Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ma Thổi Đèn Tập 8: Vu Hiệp Quan Sơn - Thiên Hạ Bá Xướng
AudioBook Ma Thổi Đèn tập 8 Tên ebook :   Vu Hiệp Quan Sơn Tác giả :   Thiên Hạ Bá Xướng   Bộ sách: Ma Thổi Đèn (tập 8)   Thể Loại: Kinh Dị, Huyền Huyễn, Văn học phương Đông   Dịch Giả:  Đông Mây   Đánh Máy:  Sand xấu xa, Luân vũ, Cao ly, Thiện, AD Voi còi, Nguyễn Văn Tụng, Thành HV, Bùi Đăng Chung, Chi Ka To, Nguyễn Anh Đức, Orchid Pml, Thiện, Trường, Hư Không Công Tử   Biên Tập:  Hư Không Công Tử   Nguồn: Hội những người thích truyện đào trộm mộ   Ebook: http://www.dtv-ebook.com     Ebook Ma Thổi Đèn 8 Vu Hiệp Quan Sơn prc pdf epub Giới Thiệu:            Cuốn sách phong thủy dở dang - kỳ thư đệ nhất thiên hạ "Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật" được Mô Kim Hiệu Úy đời Thanh viết ra, trong đó bao gồm tất cả những thuật phong thủy âm dương, mặc dù nói "Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật" là mười sáu chữ, nhưng nói đúng ra phải là mười sáu quyển, mỗi quyển lấy một chữ trong quẻ cổ Chu Thiên làm đại biểu, tổng cộng mười sáu chữ, vậy nên mới gọi là Thập lục tự.   Mười sáu chữ này theo thứ tự là: Thiên, Địa, Nhân, Quỷ, Thần, Phật, Ma, Súc, Nhiếp, Trấn, Độn, Vật, Hóa, Âm, Dương, Không. Bộ này chủ yếu ghi chép lại những sách cổ về âm dương phong thủy học, có thể nói không thiếu chỗ nào, không chỉ có phong thủy thuật và âm dương thuật, và do được Mô Kim Hiệu Úy đúc kết lại, cho nên bên trong còn chứa đựng hình dạng, kết cấu, bố cục kiến trúc của rất nhiều mộ cổ các triều đại, cùng với những tình huống nguy nan mà các Mô Kim Hiệu Úy đã gặp qua khi đổ đấu.   Có thể nói "Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật" là "Kim chỉ nam đổ đấu mò vàng" hàng đầu, tiếc rằng cuốn sách này chỉ là bản thiếu, phần về âm dương thuật cũng không lưu truyền tới nay, chỉ còn có Thập lục tự phong thủy thuật, mười sáu chữ phong thủy ấy tương ứng với nội dung như sau:   Thiên: Phần này chủ yếu là chiêm tinh học, cũng là phần rất quan trong thuật phong thủy, thiên tinh phong thủy, địa phân cát hung, tinh có thiên ác, xem phong thủy tìm long mạch cũng là trên xem sao trời, dưới tìm địa mạch.   Địa: Điều chủ chốt của thuật phong thủy là so sánh vị thế đất, đại đạo long hành tự nhiên là thật, tinh phong lỗi lạc là mình rồng, địa thế hướng sông ngỏi chảy xuyên qua cả vùng núi non, phán đoán nơi nào có long mạch, đây chính là nội dung thủ pháp xem "Long, sa, huyệt, thủy" của thiên chữ Địa.   Nhân: Phong thủy có nhắc đến âm dương trạch, âm trạch là nơi mộ địa, nơi dành cho người chết, mà dương trạch là nơi ở của người sống, đối với việc lựa chọn dương trạch, đều cần có lý luận phong thủy sâu xa, còn gọi là thuật "Bát trạch minh kinh".   Quỷ: Cái tên nói lên tất cả, nói về ma quỷ và cõi âm, trong đây chủ yếu giảng giải tình trạng chủ nhân của mộ cổ. Ví dụ như cách bài trí thi thể và quan tài, vị trí tuẫn tháng người, vật và đồ bồi táng, đèn chong, nến trường sinh vân vân... hễ có liên quan trực tiếp tới người chết trong mộ, đều được ghi lại đây.   Thần: Từ xưa đến nay, khát vọng chết hóa thành tiên của những người trầm mê tu đạo nhiều không đếm xuể, chuyện xác chết thành tiên trong phong thủy cũng được ghi chép lại nhiều. Kiểu như điều chỉnh khí huyết hơi thở làm sao cho thi thể trong huyệt mọc cánh thành tiên chính là nội dung chủ yếu của thiên này. Chẳng qua cũng chỉ như "Đồ long thuật" mà thôi, trong nhiều trường hợp, "Nằm trong huyệt mọc cánh thành tiên" chỉ là một mớ lý luận sáo rỗng mà thôi.   Phật: hệ thống phong thủy lý luận khổng lồ phức tạp, Mô Kim Hiệu Úy am hiểu bí thuật phong thủy, đều là lấy "dịch" làm quy tắc chung, thuộc về một nhánh của Đạo gia, mà các tôn giáo khác đều có lý luận phong thủy riêng, tất nhiên những thứ đó trong tôn giáo của người ta cũng không gọi tên là phong thủy. Nhưng thực ra bản chất đều giống nhau. Quyển chữ "Phật" ghi lại phong thủy thiền tông.   Ma: Dưới cát tinh không phải là cát, dưới hung tinh vẫn còn là hung, huống hồ hung long không vào huyệt. Chẳng qua rảnh rỗi dấn thân qua. Nội dung của thiên chữ "Ma", chủ yếu nói về những điềm gở trong địa mạch thiên tinh, giúp người ta tránh rước họa vào thân, đây là thiên chuyên giảng giải về những dấu hiệu hung xấu trong phong thủy.   Súc: Thánh nhân có mây, cầm thú có dòng, không thể đánh đồng một chỗ, sơn xuyên địa mạo cũng là kiệt tác thiên nhiên, có những kỳ sơn địa thạch, tự nhiên tạo hóa mang hình hài muông thú, những nơi này đều trong phong thủy đều được đặt tên. Lấy một thí dụ mà nói, như ngọn núi mang hình con trâu, liền chia ra làm Ngọa Ngưu(trâu nằm), Miên Ngưu(trâu ngủ), Canh Ngưu(trâu cày), Đồ Ngưu(tàn sát trâu), Vọng Nguyệt Ngưu(trâu ngắm trăng), thư thế hình dáng khác nhau, cát hung khác nhau, đây chính là nội dung chủ yếu của hình thành súc hình trong phong thủy.   Nhiếp: Nội dung chính là Phân kim định huyệt, thuật này có tên gọi cổ xưa là "Thuật Quan bàn biện cục", không cần kết hợp la bàn và kim châm, mà chỉ ra được chính xác long, sa, huyệt, thủy, hướng trong phong thủy. Là khâu quan trong khi tìm kiếm vị trí mộ cổ.   Trấn: Đạo phong thủy, tối kỵ dạng "sát", quyển chữ "Trấn" chủ yếu ghi lại cách làm sao để trấn sát, tị sát, có điều trong quyển chữ "Trấn" này, được nhắc đến nhiều nhất là "Tị" chứ không phải là "Trấn", cũng có thể coi đây là đạo phòng thân.   Độn: Bố cục những nơi then chốt trong mộ cổ, vị trí rãnh tuẫn táng, có thể thông qua địa diện phong thổ, các loại kết cấu minh lâu mà suy tính ra phương vị cho đến chi tiết hình dáng địa cung trong cổ mộ. Chủ yếu nhất đương nhiên là giang giải những cơ quan mai phục, có những lý thuyết biến ảo thâm sâu ở phần này, nếu như không tinh thông ngũ hành sinh khắc biến hóa, cũng khó mà tìm được đường sống trong này.   Vật: Cổ có thiên khí địa vận, tùy theo thiên vận khí hậu khác nhau ở từng khu vực, địa vận cũng có thay đổi, mà khí trời theo chi, thiên vận có xoay vần, khí hậu khác nhau ở từng khu vực ứng với chi, hoàn cảnh tự nhiên biến hóa, dẫn đến tình thế phong thủy thay đổi, tất cả các vật có linh tính chốn sơn cước, sẽ bị biến đổi theo phong thủy thiện ác, mà sản sinh dị biến, nếu như thanh trọc âm dương lẫn lộn sẽ sản sinh ra một số sự vật vô cùng đáng sợ, không hợp với lẽ thường, gọi là "Yêu", trong thiên chữ "Vật" miêu tả những hiện tượng yêu dị sinh ra bởi phong thủy.   Hóa: Kẻ hóa lại chính là biến hóa của hóa, cải cách phong thủy khó khăn nhất trong mắt sư môn, người nhỏ thay đổi môn hộ, người lớn thay đổi quy cách. Trong phong thủy cổ xưa, không chủ trương những tình thế phong thủy "nhân tạo". Vũ trụ rộng lớn, núi non có bản tính, kỳ khí kỳ vận, an mà vọng động? Quyển chữ "Hóa" là quyển bị Mô Kim Hiệu Úy coi là cấm kỵ, nhưng đối mặt với một số cổ mộ được xây dựng dựa trên thay đổi kết cấu phong thủy, quyển chữ "Hóa" này là khắc tinh của chúng.   Dương: Âm Dương này không phải là âm dương trong thuật âm dương, chỉ đơn giản trong phong thủy độ lớn của góc cũng gọi là âm dương, trên thực tế hay "hình thế", nhìn thấy được là dương, không thấy được là âm, trong đạo phong thủy, cái gì là thấy được? Một con núi một con sông bày biện ra hình, đó là nhìn thấy được, quyển chữ "Dương" là một quyển giảng về "Hình".   Âm: Nhìn thấy được là dương hình dáng người thường không thấy được là âm, thế nào là hình dáng không thấy được? Địa hình một ngọn núi một con sông, có ẩn hàm chứa khí và vận, cùng với hình thái khí và vận này bày ra, đây đều là những tinh thần khí chất mà không thể trực tiếp thấy được bằng mắt thường, quyển chữ "Âm" là quyển giảng về "Thế".   Không: Đại tượng vô hình, đại âm hi thanh, cảnh giới cao nhất của phong thủy bí thuật, một thiên không có bất kỳ một chữ nào, cứ tuần tự nghiên cứu cuối cùng cũng sẽ đại đạo chứng minh, tự nhiên có thể lĩnh ngộ được quyển "Không", rút ra được cái ảo diệu của "Trong vòng tạo hóa, thiên nhân hợp nhất". Mô kim bí thuật, từ xưa tương truyền, trải qua bao thăng trầm chìm nổi, cho tới ngày nay, phải thi triển thế nào đây?  Mời đón xem Ma thổi đèn tập 8 Vu Hiệp Quan Sơn của tác giả Thiên Hạ Bá Xướng.