Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Không Giới Hạn

Bạn đã chán tám tiếng ngày qua ngày tại văn phòng? Bạn ngại sự thay đổi vì sợ rủi ro, sợ mất mát? Bạn có ước mơ nhưng không dám vượt ra khỏi sự “ổn định” để chinh phục ước mơ? Vậy thì “Không giới hạn” chính là cuốn sách chỉ ra các bước cơ bản để bạn biết cách nhận diện ước mơ của bản thân, tìm ra cách thức chinh phục ước mơ  và biết cách vượt ra khỏi khuôn mẫu, vỏ bọc an toàn để ghi tên mình trong một cuộc sống đầy ý nghĩa. "Không giới hạn" sẽ dẫn lối bạn đến với một thế giới mới. Ở nơi đó, không có ước mơ nào là không thể thực hiện. Ở nơi đó, không gì là không thể. Mỗi người một câu chuyện khác nhau. Tuy nhiên, để vươn đến thành công vượt trội hơn bao người, những tỷ phú trên đều phải vượt qua nhiều thử thách khắc nghiệt trong cuộc sống. Một trong số đó có thể dễ dàng quật ngã bất kỳ ai nản chí. Cũng có nhiều người có xuất phát điểm tương tự họ, cùng sống trong một thời đại, nhưng không phải ai cũng trở thành tỷ phú. Hầu hết những người trải qua nỗi cơ cực tương tự đều đầu hàng và từ bỏ ước mơ của mình. Chỉ có những người trụ vững, kiên định với đam mê, mới có thể đến được đích cuối cùng. Cuộc sống được tạo ra với tất cả sự đa dạng vốn có.  Mọi sự thay đổi, dù là nhỏ nhất, cũng không hề dễ dàng. Thay đổi là điều hoàn toàn tự nhiên. Nó là yếu tố giúp con người tồn tại và phát triển. Bạn không thể kéo lùi sự thay đổi. Đó là điều mà không một ai có thể làm được. Vì vậy, hãy chuẩn bị và thích nghi. Chúng ta có những nhu cầu, những mong muốn và những ước mơ rất khác nhau trong cuộc sống. Chúng ta cần tìm được nhịp điệu của riêng mình bằng việc theo đuổi ước mơ. Vì vậy, đừng để sự do dự ngăn cản bước chân của bạn. *** Giới hạn nào của con người? Ý kiến chuyên gia: “Đừng để người khác quyết định giới hạn của bạn chỉ vì nơi bạn sinh ra. Tâm hồn bạn là nơi duy nhất có thể làm điều đó.” – Đầu bếp Gusteau “Con người không thể chạy 100m ít hơn 9,7 giây.” Đó là kết luận của các nhà khoa học tại Đại học Stanford, California, Hoa Kỳ vào năm 2008. Con số này được đưa ra sau khi họ nghiên cứu dựa trên dữ liệu tổng hợp của các môn điền kinh, đua chó và đua ngựa trong suốt 50 năm. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng các vận động viên điền kinh chuyên nghiệp đã đạt 99% giới hạn về mặt thể lực. Điều này có nghĩa là con số 9,7 giây trở thành ngưỡng cực đại. Nghiên cứu này đã khiến nhiều người thất vọng. Liệu đây có phải là dấu chấm cuối cùng cho kỷ lục 100m? Trong khi các khoa học gia đang cảm thấy hài lòng, tại một nơi khác trên thế giới, một cá nhân vẫn đang miệt mài tập luyện. Anh không hay biết gì về kết quả cuộc nghiên cứu. Mùa hè năm ấy, chỉ vài tháng sau kết quả trên được công bố, anh đã khiến cả thế giới phải nghiêng mình thán phục. Anh đã vượt khỏi giới hạn của con người. Tên của anh là Usain Bolt. Olympic Bắc Kinh đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp của vận động viên điền kinh người Jamaica, Usain Bolt. Anh đã hoàn thành phần trình diễn ngoạn mục trên đường chạy 100m với thời gian 9,69 giây. 9,69 giây – nhanh hơn 1% giây so với giới hạn mà con người có thể đạt được. Kết quả trên càng thuyết phục khi nó được thiết lập trong điều kiện các vận động viên không được lợi về gió (mức gió + 0,0 được đo tại thời điểm diễn ra thi đấu). Hơn thế nữa, Usain Bolt đã chủ động chạy chậm lại vào thời khắc cuối để ăn mừng chiến thắng. Huấn luyện viên của Bolt khẳng định rằng nếu duy trì tốc độ như trong 60m đầu, anh ta có thể về đích với thành tích 9,52 giây. Các nhà nghiên cứu Vật lý của Đại học Olso, đại học lớn nhất và có truyền thống lâu đời nhất của NaUy, đã dựa trên thông số kỹ thuật các bước chạy của Bolt và đưa ra dự đoán anh ta có thể hoàn tất cuộc thi với thời gian xấp xỉ 9,55 giây nếu như không chạy chậm lại tại đích đến. Câu chuyện vẫn chưa kết thúc. Một năm sau đó, tại giải đấu thế giới được tổ chức tại Berlin, Đức, Usain Bolt đã phá kỷ lục của chính mình với thời gian 9,58 giây. Đây vẫn là cột mốc đáng tự hào của điền kinh thế giới. Trong khi Bolt và các đồng đội đang hân hoan trong niềm vui chiến thắng, thì tại nhiều nơi trên thế giới, các nhà khoa học tiếp tục có sự tranh cãi về con số giới hạn tiếp theo trong cự ly 100m. Liệu nó sẽ là 9,5? 9,44 hay 9,4? Tuy nhiên, điều mà tất cả người hâm mộ điền kinh trên thế giới quan tâm không phải là “Đâu là giới hạn của con người?” Điều họ thật sự khao khát chứng kiến chính là “Khi nào các giới hạn này sẽ bị đánh bại (một lần nữa)?” Giới hạn 9,7 giây đã bị phá vỡ chỉ trong vài tháng. Thế nhưng, trong thể thao, có những giới hạn con người tự đặt ra đã tồn tại trong suốt hơn nửa thế kỷ. Vào đầu thế kỷ XX, sau khi quan sát thành tích thi đấu của các vận động viên trong cự ly 1500m, các nhà chuyên môn đã khẳng định rằng: “Không thể chạy 1500m dưới thời gian 4 phút.” Con số này đã có ảnh hưởng. Kể từ khi được xác lập, không một cá nhân nào có thể chạm đến gần đến cột mốc đầy thử thách ấy. Điều này kéo dài gần 50 năm. Cho đến khi vận động viên người Anh, Roger Bannister kết thúc cuộc đua với thành tích 3 phút 59,4 giây vào ngày 06/05/1954. Ông đã nhanh hơn 0,6 giây so với giới hạn được đặt ra. Liệu cơ thể của Roger Bannister được cấu tạo với một thể chất vượt trội? Hay ông đã khám phá được một phương pháp tập luyện bí mật? Bạn sẽ bất ngờ khi biết rằng ông không phải là một vận động viên chuyên nghiệp. Trong giai đoạn phá vỡ cột mốc giới hạn, ông đang là một bác sĩ trẻ và dành rất ít thời gian để luyện tập. Nếu như câu chuyện dừng lại ở đây, bạn sẽ thấy nó cũng không khác mấy so với sự đột phá của Usain Bolt. Đừng quá lo lắng, đây chỉ là sự khởi đầu. Roger Bannister không những là người đầu tiên phá vỡ kỷ lục, ông còn là người đầu tiên xóa bỏ tấm màn bí mật về giới hạn của con người. Sau khi cột mốc 4 phút bị phá vỡ, chỉ 46 ngày sau đó, vận động viên người Úc John Landy đã phá kỷ lục với thời gian 3 phút 58 giây. Không dừng lại ở đó, một năm sau, vận động viên người Anh, Derek Ibbotson, tiếp tục phá vỡ kỷ lục với thời gian 3 phút 57 giây. Kỷ lục thế giới hiện nay thuộc về Hicham, vận động viên Maroc với thời gian 3 phút 43 giây. Thời điểm hiện tại, hầu hết các vận động viên điền kinh cự ly 1500m ở các giải thế giới đều có thể vượt qua cột mốc 4 phút – một thời được xem là đỉnh điểm giới hạn của con người. Điều gì đã xảy ra trong suốt hơn nửa đầu thế kỷ? Khi không ai chạm đến cột mốc sừng sững ấy. Nhưng chỉ cần một người phá vỡ, ngay lập tức, các vận động viên khác đều có thể làm được?? Giới hạn không nằm trong thể chất hay trí tuệ. Giới hạn nằm trong chính suy nghĩ của chúng ta. Bạn đã biết điều này. Tuy nhiên, hãy cẩn thận. Bạn đã đi gần hết cuộc hành trình Không giới hạn. Có thể bạn đã nhìn thấy ước mơ trở nên sống động hơn bao giờ hết. Trong giai đoạn đầy lạc quan ấy, một chiếc bẫy cuối cùng vẫn đang ngấm ngầm chờ đợi. Nó sẽ đặt dấu chấm hết cho mọi ước mơ. Nó sẽ ru người ta trong niềm hy vọng. Nó sẽ hút cạn niềm tin. Từng chút. Từng chút một. Bạn có sẵn sàng cho chiếc bẫy cuối cùng này? Chiếc bẫy cuối cùng – sự lạc quan Ý kiến chuyên gia: “Giấc mơ rồi sẽ qua đi, nhưng sau đó sẽ còn hy vọng.” – Tarzan Hãy mở trang 149 của tác phẩm Từ tốt đến vĩ đại của tác giả Jim Collins. Bạn sẽ được trải nghiệm một trong những khoảnh khắc ấn tượng nhất của cuốn sách. Tác giả có cơ hội phỏng vấn vị tướng Jim Stockdale về thời gian ông bị giam cầm hơn 8 năm tại trại tù nhân chiến tranh. Trước khi đến gặp Stockdale, tác giả Jim Collins có đọc qua tác phẩm In love and war (tạm dịch: Trong tình yêu và chiến tranh), một quyển sách do Stockdale và vợ luân phiên nhau viết trong suốt tám năm khó khăn. Cuối cùng, Collins nhận ra: “Tôi đang ngồi đây trong một căn phòng ấm cúng, nhìn ra sân trường Stanford thật đẹp, trong một chiều Chủ nhật êm đềm. Tôi cảm thấy buồn khi đọc quyển sách, mặc dù tôi biết rõ kết thúc của nó. Tôi biết ông sẽ thoát ra được, sẽ gặp lại gia đình, trở thành một anh hùng dân tộc, và sẽ trải qua những năm cuối đời nghiên cứu triết học cũng tại ngôi trường xinh đẹp này. Nếu tôi cảm thấy buồn, thì làm sao ông đối mặt với thực tế khi ông đang bị giam và không biết kết cục ra sao?” Đem câu hỏi này phỏng vấn vị tướng, tác giả đã nhận được câu trả lời: “Tôi chưa bao giờ mất niềm tin vào kết cục câu chuyện. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ rằng mình không chỉ thoát được, mà tôi còn chiến thắng và biến những trải nghiệm thành một sự kiện quan trọng trong cuộc đời, mà nếu nhìn lại, tôi không muốn đánh đổi.” Họ tiếp tục chuyến đi dạo trong sân trường đại học. Stockdale phải đi khập khiễng vì một chân của ông đã cứng lại sau nhiều năm ở trong tù. Sau khi đi khoảng 100m trong im lặng, Collins tiếp tục hỏi: “Vậy những người nào đã không thoát được?” “Ồ, dễ biết lắm. Những người lạc quan.” “Những người lạc quan? Tôi thật không hiểu.” (Điều này có vẻ trái ngược hoàn toàn so với những gì vị tướng vừa chia sẻ trước đó.) “Những người lạc quan. Họ là những người sẽ nói: “Chúng ta sẽ được thả vào giáng sinh.” Rồi Giáng sinh đến, Giáng sinh đi. Họ lại nói: “Chúng ta sẽ được thả vào lễ Phục sinh.” Rồi lễ Phục sinh đến, lễ Phục sinh đi. Và rồi sau đó là lễ Tạ ơn, rồi lại Giáng sinh nữa. Và rồi họ chết vì trái tim tan nát.” Vị tướng tiếp tục: “Đây là một bài học rất quan trọng. Anh không được lẫn lộn giữa niềm tin cuối cùng mình sẽ chiến thắng - điều này anh không được để mất - và kỷ luật để đối diện sự thật hiện tại, bất kể nó như thế nào.” (Chúng ta sẽ không được thả vào Giáng sinh và chúng ta sẽ chấp nhận như thế. Nhưng chúng ta phải tin vào kết cục cuối cùng.) Câu chuyện này không những để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng tác giả Jim Collins, mà nó còn là kim chỉ nam giúp tôi vượt qua những tháng ngày đen tối nhất. Trong cuộc sống, dù có tiếp tục theo đuổi ước mơ hay không, bạn sẽ luôn phải đối mặt với những biến cố không mong muốn. Đó có thể là một cơn bệnh hiểm nghèo, một tai nạn không báo trước, một quyết định thiếu sáng suốt, một sự ra đi mất mát… Thế nhưng, đó không phải là lý do để chúng ta chìm đắm trong những cơn ác mộng. Hãy lắng nghe lời hướng dẫn của Jim Collins trong chiếc bẫy cuối cùng: “Con người khác nhau không phải vì họ gặp hay không gặp những điều khó khăn không thể tránh khỏi trong cuộc sống. Khi phải đấu tranh với những thử thách, nghịch lý Stockdale (bạn phải giữ vững niềm tin rằng cuối cùng mình sẽ chiến thắng, và đồng thời phải đối diện sự thật phũ phàng của hiện tại) tỏ ra rất hữu hiệu giúp bạn vượt qua khó khăn và trở nên mạnh mẽ hơn chứ không hề yếu đi – không chỉ đối với riêng tôi, mà cho tất cả những ai đã học được bài học này và cố gắng áp dụng nó.” Ước mơ lan tỏa Ý kiến chuyên gia: “Ngay cả phép thuật cũng cần thời gian để hiệu nghiệm.” – Bà tiên – Cinderella32 32. Cinderella: là một bộ phim kỳ ảo lãng mạn của Hoa Kỳ do Kenneth Branagh đạo diễn dựa trên phần kịch bản được viết bởi Chris Weitz. Tháng 01/2014, tôi được sống trong thế giới của ước mơ. Tôi có cơ hội tuyệt vời khi được hòa mình vào một không gian nhiều màu sắc của các bạn trẻ trong cuộc thi “Thực hiện ước mơ” lần II. Đây là cuộc thi hằng năm dành cho đối tượng học sinh THPT nhằm hỗ trợ các bạn trong việc xác định và nuôi dưỡng ước mơ nghề nghiệp tương lai, được Thành Đoàn Tp.HCM phối hợp cùng Trung tâm Hỗ trợ Học sinh, sinh viên thành phố, Viện Đào tạo Quốc tế – Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh tổ chức. Một buổi sáng Chủ nhật đầu năm mới, tôi đến trường Đại học Kinh tế với một tâm trạng đầy phấn khích. Đã từ rất lâu rồi, tôi mới bước chân vào khuôn viên giảng đường đại học. Với những trải nghiệm của bản thân, tôi hy vọng mình có thể hỗ trợ các bạn. Thế nhưng, như mọi khi, tôi đã lầm. Tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác trước những gì mình chứng kiến. Phần dự thi của các bạn trên cả tuyệt vời. Nó khiến tất cả mọi người trong khán phòng hôm ấy phải thốt lên kinh ngạc. Không ai có thể tin được mình đang lắng nghe các bạn học sinh trung học. Các bạn tràn đầy tự tin khi trình bày ý tưởng. Các bạn có một sự hiểu biết thấu đáo về ước mơ mình lựa chọn. Có ước mơ bắt nguồn từ việc trải nghiệm những bất công trong cuộc sống. Có ước mơ ươm mầm từ tình yêu thương vô bờ bến với những người cùng cảnh ngộ. Có ước mơ xuất phát từ khát khao chinh phục bầu trời. Mỗi ước mơ, các bạn mang đến cho khán giả và ban giám khảo những cung bậc cảm xúc rất khác. Tuy nhiên, điểm chung chính là khát vọng mãnh liệt ánh lên trong từng đôi mắt. Đến với cuộc thi với tâm thế người hỗ trợ, tôi trở về nhà với rất nhiều bài học sâu sắc. Tôi có niềm tin mãnh liệt vào các bạn, vào thế hệ tiếp nối, một thế hệ với những hoài bão và khát khao. Tôi tin vào ước mơ của các bạn. Tôi tin vào ước mơ của mỗi người. Tôi tin đó là những điều tốt đẹp nhất. Nhịp điệu nào cho riêng bạn? Không có ước mơ cho riêng mình, chúng ta phải sống với ước mơ của người khác. Không có được nhịp điệu cho riêng mình, chúng ta phải hòa mình vào nhịp điệu của xã hội. Cuộc sống, thay vì là khoảng thời gian hạnh phúc mỗi người tận hưởng trên Trái đất, lại biến thành một cuộc đua tranh quyết liệt không hồi kết. Bạn đã thoát ra khỏi vòng xoáy? Bạn đã kiếm được nhịp điệu cho riêng mình? Mọi bất hạnh trong cuộc sống đều bắt nguồn từ việc không thể theo đuổi ước mơ. Do phải sống với ước mơ của người khác, hay chính xác hơn, sống cuộc sống của người khác, chúng ta luôn sợ hãi. Chúng ta không biết mình sẽ đi đâu, sẽ làm gì. Từ sợ hãi, chúng ta tranh thủ gom góp thật nhiều tiền tài, của cải, danh vọng. Và khi đạt được, nỗi sợ hãi vẫn không thể biến mất... Thế giới này, cuộc sống này, được tạo ra đầy đủ với tất cả sự đa dạng vốn có. Chim trên trời, cá dưới nước, đều có vị trí riêng. Chúng có nhu cầu khác nhau, có sức ảnh hưởng khác nhau. Thế nhưng, tất cả đều hòa hợp trong nhịp sống. Chúng đủ đầy. Chỉ duy nhất có loài người là khác biệt. Chúng ta bị tiêm nhiễm rằng cuộc sống luôn thiếu thốn; rằng chúng ta chỉ có chung một mục đích. Nếu như chúng ta không giành được, điều đó sẽ đánh mất vào tay của người khác. Điều này đã khiến lịch sử loài người luôn chìm đắm trong nỗi bất hạnh. Biết bao cuộc chiến đã nổ ra, từ đủ mọi nguyên nhân khác nhau: thực phẩm, tài nguyên, nguồn lực, niềm tin, tôn giáo… Chúng ta luôn phải giành giật. Thế giới này quá chật chội. Ở góc độ nhỏ hơn, đó là những cuộc tranh đua địa vị, quyền lực, tài sản, nhà đất... Tại sao có điều này? Bởi vì chúng ta là nô lệ. Chúng ta là nô lệ của chính mình. Chúng ta bị định hướng bởi một hình mẫu thành công nhất định. Đó phải là người có địa vị, quyền lực, tài sản, mặc những trang phục đẹp, những chiếc xe đắt tiền, hay đến những nơi cao cấp… Thay vì tìm kiếm nhịp điệu riêng, chúng ta lao vào những cuộc chiến để giành được những điều này. Để rồi khi đạt được, tâm hồn bỗng nhiên trống trải... Khi ấy, bất hạnh bắt đầu xuất hiện. Không. Cuộc sống không phải vậy. Cuộc sống được tạo ra với tất cả sự đa dạng vốn có. Ước mơ của tôi là trở thành một nhà văn, trong khi bạn gái tôi muốn là một cô giáo dạy trẻ. Tôi ước có một chiếc Cafe racer, trong khi anh trai tôi yêu thích dòng xe Vespa. Tôi xem bóng rổ là một môn thể thao giải trí, trong khi có rất nhiều người khao khát trở thành vận động viên chuyên nghiệp. Chúng ta có những nhu cầu, những mong muốn và những ước mơ rất khác nhau trong cuộc sống. Chúng ta cần tìm được nhịp điệu của riêng mình. Bằng việc theo đuổi ước mơ. Chúng ta sẽ tìm thấy sự hòa hợp. Một khi tất cả ước mơ đều trở thành hiện thực, cuộc sống sẽ trở nên ý nghĩa, đa dạng và đầy màu sắc. Khi ấy, mọi bất hạnh sẽ không còn. Chúng ta sẽ không còn tranh đấu. Chúng ta chỉ còn yêu thương. Hãy tìm nhịp điệu của riêng mình. Đó chính là tự do. Đó chính là hạnh phúc. Thế giới được tạo ra với tất cả sự đầy đủ. Cuộc sống này luôn đủ chỗ cho bạn, cho tôi, cho tất cả mọi người. Hãy tìm kiếm nhịp điệu của riêng mình. Bạn cần nó. Tất cả mọi người đều cần nó. Bởi vì cuộc sống này là không giới hạn. Bạn sẽ được nhớ đến như thế nào? “Đây là cơ hội cuối cùng. Sau chuyện này, anh sẽ không còn đường quay lại. Nếu chọn viên thuốc xanh, câu chuyện sẽ kết thúc. Anh sẽ tỉnh dậy trên giường của mình và tin những điều anh muốn tin. Nếu chọn viên thuốc đỏ, anh sẽ sống trong Wonderland và tôi sẽ chỉ cho anh thấy hố thỏ này sâu đến mức nào. Hãy nhớ, tất cả những điều tôi đem lại không gì khác ngoại trừ sự thật.” Tôi biết, bạn đang ở ngoài đó. Tôi có thể cảm nhận bạn. Tôi biết, bạn đang sợ hãi... sợ hãi về chúng ta. Bạn sợ hãi sự thay đổi... Tôi không biết về tương lai. Nên tôi không ở đây để kể cho bạn nghe một kết thúc. Tôi ở đây để kể cho bạn nghe về một bắt đầu. Bạn sẽ ngừng đọc. Bạn sẽ trở lại thế giới, một thế giới đã khác đi rất nhiều... Bạn sẽ thấy những điều mình chưa thấy... Hãy kể tôi nghe... Và khi bạn thấy những điều tôi đã thấy... Hãy kể tôi nghe... Tôi biết, bạn đang ở ngoài đó. Đừng để sự do dự cản trở bước chân bạn. Bởi vì cuộc sống là không giới hạn. Mời các bạn đón đọc Không Giới Hạn của tác giả Đặng Quốc Bảo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mạnh Tử - Tinh Hoa Trí Tuệ Qua Danh Ngôn - Giang Bội Trân
Trình Y Xuyên, một nhà Nho đời Tống, nói: “Kẻ đi học nên lấy hai quyển sách Luận ngữ và Mạnh Tử làm cốt. Đã học được hai bộ sách này rồi thì không cần học Ngũ Kinh cũng rõ thông được cái đạo của thánh hiền”. Kế thừa rất nhiều tư tưởng của Khổng Tử, đồng thời có những kiến giải rất riêng của chính mình, Mạnh Tử và các học trò đã biên soạn cuốn sách Mạnh Tử nhằm mục đích giáo dục cũng như giúp người đời sau hiểu rõ tư tưởng chủ yếu của ông. Quan niệm của Mạnh Tử về giáo dục, truyền thống hiếu học, con đường tự tu dưỡng, trí tuệ của con người, quan hệ giao tế và cách đối nhân xử thế… đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Sách Mạnh Tử - tinh hoa trí tuệ qua danh ngôn chắt lọc những lời dạy khôn ngoan của Mạnh Tử trong cuốn sách trên, khai mở cho người đọc nhiều tư tưởng tiến bộ cũng như nhiều điều bổ ích để chúng ta biết cách đối nhân xử thế trong thời đại ngày nay. Mời các bạn đón đọc Mạnh Tử - Tinh Hoa Trí Tuệ Qua Danh Ngôn của tác giả Giang Bội Trân.
Tuổi Già Tập 2 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 2 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuyệt Mật Trong Buồng Lái - Patrick Smith
Hơn bao giờ hết, đi máy bay là tâm điểm của sự tò mò, thích thú, lo lắng, và tức giận. Trong các chương sau đây, tôi sẽ cố gắng hết sức để đưa ra câu trả lời cho những ai tò mò, làm yên lòng những ai lo lắng, và những sự thật không ngờ dành cho những ai bị đánh lừa. Có lẽ các bạn khi cầm trên tay cuốn sách này đều nhận biết rõ đây là một tác phẩm kiến thức phổ thông, bình thường như mọi cuốn sách giáo khoa hay cẩm nang khoa học thường thức. Nhưng tôi tin là cuốn sách này phi thường hơn thế. Để làm được điều vĩ đại trên, cần nhiều hơn những năm miệt mài thực tập căng thẳng trong buồng lái và những chuyến bay thực nghiệm nguy hiểm, nhiều hơn những tố chất cần có của một phi công, nhiều hơn cả một cái đầu lạnh và một trái tim gan dạ, và thật nhiều hơn những may mắn không tên. Không thể hiểu rõ được những điều trên nếu ta chưa từng đọc qua cuốn sách này. *** “Tuyệt mật trong buồng lái là tài liệu nên nằm trong túi lưới đằng sau mỗi ghế ngồi.” —David Pogue, thông tín viên tờ The New York Times và tổng biên tập chương trình PBS “Là một cây viết xuất sắc, Patrick Smith mang đến một chuyến du lịch đầy tiếng cười trong một ngành vốn bị hiểu lầm—một chuyến đi vào thế giới hàng không, chẳng hề có những thuật ngữ rắc rối mà đầy ắp sự hài hước và hiểu biết sâu sắc.” —Christine Negroni, nhà văn chuyên viết về hàng không và tác giả của cuốn sách Flying Lessons “Đặc sắc và cung cấp kiến thức tuyệt vời. Một thành tựu cao xa, một cuốn sách không thể thiếu được dành cho bất kỳ ai di chuyển bằng đường hàng không, nghĩa là tất cả mọi người. —James Kaplan “Patrick Smith cực kỳ thông hiểu về ngành hàng không hiện đại và truyền tải thông tin xuất sắc bằng tiếng Anh, chứ không bằng tiếng phi công. Smith là người bạn cùng buồng lái, bạn đồng hành, cây viết, và người giải thích lý tưởng.” —Alex Beam, Boston Globe “Thật vui thích làm sao khi được đọc những lời giải thích và bình luận tao nhã đến ngạc nhiên của Patrick Smith. Thế giới cần có một người viết thật đơn giản và hợp lý kiểu E. B. White về chủ đề mà tất cả mọi người đều thắc mắc.” —Berke Breathed “Thực tế một cách xuất sắc và thật khiến người ta vững tâm.” —Cath Urquhart, The Times (London) “Giá mà tôi có thể gấp gọn Patrick Smith rồi cất anh ta vào vali của mình. Dường như anh ta biết mọi điều đáng để biết về ngành hàng không.” —Stephen J. Dubner, đồng tác giả cuốn Kinh tế học hài hước “Sắc sảo và sâu sắc.” —Joe Sharkey, The New York Times “Tuyệt vời.” —Rudy Maxa, the Savvy Traveler “Ask the Pilot thực sự khiến cho việc đi máy bay trở nên vui vẻ. Patrict Smith làm sáng tỏ được trải nghiệm này và nhắc chúng ta nhớ đến sự kỳ diệu của hàng không. Anh cũng có óc hài hước tuyệt vời—đây là điều rất quan trọng khi mà bạn bị nhồi nhét vào ghế 14D trên một chiếc máy bay tầm khu vực.” —Chris Bohjalian, tác giả cuốn sách The Night Strangers và Midwives Mời các bạn đón đọc Tuyệt Mật Trong Buồng Lái của tác giả Patrick Smith.