Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khí Đạo - Lục Lưu

LỤC LƯU

KHÍ ĐẠO

Dịch giả: HOÀNG MỘNG KHÁNH Với sự cộng tác của HOÀNG THÁI

VÀI LỜI VỚI BẠN ĐỌC

Khí tồn tại ra sao?

Thế nào gọi là Đạo?

Luyện công phải thế nào?

Từ xưa đến nay trên đất Thần Châu, biết bao nhà, biết bao người đã khổ công, dụng tâm đưa ra nhiều nhận định. Thật đúng là trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua nở. Tuy vậy quan điểm của mỗi nhà mỗi khác ai cũng chỉ nói về cái mình cho là đúng. Cái đúng - cái chưa đúng, sự linh hoạt dung hợp - sự gán ghép khiêm cưỡng, cái thật - cái giả, sự cởi mở - sự cố chấp.. đan xen vào nhau, khiến người đọc ngày nay thật bối rối khi nghiên cứu nền văn hoá cổ Trung Hoa. Trong bối cảnh đó, tiên sinh Lục Cẩm Xuyên đã dồn hết tâm huyết, ngụp lặn trong biển sách để đãi cát tìm vàng, tìm cái chân cái trọng, phân loại các học thuyết đồ sộ, để mở mang, làm rõ đại ý của các bậc tiền bối. Có thể nói cuốn sách này đã được ông “trực lọc huyết tinh viết văn chương”, nên giá trị của nó vô cùng độc đáo. Trong bối cảnh hiện nay, phong trào khí công của Việt Nam đang phát triển và muốn khẳng định bản sắc của mình thì sự ra mắt của cuốn sách lại càng cần thiết, bởi về lý, ai cũng biết luyện khí mà không rõ Đại Đạo (Mục Tiêu Lớn) thì lợi sẽ bất cập hại.

Khí Đạo là một rong những tác phẩm nổi tiếng, có thể nói là một viên ngọc trong “Tủ sách văn hoá cổ truyền Trung Hoa”, do NXB Thượng Hải xuất bản năm 1994. Chỉ sau 6 tháng, sách đã được giới khí công Trung Quốc rất hâm mộ. Chẳng những thế, ngay sau đó, loạt sách đầu tiên mang sang Nhật đã bán hết ngay và được các nhà khí công tên tuổi của Nhật Bản đánh giá rất cao.

Nhìn vào kho từ vựng Hán - Việt, những từ khí chất, khí khái, hào khí, dũng khí, khí thế, phong khí, khẩu khí, linh khí, khí hậu, khí tiết, văn khí, kiếm khí… cho chúng ta thấy, từ xa xưa người Đông Phương đã biết, khí là một cái gì đó tồn tại và phát huy tác dụng cụ thể trên tất cả các mặt hoạt động của con người. Có người nói thật chí lí, ai đã biết khí thì thấy đâu đâu cũng là khí. Vì vậy tác giả đã đưa ra một nhận định rất sâu sắc: “Khí vừa là cầu nối giữa hư không và thực thể, giữa vật chất và tinh thần, giữa sinh ra và mất đi, vừa là cầu nối giữa thời gian và không gian, giữa vĩnh hằng và biến hoá, giữa vạn hữu và nhất vô; tức là tất cả mọi hiện tượng hữu hình, vô hình của thế giới bao la, mà ngày nay chúng ta có thể nhận biết được, đều có liên quan đến khí. Vì thế khí học có thể được xem là Đại Đạo”. 

Đọc “Khí Đạo”, ta thấy như được đọc tất cả các văn bản cổ xưa của nhiều triều đại nói về khí học trên nhiều lĩnh vực khác nhau; lời và ý của tác giả tuôn trào, đan lồng vào lời và ý của cổ nhân, khiến người đọc tưởng như đang ngồi nghe một cuộc đàm đạo sôi nổi vô tiền khoáng hậu. Những lời bàn, những lời phê thật tự nhiên, hàm súc uyên ảo, nhiều ý tưởng kỳ lạ, sáng tỏ đến mức người đọc không hiểu tại sao lại đơn giản như vậy. Những cái lạ cái hay đều thuộc về tác giả, còn cát sạn trong sách này đều do trình độ thấp kém của người dịch gây ra, xin bạn đọc lượng thứ và chỉ bảo. 

“Khí Đạo” gồm hai phần lớn: Luận thuyết về khí học và Đại triết khí đạo của Thái cực môn. 

Đọc phần đầu đã rất lý thú, vì phạm vi tác giả bàn thật rộng rãi, sâu sắc, những ai đã bước chân vào con đường tu dưỡng đều có thể thấy những ấu trĩ của mình và vận dụng để nhận thức lại về khí học. Trong những trường hợp như thế, thật thích đáng khi dùng thành ngữ “Vén mây mù mà thấy trời xanh”. Đặc biệt phần thứ hai lại càng quí giá gồm những quy tắc, nguyên lý về nhận thức, về tập luyện tu dưỡng của Thái cực môn (một trong 5 môn phái bí truyền không dạy ra ngoài của Đạo gia), được viết rất cô đọng mỗi lời nói mỗi chữ đều là tâm huyết của tác giả. Ba trăm bài mục hàm súc có giá trị chỉ đạo thực hành rất to lớn đối với bất cứ ai đã nhập môn khí công nhưng lại muốn đi đúng, đi xa trên con đường Khí Đạo. 

Chúng tôi chỉ mong rằng bản dịch sẽ đưa lại một ngọn gió mát lành góp sức vào phong trào khí công rộng lớn sau này của Việt Nam, góp phần kiện toàn thân tâm cho dân tộc mình. Có công pháp phong phú chân truyền biết đường lối chân chính trong luyện công, chúng ta sẽ có con người hoà khí, dung thông với thiên nhiên rộng lớn, đất nước sẽ có những điều chúng ta vẫn mong chờ… 

Xuân Mậu Dần

HOÀNG THÁI

Người chia xẻ:  Nhất Tâm

Người chia xẻ: 

Nhóm: Kinh Thư Chính Thống Đạo Gia

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Bản dịch Đạo Đức Kinh (Chương 16) Qui Căn
CHÍNH PHÁPBản thân sở học nông cạn không dám múa rìu qua mắt thợ, nhưng hiện nay ở Việt Nam bàng môn vô số, đạo phong suy đồi, đa phần có chút danh tiếng thì đều rơi vào phù chú lục quyết, khí công dưỡng sinh. Tai hại nhất là mê tín dị đoan, sinh ra đủ thứ học thuyết quái đản, chẳng những xa rời chân Đạo của Tam thánh tông chỉ mà còn báng bổ chư tổ tiền nhân, đề cao vật chất sự tình. Nên biết, chư tổ khuyên người hướng thiện tu chân chỉ nhằm đồng đăng Niết bàn giải thoát, tấm lòng vì nhân sinh như thế há có thể bóp méo như vậy sao? Lại vừa muốn vật chất đầy đủ vừa muốn là Tiên là Phật thì có thể sao? Đó chỉ là ngụy biện của tham, sân, si mà thôi. Người tu đạo lúc chưa thành tuy cần tích lũy vật chất tiền bạc nhưng đó là để đảm bảo sinh tồn, giữ thân tu luyện hoặc có trách nhiệm với gia đình thân quyến, tốt hơn một chút thì có thể tạo ra hoàn cảnh thuận lợi, chọn nơi phong thủy đắc địa nhằm trợ giúp tu hành, chứ tuyệt không vì nhắm đến hưởng thụ hư vinh. Đồng đạo chả lẽ không nhớ lời Thái Thượng: "Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi". Tổn này là tổn dục vọng, ham muốn, mong cầu, bớt suy nghĩ mà thanh tĩnh, mỗi ngày mỗi giảm, giảm đến lúc vô vi nhi vi. Sao có thể tiếp tục tham lam mà đòi thành Tiên thành Phật đây? Nay tuy người viết chưa thành tựu nhưng không thể không nói ra sự thật, mong có thể làm một chút ánh sáng dẫn đường để người hữu duyên có cái dựa vào. Người mới theo Đạo thấy đan kinh ẩn ngữ khó hiểu e rằng bỏ qua mà rơi vào bàng môn, bản thân nhiều năm tìm hiểu, cũng đã xảy ra tình huống như vậy, nhân đây xin nói sơ qua cách nhìn nhận chân công phu để đồng đạo chí sĩ có cơ sở mà xét.Phàm người tìm hiểu khí công, đan thư đều dễ rơi vào chấp nhất chi phái môn hộ, đọc mà không thông biến, thường tin vào những lời quảng cáo cao siêu mà ngộ nhận về Đan Đạo.Xin nói rõ, Đan Đạo lấy nhập huyền quan thu tiên thiên kết đan làm mục tiêu, không phải thứ mà khí công hậu thiên thông mạch có thể so sánh. Tại sao lại nói là nhập Huyền Quan mà không nói là mở? Bởi vì nó là một trạng thái trong tĩnh tọa, muốn nhập huyền quan, tất phải như Đạo tổ truyền dạy "Trí hư cực, thủ tĩnh đốc" đó là tĩnh tọa công phu phải đạt tới cực tĩnh mà nhập huyền quan từ đó tiên thiên lai phục, không phải khô tọa ngoan không cũng không phải tự tác hữu vi, mà là lấy hữu nhập vô, ở giữa vô và hữu chân khí liền phát động đó gọi là "Vô trung sinh hữu", "Tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông" . Đan đạo từ động nhập tĩnh, tĩnh cực nhi động là hợp theo lý Âm Dương của Thái cực, Dương cực sinh Âm, Âm cực sinh Dương. Vậy nên xét công phu nào mà không nói tới tĩnh tọa nhập huyền chỉ nói thông mạch thì đó chỉ là khí công hậu thiên mà thôi. Tuy nó có công dụng dưỡng sinh nhưng kết đan là không thể nào! Còn như một số chi phái Phật gia giữ tĩnh định sinh tuệ nhằm luyện thần thông thì cũng có chỗ bất đồng, bởi như thế là còn nhận biết về cảnh giới, chưa thực sự đạt đến cực tĩnh mà Phật, Đạo hai nhà đã chỉ ra ở những câu sau:"Vật ngã lưỡng vong", "Vô Ngã Vô Tướng" "Vạn sự như như", "Hỗn hỗn độn độn, yểu yểu minh minh", "Tam giả ký vô, duy kiến ư không", "Tứ Đại giai không", "Sắc tức thị không, không tức thị sắc"; tu luyện pháp này đi theo hướng khác, cũng không thể đạt đến trạng thái Huyền Quan.Thứ nữa, những loại tâm nhãn soi xét, thần tiên ghé thăm, tiền kiếp hậu kiếp từng là nhân vật này nọ thảy toàn là ảo cảnh, tĩnh tọa đại thành còn dễ gặp ảo cảnh nữa là thường nhân soi nhãn. Một cái nữa là pháp thuật cải mệnh hay thay đổi nhân quả, cái này nghe đã vô lý, cải mệnh bản thân vốn còn phải dựa vào tu luyện Kim Đan, Tử Dương chân nhân nói: "Một hạt Kim Đan nuốt xuống bụng, mới hay ngã mệnh chẳng do trời". Huống chi như quảng cáo có thể thay đổi cả vận mệnh người khác được ư? Cái này bất quá là tác động vào hậu thiên hữu vi không phải chân chính cải mệnh, còn như phát niệm thù địch, kết tập nguyện lực... toàn là mê tín hại người, càng không đáng nói. Vả lại người học phải dựa vào chính mình nỗ lực phấn đấu, sao có chuyện cầu xin ngoại lực mà được? Chẳng khác nào dúi tiền tay Phật! Chính là thể hiện tâm tham cầu chưa yên mà thôi. Vì vậy bạn đọc mới tìm hiểu chớ nên sa vào những luận điệu này mà lầm đường lạc lối, tiền mất tật mang. Đan đạo là triết học, là cách sống, là khoa học thực hành, tuyệt không phải tôn giáo sùng bái mê tín. Đan đạo từ đầu tới cuối chỉ là Thanh tĩnh vô vi mà thôi.Để tránh rườm lời, mong chư vị đồng đạo xét kỹ Đạo đức kinh, nhất là chương 16. Xưa có câu: "Quy căn cần tìm quy căn khiếu, phục mệnh phải tìm phục mệnh quan" Quan khiếu đó chính là Huyền Quan nhất khiếu. Sau đây xin đăng bản dịch Đạo Đức Chương 16 do Hoàng Nguyên Cát chân nhân chú, ngài Nguyễn Minh Thiện Tam Tông Miếu dịch, để đồng đạo hiểu rõ cái lý Quy căn.Chúc chư vị sức khỏe! Tinh tấn!Xích LongNgười chia xẻ:  Xích LongNgười chia xẻ: Nhóm: Kinh Thư Chính Thống Đạo Gia
Vô Căn Thụ tự chú giải
Vô Căn Thụ từ chú giảiVân Thê Sơn Lưu Ngộ Nguyên chú Trường Ất Sơn Lý Hàm Hư giải Tựa Sách “Ngộ Chân” của phái Thiên Thai phát minh ra Nội Ngoại Nhị Dược, Phản Hoàn đại sự. Đương thời, kẻ nông cạn vô tri ngờ là sách về Lô Hỏa Thái Chiến1 . Diệp Văn Thúc không hiểu về Phản Hòan, lại dùng lời lẽ thanh tịnh phù phiếm dựa dẫm để hành thế. Ngài Ông Bảo Quang thấy vậy cười nói rằng: “Đây là kẻ không hiểu gì về Kim Đan”, bèn chú giải sách này để cải chính. Tiếp đó Lục Tử Dã, Trần Thượng Dương phát huy thêm, ba bản chú giải này ra đời thì chú giải của họ Diệp bị bỏ đi. Trương Tam Phong tiên sinh ở Liêu Dương là bậc Thiên Tiên. Lúc ở núi Võ Đang, ông từng viết 24 bài “Vô Căn Thụ đạo tình”, xấp xỉ thời gian với “Ngộ Chân” của Tử Dương, đời cũng có kẻ cho là sách về Lô Hỏa Thái Chiến. Hàm Hư nói rõ rằng: “Đạo không thi hành được là do đạo không rõ ràng vậy”. Thường muốn chú chú giải rõ ràng, nhưng hận vì không có đồng tâm đạo hữu.Người chia xẻ:  Nhất TâmNgười chia xẻ: Nhóm: Kinh Thư Chính Thống Đạo Gia
Xung Hư Chân Kinh - Liệt Tử
LIỆT TỬ - XUNG HƯ CHÂN KINH沖虛真經 - 列子沖虛真經:《沖虛真經》即《列子》,戰國時列禦寇著。唐玄宗於天寶元年詔封列子為「沖 虛真人」,尊其書為《沖虛真經》。道教奉為「四子」真經之一。該書多為寓言故事,大旨 宣揚道家清虛無為思想。  Sách Liệt Tử còn được tôn xưng là Xung Hư Chân Kinh, tương truyền do một người thuộc phái đạo gia là Liệt Ngự Khấu (430-349 trước CN).Liệt Ngự Khấu, sinh khoảng năm 430 (Khảo Vương) mất khoảng 349 (Hiển Vương) đời nhà Chu (TQ) soạn ra, nhưng truyền thuyết này còn bị đặt nhiều nghi vấn. Có lẽ nó là một công trình của tập thể nhiều thế hệ, đến đời Tấn (thế kỷ IV) được Trương Trầm sưu tập và chú giải, tôn là một kinh quan trọng của "Tứ Tử" . Bản lưu truyền đến nay gồm 8 thiên, trình bày tư tưởng Đạo gia qua nhiều truyền thuyết, huyền thoại, ngụ ngôn… có ý nghĩa hàm súc, tế nhị.Người chia xẻ:  Nhất TâmNgười chia xẻ: Nhóm: Kinh Thư Chính Thống Đạo Gia
Vạn Cổ Đan Kinh Tị Tổ - Quảng Thành Tử
Vạn cổ đan kinh tị tổ“Phù lê tị tổ kim hoa bí quyết”Quảng Thành Tử sáng tácTiên ông Cát Huyền chúLời tựa của Tử Dương Trương Bá ĐoanÔi! Từ lúc trời đất chưa tách, Nhật Nguyệt chưa sáng, Âm Dương chưa lập, Ngũ Hành chưa phân, hỗn độn hoảng hốt, yểu minh hun đúc, trong có Linh Quang, ẩn tàng Chân Tinh. Nhất sinh Nhâm Quý, nhị vượng Bính Đinh, Bính Đinh hỏa phát, chiếu rọi Huyền Minh, sản xuất Canh Hoàng, đúc ra Kim Đình, Kim Đình dị thất, Mậu Kỷ chân hình. Cổ tiên đại thánh xưa, biết trong đại khối 6 có vật, trong khoáng thổ tàng Diên. Trong Diên sản Ngân, Ngân biến thành Kim, trong Kim sản Sa, trong Sa sinh Hống, Hống phun ra Tam Hoa, tên là Hoàng Nha, mà căn nguyên của thiên địa tạo hóa, tinh hoa của Âm Dương nhật nguyệt, vốn đều ở đó.Người chia xẻ:  Nhất TâmNgười chia xẻ: Nhóm: Kinh Thư Chính Thống Đạo Gia