cô khỏi hoàn cảnh này. Và cô nhận ra, mình không hề đơn độc trong căn chòi ấy… *** Tôi đến với CHỈ ĐEN bởi 2 lý do: Thứ nhất: tôi thích truyện trinh thám, đặc biệt đam mê những truyện khắc hoạ sâu tâm lý nhân vật. Thứ hai: tôi bị ấn tượng với tựa đề cuốn sách, một tựa đề kích thích tính tò mò, làm sao cưỡng nổi! Và tôi ngấu nghiến từng trang, từng trang một, chỉ để muốn biết Chỉ Đen là gì. Trong hành trình miệt mài ấy, tôi đã bắt gặp Senna, nhân vật trung tâm của câu chuyện, một nhà văn với cuộc sống khép kín, một tính cách gai góc, một cô gái mang trong tim những vết thương của quá khứ vẫn còn mưng mủ, một cô gái với hiện tại đầy bi kịch. Sẽ ra sao khi bất ngờ bạn bị một tên biến thái cưỡng hiếp ngay ngày lễ Giáng Sinh? Với Senna chỉ có thể gói gọn trong 4 từ: “SỐNG MÀ NHƯ CHẾT”. Và chính vào cái ngày bi kịch ấy, cô đã gặp được Isaac, một bác sĩ phẫu thuật, người mà sau này vừa là ân nhân, lại vừa là người làm xáo trộn cuộc đời cô. Dù hết sức ân cần và tinh tế, Isaac vẫn chưa thể giúp Senna vượt qua được nỗi đau ngày Giáng Sinh. Ấy vậy mà nỗi đau khác ập tới, như một trò chơi khăm tai ác của số phận, cô phát hiện mình bị ung thư vú. Cô hoàn toàn gục ngã! Trống rỗng! Chơi vơi! Cứ ngỡ với tấm lòng nhân hậu, sự kiên trì của một bác sĩ, với tình yêu không toan tính của người đàn ông cao thượng, Isaac sẽ giúp Senna vượt qua tất cả, chuyện tình của họ sẽ có một cái kết đẹp. Nhưng không, đến một ngày cô lặng lẽ ra đi. Có lẽ cô sợ. Có lẽ cô thấy mình không xứng đáng. Có lẽ cô ghét lòng thương hại. Có lẽ là tất cả! Và rồi, ba năm sau, ngay ngày sinh nhật thứ 33 của cô, họ gặp lại nhau. Họ gặp lại nhau trong một hoàn cảnh không ai mong muốn. Cả hai bị nhốt trong căn chòi nhỏ, với xung quanh là tuyết trắng, vực thẳm, và hàng rào điện. Ai là kẻ chủ mưu? Người nhốt họ có mục đích gì? Isaac và Senna phải trải qua 9 tháng vật lộn để sinh tồn và tìm ra lời giải! Truyện không nhiều nhân vật, không có tình tiết ly kỳ, không có nhiều nút thắt ngộp thở. Và nhân vật bí ẩn xuất hiện không làm thoả mãn những ai mê trinh thám. Tuy nhiên tác giả đã thật xuất sắc khi để Isaac “ phẫu thuật” trái tim cho Senna. Từng lớp tính cách, từng lớp cảm xúc của nhân vật được bóc tách đầy đau đớn, mà thật đẹp biết bao. Đọc CHỈ ĐEN để thấy rằng, trong mỗi chúng ta đều có một góc tối trong tâm hồn. Đọc CHỈ ĐEN để thấy cái gọi là “tình yêu không toan tính” là có thật, chỉ cần ta dám đối diện trái tim mình! Minh Hoàng *** Ngày thứ nhất Tôi viết một cuốn tiểu thuyết. Nó đã được phát hành. Cuốn sách xuất hiện trên Danh sách bán chạy của New York Times. Rồi một ngày, tôi ngồi trong rạp chiếu phim, ôm túi bỏng ngô lớn thơm ngậy mùi bơ, chứng kiến câu chuyện của mình trên màn ảnh rộng. Cuốn tiểu thuyết của tôi. Do chính tôi viết ra. Tôi làm mọi thứ một mình, chỉ là tự bản thân thích vậy. Nếu mọi người muốn trả tiền để được nhìn vào tâm trí hỗn loạn của tôi, xin cứ tự nhiên. Cuộc đời quá ngắn ngủi để chăm chăm giấu giếm sai lầm của bản thân. Thay vào đó, tôi chỉ tự giấu mình. Đó là ngày sinh nhật thứ ba mươi ba của tôi. Tôi tỉnh dậy, khắp người đổ mồ hôi lạnh. Nóng. Không, tôi lạnh. Lạnh đến mức người như đông cứng lại. Lớp chăn quấn quanh chân trở nên xa lạ - nó quá mềm. Tôi kéo chăn, cố phủ kín cả thân người, cảm thấy những ngón tay bám vào lớp chăn mềm bỗng trở nên núc ních và thô sạn - hình như chúng bị sưng. Trong khi đầu óc còn nặng trịch, hai mắt díp vào nhau, người tôi nóng trở lại. Cũng có thể tôi lạnh. Từ bỏ việc co kéo tấm chăn, tôi mặc cho bản thân mình trôi dạt... trôi ngược lại... ngược lại... Tôi tỉnh dậy, cảm nhận thứ ánh sáng lờ mờ qua hàng mi. Ngoài trời khá tối - ngay cả so với một ngày trời mưa ở Seattle. Phòng ngủ của tôi có cửa sổ chạm sàn, tôi lăn về hướng đấy và tự ép mình mở mắt ra, nhưng chỉ thấy trước mặt là tường. Một bức tường gỗ. Nhà tôi làm gì có thứ như vậy. Tôi đảo mắt dọc theo chiều cao bức tường, đến tận trần nhà để rồi bật dậy, rồi tỉnh hẳn. Tôi không ở trong phòng ngủ của mình. Tôi thảng thốt nhìn quanh căn phòng. Phòng này của ai? Tôi nghĩ về đêm hôm trước. Liệu có phải... Không đời nào. Từ lâu rồi tôi chẳng còn để ý đến bọn đàn ông... không thể có chuyện tôi theo ai đó về nhà. Hôm qua tôi dùng bữa tối với một biên tập viên. Chúng tôi có uống vài ly rượu. Rượu Chianti chẳng khiến bạn bất tỉnh được. Tôi bắt đầu thở gấp trong khi cố nhớ lại chuyện gì xảy ra sau khi mình rời nhà hàng. Xăng, tôi có dừng lại đổ xăng ở cây xăng Red Sea trên đường Magnolia and Queen Anne. Rồi sau đó? Tôi không nhớ nổi. Tôi nhìn xuống chiếc chăn lông vũ dưới chân, giữa những ngón tay trắng muốt. Chăn lông vũ... Màu đỏ... Lạ lẫm! Tôi đưa chân xuống sàn và rồi cả căn phòng lắc lư, chao đảo, kéo theo sau là cảm giác buồn nôn - kiểu nôn nao khó chịu bạn thường thấy vào buổi sáng, sau những buổi chè chén say bí tỉ. Tôi thèm hít hà chút không khí, cố thở thật sâu để xua đi cảm giác buồn nôn trong lồng ngực. Chắc không phải do rượu Chianti, tôi tự nhủ. “Mình đang mơ,” tôi nói lớn. Nhưng chính tôi cũng biết không phải vậy. Tôi đứng dậy, bị hoa mắt đến mười giây trước khi bước đi nổi. Rồi tôi cúi xuống và nôn thốc nôn tháo... ra sàn gỗ. Dạ dày tôi trống rỗng, nhưng dù sao tôi cũng nôn khan ít nhiều. Tôi đưa tay lên để lau miệng và cảm thấy cánh tay quá nặng nề. Phải rồi, không phải do rượu, mà tôi đã bị bỏ thuốc mê. Tôi cúi gập người vài giây rồi mới đứng thẳng dậy được. Cảm giác như thể bản thân đang ngồi trên vòng quay ở hội chợ. Tôi lảo đảo đi về phía trước, nhìn quanh quất. Một căn phòng hình tròn. Lạnh cóng. Có lò sưởi - nhưng không đốt lửa - và một chiếc giường có bốn cột trụ cao. Không có cửa ra vào. Cửa đâu rồi? Bất chợt cơn hoảng loạn dâng lên, tôi vụng về chạy lòng vòng rồi bám vào giường để trụ lại, trong khi hai chân như nhũn ra. Cửa đâu rồi? Tôi thấy hơi thở của mình phả vào không khí. Luồng hơi tan ra, rồi biến mất. Phải mất một lúc lâu mắt tôi mới có thể tập trung trở lại. Tôi chẳng rõ mình đã đứng thần ra đấy bao nhiêu lâu, hai bàn chân tôi bắt đầu đau nhức. Tôi nhìn xuống mũi chân nhưng chẳng cảm nhận được gì. Tôi phải chuyển động. Làm gì đó. Rời khỏi đây. Trên bức tường trước mặt có một ô cửa sổ. Gạt tấm rèm mỏng sang bên, thứ đầu tiên tôi nhận thấy là mình đang ở trên tầng hai. Thứ hai là - Chúa ơi! Một cơn buốt lạnh chạy từ não bộ xuống dọc sống lưng - một lời cảnh báo. Mày tiêu đời rồi, Senna. Chấm hết. Chết rồi. Có kẻ đã bắt cóc mày. Khi miệng tôi bắt đầu phản ứng trở lại, tôi nghe thấy hơi thở hổn hển của mình rõ mồn một giữa căn phòng tĩnh lặng. Tôi vẫn luôn nghĩ thở dốc chỉ là một cách nói phóng đại, cho đến khi nghe thấy tiếng thở của chính mình. Khoảnh khắc này - cái khoảnh khắc phập phồng, nín lặng - khi tất cả trong mắt tôi chỉ là màu trắng của tuyết. Rất nhiều tuyết. Dường như tất cả tuyết trên thế giới đều đang chất đống ở dưới nơi mà tôi đang đứng. Tôi nghe thấy tiếng thân thể mình va vào mặt gỗ, rồi tất cả chìm vào bóng tối. Khi tỉnh lại, tôi đang nằm ở trên sàn, giữa bãi nôn của chính mình. Tôi cất tiếng rên rỉ và một cơn đau sắc bén sượt qua cổ tay khi tôi đang cố vực bản thân đứng dậy. Tôi bật khóc và đưa tay chặn ngang miệng. Lỡ có ai đó ở đây thì tôi không muốn họ nghe thấy tiếng mình. Được đấy, Senna, tôi nghĩ. Mày nên nghĩ đến chuyện này trước khi bắt đầu rên rỉ hay kêu gào. Tôi dùng tay còn lại để nắm lấy cổ tay bị thương và dựa vào tường để đỡ lấy thân mình. Lúc này tôi mới nhận ra thứ mình đang mặc. Đây không phải quần áo của tôi. Một bộ đồ ngủ bằng vải lanh màu trắng đắt tiền. Mỏng dính, thảo nào người tôi lạnh cóng. Ôi Chúa ơi. Tôi nhắm mắt lại. Ai đã thay đồ cho tôi? Ai đã mang tôi đến đây? Hai bàn tay của tôi tê cứng lại khi tự lần khắp người để kiểm tra thân mình. Tôi chạm vào ngực, kéo quần xuống kiểm tra. Không bị chảy máu, không có vết thương, ngoại trừ một chiếc quần lót trắng mà hẳn là ai đó đã mặc vào cho tôi. Có kẻ nào đó đã động đến người tôi. Nhắm mắt lại, tôi bắt đầu rùng mình không thể kiểm soát. Không, làm ơn, đừng. “Ôi Chúa ơi.” Tôi nghe thấy tiếng mình. Tôi phải hít thở thật sâu, thật từ từ. Mày đang chết cóng đấy, Senna. Và mày đang bị sốc. Tập trung lại nào. Nghĩ đi. Bất cứ kẻ nào đã mang tôi đến đây chắc hẳn có kế hoạch gì đó xấu xa hơn là bỏ mặc cho tôi chết cóng. Tôi nhìn quanh phòng. Trong lò sưởi có củi. Nếu gã tâm thần nào đó cho tôi củi, chắc hẳn cũng để lại thứ gì để nhóm lửa. Chiếc giường nơi tôi tỉnh dậy nằm ở giữa phòng, được chạm khắc bằng tay, có bốn cột trụ cao. Vắt qua những cây cột là lớp vải voan mỏng kiều diễm, nó khiến tôi phát ốm. Tôi tiếp tục khám phá những phần khác của căn phòng: một chiếc tủ nhỏ bằng gỗ, tủ áo, lò sưởi và một tấm thảm lông thú dày cộp. Mở toang chiếc tủ, tôi lướt qua đám quần áo... có rất nhiều trang phục. Chúng dành cho tôi? Bàn tay tôi mân mê một cái mác áo. Tôi rợn người khi nhận ra tất cả những thứ ở đây đều trùng với kích cỡ của mình. Không, tôi tự nhủ. Không, chúng không thể là của mình được. Tất cả chuyện này là một sự nhầm lẫn. Đám quần áo này không thể dành cho mình được, ngay cả màu sắc cũng không đúng. Đỏ... xanh... vàng... Dẫu vậy, trong đầu tôi hiểu rõ, không có gì nhầm lẫn ở đây cả. Đầu tôi đã kịp quen với những cơn rùng mình và cơ thể tôi cũng vậy. Có việc cần làm đây, Senna. Tôi tìm thấy một chiếc hộp bạc kiểu cách ở kệ trên cùng của chiếc tủ áo. Tôi lấy nó xuống và lắc lắc. Khá nặng. Trông thật kì lạ. Bên trong đó là một hộp bật lửa, một chiếc chìa khóa và một con dao bạc nhỏ. Tôi tự hỏi những thứ trong hộp để làm gì. Tôi xem xét kĩ và thử chạm vào chúng. Tôi cần nhanh chóng rời khỏi đây. Tôi dùng con dao cắt một dải vạt áo, rồi xoắn lại, dùng bên tay lành lặn và răng để thắt nút. Tôi dè dặt đưa bên cổ tay bị thương vào chiếc nẹp tự chế. Bỏ con dao vào túi, tôi sờ đến những chiếc bật lửa, quờ quạng phía trên chiếc hộp. Có tám chiếc Zippo màu hồng. Tôi bật lửa. Lửa không lên. Tôi nhất định phải nhóm được lửa, không sớm thì muộn, vì tôi đang lạnh cóng. Tay tôi run run. Đây hẳn là một sự trùng hợp. Tôi cười phá lên. Mấy thứ liên quan đến bắt cóc cũng có thể trùng hợp được sao? Tôi sẽ nghĩ về điều này sau, bây giờ cần sưởi ấm trước đã. Các ngón tay của tôi đã tê liệt. Tôi phải thử đến sáu lần mới làm cho cái bánh xe đánh lửa quay được, hằn một rãnh đỏ trên ngón tay cái. Gỗ ẩm, không chịu bắt lửa. Hắn đặt củi ở đây bao lâu rồi? Tôi muốn tìm gì đó để mồi lửa, nhưng chẳng nghĩ ra thứ gì. Tôi nghĩ đến khả năng sống sót của bản thân và bắt đầu hoảng sợ. Có thể dùng thứ gì để mồi lửa đây? Tôi rà soát khắp phòng cho đến khi nhìn thấy một chiếc hộp trắng nhờ ở góc tủ áo với dấu thập đỏ phía trên. Một hộp dụng cụ sơ cứu. Tôi chạy tới và mở nắp, bên trong là băng gạc, thuốc giảm đau, rồi kim tiêm. Chúa ơi! Cuối cùng tôi đã tìm thấy mấy gói bông thấm cồn dùng một lần, bèn lấy và mang về phía lò sưởi. Mở một túi ra, tôi đốt một góc nắm bông. Nó bén lửa. Tôi dúi nắm bông đang cháy vào thanh củi, tiếp tục xé vỏ túi bông khác, lặp lại quy trình. Trong lúc thổi nhè nhẹ vào ngọn lửa, tôi cầu nguyện bất cứ vị thần nào làm chủ thứ năng lượng này. Củi bắt lửa. Tôi kéo cái chăn dày khỏi giường và cuộn mình trong đó, co ro ngồi trước đốm lửa le lói. Vẫn chưa đủ. Tôi rét đến nỗi chỉ muốn gieo mình vào trong ngọn lửa, để nó thiêu trọn hơi lạnh đang vồ vập từng góc da thịt. Tôi cứ ngồi thu mình như vậy cho đến lúc ngừng run rẩy. Sau đó, tôi đứng dậy. Mời các bạn mượn đọc sách Chỉ Đen của tác giả Tarryn Fisher & Thùy Dương (dịch).
Con Lạch Chết Chóc
Gwen Proctor đã chiến thắng trong trận chiến giành lại mạng sống cho các con mình từ tay kẻ sát nhân hàng loạt cùng băng đảng tâm thần của hắn. Thế nhưng mọi chuyện còn chưa kết thúc. Chưa thể khi hắn nay lại trốn thoát khỏi ngục tù. Chưa thể khi bỗng một ngày, cô nhận được dòng tin nhắn kinh hoàng… Giờ ở chỗ nào cô cũng không an toàn đâu. Con quỷ dữ những tưởng đã bị giam giữ, kiềm tỏa sau song sắt nhà tù mãi mãi lại trốn thoát, và người đầu tiên hắn khao khát săn lùng chính là cô. Trong cuộc chơi man rợ này, Gwen phải làm đủ mọi cách để bảo toàn tính mạng cho mình và những người thân yêu khỏi nanh vuốt của quỷ dữ. Trong đó, không ngoại trừ việc chính cô sẽ trở thành thợ săn.   Tiếp nối câu chuyện trong Ác mộng ven hồ, phần thứ hai Con lạch chết chóc kể về chuỗi ngày đầy sóng gió của Gwen Proctor trên con đường đi tìm ánh sáng nơi cuối đường hầm. Cùng với cuốn thứ ba mang tên Dòng sông hắc ám, series trinh thám ăn khách Stillhouse đã tạo nên một câu chuyện kịch tính, gay cấn đến tận trang cuối cùng!  ----- Về tác giả Rachel Caine Rachel Caine là một trong những tác giả ăn khách nhất thế giới với hơn năm mươi đầu tiểu thuyết nằm trong danh sách bán chạy, bao gồm hai series truyện dành cho tuổi thiếu niên là Ma cà rồng vùng Morganville và Đại Thư viện. Các dòng sách bà theo đuổi gồm có: tiểu thuyết giật gân, huyền bí, kỳ ảo hiện đại, khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết siêu linh dành cho giới trẻ. Bà hiện sống cùng gia đình tại Fort Worth, bang Texas, Mỹ. *** [REVIEW CHUYÊN SÂU] CON LẠCH CHẾT CHÓC - RACHEL CAINE Tác giả Review: Phan Huong Nguồn: Hội Thích Truyện Trinh Thám Ác mộng ven hồ kết thúc hứa hẹn một màn mở đầu đầy bất ngờ và nguy hiểm cho Con lạch chết chóc như vậy đấy. Mình đã không giấu nổi tò mò mà tìm đọc ngay cuốn thứ 2 này. Và đúng như lời đồn, tập này gay cấn và hồi hộp ở một tầm cao mới. Ở tập này, Rachel Caine cho chúng ta đọc được những cảm xúc và suy nghĩ không chỉ của Gwen Proctor (Gina Royal) như tập trước mà còn có cả Sam, hai đứa trẻ Lanny và Connor. Bởi thế, người đọc sẽ có cái nhìn đa chiều hơn trong cả câu chuyện. “Chúng ta không trốn chạy.” Tôi nói với anh. “Chúng ta đi săn.” Chiến đấu! Gwen của những ngày sau này không còn là Gina Royal trong những ngày người chồng khốn kiếp Melvin Royal của cô bị phát hiện, cũng không còn giống Gwen lúc ở hồ Stillhouse nữa. Cô hành động thông minh, mạnh mẽ và đầy dũng cảm đối mặt với quá khứ. Chỉ có một sự lựa chọn, đó là săn lùng Absalom, săn lùng Mel. Dù biết cô đang đối mặt với không chỉ 2 người, mà là rất nhiều người. Nhưng cô có Sam, người sẵn sàng cùng cô lên đường, cùng mục đích nhưng không hẳn cùng lý do. Nếu như ở Ác mộng ven hồ mình bắt đầu thấy hay hơn từ nửa sau thì Con lạch chết chóc hấp dẫn mình ngay từ những trang sách đầu tiên. Giờ đây, Gina đã thực sự chết đi, nhường chỗ cho Gwen Proctor. Đấy mới chính là con người cô cần hơn lúc này. Rachel Caine đã tạo ra một Gwen: là người mẹ của hai đứa con, chịu mọi sự đày đọa, khổ sở về thể chất lẫn tinh thần, bị nghi ngờ, bị khinh miệt… nhưng cô dùng sự dịu dàng và tôn trọng để đối đáp với những người cô quan tâm, và dùng sự dũng cảm, căm hận đấu với kẻ thù. Còn Sam, anh là một người đàn ông tử tế, quyết đoán nhưng đôi lúc, mọi thứ diễn ra trước mắt anh thật thật giả giả khiến khiến anh bối rối, hoang mang và có cả sự hoảng loạn. Điều đấy cũng dễ hiểu, điều đáng nói hơn là dường như đến cuối anh luôn sáng suốt tìm ra hướng đi đúng nhất. Lanny - cô gái luôn cố tỏ ra mạnh mẽ nhưng sâu bên trong thì yếu đuối và hiểu chuyện. Cô bé càng hiểu chuyện thì mình lại càng thương cô bé hơn. Chắc chắn Gwen yêu Lanny gấp trăm lần như thế. Lanny cũng yêu mẹ, và yêu Connor mặc dù luôn đóng vai bà chị cằn nhằn và ghét em. Connor - cậu bé luôn trầm mặc, theo đuổi những dòng suy nghĩ riêng mình, cần hơi ấm tình yêu thương của mẹ, và cả bố, bởi cậu dễ dàng tin tưởng và muốn tin vào ông ấy. Tình cảm của đứa con bé bỏng ấy lại bị chính người mà nó gọi là “bố” lợi dụng để đạt được mục đích bệnh hoạn của ông ta. Một cách đáng khinh! Con lạch chết chóc đưa mình đi khắp nơi từ ngôi nhà an toàn nơi hai đứa trẻ đang ở, đến những nơi mà người mẹ và hai người đàn ông hết lái xe lại ngồi máy bay đi hàng tiếng đồng hồ căng thẳng. Chính vì mỗi người mỗi nơi như thế, Rachel Caine đưa mình đi từ suy nghĩ của người này đến người khác. Mình vừa đọc mà phải vừa tấm đắc khen ngợi sự tài tình của tác giả. Bởi, qua nhiều góc nhìn như thế, mọi cảm xúc phơi bày trước mắt ta nhưng với những người trong cuộc ấy thì không. Rốt cục, mình vẫn bị dòng cảm xúc xô đẩy, không đoán trước được điều gì. VỀ NHÂN VẬT MIKE Có ai thắc mắc rằng “hai người đàn ông” mình kể trên là ai? Một người chắc chắn là Sam rồi. Người còn lại thì không ai khác ngoài Mike Lustig. Đây là một đặc vụ FBI và anh là một người bạn tốt của Sam. Mike không dễ dàng tin Gwen, nhưng lại rất tin tưởng Sam. Gwen đã không thể tìm được Melvin nếu không có hai người họ, đặc biệt là những đặc quyền của FBI mà Mike luôn cố giúp hết sức. Những lần xuất hiện của Mike đều ngầu hết sức trong mắt mình hihi. Vẫn là khen ngợi dịch thuật mượt mà góp phần tạo sự hấp dẫn cho series Stillhouse này. Mặc dù cái kết của tập 2 khá hoàn thiện nhưng vẫn còn điều gì đó mà Rachel Caine muốn dành cho tập 3 - Dòng sông hắc ám. Đã đi đến tận đây, mình sẽ đọc tiếp. *** êm thứ mười hai tính từ ngày gã chồng cũ trốn khỏi nhà tù, tôi nằm dài trên giường. Không ngủ. Trân trân nhìn ánh sáng và bóng tối cợt nhau trên rèm cửa. Tôi nằm trên một chiếc giường gấp bé tí hin và cắn răng chịu những vết châm đau nhói do mấy chiếc lò xo xuyên qua tấm nệm mỏng chọc vào người. Các con tôi, Lanny và Connor, nằm trên hai chiếc giường cỡ lớn trong phòng trọ bình dân này. Nhà trọ bình dân là chỗ tử tế nhất tôi thuê được lúc này. Điện thoại mới. Lại một chiếc điện thoại “rác”[1] khác, với số hoàn toàn mới. Chỉ có năm người có số, và hai trong số đó đang ngủ trong căn phòng này với tôi. Tôi không thể tin tưởng bất kỳ ai đứng ngoài phạm vi liên lạc bé tin hin đó. Tất cả những gì tôi nghĩ đến chỉ là chiếc bóng của một gã đàn ông bước đi trong màn đêm - là đi, không phải chạy, vì tôi không tin Melvin Royal đang chạy, mặc dù phân nửa cảnh sát trên cả nước đang săn lùng hắn - và thực tế là hắn đang đến tìm tôi. Tìm chúng tôi. Chồng cũ của tôi là một con quái vật, và tôi từng đinh ninh rằng hắn ta đã bị kiềm tỏa, bị nhốt chặt trong cũi, chờ ngày bị xử tử… nhưng thậm chí, khi đã ngồi sau song sắt, hắn vẫn chỉ huy một chiến dịch giày vò tôi và bọn trẻ - con chúng tôi, khiến mẹ con tôi phải sống trong sợ hãi và khổ sở. Ồ, hắn ta có vài bàn tay trợ giúp, một số ở trong tù, một số ở bên ngoài; mối giao lưu trợ giúp đó của hắn rộng tới đâu, và sâu tới đâu vẫn còn là một câu hỏi lớn, nhưng hắn đã lên kế hoạch. Hắn thao túng tôi bằng nỗi sợ hãi và những mối đe dọa đã nhắm sẵn, dẫn dụ tôi tự đâm đầu vào nơi hắn muốn: một cái bẫy chúng tôi chỉ vừa mới sống sót thoát ra mà thôi. Melvin Royal rình rập tôi trong bóng đen ngắn ngủi những khi tôi nhắm mắt. Chớp mắt, và hắn đang ở ngoài đường. Chớp mắt, và hắn đang leo thang bộ lên dãy phòng trọ trên tầng hai. Chớp mắt, và hắn đã ở ngoài cửa. Nghe ngóng. Tiếng điện thoại rung báo tin nhắn đến khiến tôi giật nảy mình, tới nỗi đau thắt cả người. Tôi vớ lấy điện thoại, cái máy sưởi trong phòng cũng đang kêu ù ù. Cái máy đó rất ồn, nhưng năng suất, và hơi ấm như một con sóng chậm rãi và ân cần liệng khắp căn phòng. Tôi dễ chịu hẳn. Tấm chăn trên cái giường xếp tí xíu này không đắp được kín người. Tôi chớp đôi mắt đã mệt lử và bật màn hình điện thoại. Thông báo hiện lên: số bị chặn. Tôi tắt điện thoại, nhét nó xuống dưới gối, và cố tự thuyết phục mình hãy cứ yên tâm mà ngủ. Nhưng tôi biết không phải thế. Tôi biết người nào nhắn tin cho mình. Và cánh cửa được khóa hai lớp kia dường như vẫn chưa đủ an toàn. Tôi đã cứu các con mình khỏi tay một kẻ giết người được mười hai ngày. Tôi kiệt sức, đau nhức khắp người và bị cơn đau đầu hành hạ. Tôi chán nản, mệt mỏi, bồn chồn lo lắng, và trên hết - trên hết - tôi nổi giận. Tôi cần phải nổi giận. Tức giận sẽ giúp chúng tôi tồn tại. Sao mày dám, tôi nghĩ tới cái điện thoại đang nằm dưới gối của mình. Mẹ kiếp, sao mày dám. Khi đã đun cho cơn giận dữ sôi ùng ục, gần tới mức đau và phát sốt, tôi thò tay xuống dưới gối và rút điện thoại ra. Cơn giận dữ của tôi là tấm khiên. Cơn giận dữ của tôi là vũ khí. Hết sức dứt khoát, tôi bấm mạnh vào nút mở tin nhắn, đón đợi thông điệp được gửi tới cho mình. Nhưng tôi đã nhầm. Tin nhắn đó không phải do gã chồng cũ gửi. Tin viết: GIỜ Ở CHỖ NÀO CÔ CŨNG KHÔNG AN TOÀN ĐÂU, theo sau tin nhắn là ký hiệu tôi đã quá quen: Å. Absalom. Choáng váng rã cơn giận dữ của tôi ra thành hàng triệu phân tử, biến chúng thành dòng sóng điện nóng ran chạy xuyên qua ngực và cánh tay tôi, như thể chính chiếc điện thoại đã phóng ra luồng điện ấy. Chồng tôi có vài bàn tay trợ giúp - giúp điều khiển chúng tôi, giúp bắt cóc các con tôi, và Absalom là bàn tay trợ giúp đó… Một hacker bậc thầy đã lừa tôi vào cái bẫy mà Melvin đã bày ra cho gã. Tôi những mong khi âm mưu đó đã hạ màn, Absalom sẽ không còn gì để đe dọa chúng tôi nữa. Đáng lẽ, tôi phải biết nhiều hơn thế. Trong phút chốc, tôi bỗng thấy nỗi kinh hoàng tột độ như một con sóng cuộn lên trong lòng, hệt như tất thảy những nỗi sợ ma ngày thơ bé đều đã được chứng minh là thật, và rồi tôi hít một hơi thật sâu, thật chậm, cố gắng suy nghĩ thấu đáo làm sao để giải quyết mớ hỗn độn vô vọng này… lần nữa. Tôi chẳng có tội, tôi chỉ tự bảo vệ mình trước nanh vuốt của một kẻ muốn giết mình, kẻ đã chiếm được lòng tin của mình suốt bao năm qua, và dần dần đưa mình đến nơi hành quyết. Nhưng điều đó không làm cho cái tin nhắn trên màn hình kia biến mất. Absalom đã phái kẻ khác tới tìm chúng tôi. Ý nghĩ đó phóng qua tôi như một tia sét, làm miệng tôi khô khốc, khiến tất cả các dây thần kinh trong tôi đồng thời căng lên, cháy bùng lên cùng một lúc, bởi vì như vậy mới đúng. Có cái gì đó khiến tôi bứt rứt suốt những ngày dài vừa qua, những ngày chúng tôi phải trốn chui trốn lủi vì sự an toàn của chính mình… cảm giác chúng tôi đang bị theo dõi, vẫn đang bị. Tôi đồ rằng mình đã quá hoang tưởng. Nếu không phải thế thì sao? Tôi cố ngồi dậy sao cho không có tiếng động, nhưng cái giường xếp không thôi cọt kẹt, và tôi nghe thấy tiếng Lanny, con gái tôi, thì thầm: “Mẹ à?” “Không có gì đâu.” Tôi thì thào đáp lại. Tôi đứng dậy, xỏ chân vào giày. Dù đi nằm nhưng tôi vẫn ăn mặc chỉnh tề: một chiếc quần thật thoải mái, áo len dáng suông, rộng rãi và đi tất dày. Tôi quàng bao súng lên vai, trùm thêm một cái áo khoác dày lên người rồi mở hết các loại khóa trong phòng, bước ra ngoài không gian lạnh lẽo. Trời Knoxville u ám và lạnh lẽo. Tôi không quen với ánh đèn thành phố, nhưng ngay lúc này đây, chúng lại xoa dịu tôi được đôi phần. Tôi không thấy mình bị cô lập mấy. Có người ở đây. Người ta sẽ nghe thấy tiếng hét. Tôi gọi một số trong danh bạ của mình. Chuông chỉ rung một hồi rồi có người nhấc máy ngay. Tôi nghe thấy giọng nói mệt mỏi của cảnh sát Prester thuộc Sở Cảnh sát Norton cất lên. Norton là thị trấn gần chỗ mẹ con chúng tôi từng sống nhất, không, chỗ mẹ con chúng tôi sống, vì chúng tôi sẽ quay trở lại hồ Stillhouse, tôi thề, chúng tôi sẽ quay lại. Anh ta nói: “Chị Proctor, giờ muộn lắm rồi.” Nghe có vẻ anh ta không lấy gì làm vui khi thấy tôi gọi. “Anh có chắc chắn một trăm phần trăm rằng Lancel Graham đã chết rồi không?” Đó là một câu hỏi rất kỳ quặc, và tôi nghe thấy tiếng cọt kẹt từ bên kia đầu dây, chắc có lẽ là tiếng phát ra từ chiếc ghế ở văn phòng cảnh sát khi Prester ngồi lại. Tôi nhìn đồng hồ. Hơn một giờ sáng. Tôi tự hỏi tại sao anh ta vẫn còn ở sở làm việc. Norton vốn là một thị trấn nhỏ bé uể oải, dẫu vậy, Norton vẫn có nhiều tệ nạn và vụ án cần giải quyết. Prester là một trong hai cảnh sát hình sự trong đội điều tra. Và Lancel Graham cũng đã từng khoác đồng phục của Sở Cảnh sát Norton. Câu trả lời của Prester thật chậm rãi và thận trọng. “Chị có vài lý do cấp bách để nghi ngờ hắn chưa chết ư?” “Hắn. Đã. Chết. Rồi. Chứ?” “Chết nhe răng. Tôi còn xem người ta lôi nội tạng của hắn ra khỏi xác trên bàn khám nghiệm tử thi. Tại sao chị lại hỏi chuyện này vào lúc…” Anh ta ngập ngừng, rồi rên lên, như thể anh ta cũng vừa xem đồng hồ. “Không có lúc nào thích hợp khi trời sáng hẳn à?” “Vì tôi đang sợ hết hồn khi nhận được một tin nhắn đe dọa nữa đây.” “Từ Lancel Graham à?” “Từ Absalom.” “À.” Anh ta kéo dài giọng, và cách anh ta kêu lên khiến tôi phải ngay lập tức đặt mình vào thế cảnh giác. Cảnh sát điều tra Prester và tôi không phải là bạn bè. Chúng tôi, ở một mức độ nào đó, là đồng minh. Nhưng anh ta không tin tưởng tôi hoàn toàn, và tôi không thể trách anh ta được. “Về chuyện đó. Kezia Claremont vẫn đang đào xới thông tin đây. Cô ấy nói rất có khả năng Absalom không phải là gã. Có khi đúng hơn phải là chúng.” Tôi rất tôn trọng Kezia. Ngày xưa, cô vẫn đi tuần cùng tay cảnh sát Graham, chí ít là thỉnh thoảng mới đi cùng, nhưng không giống như Lancel Graham, cô rất trung thực. Đối với cô mà nói, đó cũng là một cú sốc kinh hoàng và tàn khốc khi phát hiện ra đồng nghiệp cùng tổ với mình là một kẻ giết người. Nhưng vẫn chưa thấm vào đâu so với tôi. Giọng tôi căng lên và đầy thịnh nộ khi nghe được những điều đó. “Thế quái nào mà anh lại không báo cho tôi biết việc ấy? Anh biết tôi đang ở đây với bọn trẻ mà!” “Không muốn làm chị hoảng…” Anh ta nói. “Vẫn chưa có bằng chứng. Chỉ mới nghi thôi.” “Trong thời gian quen biết tôi, anh cảnh sát ạ, anh có thấy tôi dễ lên cơn hoảng loạn không?” Anh ta không nói gì vì anh ta biết tôi đúng. “Tôi vẫn sẽ nói rằng tốt hơn hết là chị nên quay trở về nhà ở Norton, hãy để chúng tôi bảo vệ chị ở đây.” “Chồng tôi đã biến một cảnh sát của các anh thành kẻ giết người đấy.” Tôi phải nuốt cơn điên tiết bệnh hoạn to như quả bóng ấy ngược vào trong. “Anh đã để Graham một mình với bọn trẻ nhà tôi, anh nhớ chứ? Có Chúa mới biết hắn ta đã làm những gì với chúng. Làm thế quái nào tôi có thể yên tâm trao tính mạng của bọn trẻ vào tay anh được?” Mời các bạn mượn đọc sách Con Lạch Chết Chóc của tác giả Rachel Caine & Ngụy Thanh Tuyên (dịch).