Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đạo Sĩ Kinh Kỳ
Ngày nay mọi người sống trong cuộc sống hiện đại mà liệu có còn tồn tại những loại bùa chú, ma thuật nữa hay không? Ngoài ra còn có ma quỷ tồn tại trên đời này không? Liệu có những đạo sĩ trừ ma diệt quỷ? Cùng đón đọc truyện Đạo Sĩ Kinh Kỳ của Trần Hữu Khương để phần nào có được câu trả lời cho riêng mình nhé. Tóm tắt truyện: Mọi chuyện bắt đầu từ cái chết của một người bạn mà một cậu học trò bình thường nghiện truyện ma bỗng chốc trở thành đạo sĩ tập sự. Từ đó, Lâm lại phát hiện ra nhiều điều kì lạ về chính bản thân mình. Liệu rằng cuộc sống của Lâm có bị đảo lộn? *** " - Tha thu... Lôi Phá Quyền...! Những tia sét vẫn còn bao quanh nắm đấm của tôi như xác nhận lại chưởng lực vừa rồi từ đâu mà ra, con ma cà rồng hộc máu tươi đau đớn nói không lên lời, rồi nó gồng hết sức lại rống lên một tiếng cực lớn... " Lâm chăm chú đọc bộ truyện "Tôi là đạo sĩ" của tác giả Nguyễn Điệp. Hắn rất thích bộ truyện này, luôn mơ ước trở nên bá đạo như nhân vật Đ trong truyện, đi khắp nơi trừ gian diệt ác với những khả năng dị thường... Mạc Lâm - một thiếu niên 17 tuổi, hiện đang theo học tại một trường nội trú tư thục của thành phố, lực học cũng không phải là yếu nhưng cũng tạm đủ để lên lớp đều đều. Sở thích của cậu là tìm hiểu về những bí ẩn tâm linh trong cuộc sống và đọc các tiểu thuyết kinh dị. Ước mơ của Lâm là trở nên bá đạo, sở hữu nhiều dị năng như các nhân vật chính trong các bộ truyện như "Đạo sĩ tản mạn kì", "Vùng đất vô hình" hay cực ngầu, nhiều tài phép như huyền thoại Lâm Chánh Anh... Vậy nên Lâm luôn chìm đắm trong mớ suy nghĩ viễn vông, tư tưởng luôn ở trên mây khiến vẻ bề ngoài lúc nào cũng khù khờ, lờ đờ như mấy thằng thiểu năng. ... - Lâm! Lâm...xuống dọn dẹp nhà cửa phụ mẹ coi! Đi học cả tuần về rồi cứ ở trên phòng suốt là sao? Chẳng là hôm nay chủ nhật, Lâm về nhà vào cuối tuần để nghỉ ngơi và chuẩn bị cho tuần học mới. Và như thường lệ lại nhốt mình trong phòng để nghiền ngẫm mấy bộ truyện yêu thích. Cho tới khi nghe mẹ gọi. - Dạ...! Con xuống liền... - Lâm uể oải đáp, mắt rời khỏi màn hình laptop, gấp máy lại rồi bước xuống lầu. - Mày coi dọn dẹp nhà kho cho gọn lại, để mẹ đem mớ đồ cũ cất vô cho đỡ chật nhà, đồ đạc gì đâu tha về cả đống... Lâm miễn cưỡng bước vào nhà kho cùng cây chổi, dọn nhà kho là công việc mà cậu ghét nhất... - Khụ khụ! Bụi bặm gì dữ vậy trời! Lâm vừa quét vừa than thở. - Ế! Có cái gì vậy ta? – Cậu chú ý đến một chiếc hộp nhỏ đặt trên nóc tủ đồ cũ - "Nguyễn Đ nhờ vớ được cái hộp của bà nội mà trở thành đạo sĩ bá đạo, có khi nào..." - Lâm thầm nghĩ, mừng rỡ khi mình đang trong hoàn cảnh giống nhân vật Đ, biết đâu lớ ngớ lại vớ huy chương thì bá cmn đạo rồi. Nhanh chóng, Lâm lôi ngay chiếc hộp xuống, phủi lớp bụi dày bám trên nắp và mở ra. Tim đập thình thịch, mồ hôi chảy ướt cả trán, mọi giác quan hoạt động hết công suất. Hai tay run run mở chốt khóa, đẩy nhẹ nắp hộp ra. Lâm tưởng tượng trong hộp sẽ là một quyển sách cũ kỹ ghi đủ mọi loại bùa chú ấn quyết trừ tà. Nhưng đời thì méo bao giờ như mơ...à nhầm, méo như truyện... bên trong chiếc hộp chỉ vỏn vẹn một quyển vở hiệu....ba cây bút cùng những dòng chữ và nhiều con số: "Cô 6 bán chè: 26 - 50 ngàn. Chị 7 đầu xóm: 39 - 70 ngàn. ......." - Mắc thằng bố nó! Làm mừng hụt - Lâm bực bội ném chiếc hộp vào một góc rồi nhanh chóng dọn dẹp lại nhà kho sau đó về phòng nghiền ngẫm tiếp những chương cuối dang dở của bộ "Tôi là đạo sĩ". Mà có cái Lâm rất bực đó là tác giả Nguyễn Điệp viết truyện rất ngắn, vừa liếc cái là hết ngay nên lúc nào cũng phải đợi tầm 3-4 chap truyện Lâm mới bắt đầu đọc. ________________ Sáng đầu tuần... - Ê Lâm, dậy đi, cô gọi mày kìa - Tuấn - bạn thân của Lâm đang lay mạnh. - A...a...a...Tha thu...Lôi Phá Quyền...! - Lâm đứng bật dậy la lớn, hai tay đẩy mạnh về trước làm bà cô già giật mình xém chút té ngửa. Cả lớp được một trận cười vỡ bụng, Tuấn lắc đầu ngao ngán... - Ra hành lang đứng ngay cho tôi...! _________ -Còn nữa- Mời các bạn đón đọc Đạo Sĩ Kinh Kỳ của tác giả Trần Hữu Khương.
Đạo Sĩ Đạo Gia Du Ký
Cơn ác mộng đã bắt đầu tại một ngôi làng khi phát hiện ra một xác chết treo cổ trong khu rừng gần đó... *** Đang bắt đầu chuẩn bị lên đàn để giải ngãi thì lão sư thầy của thằng cà lăm mới lên tiếng. -Khoan đã! Giọng chú Lâm ngơ ngác hỏi: -Có chuyện gì vậy sư? Lúc này sư mới hạ giọng lại và nói: -Kiếp nạn lần này thầy sẽ giúp chịu thay cho cả nhà con, thầy chỉ có một thỉnh cầu là sau khi thầy diên tịch thì hãy thu nhận thằng bé cà lăm này làm đệ tử, thằng bé rất tội nghiệp, cả nhà nó đều bị mấy ông thầy pháp khác bên tàu thư ếm liên lụy đến cả nhà… Ông chú nghe đến đây mà người ổng cứ run run, ngay cả tôi sau khi nghe sư thầy nói về hoàn cảnh của thanh niên cà lăm thì cũng không khỏi rùng mình… tự trong tâm tôi khi gặp phải kiếp nạn ở làng chú Lâm và giờ nghe thêm cái này nữa nên hơi khiếp sợ những cuộc chiến như vậy, nó không đẫm máu nhưng sự tàn bạo của nó lại kinh khủng hơn bao giờ hết. Bùa mà làng chú Lâm dính phải cũng có tầm ảnh hưởng y như vậy, nếu giải được thì phải chết cả ba đời luôn chứ không phải nhận cho riêng mình, đó cũng chính là lí do vì sao tôi luôn lo sợ chú giải bùa. Quay trở lại hiện trường! Lúc này chú Lâm đang thủ sẵn trên tay mớ bùa kèm nhang đèn, sau khi nghe sư ra mặt giúp đỡ cho kiếp nạn này của chú mà lúc đó tôi nhìn chú Lâm cứ thấy chú ái náy thế nào ấy, cũng không lạ gì khi chuyện này nó còn liên lụy đến cả nhà sư thầy nữa nên chú Lâm đã lắc đầu từ chối. -Thưa sư! Có lẽ đây là ý trời rồi cho nên con không muốn bất cứ ai phải gánh chịu thay con, dù cho có tận diệt tam tộc thì con cũng vẫn phải làm. Nói rồi chú Lâm quay nhìn tôi, chú lại xoa đầu tôi rồi nói trong nghẹn ngào. -Long à...! Ai am Sơ Ri....!!! Hãy tha lỗi cho chú nghe con. Ngay lúc này chiếc điện thoại trong túi của tôi bỗng reo lên phát đúng bài nhạc. “Em đi xa quáaaa…. Em đi xa anh quáaaa…. Là la lá” ♪ Càng làm cho không khí trở nên u uất đến nhối lòng, rồi cái giây phút chú đưa tay lên chuẩn bị phá đảo thì cùng lúc đó sư thầy nhanh chóng đánh chú Lâm ngất xỉu, kêu tôi và thằng cà lăm dìu chú về nhà, để lại một mình sư thầy ở lại giải quyết. Dù tôi biết rằng điều đó là vô cùng nghiệt ngã đối với chú khi phải nhờ đến sư thầy cứu giúp trong khi bản thân chú lại là một đạo sĩ cao tay, trước khi đi sư có nói với hai người bọn tôi rằng: -Nhiệm vụ này phải là của thầy! Bởi không khi tự nhiên thầy dẫn thằng cà lăm đến gặp Lâm và con, giờ con đã hiểu chưa??? Tôi gật đầu, còn riêng thằng cà lăm thì ôm sư phụ của hắn khóc nức nở, sư thầy còn nhắn nhũ cậu ấy rất nhiều thứ, xong xuôi rồi mới theo tôi trở về nhà. Suốt đêm hôm đó không ai ngủ được, tiếng kêu la thất thanh của những người dân trong làng vẫn cứ ráo riết như xe cứu hỏa, những ngôi nhà nhỏ mọc sang sát nhau dù nghe rõ những âm thanh đó nhưng vẫn tuyệt nhiên đóng kín cửa như không có chuyện gì xảy ra. Tôi và thằng cà lăm ở trong nhà nhưng đứng ngồi không yên, tiếng đập cửa từ bên ngoài vẫn cứ phát ra đều đặn, ban đầu chỉ là những tiếng gõ cửa nhẹ nhàng nhưng càng về sau nó lại càng mạnh và dồn dập hơn, nó khiến cho hai thằng đực rựa núp sau cánh cửa ấy sợ đến nổi thất kinh hồn vía luôn vậy, những âm thanh tạp chất bên ngoài cứ như một dàn hợp ca vậy. Tiếng gió trời se lạnh thổi ồn ào trong đêm, tiếng bước chân ngoài cửa “lộp cộp” rồì đùng vội vã, tiếp theo lại đến tiếng ai đó khóc như ai oan trong đêm. Tôi và thằng cà lăm vẫn cứ ngồi bệch dưới sàn nhà và dựa lưng chắn ngang ở cửa mặc cho những tiếng đập cửa cứ như bom tấn bên ngoài, lúc đó tim tôi đập thình thịch mà không sao hiểu được, kiểu như phải cố thoát khỏi một thứ gì đó đang sắp giết tôi. Cho đến khi đến canh ba, gà bắt đầu gáy thì trong lúc vật vờ chú Lâm tỉnh lại sau mấy tiếng nằm bất tỉnh, thì mới biết là mọi chuyện đã quá muộn, sư thầy đã tự tay giải bùa thay cho chú. Mà phải nói thật là công lực của thầy cũng cứng vãi ra luôn, mới đập nhẹ sau gáy ông chú một phát là ổng lăn ra xỉu tại chỗ rồi, chứ gặp người thường thì ổng cũng không dễ bị đánh lén vậy đâu. Một thời gian sau, sau cái đêm kinh khủng đó… chú Lâm, tôi và cả thằng cà lăm lên chùa thắp hương cho sư thầy, thằng cà lăm chính là thằng khóc nhiều nhất. Cũng chả trách được vì hai thầy trò khá là giống nhau về hoàn cảnh, cả hai người đều là cô nhi và được đem vào chùa từ rất sớm, cho nên khi được thầy nhận làm đệ tử từ năm mười tuổi cho đến bây giờ thì cậu ta luôn luôn xem thầy của cậu như là một người cha vậy. Riêng về phần tên đạo sĩ đáng ghét kia thì mãi đến vài tháng sau đó, bác Dương từ bên Tàu gọi qua cho chú Lâm hay tin là ông bạn năm xưa của ổng đã bị xe đụng chết thì ông chú Lâm nhà tôi mới biết. Các bạn biết rồi đó! Ở đời có nhân có quả… cho nên làm chuyện gì cũng phải biết suy trước tính sau, nếu việc lợi mình mà hại người thì tuyệt đối đừng nên làm kẻo tổn phước rồi đến một ngày phải gặp họa. Bản thân tôi từ sau chuyện đó thì chú lại trả tôi về quê với mẹ, bảo với tôi là sau này nếu có duyên ắt sẽ còn gặp lại, cũng từ đó tôi và chú mất liên lạc với nhau luôn, tôi cũng không biết hiện giờ chú Lâm đã chu du đến thế giới nào rồi nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng … “Đạo Sĩ Đạo Gia Du Ký” tài giỏi nhất vẫn chỉ có mỗi mình chú Lâm nhà tôi thôi… À khoan!!! Câu chuyện về chú Lâm vẫn còn tiếp diễn chứ? … ^^ sẽ tiếp diễn! Nhưng gặp lại chú Lâm khi nào thì đó lại là bí mật.:v Mời các bạn đón đọc Đạo Sĩ Đạo Gia Du Ký của tác giả Tiểu Hỏa Long.
Hắn Đến Từ Địa Ngục
Hắn tên Lương Xuyên, có thể nghe thấy tiếng nói của người chết... *** Bên cạnh những bộ linh dị dài cả ngàn chương thì Thuần Khiết Tích Tiểu Long còn có một bộ trinh thám khá ngắn mà không phải ai cũng biết, đó chính là Trở Về Từ Địa Ngục.   Nếu bạn đã từng đọc bộ Ma Lâm Thiên Hạ mà mình đã review trước đây, hẳn bạn sẽ có ấn tượng rất tốt với tác giả Thuần Khiết Tích Tiểu Long, một tác giả văn học mạng Trung Quốc nổi tiếng với những tác phẩm đậm chất linh dị rùng rợn và bí ẩn cuốn hút. Về văn phong thì Thuần Khiết Tích Tiểu Long có lối viết chắc tay, câu từ mạch lạc, diễn đạt phong phú. Còn về nội dung thì… xoắn não không có gì phải bàn. Độ logic trong truyện của tác giả rất cao, những đoạn linh dị rùng rợn chắc chắn sẽ khiến bạn lạnh cả sống lưng. Bên cạnh những bộ linh dị dài cả ngàn chương thì Thuần Khiết Tích Tiểu Long còn có một bộ trinh thám khá ngắn mà không phải ai cũng biết, đó chính là Trở Về Từ Địa Ngục. Tiếng chuông điện thoại vang lên, Đàm Quang Huy đi ra khỏi phòng, nhấc điện thoại ở trên quầy lên nghe. Thời điểm Đàm Quang Huy đang nói chuyện điện thoại, hắn không thể nào thấy được… đôi mắt của tượng sáp mô phỏng bà nội hắn đang ngồi trên ghế đột nhiên khẽ nhắm lại rồi chậm rãi mở ra, dầu sáp trên người nhỏ xuống càng lúc càng nhanh hơn… Nhân vật chính trong truyện là Lương Xuyên, một chuyên gia tâm lý học có tiếng tăm nhưng đột nhiên biến mất không để lại chút dấu vết. Sau mấy năm, Lương Xuyên trở về và mở một cửa tiệm bán vàng mã, đồng thời được người bạn thân Ngô Đại Hải mời về làm cố vấn không lương cho Cục cảnh sát. Từ đó, Lương Xuyên đã giúp Ngô Đại Hải phá nhiều vụ án ly kỳ hóc búa và rùng rợn. Nhưng Ngô Đại Hải không hề biết một điều, Lương Xuyên có khả năng “giao lưu” với người chết, hoàn toàn theo nghĩa đen! Bản thân sự biến mất trong mấy năm trời của Lương Xuyên đã là một bí mật cực lớn xuyên suốt toàn bộ truyện, song song với đó là những vụ án bí ẩn, kinh dị có, mà linh dị cũng có. Cũng bởi vì phải tiếp xúc với người chết và linh hồn họ quá nhiều nên Lương Xuyên đặc biệt rất không thích bóng tối. Phòng ngủ của tôi và mẹ cách nhau một vách tường, bên kia cái lỗ là phòng ngủ của mẹ tôi, lúc ấy tôi không nghĩ nhiều đã cúi đầu xuống nhìn về phía bên kia lỗ nhỏ. Sau đó… mặc dù lúc ấy ánh sáng không tốt lắm…. Nhưng tôi vẫn nhìn thấy một con mắt ở phía bên kia! Tất cả những nỗi sợ hãi, bất bình, giận dữ, khó hiểu, đã bùng cháy ngay lúc đó, tôi cầm bút máy của mình đi đến vách tường toàn là các lỗ nhỏ chi chít dày đặc… trực tiếp dùng bút đâm xuyên qua lỗ nhỏ… Cốt truyện âm u rùng rợn và những vụ án giết người quá sức ly kỳ máu tanh đan xen với những linh hồn người đã chết vất vưởng mãi trên nhân gian, nhưng thỉnh thoảng lại được xoa dịu bởi sự hài hước đáng yêu của dàn nhân vật phụ như Ngô Đại Hải. Tuy chỉ vẻn vẹn có 150 chương nhưng Trở Về Từ Địa Ngục vẫn rất xứng đáng là một trong những bộ linh dị trinh thám hay nhất năm 2019. Nếu là fan của trinh thám và linh dị thì bạn chớ nên bỏ qua. - GIANG THƯỢNG NGUYỆT MINH - review *** Dịch: Nhóm dịch Địa Ngục Biên: Lãng Nhân Môn *** "Cháu tên Tôn Hiểu Cường. Năm nay cháu 16 tuổi. Cha cháu mất trong một vụ tai nạn giao thông khi cháu 10 tuổi, thế nên cháu vẫn sống cùng mẹ từ đó đến nay. Mẹ cháu rất thương cháu, cực kỳ thương luôn. Cháu cũng không hề cảm thấy mình thua kém bọn trẻ khác vì cha mất sớm, do mẹ luôn dành ánh mắt yêu thương nồng nàn cho cháu. Dù có đi đến phương trời nào, cháu vẫn cảm nhận được sự ấm áp của Mẹ. Với cháu, bấy nhiêu đã đủ lắm rồi. Mẹ thích dõi theo cháu, thích quan sát cháu lớn lên từng ngày, nhìn cháu trưởng thành qua tháng năm. Cháu biết, trong mắt của mẹ, cháu chính là sự người nối tiếp sự sống của cha, cũng là hy vọng sống sót duy nhất của bản thân mẹ. Hai mẹ con cháu nương tựa nhau mà sống không phải là một việc rất tốt sao? Năm nay cháu lên lớp 10. Trường học không xa nhà lắm. Sau khi tan học, cháu chỉ cần đi khoảng mười mấy phút là về đến khu phố nơi cháu ở. Mỗi khi về tới cổng vào khu phố, chỉ cần cháu ngẩng đầu nhìn lên ban công nhà là có thể thấy mẹ đang đứng ở phòng bếp. Mẹ đang chờ cháu về nhà, mẹ đang mong đợi cháu quay lại. Cháu biết, chắc chắn là mẹ đã nấu xong bữa tối ngon lành cho cháu. Sau khi về nhà, cháu sẽ tắm rửa sạch sẽ rồi ngồi trên bàn ăn chuẩn bị ăn cơm, mẹ sẽ bới cơm rồi ngồi nhìn cháu ăn. Bản thân mẹ thì không ăn cơm, mẹ nói là thích nhìn cháu ăn cơm bà nấu, điều đó làm mẹ vui sướng và cảm thấy cuộc sống này có ý nghĩa hơn rất nhiều. Phải rồi, bác sĩ Từ! Cháu quên mất, do vấn đề sức khỏe nên từ sau khi cha qua đời, mẹ cháu cũng không còn đi làm nữa. Nhưng nhờ có tiền bồi thường tai nạn của cha nên hai mẹ con cháu không phải lo chuyện cơm ăn, áo mặc. Sau khi dùng cơm tối xong, cháu sẽ bắt đầu học bài. Mẹ thích ngồi cạnh mép giường của cháu, vừa đan áo len vừa nhìn cháu học bài. Cháu đã quen có mẹ ngồi bên cạnh, điều này làm cháu có cảm giác an toàn hơn. Nhất là ánh mắt của mẹ, luôn dịu dàng như vậy. Nhưng gần đây, cháu bỗng nhiên cảm thấy khó chịu trước ánh mắt của mẹ. Khi cháu về nhà, mẹ vẫn đứng ở cửa sổ phòng bếp nhìn cháu, vẫn lẳng lặng nhìn cháu ăn cơm, lúc cháu làm bài tập bà vẫn ngồi trên giường vừa đan áo vừa nhìn cháu. Nhưng có một ngày, lúc cháu đi WC sau khi làm bài tập xong đã vô tình bắt gặp ánh mắt của mẹ qua khe cửa khép hờ của phòng vệ sinh. Mẹ lại đứng ngoài cửa WC nhìn cháu đi vệ sinh. Cháu đã lớn rồi, không còn là trẻ con phải nhờ mẹ tắm táp rửa ráy cho nữa, cho nên lúc ấy cháu rất hoảng, sau đó kêu một tiếng "mẹ!" Tiếp theo, ánh mắt ngoài khe cửa cũng biến mất, cháu biết mẹ đã đi rồi. Sau khi ra khỏi phòng vệ sinh, cháu thấy mẹ đang ngồi xem TV ở sô pha. Cháu có hỏi tại sao mẹ lại đứng trước cửa phòng vệ sinh. Mẹ nói là mình không hề đứng trước cửa phòng vệ sinh, nãy giờ mẹ vẫn luôn ngồi xem TV ở đây. Cháu biết mẹ nói dối, vì trong nhà này chỉ có hai mẹ con mà thôi. Hơn nữa, khi ngồi trên bồn cầu nhìn ra, cháu thấy rõ đó là mép quần thêu hoa mà mẹ mặc hôm nay. Chắc chắn người đứng nhìn lén ở sau cánh cửa nhà vệ sinh là mẹ, nhưng bà không chịu nhận, cháu cũng bó tay. Sau đó, một buổi tối nọ, trong khi cháu đang ngủ... À mà khoan đã, để cháu miêu tả sơ qua về nhà cháu. Cháu ở ngôi nhà thuộc dạng có hai phòng ngủ, một phòng khách, cháu và mẹ ngủ mỗi phòng khác nhau. Hôm đó cháu thức dậy giữa đêm vì khát nên ngồi dậy định tìm nước uống. Cháu hay để một chai nước suối cạnh đầu giường do thói quen nhiều năm nay. Nhưng vừa ngồi dậy, cháu lại phát hiện cửa phòng đang mở hờ. Bác sĩ Từ! Nhà cháu nằm sát rìa khu phố, nhờ có xe cộ qua lại và ánh đèn đường chiếu vào, trong khi rèm cửa sổ không dày lắm, nên dù không bật đèn vẫn có thể nhìn mọi thứ xung quanh khá rõ ràng. Cháu nhìn thấy một đôi mắt sau khe cửa! Đó là mẹ, chắc chắn là mẹ! Mẹ đứng sau khe cửa. Trong khi cháu ngủ, mẹ vẫn đứng sau khe cửa để nhìn cháu, cứ nhìn lăm lăm như thế. Lúc đó cháu đã thét toáng lên vì sợ. Thế rồi ánh mắt sau khe cửa biến mất. Mẹ đã đi khỏi, rồi cháu nghe tiếng bật đèn bên phòng của mẹ. Chắc là mẹ đã quay lại phòng mình. Cháu ngồi trên giường, mất khoảng 15 phút đồng hồ mới bình tĩnh lại. Bác sĩ Từ, chắc là chú khó mà tưởng tượng ra được cái cảm giác của cháu khi đó. Cháu không chạy sang phòng mẹ ngay, mà cứ ngồi trên giường như thế. May mà khi đó trời cũng gần sáng, cháu đành thức dậy, đánh răng rửa mặt rồi đến trường. Lúc cháu làm vệ sinh cá nhân xong, ra ngoài thì mẹ đã thức dậy rồi. Mẹ đang chuẩn bị bữa ăn sáng cho cháu trong bếp. Cháu ngồi xuống bàn ăn, chẳng nói chẳng rằng mà cắm đầu nhai ngấu nghiến bát mì mà mẹ cháu dọn ra. Mẹ vẫn ngồi cạnh bàn ăn, quan sát cháu như cũ. Cháu không hề hỏi tại sao mẹ lại không chịu ngủ mà đến rình rập cháu làm gì. Cháu sợ làm mẹ buồn, ngộ nhỡ mẹ chỉ giật mình giữa đêm rồi muốn qua xem cháu ngủ có đắp kỹ chăn hay không mà thôi thì sao. Sau này, lúc đi vệ sinh cháu đã khóa trái cửa bên trong lại. Buổi tối đi ngủ, cháu cũng không quên khóa trái cửa phòng. Cháu hy vọng mẹ hiểu rõ thái độ của cháu. Cháu biết mẹ rất quan tâm cháu, nhưng cháu cũng cần không gian riêng tư. Thế nhưng, cháu không muốn tổn thương tình yêu của mẹ dành cho cháu. Mẹ đã khổ lắm rồi. Cháu nghĩ, cháu và mẹ nên thông cảm cho nhau. Thực tế, trong những ngày tiếp theo thì cuộc sống của cháu cũng yên tĩnh hơn. Hai ngày kể từ sau đêm ấy, dường như cháu nghe thấy âm thanh nạy khóa vào buổi tối. Nhưng cháu đã khóa trái cửa, mẹ không thể vào được. Cháu tin rằng mẹ sẽ biết rõ được ý nghĩ của cháu. Mẹ sẽ thông cảm và hiểu cho cháu. Con trai của mẹ đã trưởng thành, cần có không gian độc lập. Chỉ như vậy thôi, cháu trải qua quãng thời gian nửa tháng rất yên bình. Cháu vẫn rất yêu thích hình ảnh mẹ chờ cháu tại ban công nhà bếp mong cháu về, thích thú với việc mẹ ngồi bên cạnh xem cháu ăn tối. Cháu cũng không ngại việc mẹ ngồi đan áo bên cạnh khi cháu học bài hằng đêm. Cuộc sống này đã quay lại thời khắc êm ấm như xưa. Ít nhất thì khi đó, cháu đã cảm thấycnhư thế. Chỉ là... Đêm ấy, cháu vẫn thức dậy uống nước. Cửa đang khóa trái. Cháu vẫn giữ thói quen này. Nhưng khi uống nước, cháu bỗng nhìn thấy một chấm đen ở vách tường đối diện. Khi đó, cháu cứ tưởng đó là một con sâu bò lên tường nên lấy một tờ giấy, định qua xử lý con côn trùng đó. Nhưng khi đến gần, cháu đã nhận rađó chẳng phải là sâu gì cả, mà là một cái hốc nhỏ xíu ngay trên vách tường! Phòng ngủ của mẹ và cháu chung vách. Sau cái hốc này chính là phòng ngủ của mẹ. Lúc đó, cháu cũng không suy nghĩ quá nhiều, mà cúi đầu xuống, áp mắt nhìn vào cái hốc đó. Sau đó... Dù ánh sáng không rõ lắm, nhưng cháu đã trông thấy một con mắt khác cũng đang áp vào cái hốc đó để nhìn qua đây! Lúc đó, toàn thân cháu cứng đờ vì sợ rồi ngã nhoài xuống đất. Cháu điên tiết lên, mở tung cửa phòng, xông ra ngoài. Sau đó, cháu đẩy cửa phòng ngủ của mẹ ra, hỏi mẹ tại sao lại như thế. Hỏi nguyên nhân vì sao mẹ lại đục cái hốc đó! Mẹ nhìn cháu bằng một gương mặt đầy ngơ ngác. Mẹ bảo là chẳng hiểu gì cả. Mẹ còn nói cái hốc đó đã có từ lúc sửa nhà ngày xưa. Cháu và mẹ cãi nhau rất lâu, và chắc chắn là cháu không nhìn lầm. Nhưng mẹ cứ không chịu nhận, được rồi, cháu biết làm gì bây giờ? Cháu đành quay lại phòng ngủ của mình. Ngày hôm sau, khi tan trường về nhà, cháu bèn tìm đồ chặn cái hốc đó lại, rồi dáng băng keo màu đen lên. Nhưng do cảm giác chưa đủ an toàn, cháu lấy một cái ghế có lưng tựa chắn ngang nơi đó. Làm như thế, dù có dùng mảnh gỗ đâm thủng lớp băng keo thì cũng không thể nào thấy được cháu. Sau đó, cháu tiếp tục nằm chờ. Thấy cái ghế không hề động đậy, cháu rất yên tâm, ngủ một giấc ngon lành. Cứ nghĩ ngày tiếp theo cũng thế, nào ngờ khi cháu chuẩn bị ngủ, cháu lại phát hiện một cái hốc khác vừa được đục thủng ngay trên vách tường. Cháu giận lắm, lại cãi một trận với mẹ. Thế mà mẹ vẫn khăng khăng là chẳng biết mô tê chi cả, mẹ không dám nhận! Cháu đành bó tay, tiếp tục che kín cái hốc thứ hai. Để rồi... Ngày thứ ba… Ngày thứ tư… Ngày thứ năm… Ngày thứ sáu... Mỗi ngày, chỉ cần cháu bịt kín một cái hốc thì ngày hôm sau mẹ cháu lại đục thủng một cái hốc mới. Cháu biết, mẹ muốn quan sát cháu mỗi ngày, nhưng cũng ép cháu sắp điên lên đây. Bác sĩ Từ, chú có tưởng tượng ra được cảnh tượng mà phòng ngủ của cháu có tới hàng chục cái hốc nhỏ trên tường không? Rốt cuộc, có một ngày, cháu hết nhịn nổi. Cháu vào nhà bếp, lấy bột tiêu mang vô phòng ngủ của mình. Chờ đến khi cái hốc mới lại xuất hiện vào buổi tối thì cháu bước đến, cúi đầu xuống. Vừa nhìn thấy ánh mắt của mẹ ở phía bên kia, cháu lập tức hất mớ bột tiêu này về phía bên kia. Thế rồi, cháu lại luống cuống tay chân. Cháu cảm giác mình thật xấu xa, quá trẻ trâu. Mẹ đã vì cháu mà sống cuộc đời cơ cực, trong khi cháu lại tự do, buông thả. Chẳng phải mẹ chỉ muốn nhìn cháu thêm một chút hay sao? Tại sao cháu lại tổn thương mẹ chứ? Thậm chí cháu không dám đi sang căn phòng sát vách, cứ nơm nớp lo sợ như thế rồi quay lại giường nằm. Trong bữa sáng ngày hôm sau, cháu nhìn thấy mắt mẹ sưng đỏ lên. Đó là do bột tiêu gây ra. Cháu nói lời xin lỗi mẹ, nhưng cũng mong mẹ đừng làm thế nữa. Mẹ hỏi cháu đang nói xàm gì đó, vì mắt của mẹ chỉ bị nhiễm trùng mà thôi, tối nay nhỏ thuốc là ổn. Cứ như thế mãi, cháu ngủ ít dần. Tinh thần của cháu càng lúc càng suy sụp. Cứ đến giờ tan trường là cháu rất hốt hoảng, cảm giác bản thân mình tựa như một xác chết di động vậy. Mãi cho đến... Đêm hôm đó... Cháu hoàn toàn bùng nổ... Mọi sự sợ hãi, uất ức, tức giận, khó hiểu đều bị thiêu đốt bùng lên ở ngay khoảnh khắc đó. Cháu cầm cây bút bằng kim loại của mình... bước về phía bức tường với những hốc nhỏ chằng chịt kia. Cháu nhắm ngay cái hốc vừa mới xuất hiện ngày hôm nay... … Đâm thẳng cây bút bằng kim loại vào. Máu... Cháu thấy máu chảy ra từ cái hốc đó. Máu dính đầy tay cháu. Máu đổ đầy trên mặt đất. Máu lấm lem khắp vách tường. Máu thấm đẫm mọi nơi. Và đó... chính là máu của mẹ cháu!" Mời các bạn đón đọc Hắn Đến Từ Địa Ngục của tác giả Thuần Khiết Tích Tiểu Long.
Bãi Gió Cồn Trăng
Truyện Bãi Gió Cồn Trăng là một truyện mới được giới thiệu với bạn đọc trên trang đọc truyện online, một truyện đầy sức hút với những tình tiết thú vị. Truyện như một bức màn bí ẩn phủ lên mọi chuyện tưởng như là chỉ có những mơ hồ nhưng khi bước vào truyện mới thực sự thấy được mọi thứ dưới ánh sáng. Có nhiều uẩn khúc quẩn quanh, có nhiều bí mật cần phải chờ lời hồi đáp, nhưng liệu đi đến cuối truyện có tìm được câu trả lời hông, mời bạn đón đọc truyện kinh dị, trinh thám này. *** Thời gian vẫn dằng dặc tiếp nối. Máy tạo hóa luôn cần mẫn xoay vần. Lớpsóng phế hưng cứ tái diễn không ngừng nghỉ. Thăm thoắt mà tám năm trờitrôi qua. Ông Năm Tảo vẫn tiếp tục nghề xem mạch hốt thuốc. Bà Năm Tảo ngoàiviệc nội trợ, thương viếng thăm hai cô con gái và hai chàng rể để có dịp hủ hỉ với lũ cháu ngoại. Ông Chín Thẹo qua đời. Bà Chín Thẹo tuy cóbuồn đôi chút nhưng rất hãnh diện vì lũ con trai mình ăn nên làm ra, còn cô con gái út của bà được làm vợ một bực ăn học, trở nên ngươi đàn bàtrung lưu có tư cách. Bà Mười Thiệp và ông bà Mười Hai cất am bên bờrạch Tân Giai tu hành, ra công giúp đỡ người trong làng, trong xóm. Cô Út Ngọc An sanh cho chồng một trai hai gái. Cô càng sanh đẻ, máuhuyết càng thay đổi, càng lồ lộ vẻ tươi mát nuột nà. Ông Đốc học Hạnhxoay qua viết biên khảo về kinh điển Phương Đẳng Đại thừa. Cô Hai TúyNgọc sanh cho chồng ba cậu con trai. Vóc vó cô vẫn thanh cảnh, thần thái cô vẫn giữa vẻ xán lạn tươi tỉnh. Ông Huyện Khải vẫn trẻ trung và dẻodai. Ông giữ vẹn nếp thanh liêm cho nên lương bổng ông không đủ trangtrải những nghi thức hào nhoáng cần thiết. Mấy năm sau này, song songvới việc làm quan, hễ rảnh rang là ông viết tiểu thuyết loại nghiêng vềgiải trí, rất ăn khách, riết rồi cô Hai Túy Nguyệt coi sóc luôn việcxuất bản sách cho chồng. Ông bác vật Cảnh dắt vợ lên Sài gòn cư ngụ, lập trường tư thục Kiến Thiết, chủ trương tờ Khuyến Nông nguyệt báo nhắmmục đích khuyến khích nông nghiệp và cổ võ việc canh tân nếp sống mớicho dân quê. Cô Ba Túy Nguyệt sanh cho chồng một trai hai gái. Cô đượcngười chồng cô truyền dạy các món môn bánh xưa, nghệ thuật thêu xưa. Rồi cô còn được dì phước Marie vốn là chị con nhà bác bên chồng dạy các Ônthêu đan kiểu Tây và các món bánh nay. Sau đó cô mở nữ công học hiệu đểdạy các lương gia nữ tử các món nữ công phụ xảo. Cô cũng xin bà MườiThiệp cho hai cô Kim Liên và Kim Huệ lên Sài gòn theo học trường cô đểrồi sau này hai cô trở thành giáo sư nữ công trẻ tuổi, được hai thầygiáo lớp nhứt tiểu học Cầu Kho cầu hôn. Cô Thiệt Nguyện từ khi làm vợ bác sĩ Lê Thạnh Mậu rồi thì được chồng cưng như trứng mỏng. Cô tận tụy săn sóc chồng, coi sóc mọi việc trongnhà châu đáo. Hễ có thời giờ rảnh rang là cô đi săn sóc trẻ em mồ côi,đi làm công quả cho chùa, lo việc đúc tượng in kinh. Cô sanh cho chồnghai cô con gái xinh như mộng, đẹp như tranh. Hai cô Agnès Thuận và Isabelle Định thỉnh thoảng có về thăm cô BaCẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ. Họ đã đứng tuổi, tuy chưa phấn lạt hương phainhưng họ sớm lo liệu trước. Cô Agnès Thuận làm vợ kế một thương gia HuêKiều ở Tân An, đối xử với lũ con chồng tử tế nên chiếm được cảm tình của họ. Còn cô Isabelle Định lấy thầy giáo góa vợ dạy lớp nhứt cở Gò Đen.Cô sanh cho chồng một cậu con trai xinh đẹp. Hai Dần cưới cô Sáu Bạch Huệ, cọn về chợ Phú Quới cách chợ tỉnh sáu cây số. Cô sanh cho chồng cặp hổ bôn hổ bịch kháu khỉnh. Đã liếc qua gia đạo kẻ hiền lương hoặc bình thường, thì chúng ta nên ghé mắt nhìn qua gia đạo những kẻ vì vô minh mà gây ác nghiệp... chocông bình. Cậu Hai Luyện tuy trở thành phế nhơn nhưng không vì vậy mà tráchtrời oán đất và giận ghét người đời. Hồi tưởng lại bao chặng đời dĩvảng, cùng ngắm nhìn thói tham lam tán ác của gia đình mình, cậu giựtmình kính sợ cho lẽ thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cho nên cậu ăn nănlung lắm. Cậu tìm kiếm cô Ba Hưởng, giúp đỡ đứa con rơi của cậu ăn học.Cậu cũng tìm cô Hai Thiều, cất am cho cô ở gần nhà tía má cô để cô có kẻ săn sóc. Cậu ăn chay trường, làm nhiều công quả và Phật sự cho các chùa chiền. Cậu cộng tác với cô Thiệt Nuyện giúp đỡ trẻ mồ côi, đóng góptiền cho trường mù, cho nhà thương cùi ở cù lao Rồng, Mỹ Tho. Đều đềucậu tụng kinh cầu siêu cho vong linh cha mẹ sớm thác sanh vào cõi Anbang Tịnh độ. Hơn lúc nào hết, ba anh em cậu Hai Luyện sát cánh nương tựa nhau sau bao tai biến. Trong năm đầu chịu tàn phế, cậu Hai Luyện có cho người dò la tin tức Bửu. Mãi tới ba năm sau cậu mới nhận được tin tức về ngườiem cùng cha khác mẹ kia. Bửu tu hành trên núi Cô Tô, dưới mái hảo am của pháp sư Chơn Huệ, bên Điện kín, pháp danh Thiệt Tánh. Trong thư viếtcho cậu Hai, sư Thiệt Tánh cho biết năm tới sư sẽ đi Anh Quốc để diễnthuyết tại các cơ sở và các trung tâm Phật giáo cùng với Paul Carlson,một ký giả người Anh rất am tường Phật pháp. Cậu Hai Luyện bảo hai cô Cẩm: - Dòng họ mình chỉ có ba người đáng kể. Đó là pháp sư Chơn Huệ, anh Đốc học Hạnh và sư Thiệt Tánh. Cô Ba Cẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ nhìn nhau dửng dưng. Thiệt tình hai côcũng sợ quả báo, nhưng không vì lẽ đó mà họ thích chuyện tu tâm dưỡngtính, bởi nghiệp tham dục của họ còn nặng lắm. Tuy thương yêu anh mình,sát cánh với đương sự để chống chỏi với hoạn nạn tai ương, nhưng làm sao họ bỏ được chuyện làm giàu cùng thú vui nhục dục! Năm nay cô Ba Cẩm Túđã ba mươi lăm tuổi, còn cô Tư Cẩm Lệ đã ba mươi bốn. Cô Ba chuyền từtay ông Chánh tham biện Leblond qua ông Cò mi Carrière khi ông Chánhtham biện về Pháp. Còn cô Tư ăn ở với ông Biện lý Beauregard được bốnđứa con, đứa nào cũng chưa đầy ba tuổi là vong mạng. Mỗi khi cấn thai, cô đi xin bùa phép trừ tà ếm quỉ để đứa con trongbụng cô không phải là con ranh, nhưng làm sao cô cải được cái ác nghiệphiện hành! Khi đứa con thứ hai chết đi, trước khi chôn, cô thử lấy mựcđỏ vẽ một vết nhỏ cỡ hột đậu ở háng nó. Đứa con thứ ba vừa chui ra khỏibụng mẹ đã có vết son đó. Rồi khi đứa con thứ ba từ trần, cô vẽ thêm một chữ thập nhỏ bằng mực đen trên mông nó. Thế là đứa con thứ tư chẳngnhững mang vết son ở háng mà còn mang chữ thập đen trên mông. Rõ ràngđây là đứa con ranh đầu thai qua năm kiếp. Đau đớn vì trải qua năm lần chửa đẻ con ranh con lộn nên lần có chửa thứ sáu, cô Tư Cẩm Lệ đi phá thai trong căn nhà một mụ xẩm già có nhàđâu đít với trường học Huê kiều, giáp với miễu Quốc công. Mụ dùng chiếcđũa sắt bọc dây thun ở đầu, bôi lên đầu một chút dầu cho trơn rồi thọcsâu vào tử cung cô. Dây thun quấn vào bào thai vừa tượng hình trong bụng mẹ, bị rút ra khỏi cơ thể của mẹ nó. Cuộc phá thai không quá đau đớnnhư cô tưởng. Cô thầm mong rằng từ đây về sau, bởi trận phá thai kia côsẽ bặt luôn đường chửa đẻ. Nhưng hai ngày sau, trong cơn chiêm bao côthấy Cô Tư Thục hiện về, mắng: - Đồ khốn nạn! Mầy tưởng đâu phá thai là hết chuyện sao! Thai nhi dù có chết đi thì cũng kể như mầy đã sanh lần thứ sáu rồi vậy. Còn thêm ba lần sanh nữa là đủ chín lần, đứa con ranh con lộn kia sẽ vật mầy chếttươi. Khi nó vừa ra đời là mầy sẽ bị băng huyết sối xả, đố ai cứu được!! Cô Tư Cẩm Lệ sầu não lắm, thường cùng chị thì thầm than thở rồi khóc sụt sùi. Cậu Hai Luyện khuyên dứt cô em út: - Nấu mầy sợ sanh đẻ thì cữ kiêng việc chung chạ với chồng. Mầy đãgây ác nghiệp thì chi bằng lo tụng kinh sám hối, dứt chuyện tham dục,bình tĩnh mà trả quả. Có lý đâu mầy cứ huê kia nguyệt nọ hà rầm, lo chạy áp phe chơn không bén đất. Mầy cũng đã trải qua hai tên bạn chăn gối,thôi thì dứt hết nợ phong tình nguyệt trái đi cho khỏe thân... Và cậu quay qua trách cô Ba Cẩm Tú: - Còn em, em đã dùng đủ mưu đen chước đỏ đẻ kiếm được người chồngthuộc hạng thượng lưu trong xã hội, vậy mà em không chịu giữ vững hạnhphúc, để rồi giờ trở thành thứ vợ ngày vợ bữa cho bọn ngoại kiều! Em cứcoi cặp chơn cụt của anh đây mà hành xử sao cho khỏi vướng vào vòng taikia họa nọ. Cô Ba khóc lóc: - Ai cũng muốn đẹp mặt nở mày chớ ai có muốn làm bia cho miệng đờichê cười sỉ nhục đâu! Bởi em dại dột, nên giờ có muốn kiếm một ông chồng tử tế cũng như mò kim đáy biển mà thôi! Cô Tư Cẩm Lệ tuy đồng ý với anh mình, nhưng cô đang độ trẻ trungsung sức, lẽ nào cô chịu cảnh cám treo để heo nhịn đói cho được! Bởi đóphá thai chưa trót năm mà cô đã có chửa lần thứ bảy. Cô sợ quá, thỉnhkinh Từ Bi Thũy Sám và Lưng Hoàng Sám Pháp về tụng ra rả. Một sáng kia, cô Ba Cẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ, kẻ từ nhà ông Cò mi,người từ nhà ông Biện lý, không hẹn mà cùng về Câu Đào để thăm anh. BàNăm Đặng dọn lên bàn bữa đểm tâm ê hề, nào bánh canh giò heo, nào bánhđúc tôm khô, nào cà phê sữa, nào khoai luộc, bắp luộc. Giũa lúc đó, một tăng sĩ mặt mũi thanh tú, dáng dấp oai nghi, từngoài cửa thung dung bước vào. Ba anh em chưng hửng, ngờ ngợ là ai rồi.Tăng sĩ chiếu cặp mắt sáng như sao nhìn họ, sang sảng bảo: - Chắc anh chị không nhận ra em. Bửu đây mà. Bây giờ em là Đại đức Thiệt Tánh rồi. Cậu Hai Luyện cảm động: - Mừng thầy về thăm nhà sau tám năm tầm sư học đạo. Cô Ba Cẩm Tú cảm xúc quá, vừa khóc vừa bệu bạo: - Thầy ôi, gia đình mình tai nạn cứ tới dập dồn. Thầy về đây thăm nhà và ở chơi được bao lâu? Mời các bạn đón đọc Bãi Gió Cồn Trăng của tác giả Hồ Trường An.