Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mắt Quạ Tinh Tường

“Trong Mắt quạ tinh tường, Shane Peacock đã khéo léo tạo ra những tình tiết lí giải sự kín tiếng của ngài thám tử Sherlock Holmes khi nhắc đến gia đình mình. Ông đã thành công trong việc tạo ra một vụ án mạng gay cấn với tiết tấu hoàn hảo…cũng như gây ấn tượng với hình ảnh náo nhiệt của thành Luân Đôn thời nữ hoàng Victoria, khiến cho sự tàn bạo man rợ của khu East End hiện lên sống động qua từng trang sách.” Quill & Quire *** Đây là cuốn sách đầu tiên sau khoảng 10 năm mình chưa đọc một cuốn trinh thám nào tuy từ nhỏ cuốn nào mình đọc mình cũng đều thấy thích, nhưng lại ngại mua. Tự dưng năm nay nổi hứng muốn thay đổi chút thể loại và làm 2 em trong Series này. Một cuốn sách tuyệt vời vì mình hoàn toàn 'enjoy' nó. Sherlock Holmes thì nổi tiếng quá rồi, nhưng thực ra chưa cầm cuốn sách nào của Conan Doyla cả. Nhưng đọc xong cuốn này chắc phải có kế hoạch làm một bộ thôi. Theo ý kiến cá nhân của một người ít đọc truyện trinh thám cũng như không có đầu óc nhạy bén để suy nghĩ sâu xa thủ phạm là ai hay đoán trước tình tiết, mình cứ để cho tác giả dẫn dắt. Shane Peacock thật sự lôi kéo mình, từng chi tiết nhỏ được tiết lộ, manh mối đầy đủ dần, bất ngờ tăng lên, kịch tính dâng trào và cuối cùng thủ phạm cũng bị lôi ra vành móng ngựa và Holmes cũng mất mát không ít, nhưng CÔNG LÝ được thực thi là điều cốt lõi. Song nhiều khi anh hùng không được biết đến là điều hay xảy ra trong xã hội có phần mục ruỗng. Giá như khai thác kỹ hơn về suy nghĩ hay hành động của kẻ lái xe ngựa, câu chuyện có lẽ hoàn hảo hơn. *** "Thời niên thiếu của Sherlock Holmes" là bộ tiểu thuyết đầu tiên về quãng đời trẻ con của thám tử huyền thoại Sherlock Holmes. Ra mắt lần đầu năm 2007, bộ sách của Shane Peacock ngay lập tức thu hút sự chú ý của độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới và giành được hơn 40 giải thưởng danh giá: Giải thưởng Sách của năm của Hiệp hội Thư viện Canada, Top 10 truyện bí ẩn cho thiếu nhi, Giải thưởng Arthur Ellis cho thể loại truyện hình sự thanh thiếu niên, Huy chương vàng cho sách của năm của Tạp chí Foreward... Hình ảnh một Sherlock Holmes tài ba với trí thông minh nhanh nhạy, sự quan sát tinh tế, những phán đoán logic trong tác phẩm của Arthur Conan Doyle đã làm say mê biết bao thế hệ độc giả. Tuy nhiên, chưa có tác phẩm nào cho thấy, tài năng của Sherlock Holmes bắt đầu bộc lộ từ khi nào? Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống từ thời thơ bé có tác động tới Sherlock Holmes ra sao? Ngay cả bác sĩ Watson - người bạn thân thiết của Sherlock Holmes cũng "chưa bao giờ nghe anh kể về gia đình và quãng đời thơ ấu của anh… Tôi đã tưởng anh mồ côi và không còn ai thân thích…". Qua Thời niên thiếu của Sherlock Holmes, Shane Peacock lý giải những câu hỏi đó và giúp độc giả tiếp tục được đắm mình trong cảm giác hồi hộp gay cấn qua từng vụ án đầy kịch tính. Nhận xét về tiểu thuyết của Shane Peacock, tờ The Global and Mail cho rằng, tiểu thuyết của Shane Peacook dành cho độc giả trẻ, nhưng người lớn cũng cảm thấy thích thú với những cuộc phiêu lưu có tiết tấu nhanh, đầy kịch tính... Thời Niên Thiếu Của Sherlock Holmes gồm có: Mắt Quạ Tinh Tường Cú Ngã Tử Thần Cô Gái Bí Ẩn Hung Thủ Giấu Mặt Con Rồng Ma Quái Trưởng Thành ... Trong "Mắt quạ tinh tường", Shane Peacock đã khéo léo tạo ra những tình tiết lí giải sự kín tiếng của ngài thám tử Sherlock Holmes khi nhắc đến gia đình mình. Ông đã thành công trong việc tạo ra một vụ án mạng gay cấn với tiết tấu hoàn hảo... cũng như gây ấn tượng với hình ảnh náo nhiệt của thành Luân Đôn thời nữ hoàng Victoria, khiến cho sự tàn bạo man rợ của khu East End hiện lên sống động qua từng trang sách... (Quili & Quire) *** Shane Peacock là một nhà văn nhà báo đa tài, ông viết nhiều thể loại như tiểu thuyết, kịch, kịch bản phim, tiểu sử. Nhân vật trong các tác phẩm của Shane Peacock đều là những người lỗi lạc, làm được những việc phi thường. *** "Suốt trong quá trình quen biết lâu dài và thân thích với Sherlock Holmes, tôi chưa bao giờ nghe anh kể về gia đình và quãng đời thơ ấu của anh... Tôi đã tưởng anh mồ côi và không còn ai thân thích..." - Bác sĩ Waston, trích trong Người thông ngôn Hi Lạp. --- Án mạng xảy ra trong đêm tối tại khu Whitechapel nằm sâu về phía đông, nơi khuất xa những ngọn đèn khí đốt trên các tuyến phố chính. Đây là chốn cư ngụ của dân Do Thái và lớp người cùng đinh. Nơi những kẻ vô danh tiểu tốt của một đô thị vĩ đại nhất địa cầu sống như bầy cầm thú. Vụ án xảy ra chỉ trong tích tắc, như một nhát đâm của sự tàn nhẫn, bất công và bạo tàn. Nhiều giờ sau, tại khu Southwark phía nam dòng sông Thames, trong căn hộ xập xệ nằm trên cửa hiệu tồi tàn, một cậu bé miễn cưỡng thức dậy đón ngày mới. Sự công bằng không hiện diện ở nơi này. Nhưng hôm nay sẽ là ngày có tính quyết định đối với cậu bé, với vụ sát nhân và rất nhiều vụ án sau này. Không một ai chứng kiến một vụ án mạng tại Whitechapel. Nhưng trong màn đêm mịt mùng, những đôi mắt đen đã nhìn thấu tỏ. Và sáng hôm nay... một bậc thầy đã thức dậy. Mặt trời xuất hiện, rọi những tia nắng xuyên qua màn sương mù vàng vọt đang dần tan, chiếu lên đám người tuyền một màu nâu, lùm xùm nào mũ nón, nào quần áo cùng giày ủng đang rùng rùng di chuyển qua những chiếc cầu và dọc theo các con phố lát đá. Tiếng móng ngựa khua lọc cọc trên mặt đường hoà cùng tiếng rầm rập của các bánh xe sắt, tiếng chuyện trò râm ran và lời rao của những người bán hàng rong. Mùi ngựa trộn lẫn với mùi rác rưởi, than đá và khí đốt lan toả trong không khí. Phần đông mọi người đều tất tả đi đến một nơi nào đó trong buổi cuối xuân năm 1867 ấy. Giữa đoàn người đang từ bên mạn nam vượt qua dòng sông bẩn thỉu trên cây cầu đá, có một cậu bé cao gầy, da dẻ tái nhợt tựa như sắc giấy trên rìa các trang Thời báo Luân Đôn. Cậu mười ba tuổi, và lẽ ra đang ngồi học ở trường. Từ xa, trông cậu thật bảnh bao trong chiếc áo choàng màu đen dài, cà vạt, áo chẽn và đôi ủng đánh bóng. Nhìn gần, cậu có vẻ xơ xác và buồn bã, nhưng từ đôi mắt màu khói của cậu toát ra nét tinh anh. Tên cậu là Sherlock Holmes. Trong vô vàn tội ác ở Luân Đôn này, tội ác đêm qua tại Whitechapel có lẽ là vụ man rợ nhất. Nó sẽ làm thay đổi cuộc đời cậu. Một lát nữa đây nó sẽ đập vào mắt cậu. Và mấy ngày tiếp theo nó sẽ hút lấy cậu. Sherlock đến với những con phố nhộn nhịp và ồn ã này để tạm lánh các vấn đề của mình và tìm nguồn hứng khởi. Cậu quan sát những con người tiếng tăm giàu có để tìm hiểu xem điều gì khiến họ thành công và được trọng vọng như vậy. Vốn rất thính nhạy trước những sự kiện gay cấn và bức xúc, cậu luôn tìm chúng trên những tuyến phố chính ồn ã náo nhiệt này. Ngày nào cậu cũng ra đây theo cùng một lối. Đầu tiên cậu rời căn hộ trên gác của một hiệu nón cũ kĩ tại khu Southwark bẩn thỉu và đi về phía nam theo hướng trường học. Nhưng ngay khi khuất tầm mắt, cậu liền rẽ sang hướng tây rồi lỉnh lên phía bắc, cùng với đám đông băng qua sông trên cầu Blackfriars để đến với khu trung tâm tráng lệ của thành phố. Các cư dân của Luân Đôn lướt qua cậu như những đợt sóng. Mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình khiến cậu say mê. Sherlock Holmes là một cỗ máy quan sát. Sinh ra cậu đã như vậy. Chỉ trong chớp mắt cậu đã có thể khắc hoạ chân dung của một người nào đó. Cậu có thể nói ngay lí lịch của người này hoặc nghề nghiệp của người khác. Nhờ năng lực đó nên cậu khá nổi tiếng tại khu phố nhỏ của mình. Nếu có đồ vật gì bị thất lạc - một chiếc ủng, một cái tạp dề hay một khoanh bánh mì nóng giòn - cậu có thể nhìn các khuôn mặt, xem xét những chiếc quần, và khám phá các manh mối để chỉ ra thủ phạm, dù lớn hay nhỏ. Người đàn ông đang bước về phía cậu từng ở trong quân ngũ, có thể nhận ra điều đó nhờ bộ ria của ông ta. Ông ta đã từng dùng ngón trỏ tay phải chai sần ấy để bóp cò súng trường. Ông đi lính bên Ấn Độ - cậu từng thấy trong sách một biểu tượng của Ấn giáo giống như hình trang trí nằm trên chiếc măng séc bên trái kia. Cậu đi tiếp. Một phụ nữ đầu đội mũ vải sùm sụp đi lướt qua, tấm khăn quấn trên vai cô ta chạm nhẹ vào cậu. - Đi đứng cái kiểu gì đâu! - Cô ta lườm cậu, làu bàu. "Người này thực ra cũng dễ đoán thôi, Sherlock Holmes thầm nghĩ. Chị ta mới vừa bị thất tình. Nhìn cặp mắt thâm quầng, giọng nói cau có và thanh sôcôla giấu trong tay chị ta thì biết. Chắc chị ta quãng ba mươi tuổi. Trông có vẻ đang béo ra. Chị ta sống tại vùng ngoại ô Sussex, nơi duy nhất có loại đất sét nâu dính trên mũi đôi ủng đen kia." Sherlock Holmes luôn cảm thấy muốn biết hết mọi thứ. Cậu cần nhiều hơn những thứ ít ỏi mà cuộc sống đã mang lại cho mình. Một thầy giáo trong trường từng khen cậu giỏi giang. Cậu không coi chuyện đó là ghê gớm. "Giỏi về cái gì chứ?" Cậu tự nhủ. "Về việc sống nhầm chỗ và nhầm thời điểm à?" Tại phố Fleet, cậu thò tay vào trong một cái thùng rác bằng gang, lôi ra một nắm báo. Thời báo... nhét trở lại. Tin điện hàng ngày... nhét trở lại. Cảnh sát nhật báo... à, đây rồi. Rốt cuộc cũng có một tờ hoạ báo! Mọi cảm xúc mà Luân Đôn có thể tạo ra đều được thổi sức sống vào nhờ những bức vẽ trắng đen kích thước lớn. Cậu đọc toàn những loại báo tường thuật các chuyện gây xôn xao dư luận. Và tờ báo này, cùng với một câu chuyện hấp dẫn, đầy máu me bạo lực và bất công, sẽ chỉ ra định mệnh của cậu. Cậu giấu nó vào trong áo khoác. Tại quảng trường Trafalgar, Sherlock Holmes ngước mắt lên tìm kiếm lũ quạ. Thường thì chúng đậu thành hàng trên nóc khách sạn Morley. Nằm gần toà Northumberland House lộng lẫy, bên mạn đông nam của quảng trường, khách sạn Morley được lũ quạ chọn để tách xa khỏi những con bồ câu béo ú và đám đông gần đài phun nước. Cảnh tượng khiến cậu mỉm cười: Một trong những khách sạn sang trọng bậc nhất Luân Đôn, cùng với hàng quạ đậu trên nóc. Đó là loài chim Sherlock Holmes ưa thích. Cậu len lỏi giữa dòng người lưu thông trên đường, băng qua quảng trường tới các bậc thềm đá trước cửa nhà Triển lãm Nghệ thuật Quốc gia. Những con quạ cũng di chuyển. Đôi khi cậu nghĩ lũ chim đi theo mình. Một đôi quạ sà xuống và đậu bên cạnh cậu bé. - Chào hai cậu. Để xem tin tức hôm nay có gì nào. Cậu giở báo ra. Cái tít trên trang nhất đập thẳng vào mắt cậu. ÁN MẠNG! Bên dưới dòng tiêu đề là bức tranh minh hoạ ghê rợn tái hiện cảnh một người phụ nữ trẻ nằm trên một con phố của Luân Đôn, thân mình ngập trong vũng máu. Hai con quạ kêu toáng lên và bay đi mất. Sherlock đọc tiếp. Án mạng xảy ra ở giữa đêm khuya, tại phía đông của khu phố cổ. Không ai chứng kiến hay nghe thấy gì, dù chỉ là một tiếng hét. Hung khí la một con dao dài và sắc. Sherlock lật sang trang sau. Cậu đọc ngấu nghiến: một phụ nữ chưa rõ địa vị xã hội, không có cái tên nào được nhắc đến, không có kẻ thù nào được biết tới. Cậu nhận thấy cô ta trông giống mẹ mình. Cậu bé nghe thấy tiếng người qua đường xầm xì: - Con bé tội nghiệp. - Chắc hẳn là dân lề đường xó chợ, một đứa ngoại lai. - Lại cái thằng nhóc dễ sợ ngồi đó. Chỉ ước gì nó biến đi. - Mấy con chim lúc nãy là quạ à? Điềm gở đấy. - Bọn lưu manh. Một lũ du thủ du thực. Kìa, chúng đến đấy. Để tôi gọi cảnh sát. Cậu bé liếc mắt nhìn lên. Đó là nhóm bụi đời quảng trường Trafalgar. Cậu gần như có thể đánh hơi thấy bọn chúng. - Sherlock Holmes công tử, nếu tao không nhầm! Một thằng bé tóc đen mặt du côn lên tiếng. Cùng với nó là một nhóm trẻ bẩn thỉu, những bản sao thu nhỏ của thằng đầu đảng. Thằng bé mặc một chiếc áo choàng dài màu đen cũ mèm. Một cái mũ chóp cao sẫm màu vắt vẻo trên đầu nó. Còn trong tay nó là một chiếc gậy chống thô sơ. - Tao nghĩ mày đang chiếm chỗ của bọn tao đấy. Bọn trẻ chưa bao giờ ngồi ở đây. Hôm nay cũng sẽ như thế. - Giáo chủ thân mến của tôi... - Holmes đáp, vẫy tay chào nhóm Bụi đời -...cùng những người bạn. - Ít ra tao cũng có vài đứa bạn. - Ờ. - Biến mau! Nếu không chúng tao lại đập cho bây giờ. - Đồ con nai Do Thái! (Với những chữ n in nghiêng thì bạn hãy đọc thành l, còn chữ l in nghiêng thì ngược lại nhé. FEEN WATTPAD) Một thằng bé khó chịu tên Grimsby quát to. Holmes luôn ngán ngại thằng này. Hàm răng vàng ệch nhọn hoắt như răng chồn của nó trông cứ như sắp cắn người ta đến nơi. Sherlock đứng dậy, vuốt phẳng lại bộ quần áo cũ mèm. Cậu ghét thằng Giáo chủ, nhưng đồng thời cũng ngưỡng mộ nó. - Thấy cái này chưa? - Cậu hỏi, tay giơ tờ Cảnh sát nhật báo. - Đâm nủng bụng kìa, ghê chưa! Nàm khéo thật! - Grimsby thốt lên. Bọn trẻ cười rúc rích. - Vui gì mà cười! - Giáo chủ nạt cả bọn - Chuyện này không hay ho gì đâu. - Chuyện là thế nào? - Holmes hỏi, cậu thừa biết là thằng bé du đãng và băng nhóm của nó tường tận mọi tin đồn lan truyền trong các ngóc ngách của Luân Đôn. - Chỉ có dân đường phố biết... và biết với nhau thôi. - Giáo chủ nói - Tao không ưa cái... - Biết mà! - Sherlock thở dài. - Tôi biết... mấy người không ưa gì cái bản mặt của tôi. Có một chút tương đồng giữa hai cậu bé, mặc dù thằng thủ lĩnh nhóm Bụi đời lớn hơn một chút và nói giọng hơi pha âm sắc Ái Nhĩ Lan. Sự giống nhau ấy còn hơn bề ngoài u ám của hai đứa. Nó nằm trong cung cách bộc lộ bản thân và sự chỉn chu trong những bộ trang phục cũ sờn. Cả hai đều ý thức được điều đó, nhưng Giáo chủ không ưa gì chuyện này. - Mày sẽ không bao giờ là bụi đời được, Sherlock Holmes ạ. - Có chứ, tôi đang bụi đời lắm đây này. Một tay cảnh sát đang đi đến, cực kì bảnh choẹ với cái mũ cối trên đầu và chiếc áo khoác màu xanh dương có hàng khuy sáng bóng đều tăm tắp. Trong tay anh ta có một chiếc dùi cui. Viên cảnh sát canh chừng những cỗ xe đang chạy trên đường, tìm cơ hội tiến lại gần bọn trẻ. - Chuồn thôi! Giáo chủ rít lên, và bọn trẻ nhanh chóng biến đi. *-FEEN-* Đã năm giờ chiều, Sherlock vẫn còn muốn ở ngoài quảng trường, chưa chịu về nhà. Sao lại phải quay về với căn nhà buồn bã, chán chường, về với bố mẹ cậu chứ? Thà cứ ở ngoài này còn hơn. Ở đây cậu được ở gần với sự gay cấn và thành công. Tại đây cậu đã chứng kiến rất nhiều điều đáng kinh ngạc và đầy mê hoặc. Một lần cậu đã nhìn thấy chính Lewis Carroll đang cầm quyển Alice ở xứ sở thần tiên trong tay; một lần khác, nhà chính trị vĩ đại nhất nước, Disraeli, lặng lẽ rảo bước qua quảng trường; rồi người phụ nữ khổng lồ Anna Swan, với cái đầu vượt lên trên đám đông, ngôi sao đu dây Blondin, và ngài Dickens độc nhất vô nhị với chòm râu dê lốm đốm bạc và cặp mắt rực lửa. Cậu đã tận mắt thấy quảng trường chật cứng những người đối lập kêu gọi chính phủ sửa đổi đường lối, rồi có lúc lại đông nghẹt các công dân hô vang những thành tích của Đế chế. Cậu đã thấy những người cạo ống khối với bộ mặt đen nhẻm, những gã ăn mày gớm ghiếc, và cả những tên móc túi nữa. Tại sao phải về nhà kia chứ? Nhưng cậu vẫn phải về nhà. Khi tháp đồng hồ Big Ben tại toà nhà Quốc hội điểm năm giờ chiều, Sherlock Holmes phải chạy nhanh để về đến nhà trước bố mẹ, như thế họ sẽ tưởng cậu đã ở trường. Từ nhiều tháng nay cậu đã lừa dối hai người. Trong thâm tâm, cậu biết bố mẹ đang nghi ngờ mình ghê lắm. Chuyện này không thể tiếp diễn mãi được. Nếu cậu không đi học thì cậu sẽ phải đi lao động. Gia đình cần sự đóng góp của cậu. Cậu sẽ phải chấp nhận số phận của mình giữa những tầng lớp lao động nghèo khó của Luân Đôn. Mây đen đang kéo đến. Sherlock nhận ra tim mình đang đập dồn. Nó đã đập như thế kể từ lúc cậu mở tờ Cảnh sát nhật báo. Có thứ gì đó đang thiêu đốt tâm can cậu. Cậu nhìn xuống tờ báo, vo tròn nó, siết chặt hai chữ án mạng trong nắm tay của mình. Mời các bạn đón đọc Thời Niên Thiếu Của Sherlock Holmes Tập 1: Mắt Quạ Tinh Tường của tác giả Shane Peacock.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồ Sơ Tội Phạm - Diệp Mộc Nhiên
Tâm lý học tội phạm bao hàm một phạm vi rất rộng gồm nhiều chủ đề hấp dẫn. Suốt nhiều thế kỷ qua, con người đã luôn hứng thú với tội ác, và trong hàng trăm năm gần đây, tâm lý học đã phát triển từ một một môn học non nớt thành một một bộ phận trọng yếu trong cuộc sống. Ở một vài nước trên thế giới (như Mỹ, Anh Quốc), tâm lý học nằm trong top 3 môn học phổ biến được nhiều sinh viên chọn học nhất ở trường đại học và cao đẳng. Tâm lý học bây giờ đã được công nhận là có mối liên hệ bậc nhất với nhiều khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt với những tội phạm, tù nhân, cảnh sát, nhân chứng và tòa án. Cuốn sách này được viết cho cộng đồng nói chung, những ai có mong muốn hiểu thấu đáo hơn về tâm lý học tội phạm hơn là những kiến thức từ phương tiện truyền thông phổ biến như báo chí và truyền hình. Trong cuốn sách này, chúng tôi giải thích bằng một cách thân thiện, dễ hiểu đối với độc giả về nền tảng của tâm lý học tội phạm hiện đại. Do đó cuốn sách sẽ phù hợp với những ai có sở thích bắt đầu nghiên cứu về tâm lý học tội phạm. *** Hồ Sơ Tội Phạm 1 Chủ Đề: Triệu Chứng Chung Của Người Bị Biến Thái Nhân Cách Tội Phạm Biến Thái Top 5 Nữ Đồ Tể Khét Tiếng Nhất Trong Lịch Sử Nhân Loại Biến Thái Quá Trình Thiết Lập Hồ Sơ Tội Phạm Lập Hồ Sơ Tội Phạm Dựa Theo Địa Lý Vùng Gây Án (Geographic Profiling) Phần 1 Thái Nhân Cách - Trừng Phạt Chẳng Có Nghĩa Gì Tâm Lý Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt - "Mục Tiêu Danh Vọng" Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 1) Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 2) Những "Bậc Thầy" Của Những Tên Sát Nhân Mô Phỏng Tội Phạm Cũng "Quan Trọng Tiểu Tiết" Cách Những Kẻ Lừa Đảo Ẩn Mình Dưới Con Mắt Người Thường Những Tội Phạm Trông Khác Biệt Với Những Người Không Phải Tội Phạm "Biến Mình" Thành Kẻ Sát Nhân Để Truy Tìm Tội Phạm Hội Chứng C.S.I Tâm Lý Hung Thủ Giết Người Cảnh Sát Phân Tích Tâm Lý Tội Phạm - Lực Lượng Đặc Biệt Của Cảnh Sát Tâm Lý Học Tội Phạm: Tội Ác Phát Sinh Từ Đâu? Cái Chết Của Tên Tội Phạm Và Nghi Án Về Chứng "Loạn Dâm" Gây Ngạt Lệch Lạc Tình Dục: Phô Dâm, Thị Dâm Và Loạn Dục Cảm Xúc Rối Loạn Ám Ảnh Cưỡng Chế Và Rối Loạn Nhân Cách Ám Ảnh Cưỡng Chế (Ocd & Ocpd) Rối Loạn Nhân Cách Hoang Tưởng (Paranoid Personality Disorder) Đại Cương Về Chứng Thái Nhân Cách *** Lời Biên Tập Viên: Đây không phải sản phẩm do mình làm ra mà là những kết tinh trí tuệ của các nhà tâm lý tội phạm học. Là kết quả tìm hiểu và sưu tầm của mình với mục đích học tập và giải trí nhằm thỏa mãn nhu cầu khám phá về phương diện tâm lý cũng như chia sẻ cho mọi người đọc. Trong chuỗi bài sưu tầm có thể có những vụ án mạng kinh hãi,dễ gây ảnh hưởng đến tâm lý sau này. Xin hãy suy xét kĩ trước khi đọc,hãy đọc khi đủ tuổi trưởng thành... Cuối cùng,cảm ơn vì đã ủng hộ. Nếu cảm thấy hay thì vote cho mình 1 phiếu. Cảm ơn!
Việc Máu - Michael Connelly
Terry McCaleb không ở  đỉnh cao phong độ của một đặc vụ FBI dày dặn kinh nghiệm. Ông mới ngoài bốn mươi tuổi, lẽ ra vẫn còn có thể tiếp tục cày xới thế giới tội  ác ở Los Angeles, nhưng trái tim của ông đã  đầu hàng, ông phải thay tim và thấy trước mặt  mình một cuộc sống khác hẳn. Rồi người phụ nữ  đó xuất hiện, không hề báo trước, ngay tại nơi trú ẩn tuổi già của ông. Và McCaleb buộc phải gắng gượng tìm lại phong độ tưởng chừng đã vĩnh viễn mất đi, lần mò theo những lối  đi gian nan nhất của sa mạc và của trí tuệ, với một trái tim của người khác đập trong lồng ngực. Terry McCaleb và Graciela Torres bỗng chốc khám phá ra rất nhiều điều bí ẩn của các tội ác, cũng như bí ẩn trong mối quan hệ tình cảm con người. Michael Connelly ở độ chín của tài năng và phong cách, một cuốn tiểu thuyết trinh thám có nhịp điệu mạnh liên hồi, tàn khốc nhưng không mất đi sự mềm mại, nhân bản, thậm chí là lãng mạn. *** Michael Connelly sinh ngày 21.7.1956. Ông là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Văn đàn thế giới coi M. Connelly là "ông hoàng trinh thám Mỹ", có lẽ bởi nhiều tác phẩm thuộc thể tài này của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và bản thân M. Connelly đã đoạt nhiều giải thưởng văn học quan trọng nhờ số truyện trinh thám mà ông đã viết. Người biết M. Connelly nói ông viết truyện trinh thám không phải do tình cờ, cũng chẳng phải do sự bồng bột, một "tình yêu sét đánh nào đó", mà là do ông có vốn sống giàu có về lĩnh vực điều tra tội phạm. Tất cả bắt đầu từ khi M. Connelly tốt nghiệp Đại học Florida năm 1980 và khởi đầu sự nghiệp bằng những bài viết trên tờ Daytona Beach News Journal về vấn đề tội phạm Mỹ, sau đó là viết cho tờ Fort Lauderdale News and Sun-Sentinel, cũng về lĩnh vực này. Những giải thưởng đầu tiên đến với M. Connelly vào năm 1985, khi bài phỏng vấn những nạn nhân còn sống sót sau vụ rớt máy bay Delta Flight 191 của ông lọt vào danh sách đề cử giải Pulitzer - giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất dành cho một nhà báo. Hai năm sau, chuyển đến sống tại California, M. Connelly cho ra đời tác phẩm trinh thám đầu tay của mình và gần như ngay sau đó, cuốn The Black Echo được xuất bản và đoạt giải Edgar Award năm 1992. *** McCaleb thấy nàng trước khi nàng thấy ông. Ông đang bước xuống ụ tàu chính, băng qua dãy thuyền của cánh nhà binh thì nhìn thấy người đàn bà đứng trên mũi chiếc Biển Theo Ta. Lúc đó là mười rưỡi sáng một ngày thứ Bảy, tiếng thì thầm ấm áp của mùa xuân khiến nhiều người rời khỏi nhà kéo đến các ụ tàu ở San Pedro. McCaleb đang sắp hoàn tất cuộc đi dạo vào mỗi sáng - đi trọn một vòng quanh Cabrillo Marina, dọc theo đê chắn sóng xây bằng đá rồi quay về. Đến đoạn này thì ông đã mệt bở hơi tai, nhưng ông bước còn chậm rì hơn khi tiến lại gần thuyền. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bực bội - người phụ nữ đó đã lên thuyền ông mà không đợi ai mời. Nhưng khi đến gần hơn, ông gạt ý nghĩ đó qua bên mà tự hỏi nàng ta là ai, nàng muốn cái gì. Nàng không mặc quần áo dùng để đi thuyền. Nàng mặc bộ đầm mùa hè suông nhẹ dài tới giữa đùi. Làn gió nổi lên từ mặt nước cứ chực tốc váy nàng khiến nàng phải ép một tay vào hông để giữ yên. McCaleb không thấy hai bàn chân nàng, nhưng qua đường nét cơ bắp săn chắc ông nhìn thấy nơi đôi chân rám nắng của nàng, ông đoán nàng không mang giày dùng để đi thuyền. Nàng nhón gót lên. McCaleb lập tức hiểu ra, nàng đứng đây nhằm để gây ấn tượng với ai đó. McCaleb thì ăn mặc sao cho chẳng gây ấn tượng gì. Ông mang chiếc quần jeans cũ rách te tua vì mặc quá lâu chứ không phải để làm dáng, áo phông mặc từ hồi dự giải Catalina Gold Cup tận mấy mùa hè trước. Quần áo lấm bê lấm bết, chủ yếu là máu cá, đôi phần là máu của chính ông, axit hydrochloric, nhựa poliuretan và dầu máy. Bộ đồ này ông thường mặc để đánh cá nhưng cũng mặc cả khi sửa máy. Cuối tuần này ông định sẽ sửa máy trên thuyền nên ông đang mặc bộ đồ phù hợp. Ông bắt đầu có ý thức hơn về ngoại hình mình trong khi lại gần thuyền và thấy người đàn bà rõ hơn. Ông rút hai miếng mút của máy nghe nhạc ra khỏi tai rồi tắt CD giữa lúc bài “I Ain’t Superstitious” qua giọng Howlin’ Wolf đang phát nửa chừng. “Tôi giúp gì được cho cô?” ông hỏi trước khi bước xuống thuyền của mình. Giọng ông dường như khiến nàng giật mình, đang đứng nơi cánh cửa trượt dẫn vào buồng khách của thuyền nàng liền quay phắt lại. McCaleb đồ rằng nàng gõ lên mặt kính vì cứ nghĩ ông đang ở trong đó. “Tôi tìm Terrell McCaleb.” Nàng là một phụ nữ hấp dẫn ngoài ba mươi đôi chút, trẻ hơn McCaleb tròn chục tuổi hay hơn. Trông nàng quen quen, nhưng ông không nhớ ra ai. Chỉ là ngờ ngợ như quen, thật ra chưa chắc đã phải. Đồng thời ông lại thấy dường như ký ức mình bị đánh động khiến cho ông nhận ra, nhưng rồi điều đó qua nhanh và ông biết mình lầm, ông không quen biết người đàn bà này. Ông thường nhớ được mặt người ta. Mà cô nàng này thì mặt đủ xinh để ông không quên được. Nàng phát âm sai tên ông, đáng lẽ Mác-cây-lép thì nàng nói Mác-ca-lớp, rồi thì nàng lại dùng tên ghi trên giấy tờ của ông, cái tên chẳng ai dùng trừ cánh báo chí. Chính khi đó ông bắt đầu hiểu. Giờ thì ông biết điều gì đã đưa nàng tới con thuyền. Lại một linh hồn lạc lõng đến nhầm nơi phải đến. “McCaleb,” ông chữa lại. “Terry McCaleb.” “Xin lỗi. Tôi, ờ, tôi cứ nghĩ ông đang ở trong thuyền. Tôi không biết nếu bước lên thuyền mà gõ cửa thì có được không.” “Thì cô vẫn làm đó thôi.” Nàng lờ đi lời trách mà nói tiếp. Cứ như thể những điều nàng đang làm và những gì nàng phải nói, nàng đã phải tập đi tập lại nhiều lần. “Tôi cần nói chuyện với ông.” “Ồ, hiện giờ tôi hơi bận.” Ông chỉ tay về phía cánh cửa dẫn xuống hầm thuyền vẫn đang mở toang, may phước là cô nàng chưa lọt xuống, chỉ tay vào đống đồ nghề ông đã trút ra trên một tấm vải màn cạnh cửa sổ đuôi tàu. “Tôi đi loanh quanh tìm cái thuyền này gần cả tiếng rồi,” nàng nói. “Không lâu đâu mà. Tên tôi là Graciela Rivers, tôi chỉ muốn...” “Này, cô Rivers,” ông nói, giơ hai tay lên ngăn lại. “Thực sự là tôi... Cô đọc được về tôi trên báo có đúng không?” Nàng gật. “Thôi được, trước khi cô bắt đầu chuyện của cô, tôi phải nói với cô rằng cô không phải người đầu tiên tới đây tìm tôi hay kiếm số phôn của tôi mà gọi tôi. Và với tất cả những người khác tôi nói gì thì với cô tôi cũng nói thế thôi. Tôi không phải đang tìm việc. Thành thử nếu chuyện là cô muốn thuê tôi hay nhờ tôi giúp cách này cách nọ thì rất tiếc, tôi không làm được. Tôi không phải đang tìm loại việc ấy.” Nàng chẳng nói gì và ông cảm thấy lòng xốn xang cảm thông với nàng, cũng như ông từng cảm thấy với những người khác tới tìm ông trước nàng. “Này, tôi có biết vài ba điều tra viên tư, tôi có thể giới thiệu họ với cô. Hội này giỏi đấy, làm ăn chăm chỉ, họ không lừa cô đâu.” Ông bước lên mép đuôi thuyền, nhặt chiếc kính râm ông quên mang theo khi đi bộ, đeo vào, ra hiệu rằng cuộc nói chuyện thế là dứt. Nhưng cử chỉ và lời lẽ của ông cứ như nước đổ lá khoai đối với nàng ta. “Bài báo nói ông tốt bụng. Nói rằng bất cứ khi nào có kẻ chuồn được là ông ghét cay ghét đắng.” Ông thọc tay vào túi quần, nhún vai. “Cô phải nhớ một điều. Không bao giờ chỉ mình tôi cả. Tôi có người cộng tác, tôi có đội xét nghiệm, tôi có cả Cục ở sau lưng hỗ trợ tôi. Khác xa cái kiểu anh chàng đơn thân độc mã làm gì cũng lầm lũi một mình. Khác nhiều lắm. Dù có muốn, e tôi cũng không giúp cô được.” Nàng gật đầu nên ông đinh ninh đã làm nàng ta thấu hiểu rồi, và với cô này tới đây là hết chuyện. Ông bắt đầu nghĩ tới cái van trên một trong các động cơ thuyền mà ông đang thao tác dở, ông định sẽ làm cho xong nội cuối tuần này. Nhưng ông đã lầm về nàng. “Tôi nghĩ ông có thể giúp tôi,” nàng nói. “Có khi còn giúp chính ông nữa.” “Tôi không cần tiền. Tôi kiếm đủ.” “Tôi không nói chuyện tiền nong.” Ông nhìn nàng trong khoảng một nhịp tim trước khi đáp. “Tôi không biết cô nói thế là ý gì,” ông nói, cố tình tỏ ra cáu kỉnh. “Nhưng tôi không giúp cô được. Tôi không còn phù hiệu, mà cũng chả phải là điều tra viên tư. Tôi mà làm việc như điều tra viên tư hoặc nhận tiền mà không có giấy phép của nhà nước thì sẽ là bất hợp pháp đấy. Nếu đã đọc bài báo thì ắt cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Thậm chí tôi còn không được lái xe nữa kìa.” Ông trỏ xuống bãi đỗ xe bên ngoài dãy ụ tàu và cầu tàu. “Cô thấy cái xe trùm kín mít như quà Giáng sinh kia không? Xe tôi đó. Nó sẽ còn nằm đó chừng nào tôi chưa được bác sĩ chuẩn y cho lái xe lại. Đến nước này thì tôi còn là cái thứ điều tra viên nào nữa chứ? Đến mà phải đi xe buýt suốt.” Nàng lờ đi lời phản đối của ông, chỉ nhìn ông với vẻ kiên quyết khiến ông lúng túng. Ông chẳng biết làm cách nào điệu nàng ta đi khỏi thuyền ông được đây. “Để tôi đi lấy tên mấy người kia cho cô.” Ông đi vòng qua nàng rồi đẩy cánh cửa trượt của phòng khách ra. Vào trong rồi, ông đóng chặt cửa sau lưng mình. Ông cần sự ngăn cách. Ông đi tới chỗ mấy ngăn kéo dưới bàn vẽ hải đồ, bắt tay tìm cuốn danh bạ điện thoại. Đã quá lâu không cần tới nên bây giờ ông chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. Ông liếc ra ngoài qua cánh cửa, quan sát cô nàng bước tới chỗ đuôi tàu, tựa hông vào ô cửa sổ nhỏ trong khi chờ đợi. Trên mặt kính cửa có lớp màng phản chiếu. Nàng không thể thấy ông đang quan sát nàng. Cảm giác quen quen lại xâm chiếm tâm trí ông và ông cố nhớ ra xem mình đã gặp khuôn mặt này ở đâu. Ông thấy nàng thật nổi bật. Đôi mắt hình quả hạnh sẫm màu vừa có vẻ u sầu lại vừa có vẻ thấu hiểu điều bí mật nào đấy. Ông biết giá như ông từng gặp nàng hay thậm chí chỉ từng quan sát nàng trước đây thì hẳn ông sẽ dễ dàng nhớ ra nàng. Nhưng ông chẳng nhớ được gì cả. Mắt ông bất giác chuyển sang hai bàn tay nàng, tìm xem có chiếc nhẫn nào không. Không có. Về chuyện giày dép của nàng thì ông đoán đúng. Nàng mang xăng đan có gót làm bằng bần, cao năm phân. Móng chân nàng sơn màu hồng, nổi bật trên làn da màu nâu mềm mại. Ông tự hỏi có phải lúc nào nàng cũng trông thế này không, hay nàng ăn mặc thế chỉ để nhử ông nhận làm cho nàng. Ông tìm ra cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo thứ hai, liền nhanh chóng tìm mấy cái tên Jack Lavelle và Tom Kimball. Ông ghi lại tên và số điện thoại của họ vào một tờ rơi quảng cáo cũ của hãng dịch vụ tàu biển rồi mở cánh cửa trượt. Nàng đang mở ví trong khi ông ra khỏi buồng khách. Ông chìa tờ giấy cho nàng. “Đây là tên hai người. Lavelle là thám tử Los Angeles đã nghỉ hưu còn Kimball hồi trước làm ở FBI. Tôi từng làm việc với cả hai, người nào cũng có thể làm việc tốt cho cô. Chọn một người mà gọi. Nhớ bảo anh ta rằng cô có được tên anh ta là nhờ tôi. Anh ta sẽ lo cho cô.” Nàng không nhận mấy cái tên từ tay ông. Thay vì vậy nàng rút một tấm ảnh ra khỏi ví chìa cho ông. McCaleb cầm lấy không nghĩ ngợi gì. Ông nhận ra ngay đó là một sai lầm. Trong tay ông là bức ảnh một phụ nữ mỉm cười ngắm một đứa bé trai đang thổi tắt nến trên cái bánh sinh nhật. McCaleb đếm được bảy ngọn nến. Đầu tiên ông nghĩ đó là ảnh của Graciela hồi trẻ hơn bây giờ vài tuổi. Nhưng rồi ông nhận ra không phải là nàng. Người phụ nữ trong ảnh mặt tròn hơn, môi mỏng hơn. Cô ta không đẹp như Graciela Rivers. Tuy cả hai đều có mắt màu nâu sẫm, nhưng mắt người phụ nữ trong ảnh không có cái vẻ mãnh liệt như mắt người đàn bà đang quan sát ông lúc này. “Em gái cô à?” “Phải. Và con của nó.” “Người nào?” “Sao cơ?” “Người nào chết?” Câu hỏi đó là sai lầm thứ hai của ông, làm trầm trọng thêm sai lầm thứ nhất bởi nó lôi ông dấn vào sâu hơn nữa. Ngay lúc hỏi, ông đã biết rằng đáng lẽ ra ông nên khăng khăng đòi nàng ta nhận lấy họ tên hai thám tử tư kia rồi chấm dứt mọi chuyện ở đây. “Em tôi. Gloria Torres. Cả nhà tôi gọi nó là Glory. Đây là Raymond, con của nó.” Ông gật đầu rồi đưa trả bức hình nhưng nàng không nhận. Ông biết nàng muốn ông hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng ông kịp kìm lại. “Nào, thế này chả ích gì đâu,” rốt cuộc ông nói. “Tôi biết cô đang làm gì rồi. Chả ích với tôi đâu.” “Ý ông là ông không hề có lòng thông cảm phải không?” Ông ngần ngừ trong khi cơn giận sôi lên trong họng. “Tôi có lòng thông cảm. Cô đã đọc bài báo, cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Xưa nay tôi gặp rắc rối gì cũng đều do thông cảm mà ra cả.” Ông nuốt khan và cố gột sạch mọi cảm xúc khó chịu. Ông biết cô nàng này đang bị nỗi thất vọng khủng khiếp làm cho héo hon tiều tụy. McCaleb từng biết hàng trăm người như nàng. Những người thân yêu bị tước đi khỏi họ chẳng vì lý do nào hết. Không bắt bớ, không buộc tội, không phá án. Một vài người trong số đó chỉ còn như cái thây sống, đời họ bị thay đổi vô phương cứu chữa. Những linh hồn lạc lõng. Graciela Rivers giờ đây là một người như thế. Chắc chắn nàng là thế, không thì nàng đã chẳng tìm mọi cách lùng ra tung tích của ông. Ông biết, dù nàng nói gì với ông hoặc dù ông có tức giận đến mấy, nàng cũng không đáng phải hứng chịu thêm những cơn thất vọng của chính ông. “Thôi nào,” ông nói. “Tôi không làm được đâu mà. Tôi rất tiếc.” Ông đặt một tay lên tay nàng để đưa nàng trở lại bậc lên xuống thuyền. Da nàng ấm. Ông cảm nhận được bắp cơ khỏe mạnh dưới sự mềm mại đó. Ông lại đưa nàng tấm ảnh, nhưng nàng vẫn từ chối không chịu cầm. “Xem lại đi. Xin ông làm ơn. Chỉ thêm một lần thôi, rồi tôi sẽ để ông yên. Nói cho tôi biết liệu ông có cảm thấy gì khác không?” Ông vừa lắc đầu vừa phác một cử chỉ yếu ớt bằng bàn tay như muốn nói đằng nào thì cũng vậy thôi. “Tôi là cựu nhân viên FBI chứ không phải nhà ngoại cảm.” Nhưng ông vẫn làm ra vẻ giơ tấm ảnh lên nhìn. Người phụ nữ và chú bé xem chừng hạnh phúc. Là tiệc sinh nhật mà. Bảy ngọn nến. McCaleb nhớ rằng hồi ông bảy tuổi cha mẹ ông còn ở với nhau. Nhưng sau đấy thì không ở với nhau lâu nữa. Mắt ông bị hút vào đứa bé nhiều hơn vào người phụ nữ. Ông tự hỏi bây giờ không có mẹ thì thằng nhỏ sống ra sao. “Tôi xin lỗi, cô Rivers ạ. Thực sự là tôi rất tiếc. Nhưng tôi chẳng làm gì được cho cô hết. Cô có muốn lấy ảnh này lại không?” “Tôi có hai cái. Ông biết đấy, rửa một tặng một mà. Tôi tưởng ông sẽ giữ lại một cái.” Lần đầu tiên ông cảm thấy có cái gì đó ngầm ẩn trong dòng cảm xúc. Có cái gì đó hệ trọng nữa đây, nhưng ông không biết là gì. Ông nhìn kỹ cô Graciela Rivers và có cảm tưởng rằng nếu dấn thêm một bước, hỏi cái câu hỏi thật hiển nhiên, ông sẽ bị cuốn hẳn vào. Ông không kìm được. “Sao tôi lại muốn giữ tấm ảnh dù tôi sẽ không thể giúp cô được?” Nàng mỉm cười một cách buồn bã thế nào đó. “Bởi nó là người đàn bà đã cứu mạng ông. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, hẳn ông cần tự nhắc mình nhớ cô ta trông thế nào, cô ta là ai.” Ông nhìn nàng chằm chằm một hồi lâu nhưng thật ra ông không nhìn Graciela Rivers. Ông đang nhìn vào bên trong mình, lục lọi trong ký ức và hiểu biết của mình điều nàng vừa nói, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó. “Cô nói cái gì vậy?” Ông chỉ hỏi được có thế. Ông có cảm giác quyền kiểm soát cuộc nói chuyện và mọi thứ khác đều đang tuột khỏi ông mà trượt qua boong tàu về phía nàng. Cái dòng chảy ngầm kia đã tóm được ông. Nó đang đưa ông đi. Nàng giơ tay lên, nhưng rướn tay qua bức ảnh ông vẫn đang chìa ra cho nàng. Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực ông, miết tay dọc xuống ngực áo ông, mấy ngón tay nàng lần theo vết sẹo giống như đoạn thừng dày cộm sau lần áo. Ông để yên cho nàng làm vậy. Ông đứng như hóa đá mà để nàng làm vậy. “Trái tim ông,” nàng nói. “Nó từng là của em tôi. Nó là người đã cứu mạng ông.” ... Mời các bạn đón đọc ​Việc Máu của tác giả Michael Connelly.
Sáu Ngày Của Condor - James Grady
James Grady là nhà văn tiến bộ Mỹ. Ông sinh năm 1949 tại một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana. Ngày nhỏ sống tại quê nhà. Sau khi tốt nghiệp đại học Montana, J. Grady trở thành nhà báo. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường đại học, ông đã say mê tìm hiểu các môn khoa học xã hội - chính trị và sử học. Tuy rất có năng khiếu về văn chương, nhưng J. Grady vẫn không dám sống bằng nghề cầm bút, vì ông vốn biết chắc mười mươi rằng "phàm đã là nhà văn thì khó lòng được sống một cuộc đời no đủ". Bởi thế, J. Grady xin vào làm trợ lý các vấn đề lập pháp tại Uỷ ban soạn thảo hiến pháp bang Montana. Tiếp đó, suốt nhiều năm liền ông đã làm qua đủ mọi nghề: khi thì công nhân, khi thì chuyên gia bài trừ tệ nạn phạm pháp trong trẻ em, khi thì phóng viên báo chí. Cuộc sống của ông cứ tiếp tục trôi qua như thế cho mãi đến năm 1974, năm J. Grady công bố cuốn truyện đầu tay, làm chấn động dư luận: "Sáu ngày của Condor" 1 (trong những lần tái bản sau này được đổi tên thành "Ba ngày của Condor"). Cuốn tiểu thuyết đã đem lại cho tác giả danh tiếng ấy lập tức được đạo diễn Mỹ có tên tuổi là Sydney Pollack đưa lên màn ảnh và càng làm xôn xao dư luận. Năm 1975, J. Grady cho ra mắt bạn đọc thiên tiểu thuyết thứ hai: "Cái bóng của Thần Ưng". Nhân vật chính ở đây vẫn là anh chàng Ronald Malcolm quen thuộc mà một nhà phê bình đã từng tặng cho danh hiệu là "gã điệp viên đáng mến và hấp dẫn nhất, nhưng đồng thời cũng lại là tên điệp viên khó gặp và phi hiện thức nhất trong lịch sử tồn tại của cơ quan CIA". Ngay cả khi tác phẩm đầu tay đã có tiếng vang rộng khắp, J. Grady vẫn còn nấn ná khá lâu mãi tại quốc hội Mỹ với chức vụ trợ lý của một hạ nghị sĩ. Còn hiện thời, J. Grady đang làm thư ký riêng cho một nhà báo Mỹ lừng danh. Ông chỉ sáng tác truyện trinh thám những khi rỗi việc. Các cốt truyện trong sáng tác của ông thường xây dựng trên chất hiện thực. Những gì được hư cấu hoàn toàn không phải nhằm mục đích "thêm nhưn thêm nhị" mà chỉ là phương tiện để gắn kết các biến cố thực lại với nhau cho bố cục tác phẩm được cân xứng, thật hài hoà. Năm 1980, tác phẩm thứ ba của J. Grady ra đời: "Bắt lấy ngọn gió lành". Mùa xuân năm 1981, lại một tiểu thuyết hấp dẫn nữa của nhà văn, thiên truyện thứ tư ra mắt bạn đọc: "Kẻ trốn chạy ngoài phố". Những biến cố trong "Sáu ngày của Condor" bắt đầu từ việc một nhân viên trong một tiểu ban của CIA (gọi là "Hội Văn Sử") phát hiện ra một vụ gian lận về chứng từ, sổ sách, và muốn làm "sáng tỏ", anh bèn viết một tờ trình ngắn gởi lên cấp trên. Tờ trình rơi vào tay một "ông lớn" ở Tổng hành dinh CIA. Nhân vật này cho thi hành "những biện pháp khẩn cấp nhằm huỷ diệt hết tất cả các "khoản" cùng những hồ sơ lưu trữ có liên quan đến công việc, lẫn những nhân viên của cái tiểu ban có dính đến câu chuyện nêu trong "tờ trình". Thế là ngay đêm hôm đó, nhân viên viết tờ trình bị thủ tiêu tại nhà. Và sáng hôm sau thì toàn bộ người của tiểu ban bị giết một cách thảm khốc, trừ mỗi một mình anh chàng Malcolm, vì sáng hôm đó đi vắng, nên thoát chết. Trở về trụ sở và chứng kiến cảnh giết chóc tàn khốc nọ, Malcolm với biệt danh Thần Ưng (Condor), đã dùng điện thoại báo động. Báo động! Báo động khẩn cấp! Phong toả ngay căn cứ!... Và từ đó bắt đầu cuộc săn lùng, cuộc đấu trí, chung quanh cái trục là Malcolm, "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cả hai phía; phía "chính thống" và phía "buôn lậu ma tuý" đều lùng sục Malcolm, bởi vì anh là người nắm được đầu mối của cái tấn kịch khủng khiếp. Malcolm, cái anh chàng "thư lại" ấy, bỗng chốc phải đối phó với hàng trăm tình huống gay cấn - và tình huống cũng đã buộc anh phải hành động mưu trí, sáng tạo để thoát chết và để khám phá ra bọn thủ phạm vụ án. Vấn đề là trong khi hành động như thế, Malcolm cũng dần dần hiểu ra một điều cơ bản là cả hai phía săn lùng anh cùng có chung một bản chất: "Maronic là đứa giết người thuê. Malcolm bỗng nhớ lại giọng nói của những nhân viên nhà nghề ở đầu đường dây "Báo động", những người cũng y hệt như Maronic vậy. "Không", anh nghĩ bụng, - cuộc săn lùng từ trước đến giờ chỉ nhằm vào mỗi một mình mình. Vấn đề đặt ra chỉ có thế này họ chống lại mình, họ hại mình" (chương Thứ ba (đêm) - Thứ tư (Rạng sáng)). Thông qua toàn bộ câu chuyện, J. Grady cũng phơi bày được một bộ mặt bản chất của xã hội Mỹ: đó là một xã hội với những tội ác kinh điển, thường trực, một xã hội đầy dẫy bọn buôn lậu, bọn găng- xtơ thích máu, mà đối với chúng việc giết người "chỉ là công việc làm ăn, không hơn không kém" và "họ không xúc động mảy may nào về những hậu quả do họ gây nên". Điều đáng chú ý nữa là cái bọn tội phạm ấy lại chính là những nhân vật có cỡ nằm ngay trong nội bộ CIA. Đúng hơn, một số nhân vật có cỡ trong CIA đã móc ngoặc với bọn găng xtơ, làm ăn phi pháp và gây tội ác. Và việc chúng khử cả một tiểu ban của CIA một cách lạnh lùng, tàn bạo… để bịt đầu mối, đã nói lên cái bản chất của những con người trong cái công cụ đáng nguyền rủa ấy của nước Mỹ. Qua cuốn tiểu thuyết, nội tình của CIA, cái mặt trái của tổ chức cồng kềnh này, đã bị phơi trần. Nó có nội gián. Nó mọt ruỗng từ bên trong. Nó kém hiệu lực mặc dù hùng hổ. Đứng trước sự khủng hoảng, nó đối phó lúng túng. Cái gì sẽ xảy ra nếu không có anh chàng Malcolm? Nhân vật "ông già hiền hậu" chỉ là nhân vật tỉnh táo gần như duy nhất, trong trường hợp ấy cũng sẽ chẳng làm nên chuyện gì. Còn Malcolm? Anh là "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cái kết thúc phần nào "có hậu"của cuốn truyện, tuy không hẳn đã phản ảnh chân xác lô- gich của xã hội Mỹ, nhưng cái kết thúc ấy cùng với phần nào cái chất lương thiện trong con người bình thường Malcolm, biểu tượng của khát vọng về lẽ phải và lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ, đã đem lại cho người đọc cảm tình và hy vọng. Đó là một tích cực đáng nói của cuốn truyện này Hội Văn nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng Mời các bạn đón đọc Sáu Ngày Của Condor của tác giả James Grady.
Thánh Giá Rỗng - Higashino Keigo
Đằng sau mỗi vụ án mạng luôn có một câu chuyện đau lòng và đầy nước mắt. Nhưng liệu rằng tử hình có phải là hình phạt thích đáng cuối cùng cho mọi tội ác? Công lý có thực sự được thực thi? Liệu rằng khi lời tuyên bố án tử được vang lên trước tòa, thân nhân của người bị hại có thực sự thấy yên lòng, nỗi đau có phần nào được bù đắp và kẻ gây nên tội ác có chút nào ăn năn, hối cải? Nếu bạn cũng băn khoăn và chưa tìm được lời giải cho những câu hỏi này, hãy tự đi tìm câu trả lời trong cuốn tiểu thuyếtThánh giá rỗng của nhà văn bậc thầy trinh thám hàng đầu Nhật Bản - Higashino Keigo. Thánh giá rỗng là câu chuyện xoay quanh hai vụ án mạng tàn khốc trong cùng một gia đình. Ngày 21 tháng 9 của mười một năm về trước, cô bé Manami ngây thơ, vô tội đã bị sát hại tại nhà riêng. Đúng mười một năm sau, mẹ cô bé - Sayoko, cũng bị giết hại dã man trên con đường thuộc quận Koto. Nakahara - một người chồng, một người cha bất hạnh đã hai lần phải cảm nhận nỗi đau mất người thân. Cái chết đầy uẩn khúc của Sayoko đã khiến anh tạm gác lại niềm riêng để bước vào cuộc hành trình tìm kiếm sự thật. Trên con đường tìm lời giải đáp cho mọi thắc mắc của mình, Nakahara vô tình tìm ra mối liên hệ giữa vụ án mạng của vợ anh và một bí mật động trời khác đã được chôn giấu suốt hai mươi mốt năm trời. Bằng giọng văn giản dị nhưng không kém phần sắc bén Higashino Keigo lại một lần nữa dẫn dắt người đọc đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, lần tìm về quá khứ để từng bước, từng bước gỡ những nút thắt chưa được giải. Không có những pha rượt đổi gay cấn đến nghẹt thở, không có những màn phá án li kì đến xuất thần, nhưng Thánh giá rỗng - cuốn sách có mặt trong top 5 các tiểu thuyết trinh thám hay nhất do Shukan Bunshun bình chọn, bằng một cách rất riêng vẫn ám ảnh và lôi cuốn người đọc vào những câu chuyện cảm động, đầy nước mắt của tình bạn, tình yêu, và tình phụ tử thiêng liêng... *** Higashino Keigo sinh ngày 4/2/1958 tại Osaka. Ông được biết đến như một trong những tác giả nổi tiếng nhất Nhật Bản ở thể loại trinh thám - li kì. Sức lan tỏa và tầm ảnh hưởng của ông với các độc giả Nhật Bản có thể được ví như James Patterson hay Dean Koontz với nhiều thế hệ độc giả Mĩ. Năm 1985, Higashino Keigo giành giải Edogawa Rampo lần thứ 31 cho tác phẩm trinh thám hay nhất với tiểu thuyết Houkago (tạm dịch: Sau giờ học). Năm 1999, ông đoạt giải Mystery Writers of Japan với tiểu thuyết Bí mật của Naoko. Năm 2006, ông tiếp tục nhận giải Naoki lần thứ 134 cho Phía sau nghi can X. Trong năm 2006, Phía sau nghi can X cũng mang về cho Higashino Keigo giải Honkaku Mystery Award. Năm 2012, ông tiếp tục nhận giải thưởng văn nghệ Chuokoron lần thứ 7 cho tiểu thuyết Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya. Các tác phẩm của Higashino Keigo có lối tiếp cận rất độc đáo, cuốn hút độc giả dõi theo từng chi tiết, từng nét chuyển biến dù là mong manh nhất trong tâm lí và tình cảm của các nhân vật. Không chỉ là những câu chuyện độc nhất vô nhị đầy ám ảnh, các tác phẩm của ông còn khiến độc giả suy nghĩ về những vấn đề phức tạp của xã hội và mối quan hệ giữa người với người. Rất nhiều trong số các tác phẩm của Higashino Keigo đã được chuyển thể thành phim và mang về cho nhà sản xuất những thành công rực rỡ về cả mặt thương mại cũng như tính nghệ thuật. Cuốn Thánh giá rỗng (tên gốc: Utsuro na Jujika) bạn đang cầm trên tay là một trong những tác phẩm mới nhất của Higashino Keigo. Cuốn sách được ra mắt lần đầu tiên tại Nhật năm 2014 và nhanh chóng có mặt trong top 5 các tiểu thuyết trinh thám hay nhất do Shukan Bunshun bình chọn. Sẽ thế nào nếu một người thân yêu của chúng ta ra đi vì "bị giết?" Liệu án tử hình là cần thiết hay không hề hiệu quả? Phạt tù là sự trừng phạt hay giải thoát những nỗi đau? Sinh mệnh của đứa trẻ còn chưa lọt lòng thuộc về ai? Ngay cả khi hiểu được động cơ của kẻ gây án, ngay cả khi hắn đã phải chịu án phạt tử hình, thì liệu ngày mà tất cả thực sự được cứu rỗi có đến? Có lẽ không chỉ những người thân xung quanh người bị hại, mà gia đình thủ phạm cũng chỉ là nạn nhân. Sau khi gấp lại những trang cuối cùng và ta buộc phải suy nghĩ về những chủ đề nặng nề như một con đường hầm không thấy ánh sáng như vậy, bạn chỉ có thể thốt lên rằng: Thật đúng là Higashino! Skynovel Iguchi Saori hầu như không nhớ gì về mẹ mình, khi cô bé bắt đầu nhận thức được thế giới xung quanh, bà đã không còn trên đời. Saori vẫn nhớ hồi mẫu giáo cô bé đã ghen tị với đám bạn như thế nào vì chúng có mẹ đến đón mà mình thì không. Đến lúc học tiểu học, cô bé mới hay mẹ đã mất năm mình 3 tuổi, và mãi lên lớp 5 cô bé mới biết bà mất vì bệnh u não khi chỉ vừa 31 xuân xanh. "Mẹ con nấu ăn rất ngon, lại vô cùng dịu dàng. Bà ấy vốn là người rất khỏe mạnh, lúc đó ba cũng không dám nghĩ mẹ con lại mắc bệnh đó", Yosuke - ba của cô bé vẫn luôn nói về mẹ cô như vậy. Yosuke là kỹ sư làm việc tại một công ty chuyên về sản phẩm công nghiệp hóa chất. Trụ sở chính của công ty đặt ở Osaka, nhưng công xưởng Fuji, nơi anh làm việc lại nằm ngay ở thành phố Fuji gần đó, vì thế hàng ngày anh đi ô tô đến công xưởng. Đến năm lớp 4, anh vẫn gửi Saori ở trường giáo dục trẻ em¹. Giờ trả học sinh của trường là 6 giờ 30 phút, nhưng ngày nào Yosuke cũng đến đón cô bé sát giờ trường đóng cửa. Mỗi ngày nhìn thấy mặt ba là cô bé lại an tâm phần nào. ____________________________ (1) Là một dạng trường dành cho trẻ em cấp 1 sau khi tan học nếu về nhà không có người bảo hộ thì sẽ tới đây cho đến khi có người nhà tới đón Khi Saori lên lớp 5, cô bé không đến trường giáo dục trẻ em nữa mà đi thẳng từ trường tiểu học về nhà. Cô bé không chán ghét việc ở nhà một mình, chỉ cần đọc sách, xem đĩa phim là thời gian sẽ mau trôi qua. Ở trường cô bé cũng có bạn, nhưng Saori vốn thích được ở một mình như vậy. Cũng từ lúc đó, Yosuke về nhà muộn hơn. Trước đây, anh vẫn làm bữa sáng và bữa tối đều đặn, nhưng vì công việc càng ngày càng bận rộn, nên có những lúc anh mua cơm hộp ở cửa hàng tiện lợi để hai ba con ăn tối, cũng có những khi Saori một mình gọi pizza vừa ăn vừa đợi ba về. Được một thời gian, Saori nhận ra mình nên tự nấu cơm. Một ngày nọ, Saori đi siêu thị mua thức ăn, rồi ghé qua thư viện mượn một quyển sách dạy nấu ăn. Bữa tối hôm đó cô bé đã làm món thịt hầm khoai tây, canh miso và cơm trắng. Hôm ấy, Yosuke hiếm hoi có một ngày về sớm, mắt anh ánh lên tia lấp lánh, miệng liên tục khen con gái "Saori giỏi quá!". Và dù món thịt hầm thực ra hơi nhạt, canh miso cũng không thể nói là ngon, nhưng chỉ cần nghĩ mình đã giúp được ba cũng khiến cô bé cảm thấy vui vẻ. Từ đó trở đi, Saori trở thành người chăm lo chuyện cơm nước trong gia đình. Không phải ngày nào cô bé cũng có thể nấu, vì thế có những lúc, trước khi Yosuke đi làm cô bé sẽ dặn ba rằng, "Ba, hôm nay ba ăn tối ở ngoài nhé. Con sẽ mua bánh kẹp ở cửa hàng tiện lợi ăn tối". Ngoài nấu cơm, Saori cũng dần dần làm cả việc dọn dẹp hay giặt giũ trong nhà. Cô bé không cảm thấy có gì khổ cực, ngược lại làm việc nhà còn khiến cô bé cảm thấy vui vẻ. Có lẽ Saori hợp với công việc nội trợ gia đình. Yosuke vẫn thường khen con mình đầy tự hào rằng, "Saori sau này sẽ trở thành cô con dâu tốt đây, ba cũng rất yên tâm". Thế nhưng, sau câu khen đó, anh không quên nói thêm, "Nhưng ngoài việc nhà ra, Saori còn phải làm rất nhiều việc khác. Bây giờ điều quan trọng nhất là con phải học tập thật chăm chỉ, như thế sau này con mới được hạnh phúc. Việc nhà hay chuyện của ba, con xếp thứ hai cũng được". Nói như vậy, nhưng Yosuke cũng yên tâm khi con gái quán xuyến việc trong gia đình. Anh về nhà muộn hơn trước, có lẽ vì công việc trở nên bận bịu hơn. Thậm chí khi đã về đến nhà, anh vẫn nhận được những cuộc gọi liên quan đến công việc, số ngày lễ phải đi làm cũng tăng dần, các chuyến công tác qua đêm cũng trở nên thường xuyên. Khi Saori lên cấp hai, cuộc sống ở nhà của Yosuke chỉ là về nhà để ngủ. Cũng vì thế, hai ba con hiếm khi có thể nhàn nhã ngồi nói chuyện với nhau. ... Mời các bạn đón đọc Thánh Giá Rỗng của tác giả Higashino Keigo.