Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thuyết Tán Tỉnh Cậu

“Lăng nhăng như mày mà cũng muốn kết hôn hả?” “Thì tao hết lăng nhăng rồi nên mới muốn kết hôn, từ lúc đẻ ra đến giờ chưa kết hôn lần nào nên muốn thử. Mà đám cưới phải có cô dâu thiệt là dễ thương nè, tổ chức tiệc mời cả nghìn bàn luôn, nếu mời được Thủ tướng đến làm chủ hôn thì còn oách hơn nữa.” “Mày ảo tưởng nó vừa thôi.” “Không thích hả?” “Không.” “Thích đám cưới theo phong cách nào?” “Đơn giản, có lẽ chỉ tổ chức trong gia đình thôi?” “Ok, để tao gọi điện báo cho mẹ.” Bộ phim ăn khách Theory of Love đã làm mưa làm gió bao nhiêu trái tim người xem thì nay tiểu thuyết đã chính thức được ra mắt. Chàng trai ăn chơi cũng phải dừng lại trước người mà cậu yêu. Nhưng đó không phải chuyện dễ dàng. Yêu mà không biết mình yêu, thương mà cứ băn khoăn... *** Nói rằng yêu đơn phương là một loại hạnh phúc, đúng. Nhưng nói yêu đơn phương là đau khổ tột cùng, cũng chẳng sai. Đối với Third, đơn phương một người vừa là ngọt ngào cũng vừa là đắng cay. Được người ấy quan tâm là vui, biết người đã bên người khác là đau, và điều làm Third đau lòng hơn hết thảy là cậu lại mang thứ tình cảm ấy dành cho người không nên. Kai là tri kỷ, là bạn chung chí hướng, là người đã hứa cùng cậu thực hiện ước mơ và là người Third yêu đơn phương đã hơn hai năm. Đến khi vận mệnh giữa họ dịch chuyển, Third cũng biết rằng tình bạn giữa cậu và Kai không thể nào tiếp tục được nữa. Nếu một ngày người ta yêu cũng quay lại nhìn chúng ta như cách chúng ta mong muốn, liệu có thật là tốt?   “Xin chào, chúng ta lại gặp nhau vào tối thứ năm hàng tuần, đúng tám giờ tối không hơn không kém. Có lẽ nhiều người đã thắc mắc sao dạo này tôi ít trả lời tin nhắn trên fanpage, thật xin lỗi mọi người. Dạo gần đây việc học của tôi khá lu bu nhưng giờ thì dễ thở hơn rồi.” Giờ mới để ý, ống kính bị lệch. Nhưng lười xuống giường chỉnh lại mất thời gian nên thôi kệ, cứ để vậy đi. “Chúng ta bắt đầu thôi nào. Tuần trước, mấy em khóa dưới và cả bạn bè tôi đều đề cử cho tôi một bộ phim.” Tôi ngừng lại một lúc để tạo chút không khí hồi hộp cho khán giả. Tích tắc, tích tắc… “Đúng vậy, bộ phim này chính là… The girl that never stopped laughing 2 hay tựa đề Thái mà mọi người quen thuộc là Cô bé hay cườiphần hai.” Vỗ tay đi chứ, chết tiệt! Không thì nhạt chết. Mở màn câu view bằng cái ‘đầu voi’ rõ to rồi chết máy bằng cái cái ‘đuôi chuột’ đầy yên tĩnh và ngại ngùng, tôi đành nhanh chóng đổi chủ đề. “Ban đầu tôi cũng không có hứng thú với bộ này lắm, mà mọi người còn nói nội dung nó chẳng liên quan gì đến phần đầu, ủa, vậy làm phần tiếp theo làm gì không biết? Nhưng xem xong rồi mới hiểu. Phim kể về câu chuyện của một nữ sinh Trung học năm cuối tên Amy, cô bé mắc bệnh bẩm sinh, mỗi lần cười sẽ không ngừng lại được. Thật ra thì gọi nó là bệnh liên quan đến quai hàm cũng không sai. Nhưng tôi sẽ không tiết lộ nội dung đâu, mọi người phải tự mình trải nghiệm mới thấy thú vị chứ. Nào, giờ thì chúng ta cùng bàn luận về kịch bản, hình ảnh và nhạc phim nào…” Sau đó là một loạt nhận xét lan man không đầu không đuôi của tôi. À, chắc mọi người đang thắc mắc không biết là tôi là ai đúng không? Vậy để tôi nhắc lại lần nữa nhé. Tôi, “Third”, một Youtuber nghiệp dư. Nói là nghiệp dư thì cũng không đúng lắm, vì tôi đã tạo tài khoản này gần một năm rồi, coi như cũng có chút thành tựu với hơn ba mươi nghìn người xem. Fanpage mà tôi đã nhắc đến lúc trước hiện tại có chẵn ba mươi tư nghìn người theo dõi. Đúng là có cảm giác người nổi tiếng ghê luôn. Sau khi quay xong clip bàn luận về phim thì đến khâu chỉnh sửa, ghép lời, ghép nhạc rồi đăng tải lên Youtube, đây là sở thích của tôi. Và người quan trọng luôn có mặt giúp đỡ tôi lúc này chính là cậu ta, bạn thân của tôi… “Mày, clip trước có quá trời người xem luôn.” Hỏi xem nó giúp gì được cho tôi á, ừ thì tất cả đó, nhưng đa phần là ngồi nghe tôi lảm nhảm như hôm nay. “Ba trăm lượt xem.” “Hả?” “Ba trăm lượt xem, tao mới mở ra kiểm tra mười lăm phút trước.” “Youtube của mày chắc có vấn đề, thử vào lại xem.” “Tên kênh của mày nè, review phim Cô bé hay cười, lượng người xem hiện tại, ba trăm mười bốn là nhiều của mày đấy à?” Bố khỉ, tôi còn tưởng nó chưa bấm vào xem. “Nếu muốn có chục nghìn lượt xem thì lần sau mày phụ tao đi, lần nào mày xuất hiện là lần đó lượt xem tăng đột biến luôn.” Câu này thật sự luôn luôn đúng. Cả hai chúng tôi đều là sinh viên khoa Nghệ thuật truyền thông, chuyên ngành Điện ảnh, mọi người thường hay gọi chúng tôi là “nhóc phim”. Hiện giờ tôi đang học năm ba, vừa học vừa tham gia các hoạt động ngoại khóa, gần như không kiếm đâu ra thời gian rảnh, nhưng cũng lạ là… Dù bận cỡ nào, tôi với thằng bạn thân này luôn cùng nhau dành thời gian mua vé ra rạp xem phim. Ngồi xem đến hết cả phần danh đề, màn hình đổi màu đen xì một cục, hai đứa mới chịu rời khỏi rạp, cùng nhau bình luận, chia sẻ cảm nhận. Cũng chính vì thế nên tôi mới mở kênh youtube này, chủ yếu để trao đổi kinh nghiệm với người xem. Tôi chỉ muốn biết mọi người xem xong bộ phim đó có nghĩ giống tôi không, nghe thì hay đấy nhưng, ờ thì, lắm lúc cũng chẳng đâu vào đâu. Thường chẳng mấy ai quan tâm đến video của tôi, cái nào lắm lượt xem đều vì có sự góp mặt của thằng bạn. Hễ nó thò mặt vào cùng tôi review phim nào, lượt xem chắc chắn luôn vượt quá mười nghìn. “Kênh của mày, mày tự đi mà review đi chứ thằng quần.” “Thêm mày càng nổi chứ sao.” “Đừng lợi dụng mình để nổi tiếng nha bạn Third. Tao không phải anh chàng đẹp trai tốt bụng dành cho mày đâu.” Đầu tôi bị bàn tay lớn dúi mạnh một cái trước khi thằng bạn thân hùng hổ bước nhanh về phía hành lang làm tôi phải vội vàng chạy theo mới đuổi kịp nó. “Rồi mày đẹp trai với ai không biết.” “Đẹp trai với bạn gái tao chứ ai.” Hự? Một nhát xuyên tim, đau thấu trời xanh. “Rồi hôm nay mày rảnh không, đi xem phim không?” Tôi vội chuyển chủ đề ngay lập tức. “Không rảnh. Tao có hẹn đưa Jam đi ăn. Mày muốn xem phim gì thì đi xem trước đi.” Lạc lõng. Có lẽ đó là từ duy nhất có thể diễn tả tâm trạng tôi ngay lúc này. Đối với tôi, hai chữ ‘bạn thân’ này là cái tên tôi đặt cho bức tường dựng lên để che giấu tình cảm thực sự của mình. Kỳ thật là tôi ghét nó, ghét bức tường này, ước chi nó biến luôn khỏi thế giới này càng tốt. Bởi vì tôi… đang yêu đơn phương chính thằng bạn thân của mình. Mà nó cũng chẳng giống người bình thường, lắm điểm khác người và tôi cũng biết rõ tất cả mọi thứ liên quan đến nó. Thằng bạn thân này của tôi tên ‘Kai’, tên đầy đủ là Khunpol Krichpirom, sinh ngày thứ năm mùng bảy tháng chín. Năm sinh không cần quan tâm đâu nhưng năm mất chắc chắn là năm nay, vì tôi thề sẽ giết nó. Kai là một đứa vô cùng đáng ghét với vô số thói quen quái thai như phải ăn cơm vào đúng mười hai giờ trưa vì dạ dày nó là cơ quan hoạt động chính xác nhất thế giới này. “Ông chủ! Như cũ nhé.” “Kai, đợi chút, hôm nay đông khách.” “Bụng em réo ầm ĩ rồi, mười hai giờ rồi ông chủ ơi.” “Vậy hôm nay chú mày ăn quán khác đi, miễn chen ngang.” “Ông chủ còn thừa gì không? Kiểu mà bỏ vào chén được luôn khỏi cần xào nấu gì thêm cho mất thời gian ấy.” “Hơ…” “Có không ông chủ?” “Kimhuai, lấy cơm trắng chan nước mắm cho thằng Kai đi.” “Lại nữa hả, tháng này anh Kai ăn hết hai chai nước mắm rồi bố ơi.” Tôi nhìn nó ăn cơm chan nước mắm bao lần cũng chưa từng thấy nó than lấy một câu không ngon, chỉ toàn thấy nó bảo may còn được ăn cơm đúng giờ. Nói thật, tôi rất sợ, sợ nó hỏng thận chết sớm trước khi kịp chết già cùng tôi. Thằng Kai là hotboy. Dù chưa có bằng chứng nhận nhưng sự đào hoa cộng thêm cái mặt oppa khiến danh sách bạn gái của nó rải đều xuống gần như tất cả các khoa. “Mày, hỏi thật, từ lúc quen nhau đến giờ mày có bao giờ thử đếm xem từng có bao nhiêu cô bạn gái rồi không?” “Không, quá nhiều.” “Một chút cũng không nhớ?” “Rồi mày đi tọc mạch chuyện bồ tao làm cái gì hả thằng Third.” “Ơ, bạn thân như tao không có quyền biết à?” “Bố không nhớ.” “Hay thế này đi, tao nói tên khoa nào, mày nói xem đã có bạn gái ở khoa đó chưa, ok không?” Chẳng biết nó còn thậm thụt bồ bịch với ai không nữa. Hẹn hò công khai đã đếm không xuể rồi, thêm chỗ mập mập mờ mờ nữa chắc kín vài dãy phố. “Nói đi.” “Quản trị kinh doanh?” “Ba người, thích nhất Noina.” Tự dưng cảnh “Jeab, sao lại cắt dây thun của tớ?” lại hiện lên trong đầu. “Kiến trúc?” “Nhỏ AR, có cá tính mỗi tội hay dỗi, không thích.” “Giáo dục?” “Hoa khôi của khoa tên Poy đó.” “Vậy Nông nghiệp thì sao? Nông nghiệp đó.” Từ lúc quen biết nó đến giờ tôi chưa từng thấy nó hẹn hò với nữ sinh khoa này luôn. “Hoa hậu trồng trọt năm ngoái.” Hơ! Cỡ hoa hậu trồng trọt mà mày cũng cưa đổ được hả? “Vậy y khoa thì sao? Y khoa? Nha khoa? Khoa dược? Điều dưỡng? Y tá?” “Chắc là đủ hết rồi.” “Luật? Xã hội? Kỹ thuật? Khoa học?” “Ừm.” “Ừm là cái quái gì cơ.” “Từng hẹn hò qua hết rồi.” “Thằng Kai, mày muốn làm lâm tặc, cưa hết cả cái trường này hả đồ khốn?” “Nhưng có duy nhất một khoa và một ngành tao sẽ không bao giờ động đến nhé.” “Ngành nào?” Tôi vừa hỏi vừa hồi hộp, vì tôi thật sự hy vọng rằng nó không phải người tùy tiện hẹn hò với bất cứ ai… “Ngành Điện ảnh, quy tắc của tao là không hẹn hò với bạn bè cùng ngành, hiểu không?” Đối phương vỗ vỗ vai tôi cùng nụ cười quyến rũ như bao lần. Muốn hiểu gì đây? Hiểu rằng cho dù tình cảm đơn phương của tôi có cố trèo qua được bức tường “bạn thân” thì cũng chỉ toàn công dã tràng đó hả? Đau thật sự. Nhưng cũng chẳng thể làm gì ngoài gật đầu, tỏ vẻ thấu hiểu, trong nước mắt. Thằng Kai là người không biết giữ gìn đồ đạc, nhưng có một thứ nó vô cùng nâng niu, ngoài mấy cô bạn gái thì ai cũng không được đụng vào. Đó là chiếc BigBike KTM 1190 RC8, đứa con yêu quý của nó, tên Charl. “Rốt cuộc hôm nay có đi xem phim với tao không?” “Đi chứ.” “Đi xe ai đây?” “Mày lái xe mày, tao sẽ lái Chawee.” “Chawee nào?” “Chari là biệt danh, Chawee là tên thật.” “Mày đùa hả?” “Tao nghiêm túc mà.” “Tao ngồi sau Chawee nhà mày được không?” “Không được đâu, chỗ đó chỉ dành cho bạn gái thôi nhá, mày hiểu tao mà bạn hiền.” Ờ có vẻ hơi khó hiểu, mà tao cũng không muốn hiểu lắm đâu. Thằng Kai từng nói với tôi rằng trong tình yêu, nếu người đó thật sự thích mình thì họ nhất định sẽ đến tìm mình. Đây chính là lý do mà từ trước đến giờ, nó chưa bao giờ chủ động theo đuổi người khác, chỉ có đối phương tự chạy theo nó không ngớt mà thôi. “Vợ tao like bài, mày ạ.” “Like cái gì?” “Hình gái tao đang tán.” “Kìa, khung chat kìa. Trả lời đi.” Mint Supreeya: Anh, đây là ai thế? Like hết ảnh của anh, còn có bạn chung với anh nữa. Khunpol Krichpimon: À, anh cũng không biết. Thiên hạ đệ nhất dối trá, lươn lẹo, xảo trá là đây chứ đâu xa. Quan trọng, nó cũng là người rũ bỏ mọi thứ rất dễ dàng. Dễ dàng đến nỗi tôi nghĩ cả cái trường này, nó xưng thứ hai cũng không ai dám trèo lên đứng nhất. Rrrrr…! “Rồi, anh đang đi rồi đây.” Tiếng chuông điện thoại của thằng bạn thân kéo tôi khỏi mớ suy nghĩ xa xôi, trở về thực tại. Đúng vậy. Giờ chúng tôi đang đi trên đoạn hành lang nối dài, phía trước chừng mười mét là bãi đỗ xe. Tôi và Kai sẽ tách nhau ra, mỗi đứa một đường. “Jam, có chuyện gì không?” “…” “Thật không? Đừng có đùa.” “…” “Đừng cố tình gây sự nữa. Phiền lắm.” Ủa, rồi sao, cảnh này trông quen quen, diễn đi diễn lại không lệch đi đâu được. Chắc tôi phải chứng kiến cảnh này hơn chục lần rồi, mỗi lần “bấm máy” là thần thái của “diễn viên” Kai lại không chút sai biệt… “Lại dọa chia tay. Ờ, vậy luôn đi, anh không ý kiến.” Sau đó nó cúp máy. Giờ đến lượt tôi bước tới vỗ vai an ủi nó như mọi lần. “Mày, ổn không?” “Cũng không ổn lắm.” Giọng nó có vẻ buồn. Không sao đâu mày, tao vẫn ở đây, tao không đi đâu cả. Nếu mày không có ai thì vẫn còn tao luôn an ủi mày. Tao… Yêu… Mày. Ting! Tiếng tin nhắn Line vang lên. Đừng nha mày, đừng cầm điện thoại lên nha thằng bạn chết tiệt. Đừng! “Em Milk khoa Kế toán.” Giờ khỏi cần soi gương tôi cũng biết sắc mặt mình sượng hơn thằng Kai cả trăm lần, đến bàn tay an ủi đặt trên vai nó còn chưa kịp lấy xuống. “Rồi… rồi sao?” “Đang để ý.” “Nhưng mày vừa chia tay với Jam, đừng nói là…” “Nói trước là tao không bắt cá hai tay nha, còn chưa kịp tán em nó cơ mà. Nhưng giờ lại độc thân thì tán được rồi.” “…!” “Tao đi trước đây, theo đuổi tình yêu mới cái đã, sáng mai gặp. Mua giùm tao gói mì vị Tom Yum Kung nữa nhá. Tao yêu mày chết đi được.” “Khoan đã Kai, thằng khốn nạn.” Cuối cùng vẫn chỉ còn lại mình tôi. Tôi không nhớ nổi mình đã đối diện với tình huống thế này bao nhiêu lần. Trong suốt gần hơn hai năm thích nó, chưa lần nào nó quay lại nhìn tôi dù chỉ một lần. Có thể vì tôi chưa một lần đủ dũng khí thổ lộ, nên kết cục nào thì người duy nhất tổn thương cũng chỉ mình tôi. Ngày mai sẽ như mọi ngày, chỗ ngồi sau xe nó sẽ dành cho người mới. Ngày mai sẽ chỉ có tôi ôm đống đồ ăn nó thích, chủ động đi tìm nó, còn nó đến giờ vẫn chưa từng biết đến cảm nhận của tôi. Ngày mai bí mật vẫn là bí mật. Nếu không muốn mất nó, tôi sẽ phải tiếp tục vai diễn bạn hiền này, chôn giấu tình cảm đơn phương trong yên lặng. Buồn thật nhưng cũng chẳng thể làm gì khác, tôi chán nản quay về bãi đậu xe. Và mỗi lần cảm giác phiền muộn này tìm tới, tôi đều trở về phòng, mở cái laptop cũ, bật nhạc, sau đó đi thẳng vào phòng tắm. Hòa cùng tiếng nhạc buồn, tôi bật khóc, không đến nỗi nức nở nhưng đau lòng này là thật. Một tay đấm tường, tay còn lại vặn vòi hoa sen để cái lạnh xua bớt đi nỗi buồn. Âm nhạc cất lên! “Chết tiệt, mất nước!” Đúng cụt hứng mà. Tôi vội vàng chạy ra mở lại bản nhạc cũ rồi quay sang lấy chai nước trong tủ lạnh. Nước máy không chảy thì khui chai nước uống, dội xuống cho lòng này tan nát luôn đi. Ào!!! Thằng Kai, nhẽ ra mày phải biết vì mày mà tao tốn biết bao nước uống, lãng phí tài nguyên nhiều lắm, biết không… Mời các bạn đón đọc Thuyết Tán Tỉnh Cậu của tác giả Jittirain & Yang Yang (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lời Nói Dối Thứ Ba
Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Tôi ngồi tù tại cái thành phố nhỏ thời thơ ấu. Không phải là một nhà tù thực sự, đó là một phòng giam trong ngôi nhà của cảnh sát địa phương, một tòa nhà hai tầng như biết bao những nhà khác của thành phố. Phòng giam của tôi xưa kia là một xưởng giặt, cửa và cửa sổ trông ra sân. Những chấn song cửa sổ đã được gắn vào bên trong để cho không ai có thể chạm vào và đập vỡ kính. Một góc vệ sinh được che sau một cái riđô. Giáp với một bức tường, có một cái bàn và bốn cái ghế gắn chặt xuống đất, giáp với bức tường phía trước có bốn cái giường có thể gập xuống. Ba cái đã được gập. Chỉ có một mình tôi trong phòng giam. Trong thành phố này có rất ít tội phạm, và khi có, người ta lập tức đưa đến thành phố bên, thủ phủ của vùng này cách đây hai mươi cây số. Tôi không phải là tội phạm. Tôi ở đây là do giấy tờ của tôi không hợp lệ, hộ chiếu của tôi hết hạn. Với lại tôi cũng có nợ tiền. Buổi sáng, người coi tù mang đến cho tôi bữa sáng, sữa, cà phê, bánh mỳ. Tôi uống chút cà phê rồi tôi đi tắm. Người coi tù ăn nốt bữa sáng của tôi và quét dọn phòng giam. Cửa để mở, tôi có thể ra sân nếu tôi muốn. Đó là một cái sân có tường cao phủ dây trường xuân và nho dại bao quanh. Đằng sau một bức tường, ở phía trái khi ra khỏi phòng giam là một cái hành lang có mái che của một trường học. Tôi nghe tiếng trẻ con cười, đùa, la hét trong giờ ra chơi. Khi tôi còn bé, trường học đã ở đó rồi, tôi nhớ, dù tôi không bao giờ đến trường, nhưng nhà tù thì hồi đó lại ở nơi khác, tôi cũng nhớ bởi vì tôi đã đến đó một lần. Buổi sáng một giờ, và buổi tối một giờ, tôi đi bộ ngoài sân. Đó là thói quen tôi đã có từ thuở nhỏ, khi tôi mới lên năm, tôi đã buộc phải tập đi. Điều này khiến người coi tù khó chịu, vì lúc đó tôi không nói và không nghe một câu hỏi nào. Mắt nhìn xuống đất, tay chắp sau lưng, tôi bước đi, tôi đi vòng quanh dọc theo các bức tường. Mặt đất có lát đá, nhưng cỏ vẫn mọc giữa các kẽ đá. Cái sân gần như vuông, chiều dài mười lăm bước, chiều rộng mười ba bước. Giả sử bước chân của tôi dài một mét thì diện tích cái sân là một trăm chín mươi lăm mét vuông. Nhưng chắc chắn bước chân của tôi ngắn hơn. Giữa sân có một cái bàn tròn và hai cái ghế, và giáp với bức tường cuối vườn là một cái ghế dài bằng gỗ. Ngồi xuống ghế dài đó tôi có thể nhìn thấy một phần lớn bầu trời thuở nhỏ của tôi. Từ hôm đầu, bà chủ hiệu sách đã đến thăm tôi và mang đến cho tôi các đồ dùng cá nhân và một món xúp rau. Bà tiếp tục đến hàng ngày vào giờ trưa với món xúp rau của bà. Tôi bảo bà rằng ở đây tôi được nuôi dưỡng tốt, người coi tù mang đến cho tôi một ngày hai bữa đầy đủ từ nhà hàng trước mặt, nhưng bà ấy tiếp tục mang xúp đến. Tôi ăn một chút để giữ lễ, rồi tôi đưa cái xoong cho người coi tù ăn nốt. Tôi xin lỗi bà chủ hiệu sách vì sự lộn xộn tôi đã để lại trong căn hộ của bà. Bà nói: - Có quan trọng gì đâu. Tôi và con gái tôi đã dọn dẹp cả rồi. Chỉ có rất nhiều giấy. Tôi đã đốt những tờ giấy nhàu nát và những tờ ném vào sọt. Những tờ khác, tôi đã đặt lên bàn, nhưng cảnh sát đã đến và lấy đi. Tôi im lặng một lát, rồi nói: - Tôi còn thiếu bà hai tháng tiền nhà. Bà ấy cười: - Tôi đã đòi ông quá đắt cho căn hộ nhỏ đó. Nhưng nếu ông muốn thì ông có thể hoàn lại cho tôi khi ông được về. Có lẽ là sang năm. - Tôi không nghĩ là sẽ về. Người được ủy thác của tôi sẽ thanh toán cho bà. Bà ấy hỏi tôi có cần gì không, tôi nói: - Có, tôi cần giấy và bút chì. Nhưng tôi không còn tiền. - Đáng lẽ tôi đã phải tự nghĩ ra. Hôm sau, bà ấy trở lại với món xúp, một gói giấy kẻ và nhiều bút chì. Mời các bạn đón đọc Lời Nói Dối Thứ Ba của tác giả Agota Kristof.
Bằng Chứng
Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Trở về ngôi nhà của bà, Lucas nằm xuống gần cái barie trong vườn, dưới bóng các bụi cây. Anh đợi. Một chiếc xe quân đội dừng trước tòa nhà bộ đội biên phòng. Vài chiến sĩ xuống xe và đặt xuống đất một cái xác bọc trong vải bạt ngụy trạng. Một viên trung sĩ ra khỏi tòa nhà, làm hiệu cho các chiến sĩ mở tấm bạt. Viên trung sĩ huýt sáo : - Muốn nhận dạng không phải dễ dàng gì đâu! Thật là ngu xuẩn mới đi vượt cái biên giới khốn kiếp này giữa ban ngày ban mặt. Một chiến sĩ nói: - Lẽ ra chúng ta phải biết rằng làm thế là không thể được. Một chiến sĩ khác nói: - Mọi người ở đây đều biết điều đó. Chính những người ở nơi khác đến mới ngu thế. Trung sĩ nói: - Thôi được, ta hãy đến gặp cái thằng ngốc ở kia xem sao. Có lẽ nó biết chút ít gì đó chăng. Lucas vào nhà. Anh ngồi trên chiếc ghế trong nhà bếp. Anh cắt bánh mì, đặt một chai rượu vang và pho mát sữa dê lên bàn. Có tiếng gõ cửa. Viên trung sĩ và một người kính bước vào. Lucas nói: - Tôi đang đợi các ông đây. Mời các ông dùng rượu vang và pho mát chứ. Người lính nói: - Rất sẵn sàng. Hắn lấy bánh mì và pho mát, Lucas rót rượu. Trung sĩ hỏi: - Cậu đang đợi chúng tôi à? Tại sao vậy? - Tôi nghe thấy có tiếng nổ. Sau tiếng nổ, nhất định thế nào cũng có người đến hỏi xem tôi có nhìn thấy ai đó không. - Thế cậu có nhìn thấy ai không? - Không. - Như mọi lần? - Vâng, như mọi lần, chẳng có ai đến báo cho tôi biết ý định vượt qua biên giới cả. Viên trung sĩ cười, rồi hắn cũng dùng rượu và pho mát: - Lẽ ra cậu phải thấy một kẻ nào đó lảng vảng quanh đây hoặc trong rừng chứ. - Tôi không hề trông thấy ai cả. - Nếu cậu trông thấy kẻ nào đó thì cậu có nói không? - Nếu tôi có nói cho ông biết thì ông cũng không tin tôi. Viên trung sĩ lại cười: - Đôi khi tôi tự hỏi tại sao người ta lại gọi cậu là thằng ngốc.- Tôi cũng tự hỏi như vậy. Chả là thời niên thiếu, trong chiến tranh tôi bị thần kinh do một chấn thương. Người lính hỏi: - Đó là bệnh gì vậy? Ý cậu muốn nói gì? Lucas giải thích: - Các cuộc ném bom đã làm cho cái đầu của tôi trục trặc. Điều đó xảy ra với tôi khi còn nhỏ. Trung sĩ nói: - Pho mát của cậu rất ngon. Cảm ơn, cậu hãy đi với chúng tôi. Lucas đi theo họ. Chỉ cái xác, trung sĩ hỏi: - Cậu có biết người đàn ông này không? Cậu đã trông thấy hắn bao giờ chưa? Lucas ngắm nhìn cái xác tan tác của bố anh: - Nó hoàn toàn biến dạng rồi. Trung sĩ nói: - Có thể nhận ra một người nào đó nhờ quần áo, giày dép hoặc nhờ bàn tay, hoặc tóc của người đó. Lucas nói: - Tôi thấy rõ là người này không ở thành phố chúng ta. Quần áo của hắn không phải của vùng này. Trong thành phố chúng ta không ai mặc quần áo lịch sự như vậy. Trung sĩ nói: - Cảm ơn cậu. Tất cả cái đó, chúng tôi cũng không ngu đâu. Tôi chỉ muốn hỏi xem cậu có nhìn thấy hoặc thoáng thấy hắn ở đâu đó không thôi. - Không, không thấy ở đâu cả. Nhưng tôi thấy móng tay của hắn bị dứt ra. Hắn đã ngồi tù. - Nhà tù của chúng tôi không tra tấn ai cả. Có điều lạ là trong túi của hắn hoàn toàn trống rỗng, ngay cả một tấm ảnh, một cái chìa khóa hoặc một cái ví cũng không có. Tuy nhiên để vào được khu biên giới hắn phải có thẻ căn cước và giấy thông hành chứ. - Chắc là hắn đã vứt trong rừng rồi. - Tôi cũng nghĩ vậy. Hắn không muốn bị nhận dạng. Tôi tự hỏi hắn muốn bảo vệ ai. Nếu tình cờ trong khi đi hái nấm cậu có tìm được cái gì khác thì cậu hãy mang đến cho chúng tôi nhé. - Hãy tin tôi đi, thưa trung sĩ. ° Lucas ngồi trên ghế dài trong vườn, tựa đầu vào bức tường trắng của ngôi nhà. Mặt trời làm anh chói mắt. Anh nhắm mắt lại: - Làm thế nào bây giờ? - Như trước kia thôi. Phải tiếp tục thức giấc buổi sáng, đi ngủ buổi tối, và làm cái phải làm để mà sống. - Sẽ lâu đấy. - Có lẽ là suốt đời. Tiếng kêu của gia súc đánh thức Lucas. Anh đứng dậy và đi chăm sóc chúng. Anh cho lợn, gà, thỏ ăn. Anh đi tìm dê bên bờ sông, đưa chúng về và vắt sữa, rồi mang vào nhà bếp. Anh ngồi xuống ghế và ở đó cho đên khi trời tối. Rồi anh đứng dậy, ra khỏi nhà, và đi tưới vườn. Đêm trăng rằm. Khi trở vào nhà bếp, anh ăn một chút pho mát và uống rượu vang. Anh nghiêng người nôn qua cửa sổ. Anh dọn lại bàn, vào buống bà và mở cửa sổ cho thoáng khí. Anh ngồi trước bàn trang điểm và soi mình trong gương. Một lát sau Lucas mở cửa buồng. Anh nhìn cái giường to, đóng cửa lại và đi ra thành phố. Phố xa vắng tanh. Lucas bước nhanh. Anh dừng chân trước một cửa sổ mở và có ánh đèn. Đó là một nhà bếp. Một gia đình đang dùngbuwax tối, có một bà mẹ và ba đứa con chung quanh bàn, hai đứa trai và một bé gái. Họ ăn súp khoai tây. Người cha không có đó, Có lẽ hắn đi làm, hoặc ngồi tù hoặc trong trại tập trung. Hoặc nữa hắn đã không trở về sau chiến tranh. Lucas đi ngang các quán rượu ồn ào mà cách đây không lâu, đôi khi anh đã từng chơi kèn harmonica. Anh không vào mà tiếp tục đi. Anh theo cái phố tối tăm dẫn đến nghĩa trang. Anh dừng lại trước mộ ông và mộ bà. Bà chết năm ngoái sau một trận tai biến não thứ hai. Ông thì chết đã lau lắm rồi. Người trong thành phố kể rằng ông đã bị vợ đầu độc. Cha Lucas hôm nay chết khi cố vượt biên giới, và rồi Lucas sẽ không bao giờ biết được nấm mộ của ông. Lucas về nhà. Bằng một sợi thừng, anh leo lên buồng áp mái. Trên đó có một ổ rơm, một cái chăn nhà binh cũ, một cái hòm. Lucas mở hòm, anh lấy ra một quyển vở học sinh và viết vào đó vài dòng. Anh đóng quyển vở lại, nằm xuống ổ rơm. Mẹ và em gái Lucas chết vì đạn trái phá, cách đây năm năm, chỉ vài ngày trước khi chiến tranh kết thúc, tại đây, trong vườn nhà bà. ° Lucas ngồi trên chiếc ghế dài trong vườn, mắt nhắm, Một chiếc xe tải ngựa kéo dừng trước nhà. Tiếng động làm Lucas thức giấc. Joseph, người trồng rau đi vào vườn. Lucas nhìn ông: - Bác Joseph, bác cần gì vậy? - Tôi cần gì ư? Hôm nay là phiên chợ. Tôi đã đợi cậu đến tận bây giờ. Lucas nói: - Cháu xin lỗi bác. Cháu quên mất hôm nay là phiên chợ. Nếu bác muốn thì chúng ta có thể nhanh chóng chất hàng lên xe. - Cậu không đùa chứ? Hai giờ chiều rồi. Tôi đến không phải để chất hàng, mà để hỏi xem cậu có còn muốn tôi bán hàng cho cậu không. Nếu không thì phải bảo tôi. Tôi thì thế nào cũng xong. Tôi làm thế chỉ là để giúp cậu tôi. - Tất nhiên là thế, bác Joseph. Chỉ là cháu quên mất phiên chợ. - Không chỉ có hôm nay cậu quên. Cậu còn quên cả tuần trước và tuần trước nữa kia. - Ba tuần kia ư? Cháu không nhận ra đấy.   Mời các bạn đón đọc Bằng Chứng của tác giả Agota Kristof.
Cuốn Sổ Lớn
Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 Mời các bạn đón đọc Cuốn Sổ Lớn của tác giả Agota Kristof.
Mùa Xuân Và Haru
Mùa xuân và Haru kể về Suzaki Akane là một nữ sinh yêu thích Haiku (Haiku: tiếng Nhật: 俳句) (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga (連歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai (連歌の俳諧) mà sau gọi là haikai (俳諧 bài hài), theo học trường Cấp ba Nữ sinh Fujigaoka. Một ngày, cô phản đối Fuji - giáo viên môn Quốc ngữ của mình bởi cô giáo muốn phủ nhận sự ảnh hưởng Haiku trong nền văn hóa truyền thống. Từ những điểm tương đồng trong sở thích ấy, Suzaki đã kết bạn với Touko – cô bạn có cùng đam mê với nét văn hoa tinh tế của Nhật Bản với mình . Hai người nhắm tới hội thi “Haiku Koushien” và thành lập câu lạc bộ Haiku, nhưng cần đến năm người mới có thể tham gia thi đấu. Akane và Touku bằng niềm đam mê với Haiku cũng như sự chân thành muốn duy trì cũng như phát triển nét văn hóa tinh tế của Nhật Bản, cố gắng nỗ lực từng ngày tìm kiếm “bạn đồng hành” xung quanh ngôi trường cho đến khi tập hợp cho đủ các thành viên. Năm thành viên của nhóm chính là năm mảnh ghép với mỗi cá tính, mỗi thế mạnh riêng biệt. Akane có kinh nghiệm sáng tác Haiku, Touko hoạt bát, Mana với ngòi bút thư pháp điêu luyện, Rika cảm âm sắc sảo, Natsuki nhanh miệng, Mizuho giàu cảm xúc... Mỗi người một điểm mạnh và ma lực hấp dẫn riêng đã tỏa sáng trong “trận chiến Haiku”! Không chỉ là một tác phẩm làm nổi bật lên được sự tinh tế của văn hóa Nhật Bản, tác giả còn gửi gắm trong “Mùa xuân và Haru” tình bạn, niềm đam mê, nhiệt huyết cũng như sự quyết tâm – những phẩm chất đáng quý của người Nhật Bản. Nếu bạn là người yêu thích và đam mê tình hiểu văn hóa Nhật Bản, thì “Mùa xuân và Haru” chắc chắn là một tác phẩm không thể bỏ qua. *** Akiko Moriya Sinh năm 1961 tại Kanagawa. Năm 2003, bà đã đạt giải thưởng Ayukawa Tetsuya lần thứ 13 cho tác phẩm đầu tay “Nghìn năm Genji truyện”. Các tác phẩm của bà được ngợi khen bởi sự tinh tế trong văn phong và bút pháp khắc họa hình ảnh con người trong xã hội. Các tác phẩm tiêu biểu: “Haru ya Hasu”. “Shiro no Shukuen”, “Renge Nohara no Mannaka de”. “Nana-hime Genso”, “Kuzuno Seisuki”. v.v... “Haru ya Haru” - “Mùa xuân và Haru” là cuốn sách sẽ đưa bạn đọc đến gần hơn với văn hóa đầy độc đáo của Nhật Bản. *** Về Haiku Koushien Haiku* Koushien* là cuộc thi sáng tác thơ Haiku cho học sinh cấp ba. Một đội có tư cách dự thi phải bao gồm năm học sinh đang theo học tại các trường cấp ba của Nhật Bản. Để đăng ký dự thi, các thí sinh của đội phải nộp bài thơ trước hạn cuối, dựa theo quý đề* (còn gọi là nghiêm đề) được thành viên Ban tổ chức Haiku Koushien công bố trước cuộc thi. Để được tham gia đại hội toàn quốc tổ chức vào tháng Tám, cần phải đạt một trong hai điều kiện sau: • Đứng đầu trong vòng thi địa phương tổ chức vào tháng Sáu hằng năm. • Vượt qua vòng đánh giá của của thành viên Ban tổ chức Haiku Koushien. (1) Nghiêm đề như sau: Vòng thi địa phương: Phân thắng thua trong ba bài, ba đề. (2) Đại hội toàn quốc vòng sơ khảo: Phân thắng thua trong ba bài, ba đề. Đại hội toàn quốc vòng loại một, hai: Phân thắng thua trong năm bài, hai đề. Đại hội toàn quốc vòng bán kết: Phân thắng thua trong năm bài, hai đề. (3) Ngoài ra, những đội bị loại trước vòng bán kết sẽ được cho một nghiêm đề riêng để thi vớt vào buổi thi bán kết. 1: Những đội đã đăng ký vòng thi địa phương tự động được coi như đã đăng ký bài kiểm tra của thành viên Ban tổ chức Haiku Koushien. 2: Tùy vào số lượng đội đăng ký, để chọn ra đội tham gia vòng chung kết, số nghiêm đề cho các vòng thi địa phương có thể sẽ tăng lên. 3: Trong các đại hội trước, hầu hết nghiêm đề đều là quý ngữ*, nhưng trong các vòng bán kết, chung kết của đại hội toàn quốc thì nghiêm đề có thể là một chữ Hán không phải quý ngữ (ví dụ như “tiên*”, “sinh”, “chỉ”*, “chỉ*”...). (Katou Touko - Phó hội trưởng câu lạc bộ Haiku trường Cấp ba Nữ sinh Fujigaoka) *** Một cuốn sách trong trẻo về thanh xuân rực rỡ, tình bạn và sự trưởng thành của các thiếu nữ! Trong văn hóa Nhật Bản, những gì đặc sắc nhất luôn nhỏ bé và tinh tế, như những vì sao lấp lánh trong dải ngân hà bao la rộng lớn, đây là cuốn sách sẽ đưa bạn đọc đến gần hơn với văn hóa đầy độc đáo của xứ sở mặt trời mọc một cách chân thực và giàu cảm hứng nhất. “Mùa xuân và Haru” kể về  Suzaki Akane là một nữ sinh yêu thích Haiku (Haiku: tiếng Nhật: 俳句) (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga (連歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai (連歌の俳諧) mà sau gọi là haikai (俳諧 bài hài), theo học trường Cấp ba Nữ sinh Fujigaoka. Một ngày, cô phản đối Fuji – giáo viên môn Quốc ngữ của mình bởi cô giáo muốn phủ nhận sự ảnh hưởng Haiku trong nền văn hóa truyền thống. Từ những điểm tương đồng trong sở thích ấy, Suzaki đã kết bạn với Touko – cô bạn có cùng đam mê với nét văn hoa tinh tế của Nhật Bản với mình . Hai người nhắm tới hội thi “Haiku Koushien” và thành lập câu lạc bộ Haiku, nhưng cần đến năm người mới có thể tham gia thi đấu. Akane và Touku bằng niềm đam mê với Haiku cũng như sự chân thành muốn duy trì cũng như phát triển nét văn hóa tinh tế của Nhật Bản, cố gắng nỗ lực từng ngày tìm kiếm ‘bạn đồng hành” xung quanh ngôi trường cho đến khi tập hợp cho đủ các thành viên. Năm thành viên của nhóm chính là năm mảnh ghép với mỗi cá tính, mỗi thế mạnh riêng biệt. Akane có kinh nghiệm sáng tác Haiku, Touko hoạt bát, Mana với ngòi bút thư pháp điêu luyện, Rika cảm âm sắc sảo, Natsuki nhanh miệng, Mizuho giàu cảm xúc… Mỗi người một điểm mạnh và ma lực hấp dẫn riêng đã tỏa sáng trong “trận chiến Haiku”! Không chỉ là một tác phẩm làm nổi bật lên được sự tinh tế của văn hóa Nhật Bản,  tác giả còn gửi gắm trong “Mùa xuân và Haru” tình bạn, niềm đam mê, nhiệt huyết cũng như sự quyết tâm – những phẩm chất đáng quý của người Nhật Bản. Nếu bạn là người yêu thích và đam mê tình hiểu văn hóa Nhật Bản, thì “Mùa xuân và Haru” chắc chắn là một tác phẩm không thể bỏ qua.   Mời các bạn đón đọc Mùa Xuân Và Haru của tác giả Akiko Moriya.