Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thành Phố Quốc Tế

Thành phố Quốc tế là cuốn sách khiêm tốn về dung lượng nhưng lại mang dáng dấp của một thiên sử thi bởi nó trình bày những mảnh ghép đa hình sắc của một thế giới vô phương cứu chữa. Don DeLillo không chú trọng về điều gì quá mới mẻ. Tự thân cuốn tiểu thuyết đã mang tính mới lạ với những dòng văn dồn nén, xô đẩy tương lai vào lưỡi dao sắc bén của những phút giây hiện tại. Nếu bạn là người yêu thích khía cạnh trừu tượng của sức mạnh tài chính và công nghệ; đồng thời, trân trọng vẻ đẹp của ngôn từ và tin vào vẻ đẹp nhân bản thì “Thành phố Quốc tế”   chính là cuốn tiểu thuyết đáng lưu tâm dành cho bạn. Với bối cảnh chính là một ngày tháng Tư năm 2000 ở New York, cốt truyện xoay quanh Erick Packer, một tỷ phú hết sức giàu có và chỉ mới 28 tuổi. Nhà tài chính này sở hữu một căn hộ 48 phòng, có bể bơi, có hai thang máy riêng theo nhịp một bản nhạc nổi tiếng, có phòng tranh với những bức tranh mà người xem không biết phải ngắm như thế nào, và có cả cá mập. Sau một đêm mất ngủ, thức trắng với sách và rượu mạnh, Eric quyết định dạo quanh New York trong chiếc limousine sang trọng để tìm chỗ cắt tóc. Chuyến đi của anh kéo dài cả ngày vì gặp phải một đoàn xe hộ tống Tổng thống, một cuộc biểu tình chống toàn cầu hóa và cả đám tang của một nghệ sĩ nhạc rap. Eric quan sát, liên lạc với thế giới bên ngoài thông qua hệ thống media và camera tối tân được trang bị trong xe. Chuyến đi đó có lẽ không khác một ngày làm việc bình thường: Eric vừa khám bệnh định kỳ với bác sĩ, vừa bàn công việc với cấp dưới ngay trong xe. Xen lẫn với các cuộc gặp gỡ về công việc, anh ta có đủ thời gian để gặp gỡ và ăn sáng với bồ, ăn trưa tâm sự với vợ. Khi Eric được vệ sĩ báo tin là có kẻ đang bám theo xe của họ, cốt truyện chuyến hướng sang hồi gay cấn. Một kẻ bất mãn đang bám theo để giết Eric. Điều này thực sự chẳng đáng ngạc nhiên chút nào, bởi vì bản thân nhà tài chính cự phách này tin rằng “logic mở rộng của công việc kinh doanh là án mạng”. Kẻ bám theo Eric là Benno Levin, tác giả của những dòng nhật ký đan xen trong mạch truyện về Eric. Đó là một người từng làm việc dưới quyền Eric, muốn giết Eric vì mối hận thù Eric – con người giàu có với cuộc sống xa hoa, vì hắn muốn trở thành nhà văn nhưng cuối cùng lại ngồi phân tích đồng Baht… Điểm thú vị của cuốn tiểu thuyết này không chỉ nằm ở các hành động; mà chủ yếu là ở lối dẫn dắt tài tình của nhà văn, đưa người đọc đến với thế giới ngoại hiện và nội cảm phong phú, phức tạp của Eric Packer. Bởi thế, có lẽ cách tốt nhất để đọc “Thành phố Quốc tế”   là đừng nhất nhất tâm niệm là mình đang đọc một cuốn tiểu thuyết. Bạn hãy xem như mình đang thưởng thức một áng thơ - văn xuôi về New York. Tác phẩm thiếu đi thứ mà người Mỹ Latinh gọi là “calor humano” (hơi ấm tình người); bởi thế, nó có thể làm một số độc giả nản lòng vì thứ logic lạnh lùng trong cõi lòng sâu hút như vực thẳm của Packer và giọng văn thờ ơ, bằng phẳng, yếm thế. Tuy nhiên, trí tuệ sắc sảo, lối văn kén người đọc của Don DeLillo lại dệt nên vầng sáng bao quanh từng sự kiện, bỏ xa tính gượng gạo và sự ngẫu nhiên. Ẩn đằng sau lớp bề mặt ngổn ngang và những lời bình luận chua cay về thị trường tài chính thế giới cuối thế kỷ XX, DeLillo muốn cảnh tỉnh người đọc về tình trạng mỏng manh, cô độc của con người. Dường như tác giả muốn khơi gợi ý nghĩ rằng, chúng ta đang sống trong thế giới của những đợt thủy triều không ngừng chuyển động, vượt quá tầm kiểm soát của con người. Cảm giác mình thuộc về ai đó hoặc quan tâm đến ai đó là thứ cuối cùng nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của giá trị. Cái nhìn giễu cợt sâu sắc và sự thờ ơ đúng mực, câu văn ngắn ngắt quãng đột ngột chuyển tải rất nhiều nội dung chính là điểm hấp dẫn nhất của “Thành phố Quốc tế”  . Mặc dù cuốn sách khá ngắn, có thể đọc toàn bộ nội dung chỉ trong một ngày nhưng câu chuyện trong đó sẽ kéo dài mãi. “Thành phố Quốc tế”  là sự thử thách, khiêu khích suy nghĩ và hoàn toàn khác biệt. NAM AN Review *** Trong vài thập kỉ trở lại đây, Don DeLillo là một trong những gương mặt ưu tú trên văn đàn Hoa Kỳ. Ông là ứng viên nặng kí cho giải thưởng Nobel văn học. Kế thừa thành tựu của những nhà văn hiện đại lớp trước, Don DeLillo khai mở lối viết hậu hiện đại độc đáo. Tác phẩm của ông, với hình thức ghép nối ngẫu nhiên, với sự tưởng tượng phong phú diệu kì, mang đậm tính khoa học giả tưởng,… đã đưa người đọc vào tâm điểm của sự hỗn mang đương đại trong một thế giới ngột ngạt bởi công việc, bởi tham vọng, sự sống và cái chết… Sự khai phóng ý tưởng táo bạo và tạo tác nên một thế giới mang bộ mặt quái gở song trùng với thế giới thực tại đã khiến những trang viết của Don DeLillo có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với nhiều thế hệ người đọc. Những đề tài được DeLillo thường xuyên hướng đến được giới nghiên cứu tập trung trong khái niệm Lí thuyết ngầm đa đề tài (themes-conspiracy theory), bao gồm bạo lực văn hoá, cuồng tín tín ngưỡng, đại biến cố, sự khủng bố của đám đông, bí mật lịch sử, con người cô đơn trong không gian hẹp… Cái nhìn tiên tri nhuốm màu phóng túng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tác phẩm của DeLillo ban đầu bị xem là mang tính chất hoang tưởng (paranoid), nhưng dần người ta hiểu ra giá trị đích thực của nó. Thành phố quốc tế (Cosmopolis, 2003) được viết dưới dạng đa đề tài ngầm ẩn. Xuyên suốt là đề tài về thị trường chứng khoán. DeLillo đề cao vai trò của thị trường chứng khoán trong mối quan hệ với nền kinh tế đương thời. Một tay trùm đầu tư cổ phiếu có thể làm xoay chuyển cán cân kinh tế thế giới. Một lần nữa, DeLillo cho thấy khả năng tiên tri của mình trong sáng tạo nghệ thuật. Phải đến 2008 nền kinh tế thế giới mới thực sự chao đảo mà nguyên do bắt đầu từ việc khủng hoảng tài chính. Câu chuyện ông kể về cái thành phố thế giới trong cơn khủng hoảng tài chính và đó có lẽ là nguyên nhân gây nên sự bạo động. Tình trạng hỗn loạn đến mức bản thân cảnh sát ban đầu cũng không thể nào lập lại trật tự. Đấy là một thế giới hoàn toàn bất an và quyền lực gần như là tuyệt đối khi nó tập trung vào một ai đó. Nhưng ngay cả khi nắm trong tay quyền lực thì người đó vẫn không có khả năng xoay chuyển tình thế của mình. Vẫn luôn tồn tại một thế lực, một quyền năng nào đó ngoài khả năng suy đoán của con người. Nhân vật chính trong truyện là tay trùm kinh doanh tiền bạc xuyên quốc gia, cụ thể là đầu tư vào đồng yên Nhật. Chàng trai ấy năm nay hai mươi tám tuổi. Trước khi kết hôn với một nhà thơ, người sẽ sở hữu một gia sản kếch xù của dòng họ Shifrin, anh ta có mấy người tình tên là Didi Fancher và Kendra Hays… Điều đáng lưu ý ở nhân vật này, tuy được giới thiệu là ông trùm chứng khoán và là một tay có hạng trong quan hệ tình dục với phụ nữ, nhưng cả hai yếu tố đó không phải là đích sống của anh ta. Người kể ở ngôi thứ ba đặt nhân vật vào một hành trình trong vòng một ngày (một ngày tháng tư năm 2000) trong thành phố New York được ngụ ý là Thành phố thế giới. Nơi đó tập trung đủ kiểu người, đủ công việc, đủ những hoạt động đời thường như kinh doanh cổ phiếu, ăn uống ở nhà hàng, đọc sách ở thư viện, vẽ ở xưởng, làm tình… Tất cả những hoạt động này xoay xung quanh nhân vật chính là Eric Packer đang đi trên chiếc xe hiệu limousine sang trọng. Đấy là chiếc xe chuyên dụng, được trang bị đầy đủ máy móc như một phòng làm việc tối tân. Từ trên xe, Eric có thể theo dõi diễn biến của thị trường qua màn hình. Từ trên xe, anh ta cũng có thể quan sát được hết mọi sự việc đang diễn ra trong ngày trên khắp thế giới. Đấy cũng là dạng chiếc xe thế giới, người sử dụng cũng là một dạng con người thế giới, có thể dùng chiếc xe đó vào những việc riêng tư như khám chữa bệnh, làm tình và đưa ra các chỉ thị điều hành kinh doanh… Như một nghịch lí, càng hiện đại, con người càng bị rơi vào nỗi cô đơn và gần như là mất phương hướng hành động. Để khắc hoạ đậm nét hơn bản thể con người trong kỉ nguyên hậu hiện đại, DeLillo đã thực hiện bút pháp mô phỏng đối với kiệt tác Ulysses của James Joyce và xa hơn là với Odyssey của Homer. Hành trình của Eric trên đường đi cắt tóc tương đồng với hành trình của Leopold Bloom lang thang trong một ngày tại thành phố Dublin. So với Bloom, hành động của Eric có mục đích hơn. Eric đang điều hành một tập đoàn kinh tế mà sức mạnh của nó có thể chi phối nền kinh tế toàn cầu. Trong khi đó, Bloom chỉ là một nhân viên chào hàng quảng cáo quèn. Sự tương phản giữa hai nhân vật này chính là sự khác biệt giữa thế giới hiện đại và hậu hiện đại. Một đằng thì lang thang vô mục đích. Một đằng thì vô mục đích ngay trong chính hành động ngỡ như có mục đích của mình. Rốt cuộc cả hai đều giống nhau ở cái kết cục cô đơn và hư vô, nhưng con đường đến đó của họ thì khác nhau. Thành phố quốc tế mở đầu bằng hình ảnh một con người cô đơn: “Anh mất ngủ thường xuyên hơn, không chỉ một, hai lần mà tới bốn, năm lần một tuần. Anh đã làm gì khi điều này xảy ra? Anh không muốn đi dạo trong ánh bình minh lên. Anh không có bạn bè thân thiết để quấy quả bằng một cú điện thoại. Có gì để nói bây giờ? Chỉ là một sự tĩnh lặng, không đối thoại” (1). Điều này quả thực lạ với một nhà kinh tế mà đặc biệt là một ông trùm kinh tế. Sự mất ngủ được giới thiệu ngay từ đầu khiến người đọc nhầm tưởng về chuyện thị trường, nhưng chỉ mấy dòng tiếp theo, ta thấy sự mất ngủ đó có nguyên do chủ yếu từ bản thể hoặc từ những mối quan hệ hầu như không có liên quan gì đến công việc của “anh”. Tính chất hai mặt trong một con người được thể hiện ở đây. Một con người năng nổ hoạt động và một con người chán chường với những hoạt động của mình. Nếu chỉ nhìn trên bề mặt chúng ta sẽ gặp được nỗi bức bối, thúc ép vô cùng to lớn của công việc. Eric trong lúc đi cắt tóc vẫn phải liên tục theo dõi các chỉ số, lắng nghe các chuyên gia cố vấn báo cáo tình hình tài chính và đặc biệt là những báo cáo về tình hình an ninh của bản thân… Cùng một lúc Eric phải xử lí vô vàn các thông tin khác nhau. Đấy là một con người của công việc thực thụ. Con người ý thức được trách nhiệm của mình với công ty, với khối tài sản kếch xù của dòng họ. Có hai yếu tố chủ chốt chi phối mạnh đến hoạt động của Eric là thời gian và lợi nhuận kinh doanh. Lợi nhuận, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ phải chịu áp lực rất lớn về phương diện thời gian. Chỉ trong vòng một phần mười giây hay thậm chí thời lượng ngắn hơn cả thế là đủ để xoay chuyển cả cục diện kinh tế của công ty và cả nền kinh tế thế giới. Dưới áp lực của thời gian, con người hiện lên vô cùng kì quặc. Những nghi thức giao tiếp hay nghi thức công việc hầu như không còn chỗ đứng trong cuộc đời. Thay vào đó là những hành động cốt đạt mục đích tức thời. Còn gì khôi hài hơn là trước mặt nhân viên nữ trên chiếc xe, Eric tụt quần ra để bác sĩ khám tuyến tiền liệt. Có thể nói chưa bao giờ con người bị rơi vào sự quẫn bách như lúc này. Nếu lấy tiêu chí tự chủ của con người để làm thước đo hạnh phúc thì một người có quyền uy như Eric chẳng có lấy chút hạnh phúc nào. Trước đây, các hình tượng nhà tư bản tài chính trong giai đoạn chủ nghĩa hiện đại như trong tác phẩm của Dreizer thường tự tại, tự tin vào sức mạnh và khả năng tận hưởng cuộc sống vô tận của mình, thì sang thời hậu hiện đại, những con người càng có khả năng tận hưởng cuộc sống bao nhiêu lại càng cảm thấy sự bức bối, bị chèn ép bởi bao gánh nặng công việc từ bên ngoài bấy nhiêu. Vậy nên, trong họ không còn là cảm giác của sự tận hưởng cuộc đời mà chỉ là sự bị động chạy theo cuộc đời. Trên đường đi cắt tóc của Eric, biết bao biến cố xảy ra. Cái thời điểm một ngày tháng tư đó chất chứa bao nhiêu sự kiện dồn dập. Nỗi ám ảnh về một kẻ khủng bố đang tìm theo dấu vết để tiêu diệt mình trong Eric luôn thường trực. Eric thờ ơ với cuộc sống giàu có. Một phần cũng vì sở thích của anh không giống những người cùng giới. Phần khác vì “tuyến tiền liệt của anh không cân xứng”. Đấy là tất cả các dấu hiệu cho thấy sự bất bình thường ở Eric. Anh là kiểu nhân vật “khiếm khuyết” đặc thù của chủ nghĩa hậu hiện đại. Thực ra kiểu nhân vật này đã xuất hiện trong văn chương chủ nghĩa hiện đại, như ở tác phẩm Kafka chẳng hạn. Nhưng cái cách các nhân vật thể hiện thì có khác. Trên hành trình đi cắt tóc của Eric, dấu hiệu ẩn dụ cho sự khủng hoảng chính trị hay sự xáo trộn cuộc sống là việc xuất hiện xe tổng thống đang đi trong thành phố. Đương nhiên mọi tuyến đường đều bị xoá sổ để dành quyền ưu tiên cho con người đứng đầu quốc gia này. Trong dòng xe dường như là bất tận của sự tê liệt, chiếc limousine của Eric cũng bị tê liệt theo. Tất nhiên, ngồi trên xe Eric vẫn có thể tiếp tục làm việc, nhưng mối nguy hiểm là một khi dừng lại, chiếc xe của Eric dễ dàng bị những kẻ khủng bố tấn công bất cứ lúc nào. Eric có cả một đội bảo vệ, đứng đầu là Torval. Một nhân viên giàu kinh nghiệm và sẵn sàng làm mọi thứ để bảo vệ thân chủ mình. Sự xuất hiện của nhân vật này là tín hiệu báo hiệu mối nguy hiểm thường trực đang rình rập Eric. Và không ít lần nhân vật này phải ra tay. Vụ đầu tiên là với bác sĩ Ingram, người đến chữa bệnh thay cho bác sĩ Nevius. Torval nghi ngờ ông ta nên đã khống chế để Eric nhận diện. Vụ thứ hai thì thật là nghiêm trọng. Chiếc xe của Eric rơi vào tâm điểm của cuộc bạo động khi nó đi đến “nơi giao nhau giữa đại lộ thứ bảy và nhà hát Broadway”, nơi đó gần ngân hàng đầu tư và là nơi đang diễn ra vụ tấn công khủng khiếp. Những người bạo động đến “từ bốn mươi nước” cùng tấn công vào trung tâm chứng khoán New York. Bất chấp sự ngăn cản của cảnh sát họ vẫn chiếm được trụ sở chứng khoán và thay đổi các chỉ số trên bảng điện tử bằng dòng chữ Một con chuột trở thành đơn vị tiền tệ. Con chuột, một loài vật nhỏ bé và gần như vô giá trị lại có khả năng hình thành nên một hệ thống tiền tệ, nơi kết tinh nhất của văn minh nhân loại. Điều này đồng nghĩa với việc nền văn minh tiền tệ đương thời bị xóa sổ, con người quay lại với những hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp sơ khai thưở nguyên sơ của mình. Câu chuyện của DeLillo là một câu chuyện hoang đường nhưng nó vẫn hấp dẫn người đọc bởi những địa điểm và thời gian xác thực. Trong thực tế, làm gì có chuyện trụ sở chứng khoán New York bị tấn công, làm gì có vị sư nào tự thiêu trong tư thế ngồi thiền trên đường phố New York vào cái năm 2000 ấy… Nhưng bầu không khí bạo loạn và cuồng nộ của đám đông luôn rình rập chờ sự nổi dậy khắp mọi nơi thì không phải là hoàn toàn không có cơ sở. Người đọc vẫn theo dõi câu chuyện hoang đường kia là nhờ vào khả năng dự báo của nó. Bởi trong một thế giới còn sự chênh lệch lớn giữa người giàu và người nghèo thì bạo loạn là đều tất yếu, luôn có thể xảy ra. DeLillo dẫn ý (có sửa đổi) một câu trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản để diễn tả điều này: Một bóng ma đang ám ảnh thế giới – bóng ma của chủ nghĩa tư bản. Và sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản là để sản sinh ra một thế lực lật đổ nó. Sẽ luôn có những cuộc bạo loạn mang tầm cỡ thế giới khi vẫn còn tồn tại những cá nhân nắm trong tay những giá trị tiền tệ để có thể xoay chuyển thế giới theo cách của mình. Câu chuyện của DeLillo không dừng ở đó, ông thấy được sự bấp bênh của các giá trị ngay trong chính những con người mang quyền lực nhất trên đời. Eric với khối tài sản của mình là một thế lực. Cũng giống như vị tổng thống mà mọi người phải nhường đường khi xe ông ta đi qua, Eric cũng liên tục được đưa lên màn hình. Vai trò của anh quan trọng gần như vai trò của tổng thống. Một mặt Eric ý thức tầm quan trọng đó, mặt khác anh muốn phá tung nó để sống một cuộc sống bình thường. Chuyện anh ta có tình nhân, không chỉ một mà thậm chí là hai hay ba người là minh chứng rõ ràng cho điều đó. Mặc dù tuyến tiền liệt của anh có vấn đề nhưng nó không ngăn được khả năng và khao khát tình dục trong anh. Kiểu tình dục luôn báo hiệu thảm hoạ. Đấy cũng chính là bản chất cuộc sống của anh. Một trong những thảm hoạ lớn mà anh luôn phải đối đầu là việc tri nhận thế giới xung quanh. Có thể nói nhân vật này nhận thức và hành động trước thế giới một cách ngẫu hứng và cực đoan theo cách của riêng mình. Trong lúc đang theo đuổi đồng yên Nhật Bản trong thế bất lợi, được trợ lí can ngăn đừng đầu tư nhưng anh vẫn phớt lờ và tiếp tục canh bạc cuộc đời với lập luận sẽ đến một giới hạn nào đó đồng yên sẽ suy thoái. Về mặt lí thuyết điều đó hoàn toàn đúng, nhưng cuộc sống tiền tệ có quy luật riêng của nó, đấy là quy luật thặng dư tuyệt đối. Không bao giờ đồng tiền trong đầu tư chịu dừng lại một khi nó đã chiếm được vị trí thượng phong. Trong sự cố chấp của mình, Eric vẫn liều đánh nốt canh bạc, rốt cuộc anh bị cháy túi và phá tán thêm cả chỗ tiền lớn của cô vợ giàu có của mình. Đối với cô vợ, Eric càng gặp rắc rối hơn trong nhận thức. Mối quan hệ vợ chồng của họ thật mỏng manh. Anh không luôn chắc chắn nắm giữ được hình ảnh của vợ. Đây là một trong số ít những lần gặp nhau trong ngày của hai vợ chồng: “Anh hạ cửa sổ xuống và nhìn kĩ một trong những người phụ nữ đứng ngoài đó. Đầu tiên anh cho rằng đó là Elise Shifrin. Thỉnh thoảng anh nghĩ về vợ anh với cái tên đầy đủ khi chợt bắt gặp những người họ hàng danh tiếng của cô trên những chuyên mục xã hội hay sách thời trang. Nhưng rồi anh không biết chắc đó là ai nữa, bởi tầm nhìn của anh bị che khuất và vì người phụ nữ mà anh đặt dấu hỏi đó đang cầm một điếu thuốc lá trên tay” (tr.156). Hoá ra đó chính là vợ anh. Chi tiết điếu thuốc lá này cho thấy hai người tuy là vợ chồng nhưng khoảng cách giữa họ là thật lớn. Bởi hôn nhân của họ chủ yếu được dựa trên tiền bạc, danh tiếng dòng họ mà thôi. Còn đây là lần gặp gỡ cuối cùng trong ngày và cả trong đời của Eric với vợ. Đấy là khi Eric rời xe tham gia vào việc đóng phim tự nguyện. Một nhóm làm phim đang quay cảnh những người khoả thân nằm trên đường. Eric nằm cạnh một cô gái. Hai người trao đổi đôi lời với nhau nhưng không nhận ra nhau. Eric ngờ ngợ đấy là vợ mình: “Chẳng phải Elise cũng có mái tóc màu nâu đỏ sao? Anh không thể nhìn thấy gương mặt của người phụ nữ và cô cũng không thể nhìn thấy anh. Nhưng anh đã nói và hiển nhiên là cô cũng nghe thấy tiếng anh. Nếu đây là Elise, sao cô không phản ứng lại tiếng nói của chồng cô? Nhưng tại sao cô phải làm như vậy? Đó không phải là việc gì thú vị cho lắm” (tr.233). Quả là Elise thật. Cuối cùng hai vợ chồng cũng nhận ra nhau. Tay trong tay, họ đi đến vỉa hè, “nơi đây, anh đẩy cô vào bóng tối hôn cô và gọi tên cô. Cô trèo lên anh, quấn quanh cơ thể anh. Họ đã làm tình giữa đống gạch vụn đổ nát, với tư thế người đàn ông đứng còn người phụ nữ cưỡi phía trên” (tr.236). Tư thế làm tình này thật là bất bình thường đối với một xã hội văn minh, nhưng nó lại hoàn toàn có lí khi con người quay lại với đời sống bản năng của mình. Lần gặp trước đó của hai vợ chồng Eric được kết thúc bằng bữa ăn. Lần nay là một cuộc làm tình. Tại cuộc làm tình đó, Eric cho vợ biết anh đã làm mất toàn bộ chỗ tiền của cô. Phản ứng của cô là “anh thấy cô bật cười. Anh cảm thấy hơi thở bật ra từ miệng cô, toả ra làn hơi ẩm bao trùm gương mặt anh. Lâu nay anh đã lãng quên niềm vui thích trước nụ cười của cô, một cái ho nhuốm mùi khói, một nụ cười có hương vị thuốc lá giống như trong những bộ phim đen trắng kinh điển. – Lúc nào em cũng mất tất cả mọi thứ, – cô nói. – Sáng nay em đánh mất xe rồi. Em đã kể cho anh về chuyện này chưa? Em không nhớ nữa” (tr.236). Toàn bộ hành trình sống của các nhân vật trong truyện như đi trong đám mây mù của số phận. Cái số phận do chính họ đặt ra (hay do chính tác giả đặt ra cho họ). Người ta thực hiện những hành động kì quặc trên đời. Những chuyện được mất dễ dàng xảy ra với họ đến mức mà khi được họ không hề cảm thấy thực sự hạnh phúc và khi mất họ cũng chẳng hề lấy đó làm điều tiếc nuối. Thái độ bàng quang với cuộc sống là nét đặc trưng dễ nhận thấy ở những con người hậu hiện đại. Thái độ đó thoát thai từ việc tranh đấu không ngừng với cuộc sống nhằm khẳng định mình để cuối cùng họ chỉ còn đối diện với một cái thế giới mịt mùng không lối thoát. Bản chất của họ không phải lười biếng hay phó mặc cuộc đời,… nhưng những gì họ nhận được trên cuộc đời sau chuỗi nỗ lực không ngừng nghỉ rốt cuộc cũng chỉ là một sự mất mát vô cùng tận. Sau cuộc làm tình trên phố đó, hai vợ chồng Eric mỗi người đi một ngả vì cả hai còn nhiều việc phải làm. Người đọc không thể đoán định họ đang làm gì. Đây cũng là đặc thù của chủ nghĩa hậu hiện đại. Động cơ hành động của con người không được miêu tả. Nhân vật cứ liên tục hành động theo lối ngẫu hứng, bất chợt, không đầu không cuối. Cuộc sống gia đình vợ chồng Eric dường như được xác lập ngoài đường. Họ không đủ thời gian để có những khoảnh khắc bên nhau trong một căn phòng hay một ngôi nhà tử tế. Ngay đối với những người tình của Eric cũng vậy, anh làm tình với họ trong lúc đang tạt qua trên đường đi làm và bản thân họ cũng đang loay hoay với công việc của mình. Đỉnh điểm của việc thiếu thời gian ở đây là cảnh họ làm tình mà không cởi quần áo. Sự “tranh thủ” lên đến đỉnh điểm của nó và hiện diện khắp mọi nơi. Được xem là người mở đầu cho chủ nghĩa hậu hiện đại, Beckett trong các vở kịch của mình đã miêu tả sự xa lạ của con người với môi trường và với cả chính bản thân mình. Cảm thức đó đến DeLillo vẫn hiện diện. Chỉ có khác là DeLillo đẩy nó lên đến cận đỉnh bằng cách gia tăng các cảnh ghép nối ngẫu nhiên vào với nhau. Thời hiện đại, con người đã ý thức thời gian như một vật cản họ cần phải chinh phục và ít nhiều đã thực hiện được ước vọng, nhưng đến thời hậu hiện đại thời gian không còn là đối tượng chinh phục mà là chủ thể chinh phục con người. Việc đánh mất phương hướng của con người trên cuộc đời đa phần là do không còn tự chủ về mặt thời gian mà để thời gian nhấn chìm bản thân vào công việc và bao thứ lo toan bất thành văn trên cuộc đời. Nguyên nhân cũng chỉ vì những toan tính để được sống tốt hơn, để được hơn người, để được thống trị thế giới từ chính con người gây ra mà thôi. Những yếu tố cá nhân đan xen một cách quái gở với những yếu tố cộng đồng đã tạo cho câu chuyện của DeLillo một không khí khác lạ. Những đề tài chính của truyện cũng xoay quanh những vấn đề này. Đó là vũ khí chiến tranh (Eric sở hữu một chiếc máy bay TU – 160 của Nga, loại máy bay chiến đấu mang tên lửa lắp đầu đạn hạt nhân), là tiền tệ (thị trường chứng khoán), là hôn nhân, làm tình, là khủng bố, là điện ảnh, nhà hàng, bạo loạn… Dường như mọi chuyện thường nhật nhân sinh từ riêng tư nhỏ bé đến những chuyện trọng đại của thời đại đều được DeLillo tái hiện trong sách của mình. Nhà văn hậu hiện đại không đi phân tích bình luận các biến cố, không tập trung truy tìm nguyên nhân – kết quả. Mọi luật nhân quả đều bị phá sản tại đây, con người chỉ còn một mệnh lệnh, một động thái tối thượng là tiến lên phía trước. Nhưng bi đát thay, cái phía trước đó không hề rõ ràng chút nào. Càng tiến lên, họ càng vấp phải sự mù mịt (một trạng thái tương tự ở Kafka) để cuối cùng trong nỗi hoang hoải nhân sinh ấy, họ đối diện với cái chết một cách thờ ơ vô cùng tận. Với họ chết thì chết, điều đó đâu thành vấn đề. Cái chết như một tất yếu. Họ không hề có tham vọng biến cái chết của mình thành một sự kiện cứu thế, không hề cầu mong một chút xúc cảm nào từ phía người chứng kiến. Chết, đơn giản chỉ là chết mà thôi: “Kẻ đã giết anh, Richard Sheets, ngồi đối diện với anh. Anh đã mất đi niềm vui thích đối với người đàn ông này. Bàn tay anh mang nỗi đau cuộc đời, tất cả nỗi đau, cảm xúc và những thứ khác. Một lần nữa, anh khép đôi mắt lại. Đây không phải là kết thúc. Anh chết bên trong bề mặt chiếc đồng hồ nhưng vẫn tồn tại trong không gian và chờ đợi tiếng súng vang lên” (tr.279). Con người anh đã được lập trình. Ngay đến cái chết của anh cũng được trình chiếu cho tất thảy bàn dân thiên hạ và cả chính anh chiêm ngắm. Ý thức chết của anh cũng thật bình dị như những suy nghĩ về mọi vấn đề khác của anh một khi “anh đã tự bão hoà bản thân mình”. Nhưng dẫu thế, anh vẫn hướng suy nghĩ về những chuyện đời thường khác. Về người tình Kendra Hays, “vệ sĩ và cũng là người tình của anh, đang dội rửa nội tạng của anh bằng rượu cọ trong buổi lễ ướp xác”, về “trưởng phòng tài chính và là người tình trong tâm tưởng của anh, Jane Melman, đang thủ dâm một cách lặng lẽ ở hàng ghế cuối cùng của nhà thờ, trong buổi lễ tang”, về “việc anh đã kết hôn và rồi để lại người vợ goá bụa. Anh nghĩ đến việc vợ mình cạo trọc đầu để tang anh và mặc đồ tang trong suốt một năm, rồi việc cô cùng với bà mẹ và các phương tiện truyền thông tham dự lễ an táng anh tại một khu sa mạc biệt lập ở một nơi xa xôi”, về anh “không chôn mà là hoả thiêu” cùng với chiếc máy bay TU – 160 “bay lên với tốc độ siêu âm rồi lao vào cát và nổ tung” nhưng không phải là vĩnh viễn biến mất mà “để lại một tác phẩm nghệ thuật bằng cát, và nó sẽ được lưu giữ bằng niềm tin bất diệt của người thực hiện di chúc và cũng là người tình gắn bó với anh từ rất lâu, Didi Fancher” (tr.278). Khát vọng được bất tử của Eric thật mong manh, bởi hai lẽ: thứ nhất người tình rồi cũng sẽ quên anh như quên bao người tình khác trong đời, may ra thì Didi có thể nhớ anh lâu hơn một vài người khác và sau nữa, cát thì chẳng thể nào lưu giữ được bức tranh nghệ thuật là cái chết của chính anh đó, gió và bụi thời gian sẽ cuốn trôi hết mọi dấu vết của anh trên đời. Như thế ngay trong chính khát-vọng-chết-bất-tử này cũng đan cài yếu tố nghiêm túc và yếu tố bông phèng. Eric nửa như muốn được bất tử, nửa như giễu cợt sự bất tử đó. Ai muốn hiểu thế nào thì tuỳ. DeLillo là nhà văn chuyên viết về đề tài khủng bố. Đặc biệt sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001, thế giới bắt đầu nhìn nhận một cách nghiêm túc về chuyện khủng bố trong tác phẩm của DeLillo. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc DeLillo sáng tạo tiểu thuyết Người rơi về sự kiện 11-9 thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Thực tế là suốt ba mươi năm sáng tác của mình, DeLillo cũng đã không ngừng viết về đề tài này. Những kẻ khủng bố là gương mặt thường xuyên xuất hiện trong các tiểu thuyết của ông kể từ cuốn Tay chơi (Players, 1977). Tác phẩm tái hiện một bức chân dung biếm hoạ về một đôi vợ chồng có liên quan đến chuyện khủng bố. Người chồng là thành viên của một nhóm khủng bố đang lên kế hoạch cho nổ tung toà nhà Giao dịch Chứng khoán New York nơi anh ta đang làm việc. Người vợ thì làm thuê cho một công ty có cái tên mùi mẫn Uỷ ban Quản lí nỗi buồn, có trụ sở đóng tại toà tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới. Tại mỗi bữa tiệc trên sân thượng, cô vợ trông thấy một chiếc máy bay bay qua và sợ máy bay va phải toà nhà, cô ta đã kêu toáng lên. Chi tiết này được các nhà nghiên cứu đưa ra như là bằng chứng của sự tiên tri về việc toà tháp đôi bị tấn công sau này bằng máy bay của DeLillo. Nhân vật khủng bố trong truyện là người trước đây từng làm việc cho Eric. Anh ta muốn sát hại Eric nhưng không vì lí do gì cả. Đơn giản anh ta muốn Eric chết. Hành động của nhân vật này mang đậm tính phi lí. Nhưng điều phi lí hơn là Eric gần như không tỏ vẻ gì lo lắng cho tính mạng mình. Eric xem chuyện cảnh báo có kẻ muốn sát hại anh là bình thường như bao chuyện khác. Ngay cả khi đội trưởng đội bảo vệ Torval đưa súng cho anh, anh cũng không hề thoáng chút e ngại cho tính mạng mình. Thay vào đó, khi Torval nói cho anh biết mật mã bằng giọng nói của khẩu súng, anh liền bắn chết Torval. Hành động của Eric mang tính phi lí của chủ nghĩa hiện sinh. Luật nhân quả không còn đúng trong kỉ nguyên hậu hiện đại. Câu chuyện của Eric và Torval đưa ra những phản đề với nhiều hàm nghĩa trái ngược: người bảo vệ bị người được bảo vệ sát hại, vũ khí của cá nhân bị lạm dụng để sát hại cá nhân đó, hành vi con người thật bất ngờ và không thể nào kiểm soát được… Thế nhưng, đằng sau câu chuyện súng ống đó nó cho thấy khả năng sát hại con người ngày một tinh vi của công nghệ vũ khí. Nếu để ý, người đọc có thể liệt kê ra hàng loạt các loại vũ khí có khả năng sát thương con người một cách… hiệu quả. Thống kê sơ bộ ta có dùi cui điện, súng cao su, súng ngắn, thuốc nổ, đầu đạn hạt nhân… những thứ vũ khí con người lạnh lùng mang ra đối phó với nhau. Hậu quả là có nhiều người chết. Một tác phẩm hậu hiện đại thì luôn có nhiều cái chết. Nhưng những cái chết đó không hề có chút bi lụy nào, nó nhại những cái chết mang tính anh hùng ca. Đơn giản các nhà hậu hiện đại xem cái chết cũng giống như sự sống. Chết hay sống đều là quy luật tất yếu của cuộc sống, con người chẳng thể nào làm khác được. Từ quan niệm này, các nhà hậu hiện đại tái hiện cái chết không hề giống những cái chết trước đó. Trong Thành phố quốc tế, nhân vật Eric trước khi đối đầu với phát đạn kết thúc đời mình đã được xem xét toàn bộ tiến trình dẫn đến cái chết của mình thông qua chiếc đồng hồ cá nhân có màn hình theo dõi anh và anh biết cái chết đang diễn ra với mình như thế nào. Tháng 7 năm 2007 tờ New York Time in bài phỏng vấn DeLillo. Nhà văn đã trả lời Mark Binelli trong lần phỏng vấn cho tờ Guernica, về việc viết về cuộc khủng bố kinh hoàng ngày 11 tháng 9, cũng như việc thường xuyên đưa những yếu tố kinh dị chết người như đám mây độc treo lửng lơ trên bầu trời trong tác phẩm Âm thanh trắng… DeLillo cho biết: “Đấy thực sự là nỗi kinh hoàng. Thực tế là việc tôi quyết định viết ngay vào giữa sự kiện đã không khiến nó dễ dàng hơn. Tôi không muốn viết một cuốn tiểu thuyết mà những cuộc tấn công xảy ra vọt qua vai phải của nhân vật và tác động đến một vài sinh mạng theo cách từ xa. Tôi muốn ở trong ngọn tháp và ở trong máy bay. Tôi không bao giờ tư duy về các cuộc tấn công theo cách hư cấu nói chung, chí ít là trong vòng ba năm. Ngày 11 tháng 9 tôi đang viết cuốn Thành phố thế giới và tôi đã phải dừng lại mất một khoảng thời gian và tôi quyết định viết một bài tiểu luận. Về sau, sau khi kết thúc Thành phố thế giới, tôi bắt đầu nghĩ về một tác phẩm khác trong vòng vài tháng khi tôi bắt đầu phác thảo ý tưởng về cuốn Người rơi. Hình ảnh nhân vật hiện lên qua cái nhìn thị giác: một người đàn ông mặc veston và thắt cà vạt, mang túi xách, bước qua cơn bão khói và tro tàn. Tôi chẳng hình dung thêm được gì ngoài những điều đó. Rồi mấy ngày sau, hóa ra là tôi nhận thức được cái túi xách đó không phải của ông ta. Điều đó như thể khởi đầu cho một chuỗi ý tưởng dẫn đến việc xếp đặt những từ ngữ thực sự lên trang giấy”(2). Như thế, dẫu không trực tiếp viết về cuộc khủng bố 11 tháng 9, nhưng dư âm của cuộc khủng bố vẫn in đậm trong tác phẩm của ông. Nạn khủng bố không còn là chuyện viễn tưởng, là sản phẩm của hư cấu đơn thuần. Đấy là một thế giới mà yên bình chỉ là tạm thời, còn bạo loạn và chết chóc là nhân tố thường trực. Dường như, DeLillo không hề có tham vọng lấy cái bất ổn để hướng đến sự bình ổn của cuộc đời. Ông có vẻ như nhìn cuộc hỗn loạn đó bằng con mắt giễu cợt, có phần bi đát khi con người đánh mất đi sự tự chủ, đánh mất đi chính bản thân mình trong cái mớ bòng bong quyền lực và tiền bạc do chính họ tạo nên. Khi được hỏi ông có cảm nghĩ gì về những cách thức hành động bạo lực cực đoan trong thời đại hiện nay, DeLillo đáp: “với những kiểu chủ nghĩa cực đoan như thế, một mặt con người ta phải hiểu nguồn gốc của nó. Mặt khác, đa phần nguyên nhân dường như không được lưu ý và bị làm cho mơ hồ bởi môi trường sống của thời đại. Anh biết, tôi từng tham gia diễu hành phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cùng với hàng ngàn hàng ngàn người khác. Nhưng tôi hoàn toàn không hiểu những quả bom được đặt trong những phòng thí nghiệm khoa học hay trong những tòa nhà văn phòng”(3)1 Lê Huy Bắc Review *** Anh mất ngủ thường xuyên hơn, không chỉ một, hai lần mà tới bốn, năm lần một tuần. Anh đã làm gì khi điều này xảy ra? Anh không muốn đi dạo trong ánh bình minh lên. Anh không có bạn bè thân thiết để quấy quả bằng một cú điện thoại. Có gì để nói bây giờ? Chỉ là một sự tĩnh lặng, không đối thoại. Anh thử đếm cừu để rủ cơn ngủ đến nhưng chỉ thành ra tỉnh táo hơn mà thôi. Anh đọc sách khoa học và thi ca. Anh thích khoảng trống của những câu thơ, và trật tự con chữ nổ bùng trên trang giấy. Thơ ca làm anh ý thức được rằng mình đang còn tồn tại. Trong khoảnh khắc, thơ ca hé lộ ra những điều mà bình thường anh không bao giờ để ý tới. Đây chính là sắc thái của những dòng thơ, chí ít là đối với anh, hàng đêm, hàng tuần dài đằng đẵng, hơi thở này tiếp nối hơi thở khác, trong căn phòng xoay ở tầng trên cùng của ngôi nhà ba căn hộ. Có một đêm anh đã thử ngủ đứng trong phòng thiền, nhưng không đủ điêu luyện, và đắc đạo để làm được như vậy. Anh đành bỏ qua giấc ngủ và đi vòng quanh cho cân bằng, một đêm tĩnh mịch không trăng sao khi mà mọi sức mạnh đều trở nên cân bằng với nhau. Đây là cách tốt nhất để làm giảm căng thẳng, một quãng ngưng nhỏ sau những cảm giác bồn chồn. Một câu hỏi không có lời đáp. Anh cố uống thuốc ngủ và thuốc an thần nhưng chúng khiến anh bị lệ thuộc và đẩy anh vào tâm đường trôn ốc kín. Mọi việc anh làm đều là tự ám ảnh và giả tạo. Những ý nghĩ màu xám phủ một bóng đen đáng sợ. Anh đã làm gì? Trên chiếc ghế bành bọc da, anh đã không tham khảo một nhà phân tích nào. Freud xong rồi, tiếp theo sẽ là Einstein. Đêm nay anh đọc cuốn Học thuyết đặc biệt bằng tiếng Anh và tiếng Đức, nhưng rồi cuối cùng anh lại quăng sách sang một bên, cố gắng dồn mọi quyết tâm để nói ra một lời có thể làm tắt ngấm mọi chân lý. Xung quanh anh không có gì tồn tại. Chỉ có âm thanh văng vẳng trong đầu anh, trong tâm trí anh lúc này. Khi anh chết, đối với anh, đây không phải là tận cùng, chỉ có thế gian này là chấm dứt mà thôi.   Anh đứng cạnh cửa sổ và ngắm nhìn ánh bình minh. Từ đây có thể nhìn ra những cây cầu, những con đường hẹp đang yên giấc và phía xa kia là thành phố, là khu ngoại ô lấp lánh làm thành một đường viền ngăn cách bầu trời và mặt đất, mà chỉ có thể miêu tả rằng đó là một không gian sâu thẳm. Anh không biết mình muốn gì. Đêm vẫn trôi trên sông, chỉ còn một phần của đêm thì đúng hơn, và những làn khói xám đang bốc lên từ ống khói phía bờ xa. Anh tưởng tượng ra cảnh những cô gái điếm rời khỏi những góc phố sáng ánh đèn, rũ rũ mái tóc mỏ vịt, một mánh khóe cũ rích với việc khởi đầu bằng vài động tác quyến rũ, anh tưởng tượng ra những chiếc xe tải lăn bánh ra khỏi khu chợ, những chiếc xe tải ra khỏi bến bốc dỡ hàng. Những thùng xe chở đầy bánh mỳ đang đi qua thành phố và lác đác vài chiếc ô tô tách ra khỏi đám hỗn loạn đó, len lỏi trên những đại lộ, còi xe bấm đến chói tai. Cảnh tượng huy hoàng nhất vẫn là những cây cầu bắc ngang qua sông được viền một vừng đông đang bắt đầu nhô lên. Anh quan sát hàng trăm con mòng biển đang bay theo chiếc xà lan lắc lư dọc dòng sông. Chúng có những trái tim mạnh mẽ và phóng khoáng, anh biết rõ điều này, tương phản với kích thước cơ thể chúng. Đã có lần anh say mê nghiên cứu những chi tiết phong phú về bộ môn giải phẫu loài lông vũ. Những con chim có bộ xương rỗng tuếch. Anh đã tìm thấy những thông tin cực kỳ bất ngờ trong suốt cả nửa buổi chiều. Anh đã không biết mình muốn gì, nhưng giờ thì anh nhớ ra rồi. Anh cần phải đi cắt tóc. Anh còn nấn ná thêm một lúc để ngắm nhìn một chú mòng biển đang chao lên, lượn xuống, để ngưỡng mộ loài chim, để luôn nghĩ về chúng và để cố gắng tìm hiểu, thậm chí để có thể cảm nhận được những nhịp đập rộn rã trong trái tim đói khát của một loài chim ăn xác chết. ❃ Anh khoác bộ com lê lên mình và thắt cà vạt. Bộ com lê cọ vào khuôn ngực nở nang quá mức của anh. Anh bước qua căn nhà có bốn mươi tám phòng. Mỗi khi cảm thấy do dự và phiền muộn, anh lại sải bước qua phòng bơi, phòng khách, phòng tập thể thao, qua bể nuôi cá mập và phòng chiếu phim. Anh dừng lại trước cửa chuồng của chú chó borzoi và trò chuyện với nó. Anh rẽ vào khu nhà sau. Ở đó, anh thường làm công việc khảo sát thị trường tiền tệ và xem xét các bản nghiên cứu. Chỉ sau một đêm, đồng yên tăng hơn cả mong đợi. Anh quay lại khu phòng khách bằng bước chân chậm rãi và dừng lại ở từng phòng, từ từ hấp thụ những gì đang hiện hữu tại đó, quan sát và lưu giữ từng tia, từng sóng hạt năng lượng. Tranh treo trên tường chủ yếu là những mảng màu, những khối hình học lớn thống trị toàn bộ những căn phòng và khiến cho không gian bên trong căn nhà trở nên im lặng lạ thường. Bên trong căn nhà ẩn chứa sự căng thẳng và hồi hộp của một không gian cao ngất ngưởng, nó đòi hỏi sự im lặng ngoan đạo để được nhìn và cảm nhận một cách đúng đắn. Khách đến nhà thường không biết cách thưởng thức những bức tranh yêu thích của anh, đó là những bức họa màu trắng khó hiểu, những vệt màu được phết bằng dao vẽ. Tác phẩm bộc lộ sự lợi hại khi nó không còn mới. Sự mới mẻ không còn ẩn chứa nguy hiểm nữa. Anh đi xuống khu hành lang lát đá cẩm thạch bằng chiếc thang máy cá nhân tự động chơi bản nhạc của Satie1. Tuyến tiền liệt của anh không cân xứng. Anh bước ra ngoài, băng qua đại lộ, rồi quay lại và đứng đối diện với tòa nhà nơi anh sống. Anh cảm thấy mình đang cận kề với nó. Đó là tòa nhà tám mươi chín tầng, một số nguyên tố, được gói gọn trong cái vỏ bọc tầm thường là những tấm kính loang loáng màu ánh đồng. Chúng có chung một cạnh hoặc một ranh giới, tòa nhà chọc trời và con người. Với độ cao chín trăm feet, nó là tòa nhà cao nhất thế giới. Tòa nhà được thiết kế theo hình chữ nhật kiểu cũ mà người ta chỉ có thế biết được kích cỡ của nó qua những bản báo cáo. Ngày này qua ngày khác nó tự bộc lộ vẻ tầm thường đến tột cùng của mình. Vì lý do này mà anh yêu thích nó. Anh thích đứng ngắm nhìn nó mỗi khi cảm giác uể oải và hư ảo xâm chiếm lấy anh. Mời các bạn đón đọc Thành Phố Quốc Tế của tác giả Don Delillo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sững Sờ và Run Rẩy - Amélie Nothomb
Một cô gái trẻ phương Tây làm việc cho một công ty của Nhật, do sự khác biệt văn hóa, nên đã chu du một vòng công sở với những công việc ít ai ngờ tới nhất. Điểm hấp dẫn đầu tiên trong cuốn sách nhỏ nhắn này: đây là một câu chuyện có thật, từng xảy ra với Amélie Nothomb. Với điểm xuất phát chân thực đó, một câu chuyện phiêu lưu hài hước đã mở ra với cả tá tình huống dở cười dở mếu. Thay vì có một vị trí ổn định trong công ty, đổi chỗ cho cái nhìn trân trọng đối với một đồng nghiệp nước ngoài, Amélie loay hoay hết chỗ nọ tới chỗ kia, thậm chí, có lúc cô thấy mình thậm chí chưa phải là con số không. Cuốn sách được trải ra giữa hai thế giới đối lập. Ước muốn trở thành một phiên dịch, song Amélie giống một kẻ vô công rồi nghề ở công ty; đổi lại cho bao công sức thi đầu vào, Amélie lượn lờ khắp các ngóc ngách như một hình ảnh lố bịch khi đi bóc lịch hoặc tranh việc phân phát thư của người đưa thư; lẽ ra phải đau khổ, vật vã lắm, nhưng Amélie lại cảm thấy nhẹ nhõm và rất đỗi bằng lòng trước những công việc vớ vẩn nhất mà cô tự xin hoặc bị giao phải làm. Sự khôi hài của hoàn cảnh và lối kể chuyện bình dị, chân thực, tao nhã đã tạo nên sự quyến rũ thú vị cho Sững sờ và run rẩy, lôi kéo độc giả trong một khám phá mới mẻ: hiện đại hóa mâu thuẫn lâu đời giữa phương Đông và phương Tây. Nó khiến người ta đón nhận những điều vô lý nhất đang dồn ép Amélie theo chiều hướng tích cực: lo lắng nhưng không sợ hãi, thất vọng nhưng không sụp đổ. Không mô tả nhiều song thế giới nhân vật trong Sững sờ và run rẩy hiển hiện thật đậm nét với phát hiện tinh tế của Amélie Nothomb, từ nét tính cách của mỗi cá nhân tới hình ảnh chung về những người trong hệ thống công sở ở Nhật. Tất tật chỉ có bốn người: ông Haneda là chủ tịch hội đồng quản trị, ông Omochi là cấp phó, sau đó là ông Saito và cô Mori. Mọi va chạm, mâu thuẫn, xung đột đều liên quan tới chừng ấy người. Nhưng họ là sức mạnh không gì phá vỡ nổi khi xếp đặt cạnh nhau và được kết nối bằng thứ keo dính đặc biệt có tên là “nguyên tắc”. Amélie bị đẩy thành bà “Nước Tiểu” trong cơ quan cũng chỉ vì cô không sao hiểu nổi hệ thống ấy, và điều này như một thứ gia vị hài hước, tạo cho cuốn tiểu thuyết góc nhìn sắc sảo mà đậm chất hài hước. *** Amélie Nothomb sinh ngày 13/8/1967 tại Kobe, Nhật Bản và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa đất nước mặt trời mọc. Năm 1992, cô xuất bản tiểu thuyết đầu tay, Hygiène de l’assassin (Hồi ức kẻ sát nhân), cuốn sách đánh dấu thành công đầu tiên của cô. Đến nay, Amélie đã xuất bản 17 tiểu thuyết và trở thành một hiện tượng văn học không chỉ của nước Pháp. Các tác phẩm của cô được dịch ra gần 40 thứ tiếng khác nhau, trong đó Sững sờ và run rẩy ra mắt năm 1999, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp của nữ nhà văn trẻ. Đây chính là cuốn sách thành công nhất của Amélie Nothomb, giành Giải thưởng Lớn của Viện hàn lâm Pháp cho thể loại tiểu thuyết. Tờ Le Soir nhận xét: “Amélie Nothomb là một trong những nhà văn nổi bật nhất trong thời đại cô. Với sự đều đặn của máy đếm nhịp, cây bút này cho ra đời những tiểu thuyết thường được ca ngợi bởi sự độc đáo, tính nhân văn và chất dữ dội của chúng”. *** Ông Haneda là cấp trên của ông Omochi. Ông Omochi là cấp trên của ông Saito. Ông Saito là cấp trên của cô Mori. Và cô Mori là cấp trên của tôi. Còn tôi không là cấp trên của ai hết. Hoặc có thể nói theo cách khác. Tôi làm theo lệnh của cô Mori, cô Mori làm theo lệnh của ông Saito, và cứ tiếp tục như thế, các mệnh lệnh được truyền từ trên xuống dưới qua các cấp thứ bậc với sự chính xác này. Vậy là, trong công ty Yumimoto, tôi y theo lệnh của tất cả mọi người. Ngày mùng 8 tháng Giêng năm 1990, chiếc thang máy nhả tôi lên tầng cuối cùng trong tòa nhà của công ty Yumimoto. Ô cửa sổ cuối sảnh thu hút tôi, giống như người ta bị hút về phía cửa sổ máy bay bị vỡ. Ở phía xa, rất xa là thành phố xa tới mức tôi cứ ngỡ như chưa bao giờ đặt chân tới đó. Thậm chí tôi không nghĩ tới việc phải trình diện ở lễ tân. Thực ra, lúc đó trong đầu tôi chẳng có ý nghĩ gì khác ngoài cái khoảng không hấp dẫn kia, ngoài cái khuông cửa mênh mông toàn kính kia. Cuối cùng, một giọng khàn khàn gọi tên tôi từ đằng sau. Tôi quay lại. Một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, dáng người nhỏ thó, gầy và xấu xí, nhìn tôi vẻ khó chịu. - Sao cô đến mà không báo cho lễ tân? - ông ta hỏi tôi. Tôi chẳng biết trả lời sao nên im lặng. Tôi cúi gập người và nhận thấy là trong vòng mười phút, dù chưa nói lời nào, tôi đã gây ấn tượng không hay vào ngày đầu tiên đến nhận việc ở công ty Yumimoto. Người đàn ông nói ông ta là Saito. Ông dẫn tôi qua vô số những căn phòng rộng thênh thang và giới thiệu tôi với nhiều nhóm người có mặt trong đó, nhưng ông ta nêu tên họ tới đâu thì tôi cũng quên dần tới đó. Sau đó, ông dẫn tôi vào phòng làm việc của cấp trên của ông ta, đó là ông Omochi, dáng người đồ sộ và đáng sợ, chứng tỏ ông ta chính là phó chủ tịch. ... Mời các bạn đón đọc Sững Sờ và Run Rẩy của tác giả Amélie Nothomb.
Sao Mai
Tác phẩm hay nhất năm 2014 do Entertaiment Weekly, Buzzfeed và Shelf Awarness bình chọn Trái Đất đang chết dần. Dưới những tầng đất sâu của Sao Hỏa, có một cộng đồng những con người mắt và tóc đỏ quạch như màu của hành tinh mà họ đang sống. Nhiệm vụ của họ là khai thác Helium 3 - một thứ nguyên tố được cho là sẽ biến bề mặt Sao Hỏa thành nơi con người có thể sinh sống được. Họ là niềm hy vọng cuối cùng của nhân loại. Họ là Đỏ. Ngoại trừ… tất cả là một lời nói dối khổng lồ. Các Đỏ không phải những người tiên phong. Họ chỉ là những nô lệ bị lợi dụng làm việc quần quật cho đến chết! Đỏ trỗi dậy phảng phất đâu đó những nét quen thuộc với các độc giả của Đấu trường sinh tử, Chúa ruồi, Trò chơi của Ender hay Trò chơi vương quyền. Nhưng đây vẫn là một cuốn sách hết sức khác biệt. Hồi hộp đến nghẹt thở, bất ngờ đến choáng váng, tàn nhẫn đến lạnh người. Rơi xuống chói lòa như một ngôi sao băng và cuốn ta đi như một cơn bão.  *** Thời cơ đã đến.Gánh lấy trách nhiệm lãnh đạo cuộc nổi dậy liên hành tinhvới những liên minh không ổn định và khó lòng bền vững, Darrowvật lộn để tìm xem ai là người có thể tin tưởng. Cậu đang phải trực tiếp đối mặtnhững kẻ thù hiểm độc, gian hùng và tàn nhẫn nhất màtrong số đó, có cả những ngườicậu từng coi là bạn. Xảy ra trong khoảng 9-12 tháng sau những sự kiện của Đứa Con Hoàng Kim,nhữnggì được kể trong Sao Mai đã xuất sắc khép lại bộ ba Đỏ trỗi dậy– thiên sử thi về Darrow,chàng thanh niên Đỏ đã chiến đấu để sống sót quacuộc Tạo Tác vĩ đại, ẩn nhẫn chờ thời, từng bước leo lên nấc thang danh vọng, vượt qua những cuộc chiến tranh tàn khốc từ Học Viện đến Viện Hàn Lâm, trở thành chiến binh Hoàng Kim hùng mạnh nhất. Trong khi hai cuốn trước tập trung vào những thách thức cá nhân của Darrow, cuốn tiểu thuyết này tôn vinh tình bạn. Một dấu chấm rực rỡ và cảm động cho thiên sử thi đầy máu, nước mắt của những người vùng lên từ lòng đất. *** Tiểu thuyết gia Pierce Brown sinh ngày 28-1-1988 tại Thành phố Denver, bang Colorado- Hoa Kỳ. Là Tiểu thuyết gia sinh thuộc cung Bảo Bình, cầm tinh con (giáp) mèo (Đinh Mão 1987). Pierce Brown xếp hạng nổi tiếng thứ 29753 trên thế giới và thứ 176 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng. Tổng dân số của Hoa Kỳ năm 1988 vào khoảng 244,498,982 người. Tiểu thuyết gia của thể loại khoa học viễn tưởng và nhà biên kịch người là tác giả của tờ New York Times bán chạy nhất Red trilogy Rising trong đó bao gồm các chức danh Red Rising, Kim Sơn và Morning Star.  Trước khi bán Red Rising, anh là tác giả tiểu thuyết và đã bị từ chối bởi nhiều hơn 120 đại lý. Ông là một khoa học và kinh tế chính trị lớn tại Đại học Pepperdine. Ông đã làm việc như là một trang trong chương trình trang NBC khi sống trong nhà để xe giáo viên khoa học chính trị của ông khi ông bán Red Rising. *** Sâu thẳm trong bóng đêm, xa khỏi sự ấm áp, khỏi mặt trời và các vệ tinh, tôi nằm im lặng như những tảng đá đang vây quanh giam giữ cơ thể còng queo của tôi trong hầm mộ kinh hoàng. Tôi không thể đứng dậy. Không thể duỗi chân tay. Chỉ có thể cuộn tròn như quả bóng, một hóa thạch héo hắt đã từng là người. Hai tay bị còng sau lưng. Tôi trần truồng trên nền đá lạnh. Hoàn toàn cô độc cùng bóng đêm. Dường như đã nhiều tháng, nhiều năm, cả thiên niên kỷ trôi qua, kể từ lần cuối hai đầu gối của tôi được duỗi thẳng, kể từ lần cuối sống lưng tôi không phải oằn lại. Đau nhức đến điên cuồng. Các khớp xương của tôi rệu rã. Đã bao lâu kể từ khi tôi chứng kiến các bạn Hoàng Kim của mình đổ máu xuống mặt cỏ? Kể từ khi tôi cảm nhận nụ hôn của anh bạn Roque hiền hòa đặt lên má trong lúc cậu ta bóp vỡ trái tim tôi? Thời gian không phải một dòng sông. Không phải ở đây. Trong hầm mộ này, thời gian là đá. Nó là bóng tối, vĩnh viễn và kiên định, thước đo duy nhất của nó là con lấc kép của sự sống - hơi thở và nhịp đập của trái tim. Hít vào. Thình… thịch. Thình… thịch. Thở ra. Thình… thịch. Thình… thịch. Hít vào. Thình… thịch. Thình… thịch. Và nó lập lại mãi mãi. Cho đến khi… đến khi nào? Đến khi tôi chết vì tuổi già? Đến khi tôi đập đầu vào đá? Hay đến khi tôi moi ra những cái ống mà các Vàng đã lắp vào bụng dưới tôi để đẩy chất dinh dưỡng vào và đổ chất thải ra? Hay cho đến khi mày phát điên? “Không.” Tôi nghiến răng. Phảiiiii. “Chỉ là bóng tối thôi.” Tôi hít thở. Bình tĩnh lại đi. Tôi chạm vào tường để trấn tĩnh. Lưng, các ngón tay, xương cụt, gót chân, ngón chân, đầu gối, đầu. Rồi lặp lại. Cả chục lần. Cả trăm lần. Tại sao không làm nhiều hơn để chắc chắn? Cứ làm cả nghìn lần đi. Phải. Tôi đơn độc. Tôi đã nghĩ có những số phận còn tôi tệ hơn thế này, nhưng giờ đây tôi biết không có gì tôi tệ hơn. Con người không phải một hòn đảo. Chúng ta cần những người yêu thương mình. Chúng ta cần những người ghét bỏ mình. Chúng ta cần có người ràng buộc mình với cuộc đời, cho chúng ta lý do để sống, để cảm nhận. Tất cả những gì tôi có là bóng tối. Đôi lúc tôi hét lên. Đôi lúc tôi bật cười giữa đêm, giữa ngày. Ai mà biết? Tôi cười để giết thời gian, để thải ra số calo mà Chó Rừng cho tôi, và để cơ thể tôi run rẩy chìm vào giấc ngủ. Tôi cũng khóc. Tôi ngân nga hát. Tôi huýt sáo. Tôi lắng nghe những giọng nói phía trên. Những giọng nói vọng lại từ đại dương của bóng tối sâu thẳm. Hòa cùng chúng là tiếng leng keng điên loạn của xích và xương, rúng động qua những bức tường của nhà ngục. Thật gần mà lại xa cả nghìn cây số, như thể cả thế giới đang tồn tại ngay phía trên bóng tối mà tôi lại không thể nhìn thấy, không thể chạm vào, nếm nó, cảm nhận nó, hay đâm qua tấm màn để lại được sống giữa thế giới ấy. Tôi bị giam cầm trong tịch mịch. Lúc này tôi lại nghe thấy những tiếng động. Những sợi xích và những lóng xương dần lộ ra trong hầm ngục. Có phải những tiếng động đó là của tôi? Tôi cười trước ý nghĩ ấy. Tôi chửi tục. Tôi bày mưu lập kế. Giết. Tàn sát. Đẽo khoét. Xé toạc. Thiêu rụi. Tôi cầu xin. Tôi ảo tưởng. Tôi thương thuyết. Tôi thút thít nói những lời nguyện cầu với Eo, cảm thấy hạnh phúc vì em đã không phải chịu đựng số phận này. Cô ta đâu thèm lắng nghe. Tôi hát những bài ca thời thơ ấu và ngâm Trái Đất lụi tàn, Người Thắp Đèn, Ramayana, Odyssey bằng tiếng Hy Lạp và tiếng Latin, rồi bằng những từ ngữ như tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng Trung và tiếng Đức, nhớ lại từ những dữ liệu mà Matteo đã tải cho khi tôi vẫn còn là một thằng nhóc. Truy cầu sức mạnh từ vị anh hùng ngoan cường thành Argos, vốn chẳng mong cầu gì hơn tìm được đường về nhà. Ngươi đã quên những gì hắn làm. Odysseus là một vị anh hùng. Ông đã vượt qua tường thành của Troy bằng con ngựa gỗ của mình. Như tôi đã đập tan đội quân Bellona bằng Cơn Mưa sắt xuống Sao Hỏa. Và rồi… “Không,” tôi gắt gỏng. “Im đi.” …họ đã tiến vào thành Troy. Đã tìm thấy những bà mẹ, những đứa trẻ. Và hãy đoán xem họ đã làm gì? “Im đi!” Ngươi biết họ đã làm gì. Mồ hôi. Xương. Máu. Da thịt. Tro tàn. Tiếng khóc than. Bóng tối râm ran những tiếng cười khúc khích. Thần Chết ơi Thần Chết… Chiến công nào rốt cuộc chẳng nhuộm trong máu tươi. Tôi đang ngủ mê chăng? Hay đang thức? Tôi đã mất phương hướng. Mọi thứ lẫn vào nhau, nhấn chìm tôi trong những mộng ảnh, tiếng thì thầm và tiếng huyên náo. Hết lần này đến lần khác, tôi kéo hai cổ chân mảnh dẻ nhỏ nhắn của Eo. Đánh vỡ mặt Julian. Nghe Pax, Quinn, Tactus, Lorn và Victra trút hơi thở cuối cùng. Quá nhiều khổ đau. Mà để làm gì kia chứ? Để khiến vợ tôi phải thất vọng. Để khiến người của tôi phải thất vọng. Để Ares, và để những người bạn của mày phải thất vọng. Còn lại được bao nhiêu người? Sevro? Ragnar? Ngựa Hoang? Ngựa Hoang, Nếu cô ta biết mày ở đây thì sao… Nếu cô ta không thèm bận tâm thì sao… Mà tại sao cô ta phải bận tâm? Mày là kẻ đã phản bội lại cô ta. Mày là kẻ đã lừa dối cô ta. Mày là kẻ đã lợi dụng tâm trí, cơ thể và máu của cô ta. Mày đã cho cô ta thấy bộ mặt thật của mình và cô ta đã bỏ chạy. Nếu đó là cô ta thì sao? Nếu cô ta là người phản bội lại mày thì sao? Khi đó mày có còn yêu cô ta nữa không? “Im đi!” Tôi thét lên với chính mình, với bóng tối. Đừng nghĩ đến cô ấy. Đừng nghĩ đến cô ấy. Tại sao không? Mày nhớ cô ta kìa mà. Mộng ảnh của cô hiện lên trong bóng tối như nhiều mộng ảnh khác đã hiện lên trước đó - một cô gái đang cưỡi ngựa trước mặt tôi ở phía bên kia cánh đồng xanh, xoay người trên yên ngựa và cười bảo tôi hãy đuổi theo. Mái tóc cô gợn sóng như những sợi rơm mùa hè rung rinh trên chiếc xe kéo của người nông dân. Mày thèm khát cô ta. Mày yêu cô ta. Cô gái Hoàng Kim. Hãy quên ả chó cái Đỏ ấy đi. “Không.” Tôi đập đầu vào tường. “Chỉ là bóng tối mà thôi,” tôi thì thầm. Chỉ là bóng tối đang đùa bỡn với tâm trí. Nhưng tôi vẫn cố quên đi Ngựa Hoang và Eo. Không có thế giới nào khác ngoài nơi này. Tôi không thể nhớ những gì không tồn tại. Máu nóng nhỏ xuống trán từ vết thương đã khô giờ đây lại tróc vảy. Nó chảy xuống mũi tôi. Tôi thè lưỡi ra, lần trên lớp đá lạnh cho đến khi tìm thấy những giọt máu. Chúng có vị muối, sắt của Sao Hỏa. Chậm rãi. Chậm rãi. Hãy để sự thi vị của cảm giác ấy được trường tồn. Để vị máu vấn vương và nhắc tôi nhớ rằng tôi là con người. Một Đỏ của Lykos. Một Chim Lặn. Không. Mày không phải. Mày chẳng là gì cả. Vợ mày đã bỏ rơi mày và cướp đi đứa con của mày. Ả điếm của mày đã quay lưng lại với mày. Mày không đủ tốt. Mày quá cao ngạo. Quá ngu ngốc. Quá xấu xa. Giờ thì mày đã bị quên lãng. Thật sao? Lần cuối gặp Ngựa Hoang, tôi đang quỳ gối bên cạnh Ragnar trong hầm mỏ ở Lykos, khẩn cầu cô gái Hoàng Kim phản bội giống loài của cô ấy và sống vì điều cao cả hơn. Tôi biết nếu cô quyết định gia nhập cùng chúng tôi, ước mơ của Eo sẽ bừng nở, một thế giới tốt đẹp hơn sẽ nằm trong lòng bàn tay chúng tôi. Nhưng thay vào đó, cô đã bỏ đi. Có lẽ nào cô đã quên tôi? Có lẽ nào tình yêu mà cô dành cho tôi đã rời bỏ cô? Cô ta chỉ yêu cái mặt nạ của mày. “Chỉ là bóng tối mà thôi. Chỉ là bóng tối mà thôi. Chỉ là bóng tối mà thôi,” tôi lẩm bẩm mỗi lúc một nhanh hơn. Đáng lẽ tôi khỏng nên ở đây. Đáng lẽ tôi phải chết. Sau cái chết của Lorn, tôi bị áp giải đến chỗ của Octavia để các Nhà Tạo Tác của bà ta mổ xẻ hòng tìm ra bí mật đã giúp tôi trở thành Hoàng Kim. Để biết liệu có còn những kẻ khác như tôi hay không. Nhưng Chó Rừng đã thương thuyết để được giữ tôi bên mình. Hắn đã tra tấn tôi tại dinh thự ở Attica của hắn, đã hỏi tôi về Các Con Trai Của Ares, về Lykos, và về gia đình tôi. Hắn chưa bao giờ nói làm thế nào hắn khám phá ra bí mật của tôi. Tôi đã cầu xin hắn kết liễu mạng sống của tôi. Cuối cùng, hắn giam tôi vào ngục đá. “Khi đã mất đi tất cả, người có chí khí sẽ đòi được chết,” Roque đã từng nói với tôi. “Đó là một cái kết đáng phục.” Nhưng một gã thi sĩ giàu có thì hiểu gì về cái chết? Chỉ kẻ nghèo hèn mới hiểu. Chỉ các nô lệ mới hiểu. Nhưng ngay cả khi thèm khát nó, tôi vẫn sợ nó. Vì càng chứng kiến thế giới tàn bạo này, tôi càng ít tin ràng nó kết thúc bằng một điều hư cấu êm tai. Cửu Nguyên không có thật. Đó là lời nói dối mà bố mẹ nói với lũ con đang chết đói của mình, để giải thích cho nỗi kinh hoàng. Chẳng có lời giải thích nào cả, Eo đã mất. Em đã không theo dõi tôi chiến đấu vì giấc mơ của em. Em đã không ngó ngàng đến việc tôi tạo ra được định mệnh gì à Học Viện, không bận tâm liệu tôi có yêu Ngựa Hoang hay không, vì ngày em ra đi, em đã trở thành hư vô. Chẳng có gì khác ngoài thế giới này. Đó là khởi nguồn và là kết thúc của chúng tôi. Cơ hội duy nhất để chúng tôi tận hưởng niềm vui trước khi chấm dứt đời mình. Phải. Nhưng mày không cần phải chấm dứt. Mày có thể thoát khỏi nơi này, bóng tối thì thầm với tôi. Chỉ cần nói ra những lời ấy. Nói ra. Mày biết cách mà. Nó nói đúng. Tôi biết. “Tất cả những gì mày cần nói là ‘tôi kiệt quệ rồi’, và toàn bộ chuyện này sẽ kết thúc,” Chó Rừng đã nói với tôi từ rất lâu, trước khi hắn ném tôi vào địa ngục này. “Tao sẽ đưa mày đến sống tại một dinh thự đẹp đẽ suốt quãng đời còn lại và sẽ gửi cho mày những ả Hồng xinh xắn, ấm áp, và đủ thức ăn để khiến mày béo tốt hơn cả Lãnh Chúa Tro Tàn. Nhưng những lời ấy đi kèm một cái giá.” Xứng đáng thôi. Hãy cứu bản thân mày. Không còn ai khác đến cứu mày đâu.   Mời các bạn đón đọc Sao Mai của tác giả Pierce Brown.
Sơn Ca Vẫn Hót
Câu chuyện xoay quanh 2 chị em Isabelle (biệt danh "Sơn ca") và Vianne tham gia kháng chiến, sẵn sàng nhận những nhiệm vụ đầy thách thức trong cuộc chiến tranh năm 1939 tại Pháp. *** Kristin Hannah là tác giả Mỹ đoạt giải và nhà văn ăn khách của hơn 20 tiểu thuyết, bao gồm cả bom tấn quốc tế.  Các tác phẩm tiêu biểu: A Handful of Heaven, The Enchantment, Once in Every Lifetime, If You Believe, When Lighting Strikes, Waiting for the Moon, Home Again, On Mystic Lake, Angel Falls, Summer Island, Distant Shores, Betwwen Sisters, The Thing We Do for Love, Comfort & Joy, Magic Hour… Sơn ca vẫn hót (The Nightingale), là tựa sách đoạt giải Tiểu thuyết lịch sử hay nhất do bạn đọc bình chọn trên Goodreads năm 2015, và thắng giải Bạn đọc bình chọn ở hạng mục sách hay cùng năm. Cô cũng đoạt giải Sách hay nhất của năm trên trang Amazon, iTunes, Buzzfeed, thời báo Wall Street Journal, Paste, và The Week. Sơn ca vẫn hót hiện đang hoàn tất khâu sản xuất tại hãng phim Tri Star, với sự chỉ đạo của đạo diễn giành được nhiều giải thưởng Michelle MacLaren. Home Front đã được hãng phim 1492 Film (nhà sản xuất của bộ phim đề cử Oscar The Help) lựa chọn để dựng thành phim, với Chris Colombus viết kịch bản, sản xuất, và đạo diễn. Cuốn Between Sisters từng được chương trình The Early Show của kênh CBS chọn là một trong những cuốn sách hay nhất trong mùa hè. Những điều chúng ta làm vì yêu là một câu chuyện đầy sâu lắng, trọn vẹn để tôn vinh sự kỳ diệu của tình mẫu tử, những niềm vui sướng khi được trở về nhà, và nhận được kết quả xứng đáng của tình yêu. Tác giả ăn khách nhất của Thời báo New York Times “đã chạm vào nơi sâu lắng nhất, đa cảm nhất trong từng góc nhỏ của trái tim chúng tôi.” (tác giả Tami Hoag).  “Hannah nắm bắt được niềm vui và nỗi đau trong một gia đình khi cuốn hút người đọc vào cuộc đời các nhân vật của cô và khiến họ cảm thấy như những người bạn thân quen, một lần nữa chứng tỏ cô là ngôi sao trong thể loại văn học hư cấu về người phụ nữ.” (Booklist) “Hannah rất giỏi đi sâu vào tâm lý của các nhân vật chính và khắc họa những sắc thái của cảm xúc.” (The Washington Post Book World) “Vô cùng thú vị… Hannah có đôi tai nhậy cảm với lời thoại và khả năng thiên phú đưa người đọc xâm nhập vào trong đầu nhân vật.” (The Seattle Times) “Cuốn sách tuyệt vời này là một ví dụ kinh điển cho những câu chuyện vô cùng xúc động và kích thích tư duy, sở trường của Hannah. Sự ấm áp và đa dạng của các nhân vật đã chạm tới được những cảm xúc sâu kín nhất.” (Romantic Times) *** Những ánh đèn sẽ tắt trên toàn cõi châu Âu; Cả đời chúng ta sẽ không thấy chúng sáng trở lại nữa. SIR EDWARD GREY, VỀ THẾ CHIẾN I   Tháng Tám năm 1939 Pháp Vianne Mauriac rời khỏi căn bếp lạnh lẽo với những bức tường trát vữa giả đá và bước ra sân trước. Trong buổi sáng hè đẹp nắng này ở thung lũng sông Loire, mọi thứ thật rực rỡ. Những tấm khăn trải giường màu trắng bay lật phật trong gió, đám hoa hồng xô nhau hé cười dọc theo tường rào bằng đá ngăn giữa ngôi nhà của chị với con đường. Hai chú ong cần mẫn lượn quanh những bông hoa. Vianne nghe thấy tiếng một đoàn tàu rền rĩ xa xăm, sau đó là tiếng cười đáng yêu của một bé gái. Sophie. Vianne mỉm cười. Chắc đứa con gái tám tuổi của chị đang chạy quanh nhà, khiến bố con bé phải làm đủ thứ để vừa lòng nó trong lúc chuẩn bị cho chuyến dã ngoại ngày thứ Bảy của cả nhà. - Con gái em đúng là một bạo chúa. - Antoine lên tiếng khi xuất hiện trên ngưỡng cửa. Anh đi về phía vợ, mái tóc bóng mượt loang loáng dưới ánh nắng. Anh vừa tút tát lại đồ nội thất sáng nay - chà giấy ráp một cái ghế đã nhẵn bóng - nên trên mặt và vai anh có một lớp bụi gỗ mỏng. Anh cao lớn, vai rộng, khuôn mặt chữ điền, và có một lớp râu mỏng đen nhánh luôn đòi hỏi phải nỗ lực để ngăn nó trở thành một hàm râu rậm rì. Antoine vòng một cánh tay quanh người Vianne và kéo vợ sát vào người anh. - Anh yêu em, V. - Em cũng yêu anh. Trên thế giới này không còn điều gì chân thật hơn thế. Vianne yêu mọi thứ nơi người đàn ông này: nụ cười của anh, cách anh lầm bầm trong khi ngủ, cười ngượng nghịu sau khi hắt hơi, và hát ông ổng trong lúc tắm. Chị đã phải lòng anh từ mười lăm năm trước, trên sân trường, trước cả khi hiểu được tình yêu là gì. Anh là tất cả những điều đầu tiên đối với chị - nụ hôn đầu, mối tình đầu, người yêu đầu. Trước khi gặp Antoine, Vianne chỉ là một con bé gầy như que củi, vụng về, hay lo lắng và nói lắp bắp mỗi khi sợ hãi, mà sợ hãi là chuyện khá thường xuyên. Một đứa con gái mồ côi mẹ. - Giờ con sẽ là người lớn trong nhà, - ba đã nói với Vianne như thế khi họ đến ngôi nhà này lần đầu tiên. Lúc đó Vianne mới mười bốn tuổi, mắt đỏ hoe và đau buồn không chịu nổi. Chỉ trong một khoảnh khắc, ngôi nhà này đã từ một chỗ nghỉ mát của gia đình trở thành một dạng nhà tù. Mẹ mất chưa được hai tuần, ba của Vianne đã từ bỏ vai trò người cha. Khi họ đến đây, ông không còn nắm tay hay đặt tay lên vai con gái, hay thậm chí là đưa cho nó một cái khăn mùi xoa để thấm nước mắt. - Nhưng con... con còn nhỏ mà, - Vianne đã nói như thế. - Con không còn nhỏ nữa. Lúc đó Vianne đã nhìn xuống đứa em gái, Isabelle, một đứa bé bốn tuổi chỉ biết mút ngón tay và chẳng hiểu được chuyện gì đang diễn ra. Isabelle cứ hỏi đi hỏi lại khi nào thì mẹ về. Khi cửa nhà bật mở, một phụ nữ có cái mũi như vòi nước và hai con mắt nhỏ xíu, đen thui như quả nho khô xuất hiện. - Bọn trẻ đây à? - Người phụ nữ hỏi. Cha Vianne gật đầu. - Chúng sẽ không gây rắc rối cho ông nữa. Chuyện đó diễn ra rất nhanh. Vianne không thực sự hiểu hết. Người cha rũ bỏ hai đứa con gái như người ta thay quần áo bẩn và để chúng lại với một người xa lạ. Hai đứa bé chênh tuổi nhau quá nhiều, đến nỗi dường như chúng không phải chị em ruột. Vianne muốn dỗ Isabelle, nhưng bản thân còn đang đau buồn tới mức chẳng thể nghĩ đến ai khác, đặc biệt là một đứa bé cứng đầu, nóng nảy và ồn ào như em gái mình. Còn nhớ những ngày đầu tiên ở đây, Isabelle cứ khóc ré lên và bị bà kia đánh đòn. Vianne phải xin cho con bé và cứ nhắc đi nhắc lại: “Chúa ơi, Isabelle, đừng khóc nữa. Nghe lời đi em”. Nhưng dù chỉ mới bốn tuổi, Isabelle đã tỏ ra là một đứa bất trị. Vianne đã trở nên tuyệt vọng vì tất cả chuyện đó - nỗi đau mất mẹ, nỗi buồn bị cha bỏ rơi, sự thay đổi gia cảnh đột ngột, và việc đòi mẹ đến ngán ngẩm của Isabelle. Chính Antoine là người đã cứu Vianne. Mùa hè đầu tiên sau cái chết của mẹ, hai đứa đã không thể tách rời nhau được. Với Antoine, Vianne đã tìm được một lối thoát. Năm mười sáu tuổi Vianne đã mang thai, và đến năm mười bảy thì kết hôn, trở thành bà chủ của Le Jardin. Hai tháng sau, Vianne sẩy thai và hoang mang, bối rối một thời gian. Không có cách nào khác hơn để diễn tả điều đó. Vianne thu mình lại với nỗi đau buồn và để nó vây kín mình, không thể quan tâm đến bất kỳ ai, hay bất kỳ điều gì, đặc biệt là đứa em gái nhỏ ưa khóc lóc vòi vĩnh. Nhưng chuyện đó đã qua rồi. Đó không phải là ký ức mà Vianne muốn nghĩ đến trong một ngày đẹp trời như hôm nay. Chị dựa người vào chồng trong lúc đứa con gái chạy đến chỗ hai người, tuyên bố: - Con xong rồi. Mình đi thôi. - Ồ. - Antoine nhăn mặt. - Công chúa đã sẵn sàng, chúng ta phải lên đường thôi. Vianne mỉm cười quay trở vào nhà để lấy chiếc mũ treo trên cái móc cạnh cửa. Vốn có mái tóc vàng hoe ánh đỏ, làn da trắng sứ và đôi mắt xanh, chị luôn phải bảo vệ mình khỏi ánh nắng. Trong lúc chị đội chiếc mũ rơm rộng vành, lấy đôi găng tay ren và chiếc làn đựng đồ ăn, Sophie và Antoine đã ra khỏi cổng. Vianne nhập bọn với hai cha con trên con đường đất trước nhà Nó chỉ vừa đủ rộng cho một chiếc xe hơi chạy qua. Bên kia đường là những đồng cỏ mênh mông, điểm xuyết cỏ xanh, hoa anh túc đỏ, thanh cúc lam, và những cánh rừng. Trong khu vực này của thung lũng sông Loire, những cánh đồng thích hợp để trồng cỏ khô hơn là trồng nho. Chỉ cách Paris chưa đầy hai giờ xe lửa, nhưng nó giống như một thế giới khác hẳn. Khách du lịch ít khi đến đây, kể cả trong dịp hè. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi bình bịch chạy qua, hoặc một chiếc xe đạp, xe bò, nhưng chủ yếu chỉ có gia đình họ trên đường. Họ sống cách Carriveau khoảng một cây số rưỡi, thành phố chưa đến một ngàn dân được biết đến như một điểm dừng chân trên con đường hành hương đến với thánh Jeanne d’Arc. Thành phố không có ngành công nghiệp nào, và chỉ có rất ít việc làm - ngoại trừ những chỗ làm ở sân bay, niềm tự hào của Carriveau. Đó là sân bay duy nhất của cả vùng. Ở Carriveau, các con đường nhỏ hẹp lát đá cuội len lỏi giữa những tòa nhà xây bằng đá vôi nép vào nhau một cách vụng về. Vữa rơi ra từ những bức tường đá, dây thường xuân che giấu sự sụp đổ khó thấy bằng mắt nhưng luôn cảm nhận được. Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi làng đã được xây dựng theo kiểu chắp vá từng phần: những con đường cong queo, những bậc thang khấp khểnh và ngõ cụt. Màu sắc làm cho các tòa nhà trông sống động hơn: bạt đỏ căng trên khung sắt đen, ban công tô điểm những cây phong lữ trồng trong chậu sành. Đâu đâu cũng thấy thứ gì đó hút mắt: một khay bánh hạnh nhân với các tông màu nhạt, những chiếc làn đan bằng cành liễu đầy phô mai, giăm bông và xúc xích khô, những thùng cà chua, cà tím và dưa chuột đầy màu sắc... Các quán cà phê đông khách trong một ngày Chủ nhật đẹp trời. Cánh đàn ông ngồi quanh những chiếc bàn sắt, uống cà phê và hút thuốc lá tự cuốn, tranh luận sôi nổi. Đó là một ngày như mọi ngày ở Carriveau. Ông LaChoa đang quét quáy phía trước tiệm bán xa lát, bà Clonet lau tủ kính bày bán mũ, một nhóm các cậu thiếu niên sánh vai nhau đang đi bát phố, chuyển tay nhau một điếu thuốc lá và đá tung những món rác rưởi trên đường. Khi đến cuối thành phố, cả nhà rẽ về phía dòng sông. Tại một bãi cỏ phẳng phiu bên bờ sông, Vianne đặt làn đồ ăn xuống và trải khăn dưới bóng một cây dẻ. Chị lấy từ trong làn ra một ổ bánh mì que nóng giòn, một miếng phô mai béo ngậy, hai quả táo, vài lát giăm bông Bayonne, và một chai Bollinger’36. Chị rót cho chồng một ly champagne rồi ngồi xuống bên cạnh anh trong khi Sophie chạy ra bờ sông. Ngày hôm ấy trôi qua trong bầu không khí khoan khoái ấm áp của mùa hè. Họ trò chuyện, cười đùa và ăn uống. Chỉ đến cuối ngày, khi Sophie đã vác cần đi câu cá và Antoine đang làm cho cô bé một vòng hoa cúc đội đầu, anh mới nói: “Hitler sẽ sớm lôi tất cả chúng ta vào cuộc chiến tranh của hắn.” Chiến tranh. Đó là tất cả những gì người ta nói tới trong những ngày ấy, nhưng Vianne không muốn nghe nhắc đến nó. Đặc biệt là trong một ngày hè đẹp trời như thế. Chị khum tay che mắt quan sát con gái. Bên kia dòng nước, thung lũng sông Loire được canh tác cẩn thận và tỉ mỉ. Không có hàng rào, ranh giới, chỉ có những cánh đồng xanh mướt trải dài nhiều dặm, các mảng rừng và đây đó những ngôi nhà hoặc kho chứa xây bằng đá. Nhiều bông hoa nhỏ xíu màu trắng bay lơ lửng trong không khí, tựa như những túm bông nhỏ. Vianne đứng dậy và vỗ tay. - Sophie, đến giờ về rồi con. - Em không thể phớt lờ chuyện này được đâu, Vianne. - Em có cần phải bận lòng không? Mà tại sao chứ? Mẹ con em có anh bảo vệ đây rồi. Nói đoạn Vianne bật cười, có lẽ hơi to quá mức. Chị thu dọn đồ dã ngoại rồi dẫn cả nhà quay về con đường đất. Chưa đầy ba mươi phút sau, họ đã ở trước cánh cổng gỗ vững chãi của Le Jardin, trang viên của gia tộc chị từ ba trăm năm qua. Ngôi nhà hai tầng xây bằng đá đã ngả màu xám theo thời gian, có các cửa sổ cánh chớp màu xanh dương nhìn ra vườn cây. Dây thường xuân leo lên tận hai ống khói và phủ kín lớp gạch. Diện tích của khu đất chỉ còn lại bảy mẫu. Hai trăm mẫu đã bị bán đi trong hai thế kỷ, khi tình hình tài chính của gia đình suy sụp dần. Bảy mẫu là quá đủ đối với Vianne. Chị không nghĩ mình cần nhiều hơn thế. Vianne đóng cửa lại sau khi mọi người đã vào nhà. Trong bếp, xoong chảo bằng đồng và gang được treo phía trên bếp lò. Những bó oải hương, hương thảo và cỏ xạ hương được treo trên xà nhà. Ngoài ra còn một cái chậu bằng đồng đã gỉ xanh qua năm tháng, đủ to để tắm cho một con chó nhỏ. Theo thời gian, lớp thạch cao trên tường đã bong tróc nhiều chỗ. Phòng khách là một sự pha trộn lung tung các món đồ và vải trang trí: ghế trường kỷ bọc dạ, thảm Aubusson, đồ gốm cổ Trung Hoa, rèm hoa và tranh vải. Một vài bức tranh treo trên tường rất đẹp và có thể được giá, số còn lại có vẻ nghiệp dư. Bao trùm lên tất cả là nét lộn xộn chắp vá của tình trạng sa sút tiền nong và gu thẩm mỹ lỗi thời, hơi tồi tàn, nhưng dễ chịu. Vianne dừng lại trong phòng khách và nhìn qua cửa kính trông ra sân sau, nơi Antoine đang đẩy Sophie trên chiếc xích đu anh làm cho con bé. Chị nhẹ nhàng treo mũ lên cái móc cạnh cửa rồi với lấy chiếc tạp dề, mặc vào người. Trong khi hai bố con chơi ngoài trời, Vianne nấu bữa tối. Chị bọc một miếng thăn lợn trong khoanh thịt hun khói cắt dày, buộc dây nhiều vòng rồi rán vàng trong dầu nóng. Trong lúc món thịt lợn được nướng trong lò, Vianne chuẩn bị các món ăn còn lại. Đúng tám giờ tối, chị gọi cả nhà vào dùng bữa rồi mỉm cười mãn nguyện khi nghe thấy tiếng chân chạy rầm rập, tiếng trò chuyện vui vẻ và tiếng kéo ghế ken két bên bàn ăn. Sophie ngồi ở đầu bàn, con bé đội vòng hoa cúc mà bố đã làm cho ở bờ sông. Vianne đặt đĩa thức ăn lên bàn. Một mùi thơm phức bốc lên - thịt lợn nướng và thịt xông khói rán giòn nấu táo, bên trên phủ một lớp nước xốt rượu vang béo ngậy, bên dưới là một lớp khoai tây nướng. Cạnh đó là một bát đậu Hà Lan tươi rưới bơ và rắc lá ngải giấm nhà trồng. Và để dùng kèm thì không thể thiếu bánh mì mà Vianne đã nướng sáng hôm qua. Như thường lệ, Sophie huyên thuyên suốt trong bữa ăn. Về khoản này thì con bé giống y hệt dì Isabelle của nó, không thể giữ mồm giữ miệng được. Cuối cùng, lúc họ ăn đến món tráng miệng - île flottante, đảo trứng nổi trên một lớp kem Anh -, sự im lặng hài lòng bao trùm quanh bàn ăn. - Thôi. - Cuối cùng Vianne đẩy món tráng miệng mới ăn hết một nửa của mình sang một bên và tuyên bố. - Đến lúc rửa bát rồi. - Mẹ ơi... - Sophie mè nheo. - Không được làm nũng. - Antoine nói. - Con lớn rồi. Vianne và Sophie đi vào trong bếp như mọi buổi tối. Hai người đứng vào vị trí - Vianne cạnh cái chậu đồng, Sophie cạnh cái bàn đá - và bắt đầu rửa rồi lau khô bát đĩa. Vianne có thể ngửi thấy thứ mùi ngòn ngọt và hơi gắt của điếu thuốc mà Antoine hút sau bữa tối phảng phất trong nhà. - Hôm nay bố chẳng thèm cười với mấy câu chuyện con kể. - Sophie nói trong lúc Vianne xếp đĩa lên chiếc kệ gỗ treo tường. - Bố bị làm sao ấy. - Không cười á? Ờ, chuyện đó cũng đáng báo động đấy. - Bố đang lo lắng vì chiến tranh. Chiến tranh. Lại nữa rồi. Vianne xua con gái ra khỏi bếp. Hai mẹ con lên gác rồi vào phòng của Sophie. Chị ngồi trên chiếc giường đôi, lắng nghe con gái huyên thuyên trong khi thay đồ ngủ; đánh răng và lên giường. Chị cúi xuống hôn con bé. - Con sợ lắm. - Sophie nói. - Chiến tranh sắp xảy ra ạ? - Đừng sợ. - Vianne nói. - Bố sẽ bảo vệ mẹ con mình. Nhưng ngay khi nói câu vừa rồi, chị chợt nhớ ngày trước mẹ cũng từng bảo chị đừng sợ. Đó là khi cha Vianne ra chiến trường. Sophie có vẻ chưa yên tâm. - Nhưng mà... - Không nhưng nhị gì cả. Con không việc gì phải lo lắng. Giờ thì ngủ đi. Vianne hôn Sophie lần nữa và để môi mình nấn ná lâu hơn trên má con bé. Chị xuống cầu thang rồi bước ra sân sau. Trời đêm khá oi bức, không khí đượm mùi hoa nhài. Chị tìm thấy Antoine đang ngồi ở chiếc ghế uống cà phê bằng sắt đặt trên bãi cỏ, chân choãi ra, người ngả sang một bên. Chị đến bên cạnh và đặt một tay lên vai chồng. Antoine nhả khói, rồi rít một hơi thuốc dài. Sau đó anh ngước nhìn vợ. Dưới ánh trăng, khuôn mặt anh tái nhợt và u ám, gần như không thể nhận ra. Anh thò tay vào trong túi áo và lôi ra một tờ giấy. - Anh bị động viên rồi, Vianne. Cùng với hầu hết đàn ông tuổi từ mười tám đến ba lăm. - Động viên? Nhưng... chúng ta chưa có chiến tranh mà? Em không... - Thứ Ba tới anh sẽ phải lên đường. - Nhưng... nhưng... anh chỉ là một bưu tá. Anh nhìn sâu vào đôi mắt chị, khiến chị đột nhiên nghẹn ngào. - Giờ anh đã là một người lính. Hình như thế. Mời các bạn đón đọc Sơn Ca Vẫn Hót của tác giả Kristin Hannah.
Ngựa Chứng Đầu Xanh - S. E. Hinton
Ponyboy mười bốn tuổi, gai góc và hoang mang, nhưng đằng sau vẻ bất cần là một tâm hồn nhạy cảm. Theo Ponyboy, thế giới này chỉ có hai loại người, Mỡ và Soc – dân Soc có tiền, có thể thoát khỏi hầu như mọi tội, với thái độ ngạo mạn khó ưa; dân Mỡ, ngược lại, sống ở khu ổ chuột và luôn phải cẩn thận đề phòng. Ponyboy là Mỡ, luôn tự hào về điều đó – cho tới một đêm khủng khiếp khi Johnny giết chết một thằng Soc. Cơn ác mộng bạo lực bắt đầu, bạo liệt cuốn Ponyboy vào một vòng xoáy hỗn loạn của sự kiện và cảm xúc, khiến hình ảnh về thế giới hai cực trong mắt cậu tan rã như bụi tro. Và rồi, trước khi thời niên thiếu kết thúc, Ponyboy đã nhận ra: sự đau đớn luôn giống nhau, dù là với Soc hay Mỡ đi chăng nữa.   Câu chuyện đầy sức mạnh về những chú ngựa chứng trẻ tuổi này được viết khi tác giả mới 17 tuổi và kể từ lần xuất bản đầu tiên năm 1967, Ngựa chứng đầu xanh đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất lịch sử ngành xuất bản với 14 triệu bản tính đến 2005, và mỗi năm lại có nửa triệu bản nữa thêm vào con số đó. Một tác phẩm kinh điển dành cho tuổi thiếu niên. *** Khi từ bóng tối của rạp chiếu phim bước ra ngoài ánh nắng rực rỡ, tôi chỉ có hai thứ trong đầu: Paul Newman và một cuốc xe về nhà. Tôi ước gì mình trông giống Paul Newman - anh trông gai góc còn tôi thì không - nhưng tôi nghĩ bề ngoài của mình cũng chẳng đến nỗi nào. Tóc tôi màu nâu nhạt, hoe hoe đỏ còn mắt thì có màu xám ánh xanh lá. Tôi ước gì mắt mình xám hơn, vì tôi ghét hầu hết mấy gã mắt xanh lá, nhưng tôi phải bằng lòng với cái mình có thôi. Tóc tôi dài hơn tóc nhiều thằng con trai khác, cắt vuông vắn sau đầu, để dài phía trước và hai bên, nhưng tôi là một thằng Mỡ(1) và hầu hết hàng xóm tôi chẳng mấy khi nghĩ đến chuyện cắt tóc. Hơn nữa, tôi trông hay hơn khi để tóc dài. Tôi phải đi bộ về nhà một quãng dài mà không người đi cùng, nhưng dù gì thì tôi cũng thường đi một mình, chẳng vì lý do nào ngoại trừ vì thích được yên ổn xem phim, để có thể thả hồn vào trong bộ phim và sống với nó cùng diễn viên. Xem phim với một ai khác làm tôi có chút không thoải mái, cứ như có người nhìn qua vai khi ta đọc sách vậy. Tôi thì khác như vậy đó. Ý tôi là, anh ba tôi, Soda, mười sáu tuổi sắp lên mười bảy, chưa bao giờ giở lấy một cuốn sách, còn anh hai Darrel, mà bọn tôi gọi là Darry, làm việc muộn và vất vả đến độ chẳng còn đâu thời gian mà quan tâm đến đọc truyện hay vẽ tranh, vậy nên tôi chẳng giống hai anh. Và chẳng có đứa nào trong băng bọn tôi cảm hiểu phim ảnh và sách vở như tôi cả. Có lúc tôi đã nghĩ rằng mình là kẻ duy nhất trên đời này hiểu. Nên tôi làm việc đó một mình. Ít nhất Soda cũng cố hiểu, và cảm hiểu được nhiều hơn Darry. Nhưng nghĩ kỹ thì anh khác với bất cứ ai; anh hiểu mọi sự, gần như vậy. Ví dụ như anh chẳng bao giờ hò hét với tôi suốt như anh Darry, hay đối xử với tôi như thể một đứa lên sáu chứ không phải đã mười bốn tuổi rồi. Tôi quý Soda hơn bất cứ ai, kể cả là bố mẹ. Lúc nào anh cũng vô tư lự và cười toe toét, trong khi anh Darry lại nghiêm khắc, cương nghị và chẳng mấy khi nở miệng cười. Nhưng mặt khác, Darry đã trải qua rất nhiều thứ trong hai mươi năm cuộc đời, anh trưởng thành quá nhanh. Sodapop sẽ chẳng bao giờ chịu lớn cả. Tôi chẳng biết thế nào thì hay hơn nữa. Tôi sẽ sớm biết ra thôi. ... Mời các bạn đón Ngựa Chứng Đầu Xanh của tác giả S. E. Hinton.