Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Tóc Đỏ

Tuổi thơ vắng bóng sự hiện diện của người cha, Cem theo thầy học nghề đào giếng để rồi dần coi người đàn ông trung niên nghiêm khắc ấy như một người cha trong lòng. Cậu không thể ngờ cuộc đời mình vĩnh viễn thay đổi, mùa hè rực lửa ấy, khi cậu gặp một người đàn bà tóc đỏ… Phương Tây, Oedipus vô tình giết cha. Phương Đông, Rustam đâm chết Sohrab mà không hay biết đó là con trai mình. Hai truyền thuyết Hy Lạp và Ba Tư ấy hợp lại làm một, phủ bức màn ngụ ngôn bí ẩn, ám ảnh quá trình vật vã trưởng thành của một cậu trai trên nền một Istabul những năm 1980 quay cuồng thay đổi. Nàng tóc đỏ là câu chuyện về sự mất kết nối giữa các thế hệ, về gia đình và tình yêu, Đông và Tây, truyền thống và hiện đại. Có vẻ ngắn gọn hơn Orhan Pamuk mà ta quen, nhưng vẫn tìm thấy trong cuốn sách này, không lẫn vào đâu được, sức cuốn hút cố hữu đến từ bút lực của một nhà kể truyện bậc thầy. “Đẹp lặng lẽ.” - 1843 “Cuốn tiểu thuyết thứ 10 xuất sắc của Pamuk… khiến độc giả cảm giác như vừa bất thần chui ra khỏi một cái giếng sâu bước vào ánh sáng chói lòa.” - Observer (London) “Một cái kết khiến ta phải lật sách đọc lại từ đầu.” - Sunday Times “Thấm đẫm cảm thông cùng cảm thức về nơi chốn, cuốn sách vạch nên chặng đường một cậu trai bước vào tuổi trưởng thành và Istanbul bước vào sự thay đổi không thể vãn hồi.” - Financial Times *** Tiểu thuyết "Nàng tóc đỏ" của Orhan Pamuk (Thiên Nga dịch, Nhã Nam và NXB Dân Trí, 2020) có dung lượng không như các tiểu thuyết khác của cùng tác giả: "Tên tôi là Đỏ", "Tuyết", "Bảo tàng ngây thơ"… nhưng "Nàng tóc đỏ" không vì thế mà thiếu sức nặng của văn hóa, sự mê đắm trong cái đẹp cũng như những giằng xé Đông - Tây trong lòng xã hội Thổ Nhĩ Kỳ thế kỷ XX. Cuộc tìm kiếm câu trả lời tấn bi kịch "Nàng tóc đỏ" là tác phẩm về mối quan hệ cha con. Một mối quan hệ phức tạp mà nhà phân tâm học Freud đã dùng tên nhân vật trong thần thoại Hy Lạp để đặt tên cho phức cảm đã trở thành điển phạm trong việc phân tích nhiều tác phẩm văn học - nghệ thuật: phức cảm Oedipus. Nhưng Pamuk nhảy cóc qua Freud để đi tìm gặp Oedipus trong kịch của Sophocles (496-406 TCN). Ngay đề từ tác phẩm, nhà văn đã dẫn một câu thoại trong vở "Vua Oedipus" của kịch tác gia Hy Lạp cổ đại: "Oedipus: Biết tìm nơi đâu dấu vết của tội ác ngày xưa". Có thể xem toàn bộ cuốn tiểu thuyết là cuộc tìm kiếm câu trả lời trong mớ hỗn độn của "ngày xưa" đó. Nhưng xưa đến đâu? Là thời xưa ở một nước Thổ của thế kỷ trước, có cậu thiếu niên học nghề đào giếng, sau trở thành một nhà thầu. Hay xưa như thần thoại Hy Lạp? Pamuk dường như trở lại nghệ thuật của những nhà vẽ tiểu họa trong cuốn tiểu thuyết "Tên tôi là Đỏ". Khi vạn vật đều bình đẳng, cậu chàng học việc đứng ngang hàng với người anh hùng huyền thoại. Tất cả đồng hiện, xoắn bện với nhau trong cùng một thực tại và trở thành niềm ám ảnh cả đời nhân vật chính. Anh thấy ở Oedipus một sự đồng cảm, một người bạn có thể hiểu được anh. Trong câu chuyện của anh lúc nào cũng có bóng hình của Oedipus, còn Nàng tóc đỏ hiện ra như một chất xúc tác để hoàn thành nốt tấn bi kịch, hay như ở đây ta có thể gọi là "lời tiên tri". Một lời tiên tri anh tự phán cho mình và càng muốn vượt qua nó, anh ngày càng sa vào nó. Trong nhiều tiểu thuyết của Orhan Pamuk lúc nào cũng tồn tại một tội ác. Nhưng không có tội ác nào rõ ràng và dễ nhận diện, đoán định ngay từ sơ khởi như trong "Nàng tóc đỏ". Một tội ác kinh khủng, nhưng không cưỡng lại. "Nàng tóc đỏ" vì thế tinh gọn và mới mẻ theo nhiều lẽ, một trong số đó chính là việc chúng ta nhận ra trong bóng hình những câu chuyện quen thuộc của ông, có thể được kể lại theo một cách hoàn toàn khác. Câu chuyện Đông - Tây Nhưng "Nàng tóc đỏ" không chỉ có hình bóng Oedipus mà còn có Rostam, để cân bằng sự hiện diện của cả phương Đông và phương Tây trong các tác phẩm của Orhan Pamuk. Rostam là vị anh hùng của thần thoại Ba Tư, nhân vật chính trong thiên sử thi "Shahnameh" của nhà thơ Ferdowsi (940-1020). Rostam có một người con trai mà bản thân ông cũng không biết, Sohrab. Trong một cuộc chiến, Rostam không nhận ra con và đã giết Sohrab. Nếu Oedipus là câu chuyện con giết cha thì Rostam là câu chuyện cha giết con, trong sự "vô minh". Vậy thì, nếu tội ác sinh ra từ cái không biết thì liệu có thể tha thứ, hay chính xác hơn chính vì không biết mới sinh ra tội ác. Bất chấp câu chuyện được kể lại theo một trình tự mạch lạc, "Nàng tóc đỏ" vẫn khiến ta trăn trở bởi sự bất lực của con người chống lại định mệnh. Rostam không phải là phản đề của Oedipus, nó là sự bổ sung toàn vẹn, chi phối tư tưởng của Pamuk trong tiểu thuyết này. Hình ảnh chiếc giếng cũng trở đi trở lại như một ẩn dụ tăm tối của tìm kiếm, khám phá nội tâm của sâu xa và phức tạp của con người. Nó là nơi hai thầy trò đi tìm nguồn nước, là nơi khởi đầu cho tội ác đầu tiên và cũng là nơi phán xử tội ác đầu tiên đồng thời sinh ra tội ác thứ hai. Nó trở thành một thông đạo, gắn kết cả câu chuyện, để chúng nối với nhau trong sự xuyên suốt tưởng chừng bảng lảng mà vững chắc. Cuốn tiểu thuyết này cũng theo cấu trúc xoay vòng và lặp lại. Khi ta tưởng đã đi đến cuối cuốn tiểu thuyết thực chất ta đang trở lại điểm xuất phát từ trang đầu tiên. Độc giả sẽ tự hỏi mình đang đọc câu chuyện do người cha kể hay đọc câu chuyện do người con "tiếm ngôi" cha để kể. Một cuốn tiểu thuyết "quy hồi" các chủ đề mà tác giả đeo đuổi. Khi Đông và Tây đồng hiện trong một không gian, dù cách biệt về địa lý, thời gian, con người thuộc về văn minh phương Đông hay phương Tây vẫn "nhận mặt" nhau ở những tương đồng thuộc về phức cảm sâu thẳm nhất.  Nhà văn duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ đoạt giải Nobel Orhan Pamuk là nhà văn duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ đoạt giải Nobel Văn học tính đến nay. Có nhận định cho rằng giải Nobel là kết thúc sự nghiệp của một nhà văn, vì sau giải thưởng họ không viết hoặc không thể viết được tác phẩm nào hay như trước. Nhưng với Pamuk, ông đã chứng minh điều ngược lại qua "Nàng tóc đỏ". Đây cũng chỉ là cuốn tiểu thuyết thứ 10 của ông. Ngay từ lúc cầm bút, những tác phẩm và phát ngôn của ông thường gây tranh cãi trong chính tổ quốc của mình. Bản thân ông từng bị những phần tử cực đoan đe dọa tính mạng. Từ lâu, các tác phẩm của Pamuk đã trở nên quen thuộc với độc giả Việt Nam, nổi tiếng nhất là tiểu thuyết được đánh giá cao của ông: "Tên tôi là Đỏ" Huỳnh Trọng Khang *** Đọc "Nàng tóc đỏ" sẽ có cảm giác như vừa bất thần chui ra khỏi cái giếng sâu, bước vào ánh sáng chói lòa. Một cái kết bất ngờ, đủ sức mê hoặc tất cả. Cuốn tiểu thuyết thứ mười xuất sắc của Pamuk, tập trung các mối quan hệ cha - con, đã khơi sâu đáy ám ảnh, tội lỗi trong mỗi người, để làm bùng lên sự thật về danh tính, nỗi ám ảnh nhân sinh ở nơi mảnh đất giao thoa Đông - Tây. Cha - con và bi kịch mất kết nối thế hệ Cốt truyện của cuốn tiểu thuyết rất đơn giản: Một thợ đào giếng giỏi, Mahmut, thuê Cem, 16 tuổi, học việc của mình. Họ bắt đầu công việc tìm kiếm nước ở vùng ngoại ô khô cằn của Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Sau giờ làm việc, họ thường nghỉ ngơi và mua những nhu yếu phẩm ở thị trấn Ongoren. Ở đó, Cem gặp nàng tóc đỏ. Nàng trông có vẻ gấp đôi anh tuổi anh nhưng chàng ta không thể nào tránh khỏi sự si mê, và theo đuổi nàng. Về sau, anh phát hiện nàng là diễn viên của gánh hát dân gian. Sau buổi tối xem nàng diễn, anh và nàng tóc đỏ có một đêm ân ái. Đó là bước ngoặt khiến cuộc đời Cem hoàn toàn thay đổi. Tại sao anh sơ ý làm rơi thùng đất xuống người thầy đang đào dưới giếng sâu, rồi để lại thầy một mình, quay trở về thành phố.  Cem đã sống cả cuộc đời sau đó với nỗi ám ảnh giết người. Đó lại là người thầy đáng kính anh đã ngấm ngầm xem là cha.  Anh xem xét những tài liệu xung quanh chuyện Oedipus giết cha và Rostam vô tình giết con mình. Hai bi kịch cổ đại ấy, một ở Hy Lạp, một ở Ba Tư, nhưng đều trở thành bóng ma ám ảnh cả cuộc đời nhân vật chính.  Đến khi mọi việc diễn ra như những câu chuyện thần thoại, tựa một lời tiên tri đã định sẵn về số mệnh của Cem mà anh không thể nào chối bỏ. Tại sao lại không thể cưỡng lại vận mệnh, chính bởi cảm xúc sâu thẳm thật sự của Cem, nỗi dày vò và niềm kính trọng của anh đối với thầy Mahmut. Anh có một người cha, nhưng chưa bao giờ có cảm giác gần gũi với cha. Và Mahmut lại là người duy nhất đem đến cho anh cảm giác kết nối cha – con, nhưng chính anh phá hủy đi cái kết nối ấy, để rồi dần đánh mất đi ngay cả danh tính của mình. Cái giếng - biểu tượng của tội lỗi và ám ảnh Cái giếng xuất hiện nhức nhối trong tiểu thuyết Nàng tóc đỏ của Orhan Pamuk, mang đầy cảm giác tội lỗi và xấu hổ, ẩn nấp trong bóng tối, đầy de dọa và ám ảnh. Heraclitus nói rằng sự thật nằm ở đáy giếng Hành động của Cem được thể hiện đặc quánh ở biểu tượng cái giếng, nó len lỏi khắp cuộc đời anh, và làm “vấy bẩn” toàn bộ cuộc đời sau này, bằng tất cả những ám ảnh mà nó biểu lộ. Với biểu tượng cái giếng, sự mâu thuẫn, mất kết nối thế hệ, mà ở đây cụ thể là kết nối cha - con, ta có thể dễ dàng nhận thấy mối liên hệ giữa Paul Auster và Orhan Pamuk. Ở Nhạc đời may rủi, hay Moon Palace ta có thể nhìn thấy vòng xoắn trong mối quan hệ cha – con mà Paul đã dựng nên, đầy cô độc, và thất lạc. Cuộc đời Cem có cảm giác về mối quan hệ cha con lần đầu tiên bắt đầu từ cái giếng, và cuộc đời Cem, kết thúc ở chính cái giếng mà anh đã bỏ lại người thầy khốn khổ của mình khi ấy. Anh đã có thể chìm sâu giếng đáy giếng, nơi dòng nước lấp lóa, chực chờ đón anh, để anh phải đối diện với tất thảy tội lỗi mình gây ra, cũng là để anh giải thoát tất cả những bóng ma ám ảnh đeo đẳng anh cả đời. Chương cuối cùng của cuốn sách được kể bởi người phụ nữ tóc đỏ, khiến cho mọi thứ buồn tẻ trước đó trở nên bừng sáng. Nó là đoạn văn phi thường, khiến các chủ đề lỏng lẻo, mơ hồ của những câu chuyện trước đó chặt chẽ với nhau, mở ra cho người đọc những quan điểm mới đáng ngạc nhiên về các sự kiện của cuốn tiểu thuyết. Vòng xoắn cuối cùng của cuốn sách khiến ta nhớ đến cách Orhan Pamuk đã dùng trong Tên tôi là đỏ, nó khiến bí mật được khai mở, như ánh sáng lấp tỏa tỏa lên từ đáy giếng, đột ngột và chói mắt. Chương cuối cùng tuyệt vời của cuốn sách đã khiến nhiều nhà phê bình cho rằng: “Một cái kết khiến ta phải lật sách đọc lại từ đầu”. Istanbul - nàng thơ của Orhan Paumuk Istanbul, nhà của ông và nàng thơ của ông, là nhân vật luôn hiện diện trong tiểu thuyết của ông. Orhan Pamuk từng nói "Istanbul là số phận của tôi". Thành phố của ông luôn nằm giữa những ranh giới khắc khoải của Đông và Tây, thế tục và thiêng liêng, truyền thống và hiện đại, đã làm tăng thêm căng thẳng cho mọi câu chuyện ông sáng tác. Câu chuyện trong Nàng tóc đỏ diễn ra trên bối cảnh thành phố Istanbul từ những năm 1980, đang trong một guồng quay thay đổi điên cuồng, với những cao ốc mọc lên như nấm, những con đường dần xóa bỏ mọi không gian…  Cũng giống như trong Tên tôi là đỏ, Orhan Pamuk trăn trở với nghệ thuật vẽ tiểu họa đang dần phai tàn, thì ở Nàng tóc đỏ, truyền tải một ám ảnh khó quên, trữ tình và nghiệt ngã, về nghệ thuật đào giếng ở vùng nông thôn Thổ Nhĩ Kỳ trước khi máy móc xuất hiện và hiện đại. Khoảng cách giữa các thế hệ và hậu quả của sự thay đổi đột ngột đã khiến Cem, và những người khác giống anh dân mất kết nối với gốc rễ của họ. Khi Orhan Pamuk viết về đoạn nàng tóc đỏ nhìn đống đổ nát và nói rằng, không ai từng kể những câu chuyện cũ này cho các sinh viên nghe nữa, nhưng bằng cách nào đó, đôi khi mọi người vẫn biết, sâu thẳm, những điều họ đã quên, Orhan Pamuk muốn nói điều gì với chúng ta? Phải chăng đó là điều ông luôn muốn nói trong cả mười cuốn tiểu thuyết của mình, về nỗi day dứt, nỗi hoài niệm, u sầu của thành phố Istanbul trong ký ức. Mời các bạn đón đọc Nàng Tóc Đỏ của tác giả Orhan Pamuk & Thiên Nga (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vẽ Em Bằng Màu Nỗi Nhớ - Tâm Phạm
Câu chuyện là hồi ký của nhân vật Khanh trong khoảng thời gian quay trở lại Việt Nam đan xen cùng những ký ức của 6 năm trước đó. Tại Sài Gòn, Khanh đã gặp lại Linh - người con gái của miền ký ức và Miu - cô gái tưởng như xa lạ mà thân quen. Độc giả có thể tò mò về Miu, nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng luôn mang theo một điều bí ẩn về thân phận và cách ứng xử lạ lùng. Chỉ bởi Khanh không nhận ra cô sau 6 năm gặp lại mà Miu đã quyết tâm lên kế hoạch khiến Khanh nhận ra con người và tình cảm của mình. Cùng với đó là sự xuất hiện của Linh, người con gái gắn liền với ký ức về khoảng thời gian 3 năm trước khi rời Việt Nam của Khanh. Yêu và dành trọn tình cảm cho Linh, nhưng Khanh nhận lại chỉ là tình cảm bạn bè và một trái tim tan nát bởi trong lòng Linh luôn có hình bóng của người con trai khác. Sau khi Khanh ra đi trong đau đớn thì Linh đã nhận ra tình cảm thực sự của mình. Khoảng thời gian 6 năm đã thay đổi nhiều thứ, Khanh giờ đây đã là một kỹ sư trưởng thành và chững chạc hơn xưa. Đối mặt với một Linh tình cảm nồng nàn đợi chờ và một Miu bí ẩn luôn quan tâm, chăm sóc, Khanh vẫn luôn giữ đúng chừng mực. Điều bất ngờ xảy ra trong ngày sinh nhật của Linh và Miu, như giọt nước làm tràn ly, Miu đã khiến Khanh tự nhận ra thân phận thật của mình là cô bé Trinh thân thuộc và bộc lộ tình cảm bấy lâu dành cho Khanh. Sự thật này làm cho Khanh phải bất ngờ không chỉ bởi sự thay đổi về ngoại hình của Trinh mà Khanh còn phát hiện ra rằng tình cảm từ trước đến nay dành cho ai. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng của Khanh đều khiến mọi người phải ngỡ ngàng. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống thường ngày của những thanh niên trẻ trung và năng động, về tình yêu, tình bạn, tình cô trò và tình thân gia đình với nhiều cung bậc cảm xúc từ hài hước đến tò mò, đôi khi là những giọt nước mắt đầy xúc động. *** - Cho con một tô đặc biệt nhe cô. Sau bao nhiêu năm trở lại đây, mọi thứ vẫn không hề thay đổi gì nhiều. Vẫn con đường nhỏ vào khu chợ Việt Kiều, vẫn dòng người qua lại mua bán tấp nập, lũ trẻ trong xóm vui đùa cùng nhau một cách hồn nhiên. Tôi đang ngồi trong một quán hủ tiếu nhỏ, cái nơi mà nó đã từng gắn liền với tuổi thơ. Là những lúc phải ăn hủ tiếu vì chán cơm thèm phở theo đúng nghĩa đen của nó, là những lúc không cơm nhà vì mẹ bận, là những lúc hội hợp bạn bè và …là những lúc mà cái quán nhỏ này trở thành nơi để lại trong tôi nhiều kỷ niệm vui buồn về tình yêu đầu của tuổi học trò. Vừa ăn vừa hổi tưởng lại nhưng ký ức đã qua, thoáng chốc mà đã gần hết tô hủ tiếu. Cái hương vị của bò viên hòa quyện vào nước lèo thật đậm đà khó tả. Tôi đã từng tìm đến rất nhiều nhà hang ẩm thực Việt tại các tiểu bang Hoa Kỳ chỉ để có được cái hương vị này, hương vị món ăn của quê hương. Đang say sưa với tô hủ tiếu thân yêu, bỗng ngoài cửa, một người con gái xuất hiện. Sẽ chẳng có gì lạ khi một đứa con gái bước vào một quán hủ tiếu. Điều khiến tất cả các gã đàn ông trong quán phải ngưng đũa và ngoái nhìn là vì cô ấy quá nổi bật, một vẻ đẹp kiêu kỳ hút mọi ánh nhìn, ở cô ấy toát lên một sự cuốn hút kỳ lạ. Cùng với chiếc váy trắng bó sát và giày cao gót, làm tôn lên một thân hình hoàn hảo với ba vòng cân. Nước da trắng hồng cùng mái tóc dài được búi cao lên, đúng là người con gái trong mơ của bất cứ gã đàn ông nào. Tôi nghĩ thầm trong bụng, có lẽ em là diễn viên hay người mẫu gì đây. Chả trách nhìn khuôn mặt rất quen, cứ như từng đóng trong một bộ phim nào đó mà tôi đã xem dù vẫn còn đó cặp kính đen trên đôi mắt. Bỗng định thần lại, tôi quay lại với tô hủ tiếu đã sắp nguội của mình và tiếp tục ăn ngon lành. Thình lình có tiếng kéo ghế, một ai đó vừa ngồi vào bàn của tôi theo hướng đối diện. Ngước mặt lên thì chính là cô ấy, tôi nhìn cô ấy và tỏ vẻ hơi bất ngờ vì trong quán vẫn còn nhiều bàn trống mà. Và nếu là một người lịch sự thì ít nhất cũng nên hỏi tôi một tiếng xem có thể ngồi cùng bàn hay không chứ. Nhưng thôi, tôi cũng không quan tâm lắm và tiếp tục sự nghiệp ăn uống của mình. Lâu lâu tôi lại ngước lên thì thấy cô ấy vẫn lặng yên ở đó và nhìn về phía tôi, thật ra thì tôi cũng không dám chắc là sau cặp kính đen ấy, cô ấy đáng nhìn về phía nào. Tự nhiên cảm thấy một chút bối rối và hơi bất an. - Cho con một ly cafe sữa đá nhe dì! – Một giọng nói thánh thoát từ cái miệng nhỏ xinh phát ra, cô ấy thao kính đen, tay vẫy gọi bà chủ quán. Cặp mắt long lanh ấy thật đẹp, nhin rất cuốn hút và vô cùng thân quen. Bây giờ thì tôi có thể tin rằng mình đã từng thấy cô ấy ở đâu đó trên tivi. Thở phào một cái và tiếp tục với tô hủ tiếu của mình, không khí nghiêm trọng nãy giờ mới được giải phong bớt khi cô ấy đặt chiếc kính lên bàn. Nhưng tính tôi khá khó chịu khi phải ngồi ăn chung bàn với một người không quen biết, vì đôi lúc tôi ngước nhin lên ngắm cảnh vật xung quanh thì lại đối mặt với người ngồi đối diện. Ngày xưa, vào những trường hợp thế này tôi thường cắm cuối ăn cho nhanh rồi tính tiền ra về, không thể ngồi lâu thưởng thức món ăn và ngắm nhìn cảnh vật phố phường. Nhưng hôm nay thì khác, có lẽ là một ngoại lệ. Đối diện tôi là một cô gái với vẽ đẹp sắc sảo, lạnh lung, không để ý đên một ai xung quanh. Thể loại này thường bị cho là chảnh, cũng đúng thôi, người ta đẹp thì người ta có quyền mà. - Nước của con đây. – Bà chủ quan nói với cô ây. ... Mời các bạn đón đọc Vẽ Em Bằng Màu Nỗi Nhớ của tác giả Tâm Phạm.
Cố Đô - Yasunari Kawabata
Tác phẩm xuất sắc nhất của Kawabata, tiểu thuyết Cố đô kể về cô gái trẻ Chieko, một đứa trẻ bị cha mẹ nghèo xơ xác bỏ rơi và được gia đình thương gia Takichiro nhận nuôi, ở đây cô được nuôi nấng dạy dỗ theo những nguyên tắc truyền thống của Nhật Bản. Chieko là một cô bé nhạy cảm, trung thành, nhưng thầm ấp ủ câu hỏi về thân thế của mình. Ở Nhật Bản, người ta cho rằng một đứa trẻ bị bỏ rơi sẽ khổ ải với tai ương suốt đời, thêm vào đó, theo một quan điểm hết sức lạ lùng của Nhật Bản, trẻ sinh đôi còn chịu sự nhục nhã đáng xấu hổ. Một ngày nọ tình cờ cô gặp một cô gái lao động xinh đẹp trong rừng tuyết tùng gần thành phố và phát hiện ra rằng cô là người em song sinh của mình. Họ gắn kết sâu sắc với nhau vượt qua hàng rào giai cấp xã hội - cô gái thô kệch, làm việc nặng nhọc Naeko và cô gái thanh nhã, luôn được bảo vệ cẩn mật Chieko, nhưng sự giống nhau lạ lùng giữa họ đã mau chóng làm phát sinh rắc rối, phiền toái. Toàn bộ câu chuyện được đặt trong bối cảnh năm lễ hội tôn giáo ở Kyoto từ mùa xuân anh đào nở rộ đến mùa đông lấp lánh tuyết. Cố đô là một trong ba tác phẩm của Yasunari Kawabata được Ủy Ban Giải Thưởng Nobel dẫn chứng khi tặng giải, có cốt truyện phức tạp liên quan tới một cặp chị em song sinh, đã bị chia cách từ lúc mới chào đời nhưng các yếu tố khiến cho các nhân viên cứu xét Giải Thưởng Nobel phải quan tâm, là do tác phẩm đã nói lên các vẻ đẹp của Thành Phố Kyoto và các truyền thống cổ, với các phụ nữ Kyoto còn giữ các vẻ duyên dáng, không bị nền văn hóa phương Tây làm biến chất. Cùng với phần lớn du khách, Kawabata ước muốn rằng lối sống cổ truyền Nhật Bản vẫn được duy trì. Bản thân thành phố thật sự là một nhân vật quan trọng, thủ đô của vương quốc xưa, từng là nơi đóng đô của Thiên hoàng và triều đình, sau hàng ngàn năm vẫn là một thánh địa lãng mạn, quê hương của mỹ thuật và hàng thủ công trang nhã, ngày nay tuy bị khai thác cho du lịch nhưng vẫn là địa điểm thăm viếng được ưa chuộng. Với các chùa chiền phật giáo và các đền thờ Thần đạo, khu thủ công xưa và vườn thực vật, nơi này mang trong nó chất thơ mà Kawabata thể hiện bằng một phong cách dịu dàng, nhã nhặn, không ủy mị mà tự nhiên như một sự hấp dẫn đầy xúc động. Ông đã sống qua thất bại nặng nề của đất nước và nhận thức chắc chắn rằng tương lai đòi hỏi những gì về tinh thần cầu tiến, nhịp điệu và sức sống công nghiệp. Nhưng trong làn sóng hậu chiến của sự Mỹ hóa mạnh mẽ, tiểu thuyết của ông là lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự cần thiết cứu lấy một cái gì đó trong vẻ đẹp và cá tính của Nhật Bản xưa cho một nước Nhật Bản mới. Ông mô tả những lễ nghi tôn giáo ở Kyoto một cách tỉ mỉ như thể chọn mẫu hoa văn trên khăn thắt lưng truyền thống trong trang phục phụ nữ. Những khía cạnh này trong tiểu thuyết có thể có giá trị tài liệu, nhưng độc giả thích thú với những đoạn mô tả sâu sắc như vậy như đoạn tả nhóm người trung lưu của thành phố thăm viếng vườn thực vật - vốn bị đóng cửa một thời gian dài vì lính Mỹ chiếm đóng lập doanh trại ở đó - để nhìn xem những con đường đáng yêu với hàng cây long não có còn nguyên và có thể làm vui sướng những con mắt thành thạo hay không. Với Kawabata, lần đầu tiên Nhật Bản bước vào thế giới những người đoạt giải Nobel văn chương. Điều cốt yếu dẫn đến quyết định này là, với tư cách nhà văn, ông đã truyền đạt một nhận thức văn hóa có tính thẩm mỹ và đạo đức cao (moral-esthetic cultural awareness) bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đóng góp vào cầu nối tinh thần Đông Tây theo cách của ông. *** Chieko để ý thấy những đóa hoa tím đã nở trên cây phong. - Ôi cả năm nay nữa chúng cũng nở kìa? - Hơi thở mùa xuân mơn trớn thoảng vào Chieko. Trong khu vườn nhỏ bé cây phong hóa ra đồ sộ, thân nó to ngang hơn chính Chieko nhiều lắm. Nhưng lẽ nào có thể đem cái thân cây đầy rêu, phủ lớp vỏ chai sần, nứt nẻ, sánh với thân hình con gái của Chieko... Vừa đúng ngang tầm eo lưng, cây phong hơi vẹo về bên phải, rồi đến đoạn cao hơn đầu nàng lại thoắt vươn sang phải thành một vòng cung mà chính từ khúc cong này cành tỏa ra mọi phía, che phủ cả khu vườn. Những cành dài trĩu xuống vì sức nặng bản thân chúng, chạm đầu cành tới đất. Dưới chỗ thân cây đột ngột uốn cong một chút là hai hốc lõm con con, nơi những cây hoa tím mọc. Cứ xuân sang chúng lại trổ hoa. Trong chừng mực mà Chieko còn nhớ được thì trên thân cây vốn bao giờ cũng có hai khóm hoa. Khóm trên cách khóm dưới một khoảng trọn một xiaku 1. Khi đã là cô gái trưởng thành, Chieko thường hay tư lự: liệu có khi nào hai cây hoa tím trên dưới gặp được nhau không? Liệu chúng có biết đến sự tồn tại của nhau không? Nhưng với chúng thì các chữ "gặp", "biết" mang được ý nghĩa gì kia chứ?... Hoa nở không nhiều - thấy chỉ ba đến năm vành hoa nhỏ là cùng. Nhưng dù sao cứ xuân sang, trong hai hốc nhỏ bé trên thân cây phong, chồi mới lại nhú lên, hoa lại nở. Chieko thường ngắm hoa từ chỗ lối đi, hoặc khi đứng trước gốc cây. Nàng nhìn chúng, mắt ngước từ khóm dưới lên khóm trên mà lòng bồi hồi, lúc lấy làm ngạc nhiên cho "kiếp sống" khác thường ấy của loài hoa tím, lúc cảm thấy một cảm giác cô đơn đôi khi đến lạ. - Chính đây là nơi chúng đã lớn lên...Rồi sống...- nàng thầm thì. Khách khứa đến cửa hàng vẫn tỏ vẻ thán phục cây phong nhưng hầu như chả có ai để ý thấy những cây hoa tím đang khiêm nhường trổ hoa. Cái cây cổ thụ làm người ta kinh ngạc bằng sức mạnh của mình, mà khúc thân mọc điểm rêu xanh gợi ra sự nể trọng và tạo thêm cho cây phong một nét mỹ cảm riêng. Hai khóm hoa tím nhỏ nhoi, nương náu trên đó, dường như lu mờ hẳn trong khúc ngợi ca sự hùng vĩ và vẻ đẹp kia. Mời các bạn đón đọc Cố Đô của tác giả Yasunari Kawabata.
Những Người Đàn Ông và Những Người Đàn Bà - Nguyễn Đức Thiện
NGƯỜI ĐÀN BÀ VIẾT: .Viển vông quá phải không anh. Ngày mai em có thể chắng còn gặp anh nữa. Ngày mai có thể anh, có thể em sẽ là người của thiên cổ (Cũng sắp rồi còn gì). Ngày mai, có thể sẽ ngưng lại tất cả chấm dứt vòng quay trái đất… Thì em cũng cảm ơn anh đã trả cho em một chút tuổi trẻ. Cũng như anh đã từng cảm ơn em cho anh biết lại một thời nồng nàn. Chỉ nên thế thôi, cho ngày mai còn có mơ ước. Dẫu có muộn màng Đừng hôn em nữa, đủ rồi" NGƯỜI ĐÀN ÔNG NGHĨ: Nhưng không có sự đam mê của người thì sao? Ta sẽ đam mê một mình. Ta cứ mê ta. Một mình thôi, để chẳng làm phiền ai, và cũng chẳng ai làm phiền mình. Có vậy thì ta mới sống. Hãy cứ tin ở ta cái đã. NGƯỜI ĐÀN BÀ VIẾT: Nghe chuyện người ta đã khóc. Khóc vì một nỗi bất hạnh. Người đàn bà cô đơn, yêu cho đến chết một người không bản lĩnh. Giống như ta, đã một thời như thế. Người đàn ông ấy chỉ dám yêu mình không dám làm gì, chẳng dám vượt qua một chút trở ngại của cuộc đời. Họ sống hạnh phúc bên vợ và yêu hạnh phúc một người đàn bà khác. Họ lãng mạn và yếu hèn. Người đàn ông ấy hiền lành và không xứng đáng với một nửa trái tim ta. Bất chợt từ cõi lòng ta một nỗi chán chường đến kinh khủng, ta muốn từ bỏ hết thảy mọi người. Đừng ai yêu ta. Lũ đàn ông rồi sẽ phản bội. Ta thích một mình...)​ *** Bây giờ thì ông chỉ còn có một mình. Một mình trong căn nhà bé như cái hộp diêm quẹt. Bà ấy không đến, và ông cũng không đi tìm bà. Giữa hai người đã một lần, và chỉ có một lần bừng cuộn lên, nhưng rồi lại lắng xuống một hòn đá làm cho nó cuộn lên, nhưng khi những vòng tròn xoáy nước khép lại, thì mặt ao lại phẳng lặng như tờ. Lâu lâu có ngọn gió thổi qua, mặt ao dềnh lên chút ít nhưng cũng đủ gợn lên những con sóng, nhấp nhô, nhấp nhô. Ông thắp nhang lên bàn thờ. Mỗi ngày ông thắp một nén, loại nhang thơm. Không biết có khi nào ông có thể quên thắp nhang không. Nhưng đã thành quen rồi, đêm khi đi ngủ ông không thể thiếu mùi nhang toả ra từ trên bàn thờ. Có những lúc ông nghĩ, ông đang thắp nhang cho chính mình. Lại có lúc ông tưởng như thắp nhang cho một mối tình tưởng còn mà mất, tưởng mất mà còn và tưởng có mà không. Một đời người chỉ thế thôi ư. Ngày nào còn tươi trẻ là thế, nay đã nắng quá chiều hôm. Gắt gao đấy nhưng ngày đang tàn dần. Ông nhớ bà, nhưng hình như cái nhớ nó cũng khác ngày xưa khi còn trẻ. Khi còn trẻ, nhớ ai thì nhớ cồn cào, da diết và chỉ có nhớ người đó mà thôi. Nay nỗi nhớ cứ bị xen vào bởi những suy nghĩ khác. Nhớ mà chẳng đắm đuối chút nào. Nó cứ vẩn vẩn, vơ vơ, không như thời trai trẻ. Thèm gặp đấy nhưng rồi chợt nghĩ đến chuyện khác thế là lại quyên. Nhớ cũng vô tình mà nhớ, và quên cũng vô tình quên. Khi không lúc này mà còn gặp nhau. Trời sắp đặt đấy. Chớ cái tuổi ăn phải cái gì cưng cứng là phải trệu qua, trạo lại, mấy ai còn nghĩ đến chuyện yêu đương. Vây mà yêu đương mới lạ. Bữa đó, ông buồn, ông cô đơn. Đâu có phải đến khi đó ông mới buồn, mới cô đơn. Lần cuối cùng ông có gia đình cách nay đã hơn mười năm. Sau một cuộc cãi lộn vối người đàn bà mà ông để gần hết một đời người cung phụng, ông đã ra đi. Cuộc cãi lộn không lớn nhưng ông bị xúc phạm. Người ta biểu rằng ông chỉ là thứ người vô tích sự. Người ta biểu ông không lo toan được gì cho gia đình, cả một đời ăn bám. Ông đã ra đi sau một đêm trằn trọc. Và cuối cùng thì người ta ném vào mặt ông một câu: ông bây giờ thừa ra rồi. thì ông đi, ông tự cắt bỏ sự thừa thãi là mình, ra khỏi cái nơi một thời ông gắn bó, giống như người ta tự nguyện lên bàn mổ, cắt đi khúc ruột dư ra khỏi cơ thể mình. Không lẽ ngồi để mà kể ra với người đàn ông đã làm ra những cái gì cho gia đình tồn tại ngần ấy năm trời. Đi với hai bàn tay gần như trống trơn. Bạn bè chỉ cho ông một căn phòng nhỏ, vốn là nhà tập thể ở một cơ quan nào đó. Ông bỏ những đồng tiền cuối cùng để mua căn phòng và làm lại từ đầu trong căn phòng chỉ có mười sáu mét vuông kia. Làm lại từ đầu cho riêng mình thôi, chớ chẳng dại dột gì mà kháp với người đàn bà khác. Đàn bà họ có thế mạnh của họ. Thường trong những cuộc tình, lúc ban đầu thì quến rũ là của đàn ông, quyến rũ xong, quyền chủ động bắt đầu chuyển sang cho đàn bà. Người đàn bà muốn sờ mó đến từng công việc dù là rất nhỏ của của người đàn ông. Họ cho họ cái quyền như vậy. Anh đi đâu? Anh làm gì ở chỗ nào? Lương anh có bao nhiêu. Anh mang làm gì nhiều tiền trong túi thế? Sao người ta điện cho anh ngoài cơ quan mà không thấy, giờ đó anh làm gì ở đâu?… Hằng trăm câu hỏi mỗi ngày. Trả lời kiểu nào cũng không thoả mãn được người hỏi. Khi im đừng trả lời nữa cũng không được. Người ta sẽ biểu: làm sao tôi có thể sống được trong căn nhà cứ im lặng như nhà mồ thế này. Có người mong chế ra được một sợi chỉ vô hình, cột vào chân người đàn ông, để đàn ông đi đâu, đàn bà cũng có thể tìm thấy được nhờ sợi chỉ đó. Nên ông thề cuối đời ông sẽ ở một mình, nhất định là một mình, mấy đứa con gả vợ, dựng chồng hết rồi. Một lũ cháu nội ngoại lúc nào thích thì đến thăm ông, không thích thì thôi. Nhà cửa tài sản ông đã để lại hết, không đòi cho mình cái gì, từ chối luôn phần thừa kế, khiến ông chẳng còn nợ ai và cũng chẳng bắt ai phải nợ gì. Có người khuyên ông ly hôn để để tạo dựng cuộc sống khác, ông cười: ngần này tuổi rồi, đưa nhau rồi ra toà giống con nít bày đặt chuyện làm nư quá. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Ông và Những Người Đàn Bà của tác giả Nguyễn Đức Thiện.
Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Daniel Ellsberg
Năm 1971, Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc từng tham chiến ở Việt Nam, đã cho công bố 7.000 trang tài liệu tối mật cho báo chí, tạo nên một làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam mạnh mẽ chưa từng có tại Mỹ. Nhận bằng tiến sĩ Kinh tế Đại học Harvard năm 1962, nhưng số phận lại đưa ông đến làm việc ở Bộ Quốc phòng và sau đó ông được phái sang chiến trường Việt Nam. Sau hơn 3 năm ở Việt Nam, làm việc cho cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, năm 1967, Daniel trở về Mỹ, ông được phân vào nhóm nghiên cứu tối mật về hoạch định chính sách đối với Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng McNamara. Tại đây, ông đã được trực tiếp tiếp xúc với các tài liệu mật của Nhà Trắng và biết rõ kế hoạch muốn leo thang chiến tranh Việt Nam của Tổng thống, mặc dù bề ngoài Nixon và bộ sậu của ông ta ra sức nói dối để bao che cho hành động leo thang và kéo dài cuộc chiến của mình. Là một người yêu chuộng hoà bình và đã từng có thời gian tham chiến tại Việt Nam, hiểu rõ bản chất phi nghĩa của cuộc chiến, Dan đã đánh cược cả cuộc đời mình, sao chụp 7.000 trang tài liệu của Hồ sơ Lầu Năm Góc. Ông bắt đầu công việc này từ năm 1969 và đến năm 1971, ông đã đi đến quyết định làm chấn động nước Mỹ, công bố toàn bộ tài liệu trên tờ Thời báo New York. Dan đã từng nói: Lẽ ra, nếu tôi có thể đưa các tài liệu đó ra từ khi tôi mới vào làm việc tại Lầu Năm Góc và Nhà Trắng, vào năm 1964-1965, thì có thể những tài liệu đó đã góp phần ngăn chặn cuộc chiến". Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) là cuốn hồi ký của Daniel, xuất bản năm 2002, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất, gây xôn xao nước Mỹ. Cuốn sách kể lại cuộc hành trình đi tìm sự thật của Dan và phanh phui những âm mưu dối trá của Tổng thống Nixon và Lầu Năm Góc về cuộc chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, (tháng tám năm 1964). Tháng Ba năm 2006, Daniel trở lại thăm Việt Nam, và được trao Kỷ niệm chương "Vì hoà bình hữu nghị giữa các dân tộc", tôn vinh những cống hiến không mệt mỏi của ông đã góp phần thức tỉnh dư luận về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Ông đã cho phép Nhà xuất bản Công an nhân dân dịch và xuất bản cuốn hồi ký của mình. Sau một thời gian làm việc, cuốn sách đã đến tay bạn đọc. Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn đọc có một góc nhìn đa diện hơn về cuộc chiến và qua đó thấy rõ tâm lòng của một người ở phía bên kia chiến tuyến đối với đất nước nhỏ bé này. *** Tối ngày 1 tháng mười năm 1969, tôi rảo bước nhanh qua phòng bảo vệ của Công ty Rand[I] ở Santa Monica, tay xách một vali chứa đầy tài liệu tối mật mà tôi dự tính sẽ sao chụp trong đêm hôm đó. Số tài liệu này là một phần trong công trình nghiên cứu tối mật gồm 7.000 trang liên quan tới các quyết định của Mỹ ở Việt Nam, sau này được biết đến dưới tên gọi quen thuộc là Hồ sơ Lầu Năm Góc. Phần còn lại nằm trong két đựng tài liệu ở văn phòng của tôi. Tôi quyết định sao chụp toàn bộ và đưa ra công chúng bộ hồ sơ này, hoặc là thông qua các cuộc điều trần tại Thượng viện hoặc là qua báo chí nếu tôi thấy điều đó là cần thiết. Tôi tin rằng tôi có thể sẽ phải ngồi tù suốt đời vì việc làm này. Cuốn hồi ký này sẽ tập trung mô tả quá trình hành động công bố tài liệu của tôi. Trong 11 năm, từ giữa năm 1969 đến khi kết thúc cuộc chiến tranh vào tháng Năm năm 1975, tôi cũng như rất nhiều người Mỹ khác đặc biệt quan tâm tới sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Vào thời gian đó, thoạt tiên tôi nghĩ đó chỉ là một vấn đề, tiếp đến là một sự bế tắc, nhưng rồi sau đó là một thảm hoạ về đạo đức và chính trị và cuối cùng trở thành một tội ác. Ba phần đầu của cuốn sách tương ứng với ba giai đoạn phát triển về nhận thức của tôi. Những sai phạm và hành động sau đó của tôi đã phản ánh quá trình thay đổi nhận thức đó. Khi nhận thức cuộc xung đột chỉ là một vấn đề tôi đã cố gắng góp sức để giải quyết nó, khi nhận ra sự bế tắc, chúng ta (Nước Mỹ - ND) đã cố gắng tư giải thoát mà không gây phương hại tới lợi ích của quốc gia khác, và tôi đã nỗ vạch trần và chống lại cuộc chiến khi ý thức mách bảo nó đã trở thành một tội ác với hy vọng chấm dứt nó càng sớm càng tốt. Qua quá trình nhận thức trên, tôi đã vận dụng nhiều cách khác nhau nhằm tránh khả năng chiến tranh leo thang lên cao hơn. Nhưng gần đến giữa năm 1973, khi tôi phải ra trước Toà án liên bang vì nhũng hành động của tôi vào cuối năm 1969, tôi đã nói không ai, kể cả tôi, thành công trong mục đích và cố gắng của mình. Những nỗ lực nhằm chấm dứt cuộc xung đột - cho dù nó được nhìn nhận như là một cuộc kiểm nghiệm bị thất bại, một vũng lầy hay một sai phạm về mặt đạo lý - dường như cũng chẳng thấm vào đâu so với những cố gắng để chiến thắng trong cuộc xung đột đó. Vì sao? ... Mời các bạn đón đọc Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam của tác giả Daniel Ellsberg.