Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn

Nathan Fawles là một nhà văn nổi tiếng, đã tuyên bố ngừng viết và đến ẩn mình trên đảo Beaumont nơi người dân sống tách biệt với phần còn lại của thế giới. Khát khao gặp gỡ thần tượng đời mình, Raphaël, một nhà văn tập sự, đã một ngày kia cập bến đảo, cùng thời điểm với Mathilde, một nữ phóng viên trẻ tuổi có phần bí ẩn. Giữa ba con người tưởng chừng xa lạ ấy liệu có tồn tại mối dây liên kết nào? Cái xác người phụ nữ bị tra tấn dã man và gắn trên cây cổ thụ của đảo thuộc về ai? Cũng như mười lăm cuốn tiểu thuyết trước, Cuộc sống bí ẩn của các nhà văn níu chân người đọc ngay những dòng đầu tiên. Cốt truyện được xây dựng hoàn hảo, cuốn ta vào một mê cung trinh thám tâm lý nơi số phận ba nhân vật chính đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Nói như Bernard Lehut từ kênh RTL, thì đây thực sự là “một cốt truyện đỉnh cao, một tác phẩm ly kỳ hồi hộp, một trò ‘gương phản chiếu’ khéo léo giữa tác giả và độc giả.” “Thông điệp từ Cuộc sống bí ẩn của các nhà văn chắc chắn là lời tỏ tình tuyệt đẹp mà Musso dành cho việc đọc, và cả việc viết.”       - Elle *** “Mọi người đều có ba cuộc sống: Cuộc sống riêng tư, cuộc sống công khai và cuộc sống bí mật…” – Gabriel García Márquez Cuộc sống bí mật của các nhà văn (La vie secrète des écrivains) là cuốn sách thứ 16 của Guillaume Musso, đã được xuất bản ở Pháp vào đầu năm 2019. Nhã Nam đã nhanh chóng mua bản quyền và như thường niên, vào cuối năm 2019 cuốn sách đã nhanh chóng ra mắt với người đọc. Ngay sau khi mở bán, Cuộc sống bí mật của các nhà văn đã đạt được con số kỉ lục 32 triệu bản phát hành trên khắp thế giới. Vốn là nhà văn vô cùng được yêu thích ở Pháp, các tác phẩm của ông được độc giả đón đọc rất nhiều. Không chỉ vậy, sức hút của ông ở Việt Nam vô cùng lớn với lượng người hâm mộ hùng hậu. Có thể nói Guillaume Musso là một trong những nhà văn đương đại Pháp được hâm mộ nhiều nhất. Marc Levy cũng là một nhà văn vô cùng nổi tiếng của Pháp, nhưng những tác phẩm của ông chủ yếu viết về tình cảm. Trong khi đó Guillaume Musso cũng viết về tình cảm đan xen cùng với trinh thám, hành động. Đây là một điểm đặc trưng và cuốn hút của những tác phẩm của ông, điều đã làm nên thành công của Guillaume Musso.   Cuộc sống bí mật của các nhà văn xoay quanh ba nhân vật chính: Nathan Fawles, Mathilde Monney và Raphaël Bataill. Nathan đã từng là một nhà văn vô cùng nổi tiếng, sau ba tác phẩm vô cùng nổi tiếng của ông là Loreleï Strange, Một thành phố nhỏ ở Mỹ- đạt được danh hiệu Pulitzer và Những kẻ bị sét đánh, Nathan đã quyết định gác lại sự nghiệp và lui về ở ẩn. Sự việc này khiến báo chí và giới công chúng vô cùng bàng hoàng. Trước khi kết thúc sự nghiệp viết, Nathan đã trả lời vô số các cuộc phỏng vấn của báo chí nhưng không ai là biết được lí do tại sao Nathan lại từ bỏ công nghiệp này khi đang đứng trên đỉnh cao sự nghiệp. Điều gì đã khiến Nathan Fawles từ bỏ danh vọng, tiền bạc? Cuộc sống bí mật của các nhà văn được kể theo ngôi thứ nhất, qua lời kể của Raphaël Bataill, một anh chàng yêu thích việc viết lách nhưng đã bị từ chối xuất bản cuốn sách đầu tay mới viết xong. Nản chí, anh nghĩ rằng tác phẩm của mình có thể được nhận xét và sửa lỗi khi anh gặp được vị thần tượng của mình: Nathan Fawles. Khi cánh cửa cơ hội gõ cửa thì Raphaël đã nhanh chóng nhắm bắt lấy, anh đã xin một công việc tạm thời trên đảo Beaumont- nơi Nathan đang sinh sống để có thể tiếp cận với ông. Một nữ nhà báo Mathilde Monney cũng có mặt trên hòn đảo Beaumont với mục đích là tiếp cận Nathan, nhưng ngoài việc tìm ra lí do bỏ sự nghiệp viết văn của Nathan thì cô ta còn có những mục đích khác. Thêm vào đó, cùng với sự xuất hiện của Mathilde thì còn kéo theo một vụ án trên đảo. Vậy mối liên kết của cả ba con người là gì? Sự xuất hiện cùng lúc của Mathilde có liên quan gì tới cái chết bí ẩn của người phụ nữ bị tra tấn dã man và gắn trên cây cổ thụ của đảo.  Có thể nói Cuộc sống bí mật của các nhà văn lại là một thành công nối tiếp tác phẩm trước đó- Cô gái và màn đêm. Đặc biệt hơn nữa là tác phẩm này hoàn toàn thuần chất trinh thám, hành động, và không có những chi tiết tình cảm được đan xen như các tác phẩm trước. Cùng với cốt truyện lôi cuốn, dàn nhân vân của truyện đều để lại những hình ảnh mà Musso muốn khắc hoạ Dàn Nhân Vật Nathan Fawles, nhân vật trọng tâm của cuốn sách , là một nhà văn giấu bao điều bí mật. Trước sự rời bỏ danh vọng và lui về ở ẩn của ông, không một ai biết được lí do thực sự khiến nhà văn làm chuyện đấy.  “ Điều cốt yếu là thứ nhựa sống tưới tắm cho câu chuyện của cậu. Thứ nhựa sống phải chiếm hữu cậu và lan khắp cơ thể cậu như một luồng điện. Thứ nhựa sống phải thiêu đốt những huyết quản trong cậu để cậu không thể làm gì khác ngoài đi đến tận cùng cuốn tiểu thuyết như thể cuộc sống của cậu phụ thuộc cả vào đó. Viết chính là vậy. Chính thứ đó sẽ khiến độc giả của cậu cảm thấy bị giam cầm, chìm đắm và họ sẽ đánh mất những dấu mốc của bản thân để mặc mình bị nhấn chìm như chính cậu từng bị vậy.” Dù không ưa Raphaël, và để đạt được sự trợ giúp của cậu thì Nathan đã miễn cưỡng đưa ra lời khuyên cho cuốn tiểu thuyết của cậu. Tuy nhiên, những lời khuyên đó lại chân thật, nó xuất phát từ trái tim của một nhà văn thực sự yêu nghề, quý trọng với nghiệp viết và có nhiều kinh nghiệm trong việc này. Chỉ với đó thôi mà người đọc có thể dễ dàng hình dung ra con người của Nathan- một nhà văn thực sự tâm đắc với nghề. Lí do thực sự khiến ông bỏ nghiệp viết không ai biết, nhưng Raphaël tin chắc rằng vị cứu tinh này có thể giúp mình, và nhờ vào những lời khuyên chân thành của Nathan thì anh đã có thêm cảm hứng để viết nên cuốn tiểu thuyết thứ hai của bản thân- Cuộc sống bí mật của các nhà văn. “ Phẩm chất hàng đầu của một nhà văn là biết lôi cuốn độc giả bằng một câu chuyện hay. Một câu chuyện có khả bứt độc giả khỏi cuộc sống riêng để phóng chiếu họ vào giữa sự riêng tư và sự thật về các nhân vật. Văn phong chỉ là phương tiện phân bổ câu chuyện và giúp câu chuyện trở nên cuốn hút.” Dù chỉ là một nhà văn tập sự chưa hề có tiếng tăm, nhưng Raphaël đã có những quan điểm, nhận xét đúng đắn về một nhà văn. Anh coi trọng phẩm chất cần có của một nhà văn, họ nên đặt hết tâm huyết của mình vào cuốn tiểu thuyết, chứ không phải những cuốn sách rẻ tiền.  Một nhà văn giỏi là khi anh ta có thể hút người đọc vào trong chính thế giới của câu chuyện. Khi độc giả đọc không ngừng nghỉ một cuốn sách, và sau đó là nhận ra được những giá trị bài học và thậm chí thấy bản thân của họ trong đó, thì nhà văn đó thực sự thành công.  Do được kể từ điểm nhìn của Raphaël nên mọi quan điểm của anh được thể hiện rất rõ ràng. Đó như thể chính là những điều mà tác giả Musso muốn dành tặng cho độc giả của mình. Musso như thể đã hoá thân vào chính nhân vật của mình để truyền tải những quan điểm của bản thân. Mathilde Monney là một nhân vật nữ khác biệt so với những cuốn sách khác của Guillaume Musso. Cô là một càng nàng cá tính, thông minh mưu mẹo, dám hành động một cách nguy hiểm để đạt được mục đích. Và đặc biệt hơn, là cô có những bí mật bị chôn vùi. Những bí mật mà một tai nạn năm xưa đã để lại, khiến cô mất đi trí nhớ và sống khi không hề hay biết gì. Chính vì vật ngay khi đã biết được sự thật cô đã có một kế hoạch, kế hoạch để trả thù. “- Một cuốn tiểu thuyết hay là gì?   – Bạn sáng tạo ra các nhân vật gợi nên tình yêu và sự cảm thông trong độc giả. Rồi bạn giết chết các nhân vật này. Và bạn khiến độc giả của mình tổn thương. Bấy giờ, họ sẽ luôn nhớ đến tiểu thuyết của bạn.” – John IRVING Cái kết của truyện, cú twist ở những trang cuối như cái tát của Musso dành cho độc giả của mình vậy! Bao bí ẩn, bất ngờ, sự thật bị giấu kín đều phơi bày trước ánh sáng. Người đọc phải há hốc mồm vì ngạc nhiên, trời ơi tại sao Musso lại làm vậy! Thử tưởng tượng khi cuốn sách đi được hơn 2/3 chặng đường rồi, thì nhân vật chính của câu chuyện chết? Hầu như chả bao giờ có tác giả nào dám làm vậy! Nhân vật chính sinh ra để kể chuyện, để truyền tải thay những điều tác giả muốn nói, thử hỏi có ai lại muốn giết nhân vật chính của mình! Thế nhưng đây là Guillaume Musso, điều gì cũng có thể xảy ra trong câu chuyện của ông, người đọc phải nán lại đến những dòng chữ cuối cùng để tìm ra được sự thật. Với cú lừa đầy bất ngờ ở cuối, Guillaume Musso đã khiến bao con tim bị tổn thương. Cho độc giả yêu nhân vật của mình, rồi lại để họ bị tổn thương và có cảm giác bị lừa, Musso thật đúng là tài tình trong việc kể nên một câu chuyện giả tưởng. Đây cũng chính là lí do tại sao Cuộc sống bí mật của các nhà văn lại đặc biệt hơn bao giờ hết! Kết Với bất kì fan của Musso, đừng do dự mà hãy đọc ngay cuốn sách này. Còn với những ai muốn biết thêm về ông, Cuộc sống bí mật của các nhà văn là một trải nghiệm tuyệt vời để tiếp cận với văn phong của ông. Chắc chắn độc gỉa không hề thất vọng khi đặt cuốn sách này xuống! Không chỉ vén màn lên sự thật đằng sau ánh hào quang của một nhà văn, những thông điệp truyền tải của Musso vô cùng rõ ràng và nhân văn. Thêm vào đó, những câu quote đầy chất lượng đến từ chính Musso và nhiều nhà văn nổi tiếng khác cũng được thu thập và mỗi câu quote đều đại diện cho ý nghĩa của mỗi chương truyện. Ngòi bút khắc hoạ nhân vật của Guillaume Musso vẫn tài tình như thế, ông tạo được sự đồng cảm dành cho nhân vật của mình, nhân vật của ông có thể đáng ghét hay thông minh, dũng cảm, họ đều để lại dấu ấn cho người đọc. Độc giả sẽ dần dần yêu những nhân vật Musso tạo ra, và rồi chính họ sẽ để lại bao bất kì dành cho độc giả. Với những ai đang chập chững trên con đường trở thành nhà văn, hoặc đơn giản là yêu thích sách, thì Cuộc sống bí mật của các nhà văn là một sự lựa chọn tuyệt vời. Chắc chắn cuốn sách thứ 16 này của Guillaume Musso sẽ đem đến những cảm xúc tuyệt vời cho độc giả. *** Bí ẩn Nathan Fawles (báo Le Soir - ngày 4 tháng Ba 2017) Vắng bóng trên văn đàn suốt gần hai chục năm qua, tác giả cuốn Loreleï Strange huyền thoại vẫn thực sự mê hoặc độc giả ở mọi lứa tuổi. Sau khi lui về ở ẩn trên một hòn đảo thuộc Địa Trung Hải, nhà văn nhất quyết từ chối mọi lời mời mọc của giới truyền thông. Sau đây là cuộc điều tra về kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont. Người ta gọi đó là hiệu ứng Streisand: càng tìm cách che giấu bao nhiêu, bạn càng thu hút sự tò mò bấy nhiêu. Kể từ khi đột ngột rút khỏi thế giới văn chương vào năm ba mươi lăm tuổi, Nathan Fawles là nạn nhân của cơ chế tai ác này. Cuộc sống của nhà văn người Mỹ lai Pháp này như được một vầng hào quang huyền ảo bao quanh và làm nảy sinh hàng loạt chuyện ngồi lê đôi mách cùng những lời đồn thổi suốt hai thập kỷ qua. Fawles sinh năm 1964 tai New York, cha là người Mỹ, mẹ là người Pháp, tuổi thơ của ông diễn ra trọn vẹn tại Paris và ông chỉ quay trở lại Mỹ để hoàn thành việc học, trước tiên là tại Học viện Phillips, sau đó là tại Đại học Yale. Tốt nghiệp chuyên ngành Luật và Khoa học Chính trị nhưng sau đó ông lại dốc hết sức mình cho sự nghiệp nhân đạo, với vài năm làm việc trên thực địa cho tổ chức Hành động chống lại nạn đói và Bác sĩ không biên giới, nhất là tại Salvador, Armenia và Kurdistan. Văn sĩ thành công Năm 1993, Nathan Fawles quay trở lại New York và xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Loreleï Strange, hành trình đầu đời của một nữ thiếu niên bị giam giữ trong bệnh viện tâm thần. Thành công không đến ngay tức khắc, nhưng chỉ sau vài tháng, nhờ những thông tin truyền miệng - đặc biệt trong giới độc giả trẻ - cuốn tiểu thuyết đã vươn lên đứng đầu danh sách sách bán chạy. Hai năm sau, với cuốn sách thứ hai nhan đề Một thành phố nhỏ ở Mỹ, cuốn tiểu thuyết hợp xướng uyên bác dày ngót ngàn trang, Nathan Fawles đã đoạt giải Pulitzer và nổi lên như một trong những giọng văn độc đáo nhất của văn đàn Mỹ. Cuối năm 1997, lần đầu tiên tiểu thuyết gia khiến giới văn chương sửng sốt. Sau khi định cư ở Paris, ông xuất bản cuốn sách mới của mình trực tiếp bằng tiếng Pháp. Những kẻ bị sét đánh là một câu chuyện tình đau thương đến xé lòng, nhưng cũng là một suy tưởng về nỗi đau trước cái chết, cuộc sống nội tâm và quyền năng của viết lách. Chính vào dịp này, công chúng Pháp đã thực sự khám phá ra ông, đặc biệt khi ông tham gia một ấn bản đặc biệt của Nồi hầm văn hóa cùng Salman Rushdie, Umberto Eco và Mario Vargas Llosa. Chương trình hồi tháng Mười một năm 1998 này chính là hoạt động truyền thông áp chót của ông. Quả nhiên, bảy tháng sau, khi vừa bước sang tuổi ba mươi lăm, Fawles đã thông báo việc mình quyết định ngừng viết hẳn trong cuộc trả lời phỏng vấn đầy sắc bén với hãng thông tấn AFP. Kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont Kể từ ngày đó, nhà văn vẫn giữ vững quan điểm của mình. Sống trong căn nhà riêng tại đảo Beaumont, Fawles không còn công bố bất kỳ bản thảo nào dù ngắn nhất, cũng không đồng ý trả lời phỏng vấn bất cứ phóng viên nào. Ông còn từ chối mọi đề xuất chuyển thể các tiểu thuyết của mình sang lĩnh vực điện ảnh hoặc truyền hình (mới đây Netflix và Amazon tiếp tục thất bại trong phi vụ này, bất chấp những đề xuất tài chính vô cùng hấp dẫn, theo như lời họ). Chẳng mấy chốc là tròn hai chục năm, sự im lặng chát chúa của “kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont” không ngừng nuôi dưỡng những ảo tưởng. Tại sao Nathan Fawles lại chọn cách tự nguyện rời xa thế giới như vậy khi mới ba mươi lăm tuổi, lại đang ở tột đỉnh vinh quang? “Làm gì có bí ẩn Nathan Fawles, Jasper Van Wyck, người bấy lâu vẫn là đại diện của nhà văn cam đoan. Chẳng có bí mật nào để khám phá đâu. Đơn giản là Nathan đã chuyển sang làm việc khác. Anh ấy đã ngừng hẳn việc viết lách và đoạn tuyệt với giới xuất bản.” Khi được hỏi về cuộc sống thường nhật của nhà văn, Van Wyck vẫn tỏ ra mập mờ: “Theo như tôi được biết, Nathan đang chuyên chú vào những mối quan tâm riêng.” Để sống hạnh phúc, hãy sống ẩn mình Để chận đứng mọi trông mong của độc giả, người đại diện này nói rõ rằng tác giả “không còn viết một dòng nào nữa từ hai chục năm nay” và tỏ ra dứt khoát: “Nếu Loreleï Strange thường xuyên được so sánh với Bắt trẻ đồng xanh, thì Fawles lại không như Salinger: trong nhà anh ấy không có két sắt chứa đầy bản thảo. Cũng sẽ không bao giờ có cuốn tiểu thuyết mới nào ký tên Nathan Fawles. Ngay cả sau khi anh ấy qua đời. Đó là điều chắc chắn.” Một lời cảnh báo chẳng đời nào làm nản lòng những kẻ tò mò tìm hiểu thêm. Năm tháng trôi qua, nhiều độc giả lẫn phóng viên đã lên đường tìm tới tận đảo Beaumont để lảng vảng rình mò quanh nhà Fawles. Họ luôn thấy cửa nhà im ỉm đóng. Dân trên đảo dường như cũng sinh nghi. Không có gì đáng ngạc nhiên tại một nơi mà thậm chí từ trước khi nhà văn chuyển tới sinh sống, câu châm ngôn Để sống hạnh phúc, hãy sống ẩn mình đã được nâng tầm thành khẩu hiệu. “Tòa thị chính không chia sẻ danh tính cư dân, bất kể nổi tiếng hay không,” viên trợ giúp thị trưởng chỉ nhấn mạnh như vậy. Hiếm người dân đảo nào đồng ý nói về nhà văn. Những người chấp nhận trả lời chúng tôi coi sự hiện diện của tác giả cuốn Loreleï Strange trên đất của họ là chuyện rất đỗi bình thường. “Nathan Fawles không ở ru rú trong nhà mà cũng chẳng co rúm người, Yvonne Sicard, vợ của bác sĩ duy nhất trên đảo, cam đoan. Chúng tôi thường xuyên gặp ông ấy ngồi sau vô lăng chiếc Mini Moke khi tới Ed’s Corner, siêu thị duy nhất của thành phố, để mua sắm.” Nhà văn cũng thường xuyên tới quán rượu trên đảo, “nhất là khi có buổi tiếp phát các trận đấu của đội Olympique Marseille,” chủ quán rượu nói rõ. Một trong những khách quen của quán nhận xét “Nathan không phải kiểu người cục cằn thô lỗ như báo chí đôi khi miêu tả. Đó đúng ra là một tay đáng mến thông thạo bộ môn túc cầu và chuộng rượu whisky Nhật.” Chủ đề trò chuyện duy nhất có thể khiến nhà văn nổi cáu: “Nếu anh cố gắng mắc nối tới những cuốn sách Fawles viết hoặc tới văn chương, rốt cuộc ông ấy sẽ rời khỏi phòng.” Một khoảng trống trong văn chương Về phần các đồng nghiệp của Fawles, ta thấy nhiều người phục tùng ông vô điều kiện. Thí dụ như Tom Boyd, vốn luôn dành cho ông lòng ngưỡng mộ vô bờ bến. “Tôi nợ Fawles một vài trong số cảm xúc đẹp nhất có được từ việc đọc nên hiển nhiên, ông ấy thuộc số những nhà văn mà tôi mắc nợ.” tác giả Bộ ba thiên sứ cả quyết. Lại thêm ý kiến của Thomas Degalais cho rằng Fawles đang xây dựng ba cuốn sách hết sức khác biệt thành một tác phẩm độc đáo sẽ làm nên lịch sử. “Dĩ nhiên, tôi cũng như tất cả mọi người đều tiếc nuối khi ông ấy rút khỏi văn đàn, tiểu thuyết gia người Pháp bày tỏ. Thời đại chúng ta thấy nhớ giọng văn ông ấy. Tôi mong Nathan quay lại đấu trường bằng cách viết một cuốn tiểu thuyết mới, nhưng tôi nghĩ chuyện đó sẽ không đời nào xảy ra.” Quả nhiên, có thể là vậy, nhưng đừng quên rằng Fawles đã chọn câu nói sau trong Vua Lear làm tiểu dẫn cho cuốn tiểu thuyết sau cùng của mình: “Chính những ngôi sao, những ngôi sao trên cao vời vợi kia, đang chi phối cuộc sống của chúng ta.” Jean-Michel Dubois NHÀ VĂN KHÔNG VIẾT NỮA Nhà xuất bản Calmann-Lévy Số 21 phố Montparnasse 75006 Paris Số định danh: 379529 Ông Raphaël Bataille Số 75 đại lộ Aristide-Briand 92120 Montrouge Paris, ngày 28 tháng Năm năm 2018 Thưa ông, Chúng tôi đã nhận được bản thảo Sự rụt rè của những đỉnh caocủa ông, và xin cảm ơn ông vì đã tin tưởng Nhà xuất bản chúng tôi. Bản thảo của ông đã được ban thẩm định của chúng tôi nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng thật đáng tiếc, bản thảo không phù hợp với dạng tác phẩm mà chúng tôi hiện đang tìm kiếm. Chúng tôi chúc ông sớm tìm ra một nhà xuất bản cho bản thảo này. Trân trọng, Ban thư ký văn học TB: bản thảo của ông vẫn được lưu tại chỗ chúng tôi trong vòng một tháng nữa. Vậy trong trường hợp muốn nhận lại bản thảo này qua đường bưu điện, làm ơn gửi cho chúng tôi một phong bì dán sẵn tem. Mời bạn đón đọc Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn của tác giả Guillaume Musso & Phúc Chi Nhi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bá Chủ Hắc Đạo Cưng Chiều Vợ Sát Thủ
Thể loại: Hắc bang, ngôn tình, HE Lôi Lạc Thiên anh ngoài thân phận đứng đầu giới bạch đạo ở thành phố S thì còn là người đứng đầu Bang Lôi Ưng của hắc đạo. Anh có tướng mạo vô cùng phi phàm, lạnh lùng và tàn nhẫn. Điều đặc biệt là anh không thích phụ nữ. Anh có hai thuộc hạ trung thành đồng thời cũng là bạn tốt của anh. Trình Lam cô là một siêu sát thủ đứng đầu tổ chức Thần Long. Khuôn mặt trái xoan, đôi môi xinh đẹp, mái tóc hạt dẻ khiến cô trông thật dịu dàng và nữ tính. Nhưng sở trường của cô gái nhỏ đó lại là đua xe, mở khóa, võ thuật, sử dụng các loại vũ khí và là một cao thủ hacker. *** Thành Phố Las Vegas là một trong những thành phố xa hoa nhất tại Mỹ. Khi màn đêm buông xuống những ánh đèn neon rực rở ánh sáng, là lúc bất đầu một đêm ăn chơi trụy lạc. Các sòng bạc và quán bar bất đầu tụ tập những kẻ ăn chơi xa đọa. Những người tự cho mình là người của giới thượng lưư điều tụ tập tại quán Bar Night Angel. Một quán bar nổi tiến và xa xỉ nhất tại Las Vegas cũng là 1 trông 5 quán Bar của bang Lôi Ưng trông và ngoài nước. Những người muốn vào đây điều phải có thẻ hội viên. Tiền để mở thẻ hội viên có thể để người bình thường sống một cuộc sống giản dị cả đời. Những kẽ ra vào nơi nầy không phải con ông cháu cha thì là các công tử, tiểu thư nhà giàu và các đại minh tinh. Trên sàn nhảy có những vũ công xinh đẹp với thân hình bóc lửa đang lượng theo những điệu nhạc sống động. Các nam nữ tụm ba tụm bẩy nói chuyện và liên tục uống rượu. Trong một góc của quầy bar có một cô gái mặc bộ váy bó sát người để lộ ra những đường công hoàn mỹ. Cô là Trình Lam cao 1m68 dáng người duyên dáng mảnh mai, có khuôn mặt trái xoan. Làn da trắng mịn đôi chân thôn dài. Tóc màu hạt dẻ dài đến thắc lưng. Cô gọi một ly Brandy có độ cồn rất cao. Người Bartender mới vừa đặt ly rượu xuống trước mặt cô, cô cầm ly Brandy lên uống một hơi cạn sạch. Cô gọi thêm một ly nữa. Giờ phút nầy trong một góc của quán bar có 4 người đàn ông đang ngồi nối chuyện. Lôi Lạc Thiên là Tổng giám đốc tập đoàn Lôi Thị kinh doanh bất động sản, đứng đầu giới bạch đạo ở Thành Phố S. Cũng đồng thời là người đứng đầu Bang Lôi Ưng trong giới Hắc đạo chuyên buôn bán vũ khí. Anh Lôi Lạc Thiên 27 tuổi, con trai độc nhất của Ông Lôi Lạc Hùng gia tộc đứng đầu Thành phố S. tướng mạo phong nhã, lịch sự sang trọng,nước da mầu nâu, có đôi mắt như chim ưng, sống mũi cao thẳng và một đôi môi mỏng, cao 1m8 thân hình hấp dẩn cường trán, nhưng khi người ta nhìn vào có một cảm giác lạnh thấu xương. Anh ra tây tàn nhẫn, thánh tình bình tĩnh quyết đóan, trên người anh tỏa ra sự cao quý và oai nghiêm. Anh Không bao giờ bỏ qua cho bất cứ ai giám động đến anh hoặc là đồ thuộc về quyền sở hưữ của anh. Tính tình ưa sạch sẽ. Lôi thiếu ít khi anh có hứng thú đến nơi này, nào mình cạn một ly. Tràn Hao lên tiếng. Tràn Hao là Tổng giám đốc tập đoàn Tràn Thị kinh doanh trong làng giả trí và khách sạn. Năm nay 28t, tính tình ôn hoà, phong lưu, có nụ cười rạng rở, nhưng đằng sau bộ mặt bất cần đời là một người vô cùng nghiêm nghị, tướng người hoàn mỹ. Ngồi khế bên Tràn Hào là Manh Hùng, Tổng giám đốc tập đoàn Manh Thị, năm nay 30 tuổi, kinh doanh ngân hàng và buôn bán vũ khí. Tính tình tàn nhẫn thà giết lầm còn hơn bỏ sót. Ngồi đối diện kế bên Lôi Lạc Thiên là Nam Liệt, Tổng giám đốc tập đoàn Nam Thị. Năm nay 27 tuổi kinh doanh hệ thống truyền thong và Internet. Một cao thủ hacker cũng là Nhị đương gia của bang Lôi Ưng. Diện mạo tuấn tú, thân hình cường trán tính tình ôn hoà, vẽ bề ngoài thì sao cũng được nhưng thật sự rất thâm đọc. Đây chín là nhóm tài phiệt đứng đầu Chau á với số tài sảng khủng lồ. Họ ở Thành Phố S là những chàng trai độc thân hoàng kim, cũng là những người được các cô gái hâm mộ chỉ cần có thể tiếp cận được họ, các cô sẽ không bỏ qua bất cứ cơ hội và thủ đoạn gì. Các nhà doanh nhân trong nước ai cũng muốn gả con gái cho bọn họ, để có thể củng cố địa vị và thế lực của mình trên thương trường. Lôi Lạc Thiên tây cầm ly rượu, mắt hơi híp lại nhìn về một góc bar nơi Trình Lam đang ngồi. Khi Bartender đặt ly rượu thứ nhì xuống trước mặt cô, Trình Lam cầm lên uống một hơi. Ực ực... Đặt mạnh ly xuống. Cô Hướng về phía cửa, nơi một người đàn ông cao lớn mặc Âu phục màu xám mới bước vào, cùng 2 tên vệ sĩ toàn thân màu đen. Cô đứng lên mái tóc dài màu hạt dẻ rủ xuống bả vai, cập đùi thon dài để lộ ra làn da trắng mịn. Cập mắt trong như suối hướng người đàn ông mặc đồ xám nở nụ cười động lòng người. Khi cô bước ngan qua người đàn ông kia cô xoay nhẹ chiếc nhẫn trên tay, một cộng dây bằng bạc sắc bén từ trong chiếc nhẩn đưa ra. Cô dùng tóc độ nhanh nhất, đưa tay ngang qua cổ của người đàn ông, rồi lước qua 2 tên vệ sĩ đi ra ngoài cửa. Với tốc độ nhanh như chớp cổ người đàn ông bị rạch một đường thật sâu, máu phúng ra ngoài làm các người chung quanh hốt hoảng la hét chạy tán loạn. Lôi Lạc Thiên ngồi xem toàn bộ quá trình chỉ diễn ra trong vòng 1 phút. Cập mắt Anh hơi nhắm lại, dựa lưng vào ghế Sopha uống một ngụm rượu vang, chất lỏng màu đỏ từ từ chảy xuống cổ họng của anh. Trong lòng thầm nghĩ “Cô gái nầy thật thú vị“. Mời các bạn đón đọc Bá Chủ Hắc Đạo Cưng Chiều Vợ Sát Thủ của tác giả Lan Hồ Điệp 134.
Mực Giấy Và Sao Trời
Mực Giấy Và Sao Trời - một cuốn sách có phép màu! Isabella, mười ba tuổi, cô và ba mình sống trên hòn đảo Joya dưới sự thống trị của Thống đốc Adori tàn ác. Tuy tàn độc nhưng Thống đốc Adori lại có một cô con gái lương thiện là Lupe, cũng là bạn thân của Isabella. Cuộc sống thanh bình trên Joya đột nhiên xảy ra biến động lớn khi người bạn cùng lớp của Isabella và Lupe bị giết một cách kì bí, còn Lupe thì mất tích. Isabella buộc phải cải trang thành con trai để trà trộn vào đoàn tìm kiếm của Thống đốc. Cô bé sử dụng kĩ năng vẽ bản đồ được thừa hưởng từ ba mình để giúp cả đoàn. Cũng trong chuyến đi này, Isabella khám phá ra nhiều bí ẩn về quá khứ huy hoàng của Joya - một hòn đảo trôi nổi tự do trên biển. Cuộc hành trình mạo hiểm nhưng đầy bất ngờ đã tặng cho cô bé những bài học quý giá, giúp cô trưởng thành và mạnh mẽ hơn. Mực giấy và Sao trời là câu chuyện phiêu lưu đầy màu sắc kì diệu về tình cha con, tình bạn và lòng dũng cảm tiềm ẩn trong mỗi cô gái. *** Review sách Mực Giấy Và Sao Trời "Mực Giấy Và Sao Trời" - Câu chuyện là đan xen giữa tình bạn, tình cha con, sự đấu tranh và lòng dũng cảm. Mình được tặng cuốn này từ rất lâu. Nhưng sau đó bận quá nên vứt một chỗ rồi sau này tiếc rằng không đọc nó sớm hơn."Mực Giấy Và Sao Trời" hay ngay từ tên truyện rồi, nghe cứ như là một chuyến đi xa và mực giấy để ghi chép lại hành trình tuyệt vời đó, và sao trời nghe như những điều chỉ đường dẫn lối cho những cuộc phiêu lưu. Và đúng, nó là câu chuyện phiêu lưu mà mình vô cùng thích. Kiran Millwood Hargrave là một nhà văn rất nổi tiếng về truyện viết cho thiếu nhi. Chính vì thế, nhân vật trong câu chuyện này vẫn còn nhỏ. Nhỏ mà lại có hành trình lớn, thế mới hay và thú vị."Mực Giấy Và Sao Trời" kể về cuộc sống trên một hòn đảo nhỏ có tên làJoya dưới sự thống trị của Thống đốc Adori hung ác. Thế nhưng con gái của ông ta Lupe, lại là một cô bé lương thiện dễ mến và cũng là bạn thân của Isabella. Câu chuyện bắt đầu xảy ra khi một người bạn cùng lớp củaIsabella và Lupe bị giết một cách bất ngờ, để lại nỗi bàng hoàng và thương xót của tất cả mọi người. Cuộc sống thanh bình trên Joya cũng từ đó mà bị chấn động lớn, mọi thứ gần như bị đảo lộn hết lên. Ngay sau đó, Lupe cũng bị mất tích một cách bất ngờ. Trong cuộc hành trình đó, Isabella đã phải cải trang thành nam và đi kiếm cô bạn thân của mình. Cô bé sử dụng kĩ năng vẽ bản đồ được thừa hưởng từ ba mình để giúp cả đoàn. Cũng trong chuyến đi này, Isabella khám phá ra nhiều bí ẩn về quá khứ huy hoàng của Joya - một hòn đảo trôi nổi tự do trên biển. Cuộc hành trình mạo hiểm nhưng đầy bất ngờ đã tặng cho cô bé những bài học quý giá, giúp cô trưởng thành và mạnh mẽ hơn. Và"Mực Giấy Và Sao Trời" cũng dành cho người đọc những triết lý sâu xa về tình yêu thương trong cuộc đời này: tình cha con, tình bạn bè. Nếu như bạn thân của mình mà bị mất tích giống Lupe, chắc mình cũng hoảng loạn và kinh hoàng lắm. Mình cũng sẽ làm mọi để tìm bạn mình và đưa bạn trở về an toàn. Nhưng bây giờ đặt trong hoàn cảnh củaIsabella, một cô bé nhỏ hơn mình rất nhiều tuổi lại dám dũng cảm dấn thân vào cuộc hành trình như thế, một cuộc hành trình mà có khi người lớn cũng phải e ngại. Thế mới nói, chính tình thương mới giúp chúng ta mạnh mẽ và trưởng thành hơn. Đây là một cuốn sách đáng đọc để bạn có thể trở về tuổi thơ, chìm đắm trong tình thương và nhận được nhiều bài học. Mời các bạn đón đọc Mực Giấy Và Sao Trời của tác giả Kiran Millwood Hargrave & YokenJ (dịch).
Khiêu Vũ Với Bầy Sói
Đại tá John Dunbar phiêu bạt đến một bộ lạc người da đỏ và được bộ lạc cưu mang. Cuộc sống êm đềm diễn ra giữa thiên nhiên hoang dã và những con người hồn nhiên, đặc biệt tình yêu nảy nở giữa anh và một người con gái da trắng được bộ lạc này nuôi dưỡng từ nhỏ. Năm 1836, khi chiến tranh còn đang giai đoạn nóng bỏng, đại tá John Dunbar vừa thoát chết sau một cuộc giao tranh với một bên chân bị thương nặng. Các bác sĩ ở bệnh viện Union Field tại Tennessee không thể cắt bỏ nó, đau đớn đến cùng cực tưởng như không thể chịu đựng được nữa, Dunbar tuyệt vọng và suýt nữa tự tử. Đột nhiên trong lúc tuyệt vọng và lang thang ở biên giới phía tây, Dunbar bắt gặp một con sói tên là Two-Socks và bộ lạc người da đỏ Sioux. Anh được họ cưu mang và gọi tên là “Dances With Wolves”. Thời gian đầu thực sự khó hòa nhập với những người da đỏ xa lạ. Anh phải quan sát học tập theo lối sống và cách xử sự của họ, kể cả ngôn ngữ của người da đỏ. *** Bản dịch này dịch theo phong cách lược dịch thường gặp ở những bản dịch cũ trước năm 2000, tức là ở đó người dịch sẽ bỏ không dịch một số đoạn văn và ở một số đoạn văn thì trình bày và diễn giải tương đối khác với nguyên tác. Do đó nếu so sánh với nguyên tác Dances with Wolves thì bản dịch này có khác biệt sau: Không chia các chương nhỏ như trong nguyên tác; và đôi khi có vài đoạn văn được bỏ qua, không dịch. Số hoá quyển sách này với mục đích lưu trữ nên tôi chủ trương trung thành hết mức có thể với phiên bản giấy. Ở phiên bản số này tôi chỉ sửa lại các lỗi đánh máy, lỗi chính tả, lỗi dịch tên không thống nhất, và có một đoạn văn dài 1500 chữ mang thông tin quan trọng với nội dung câu chuyện nhưng không được dịch, tôi đã đề chú thích bên dưới để tóm tắt nội dung đoạn bị thiếu nhằm giúp bạn đọc dễ theo dõi mạch truyện hơn. Còn lại, tất cả thông tin của sách giấy được giữ nguyên, bao gồm cả nội dung ở trang xi-nhê và bìa sau. Bìa của phiên bản này, cũng như cách dàn trang sách đều do tôi thiết kế lại. Phần Lời giới thiệu cho phiên bản số do tôi thêm vào. Trung uý John Dunbar là kẻ đang yêu, chàng yêu vùng đất miền Tây hoang sơ và bạo liệt. Tình yêu của chàng là thứ tình yêu nhiều người khao khát mà không có, nó thuần khiết và vô tư, nó cho đi và không cần nhận lại, nó không thể giải thích được bằng lí trí. Chẳng thế mà sau một trường hợp vừa có thể gọi là anh dũng, vừa có thể gọi là may mắn khiến chàng Trung uý trẻ tuổi Dunbar lập một chiến công lẫy lừng đến mức đủ cả cho một đời binh nghiệp, đến mức chàng được tưởng thưởng và xuất ngũ ngay, thế nhưng thay vì trở về quê hương chàng lại xin đầu quân vào đồn biên phòng Sedgewick. Bởi vì chàng vừa yêu miền Tây vừa sợ biên giới phía Tây sẽ biến mất trước khi chàng kịp ngắm nó. Cũng chính vì thế nên mặc cho đồn Sedgewick đã trở thành hoang lương từ lâu trước khi Dunbar đến do toán lính cũ bỏ đi vì nản lòng với cuộc sống thiếu thốn và buồn tẻ, chàng vẫn kiên định bám đồn và tự đặt nhiệm vụ cho mình là sửa sang tôn tạo nó để chờ đến khi chính quyền lại cử toán lính khác tới. Quanh chàng chỉ có nhõn hai người bạn: người bạn vàng Cisco, con ngựa cừ khôi đã cùng chàng vượt qua kì tích thập tử nhất sinh hồi còn trong quân ngũ; và người bạn không mời mà đến, một con sói già đơn độc thường lảng vảng quanh đồn Sedgewick. Chàng cô đơn lắm, mà chàng hẵng còn trẻ trung nên nỗi cô đơn càng thêm bứt rứt. Chàng cần bạn bè, cần đồng đội, và cần đàn bà. Đang lúc những đồng đội da trắng của chàng chưa đến và không biết bao giờ mới đến, thì chàng gặp những người da đỏ. Sau nhiều gặp gỡ và giao tiếp đầy khó khăn vì khác biệt ngôn ngữ, Dunbar nhận ra những người da đỏ thật khác xa với tuyên truyền của chính quyền. Nhưng 5 dù sao chàng vẫn là người da trắng, cuối cùng chàng vẫn phải đứng giữa lựa chọn vì tổ quốc hay vì hạnh phúc cá nhân. Và tuy chàng có chọn gì đi nữa, lựa chọn ấy ắt hẳn là lựa chọn mà theo lời của một người bạn quý đã từng nhận xét về chàng: lựa chọn để được đi trên “con đường của con người chân chính”. 24/1/2021 TORNAD Trung úy Dunbar chưa đến nỗi bị choáng ngợp. Đó là ý nghĩ đầu tiên bật ra trong đầu óc chàng. Mọi thứ xung quanh đều mênh mông. Bầu trời bao la không một gợn mây. Cả một thảo nguyên rập rờn bất tận. Ngoài ra không còn thứ gì khác, không có thứ gì lưu giữ tầm mắt của chàng. Không hề thấy một con đường. Thậm chí không một vết bánh xe khả dĩ đưa cỗ xe ngựa to lớn của chàng lần theo. Hoàn toàn chỉ là một khoảng trống bao la. Chàng cảm thấy lạc lõng. Điều đó khiến trái tim chàng rộn ràng một cách kỳ lạ và sâu sắc. Trong lúc ngồi trên tấm ghế phẳng lỳ lộ thiên, để mặc cho thân thể lắc lư dọc theo đám cỏ, ý nghĩ của Trung úy Dunbar tập trung vào trái tim đang đập rộn rã. Nhưng dòng máu của chàng lại không chảy mạnh. Máu của chàng vẫn bình thản. Tình trạng trái ngược ấy giúp trí óc chàng hoạt động đầy thích thú. Các từ ngữ liên tục quay cuồng trong đầu và chàng cố thử tách bạch ra xem câu nào, chữ nào thể hiện đúng cảm giác của chàng lúc này nhưng không nổi. Sang ngày thứ ba chàng bỗng chộp được một câu: “Thật là linh thiêng!” và câu đó có vẻ chính xác hơn cả. Khốn nỗi Trung úy Dunbar chưa hề theo tín ngưỡng nào bao giờ nên tuy câu đó có vẻ chính xác, chàng vốn hoàn toàn không biết dùng nó để làm gì. Nếu như bị câu đó ám ảnh nhiều, có lẽ Trung úy Dunbar cũng thử phân tích xem sao. Nhưng đầu óc mơ màng, chàng quên ngay câu ấy đi. Trung úy Dunbar trở thành kẻ si tình. Chàng phải lòng cái xứ sở hoang vu tuyệt đẹp cùng mọi thứ chứa đựng trong đó. Đấy là loại tình yêu bất cứ ai cũng khao khát được có đối với một người khác: một tình yêu vị tha và tuyệt đối tin tưởng, một tình cảm tôn sùng và bất biến. Tinh thần chàng phấn chấn và trái tim chàng rộn ràng. Phải chăng đó chính là nguyên do khiến chàng trung úy kỵ binh đẹp trai và tâm hồn cao thượng thoáng nghĩ đến tôn giáo. Chàng liếc mắt sang bên và thấy bác đánh xe Timmons đang nghiêng đầu ra ngoài thành xe nhổ nước bọt đến lần thứ một ngàn xuống đám cỏ mọc cao ngang lưng. Bác nhổ liên tục đến nỗi đờm dãi bắn ra thành một dòng dính liền nhau, chỉ chốc chốc mới đứt quãng khiến bác ta phải lấy tay quệt ngang miệng. Dunbar không nói gì nhưng thấy Timmons khạc nhổ liên tục như thế chàng bất giác co rúm người lại. Cử chỉ của bác ta là vô hại nhưng làm chàng ghê tởm, giống như lúc nào cũng phải nhìn một người xỉ mũi. Họ ngồi cạnh nhau suốt buổi sáng. Mặc dù chỉ cách nhau hai bước chân nhưng vì gió thổi từ phía Dunbar sang nên chàng không ngửi thấy mùi nồng nặc của bác Timmons. Trong gần ba chục năm sống trong cõi đời, chàng đã phải ngửi quá nhiều mùi chết chóc và không thứ mùi gì khó ngửi hơn thế. Nhưng xác chết nào cũng chỉ một lúc sau đã được đem đi chôn hoặc bản thân chàng Michael Blake rời xa nó, nhưng với bác Timmons này thì chàng không có cách nào thoát được. Khi gió đổi chiều, mùi hôi thối từ người bác ta bay sang, trùm lên Dunbar như một đám mây ô uế vô hình. Nghĩ đến đây chàng ngoái lại nhìn con ngựa Cisco đang chạy lóc cóc đằng sau cỗ xe, khoan khoái vục mõm vào chiếc bị đựng thóc. Bộ da màu nâu như da nai của nó ánh lên dưới nắng. Dunbar mỉm cười nhìn con ngựa và bỗng mong muốn loài ngựa cũng sống lâu được như loài người. Con Cisco này may lắm cũng chỉ sống được khoảng mười, mười hai năm nữa. Tất nhiên sau đó chàng sẽ cưỡi những con ngựa khác, nhưng chắc chắn là không có con ngựa nào sánh được với Cisco. Trong lúc Dunbar nhìn, con ngựa bé nhỏ ngước cặp mắt màu hổ phách lên như thể dò tìm xem chàng trung úy của nó lúc này đang ở đâu và làm gì. Đến khi thấy chủ, nó yên tâm lại vục đầu vào trong bị thóc. Dunbar điều chỉnh lại thế ngồi rồi thọc tay vào túi tấm áo choàng sĩ quan, lấy ra một tờ giấy gấp tư. Chàng giữ gìn rất cẩn thận tờ giấy này bởi đó là bản quyết định, trong có ghi tất cả những mệnh lệnh quân sự chàng phải thực hiện. Từ lúc rời khỏi căn cứ Fort Hays chàng đã đưa cặp mắt màu sẫm và không đồng tử lướt trên mặt giấy sáu bảy lần, nhưng nghiên cứu mãi nó chàng vẫn chưa cảm thấy yên tâm thêm chút nào. Trong bản quyết định, tên họ chàng bị ghi sai đến hai lần. Ông thiếu tá hơi thở nồng nặc mùi rượu ký vào dưới tờ giấy đã vụng về quệt ống tay áo lên nét chữ chưa khô mực và chữ ký của ông ta bị nhòe nhoẹt. Tờ quyết định lại quên không ghi ngày tháng cho nên Trung úy Dunbar đành phải điền thêm lúc chàng đã trên đường đi. Nhưng chàng điền bằng bút chì và nét chữ đè lên vết mực nhòe của ông thiếu tá, lẫn cả vào hàng chữ tiêu đề in sẵn trên tờ quyết định. Trung úy liếc nhìn bản quân lệnh. Trông nó giống như một tờ giấy lộn nhiều hơn. Bản quân lệnh làm chàng nhớ lại do đâu mà có nó và chàng càng thấy bối rối hơn. Chàng bực dọc nhớ lại cuộc tiếp xúc với vị thiếu tá thở ra toàn mùi rượu ấy. Do tha thiết muốn được sớm nhận nhiệm vụ, khi bước chân ra khỏi tàu hoả, chàng đã đi thẳng một mạch đến ban chỉ huy tiểu đoàn. Ông thiếu tá là người đầu tiên và cũng duy nhất chàng nói chuyện trong khoảng thời gian từ khi chàng tới tiểu đoàn đến lúc chiều tà, khi chàng leo lên cỗ xe ngựa ngồi bên cạnh bác đánh xe chuyên môn nhổ nước bọt Timmons. Ông thiếu tá với cặp mắt đỏ ngầu đã giữ chàng lại khá lâu. Và khi lên tiếng, giọng ông đầy châm biếm làm chàng thấy khó chịu. — Thích đánh nhau với bọn da đỏ, hả? Trung úy Dunbar từ bé chưa hề nhìn thấy một người da đỏ nào, nói gì đến chuyện chiến đấu với họ. — Vâng, nhưng không phải dịp này, thưa thiếu tá. Tôi nghĩ rằng tôi có thể chiến đấu với họ, chắc chắn là như thế. — Vậy là cậu thích chiến đấu, chứ gì nữa? Trung úy Dunbar không trả lời câu hỏi đó. Hai người nhìn thẳng vào mắt nhau một lúc lâu rồi ông thiếu tá mới cầm bút điền vào bản quân lệnh in sẵn. Ông ta viết với vẻ giận giữ, không buồn để ý đến việc mồ hôi chảy ròng ròng trên má. Dunbar nhìn thấy cả những giọt mồ 10 Michael Blake hôi đang to dần trên đỉnh chiếc đầu hói gần hết của ông ta. Vài sợi tóc lơ thơ màu muối tiêu còn sót lại dính bết trên đỉnh đầu ông. Hình dạng ông khiến chàng trung úy nhớ đến một con người bệnh hoạn nào đó. Dunbar đâu biết được rằng ông thiếu tá quá ốm yếu. Đôi khi sức khỏe của ông chỉ được giữ bằng một sợi chỉ mong manh và sợi chỉ ấy hôm nay vừa mới đứt, đúng mười phút trước khi chàng trung úy đến gặp ông. Lúc đó ông đang ngồi bất động sau bàn giấy, hai bàn tay chắp lại đặt trên bàn và đang quên béng cả cuộc đời. Đó là một cuộc sống bạc nhược, dựa trên sự bố thí mà người ta dành cho những kẻ phục vụ nhẫn nhục nhưng không hề làm nên được chiến tích gì. Khốn nỗi cả cuộc đời đã trôi qua, bao gồm những năm tháng sống độc thân, những năm tháng chống cự với rượu chè, tất cả đều đã biến đâu mất như do một phép thần thông. Nỗi nhàm chán đắng cay của cuộc đời Thiếu tá Fambrough chỉ được thay thế trong khoảnh khắc bằng một sự kiện hấp dẫn và nhất thời. Ông thèm được thấy mình ngồi trên ngai vàng như một bậc vua chúa trong cái căn cứ Fort Hays, một lát trước bữa ăn tối. Ông thiếu tá viết xong, nhấc tờ giấy lên. — Tôi điều cậu ra đồn Sedgewick. Cậu nhận phân công trực tiếp của Đại úy Cargill. Trung úy Dunbar ngó xuống bộ quân phục nhàu nát. — Xin tuân lệnh thiếu tá. Tôi sẽ đi đến đó bằng cách nào? — Cậu tưởng tôi biết ư? – Viên thiếu tá xẵng giọng đáp. — Không phải thế, thưa thiếu tá. Chỉ có điều tôi không biết. — Tôi đang vui và sẵn sàng ưu ái cho cậu. Một cỗ xe tiếp tế chất đầy lương thực, thực phẩm và vật dụng sắp sửa lên đường ra đó. Cậu hãy đi tìm một bác nông dân tên là Timmons và cùng ngồi xe với bác ấy. Nói đến đây ông ta trỏ tờ giấy Dunbar đang cầm. — Con dấu của tôi sẽ bảo đảm an toàn cho cậu trong vòng một trăm năm mươi dặm của vùng đất mọi rợ này. Ngay từ ngày nhập ngũ, Dunbar đã hiểu rằng không nên băn khoăn về những thói tật oái oăm của các sĩ quan chỉ huy cấp trên. Chàng lập tức đưa tay lên mũ chào và đáp: “Rõ, thưa thiếu tá!” rồi quay gót bước ra. Chàng tìm được Timmons, bay ra ga nhận con ngựa Cisco. Nửa giờ sau chàng đã rời khỏi căn cứ Fort Hays. Lúc này, sau khi vượt được một trăm dặm đường, ngồi ngắm tờ quân lệnh, chàng nghĩ, chắc mọi sự sẽ ổn thỏa thôi. Chàng thấy xe đi chậm lại. Bác Timmons đang nghiêng đầu nhìn xuống bãi cỏ ngay bên cạnh. — Trung úy nhìn kìa! Vật gì trăng trắng nằm trong đám cỏ, cách xe chừng hai mươi bộ(1). Cả hai người cùng nhảy xuống xem thứ gì. Thì ra một bộ xương người trắng, sáng lên dưới ánh nắng, sọ ngửa lên phía trên. Dunbar quỳ xuống bên cạnh bộ xương, cỏ mọc lách xuyên qua xương sườn. Khoảng hai chục mũi tên chĩa lên như những chiếc trâm cắm vào gối. Dunbar rút một (1) Từ đây người dịch sẽ giữ nguyên cách đo lường của nước Anh. Bộ = 0,30 m. Thước = 0,91 m. Dặm = 1,609 m. Bảng = 453 g. (ND) Michael Blake mũi tên lên lật lật trong hai bàn tay. Thấy chàng đưa ngón tay sờ mũi tên, bác Timmons thốt lên sau lưng chàng. — Chắc phải có người nào nhìn thấy chứ, sao họ không báo gì về nhà nhỉ? Ngày thứ tư cũng giống như ba ngày trước, không xảy ra sự cố gì. Rồi ngày thứ năm và thứ sáu, Dunbar bắt đầu thất vọng khi thấy cỏ không còn um tùm nữa. Chàng vẫn chưa nhìn thấy một sinh vật nào hết. Bác đánh xe Timmons bảo rằng đôi khi các bầy súc vật bỗng tự nhiên biến đâu mất cả, chẳng đáng băn khoăn làm gì, bởi sẽ đến lúc chúng hiện ra đông đúc như châu chấu vậy. Họ cũng không thấy một người da đỏ nào nhưng điều này thì bác Timmons không có cách giải thích nào hết. Bác ta chỉ bảo rằng nếu nhìn thấy lúc này thì là quá sớm, và thế là may, họ không bị bọn cướp hay du đãng nào tấn công. Nhưng, sang đến ngày thứ bảy thì Dunbar chỉ nghe bác Timmons bằng nửa tai. Trong lúc họ vượt nốt những dặm đường cuối cùng Trung úy Dunbar càng suy nghĩ nhiều hơn. Chàng nghĩ đến cái đồn biên giới chàng sắp tới. Đại úy Cargill quay quay lưỡi trong miệng, mắt ngước đăm đăm. Nét mặt ông ta tươi lên một chút rồi lập tức lại cau có ngay. Lại một đứa nữa bị mất tích, ông ta nghĩ. Mẹ kiếp! Mời các bạn đón đọc Khiêu Vũ Với Bầy Sói của tác giả Michael Blake.
Mồ Hôi Nước Mắt
Ánh đang ủi đồ, một đống quần áo của người lớn lẫn trẻ con để bên cạnh. Lúc ông giáo sư Ngọc-Minh nắm bàn tay Ánh, Ánh khẽ hất ra. Ánh biết rằng ông Ngọc-Minh không toan tính điều gì bất lương. Nhưng một chút cử chỉ thân thiện đó cũng đã làm cho Ánh hoảng sợ rồi. Ánh vùng đứng dậy chạy xuống bếp. Ông Ngọc-Minh thong thả bước theo. Ánh ngồi trầm ngâm trên ngạch cửa không ngó ông, Ông Ngọc-Minh đứng trước mặt nàng. Ông thò tay vào túi áo lấy ra gói thuốc, đánh lửa châm một điếu hút, rồi nói với con ở : - Xin lỗi Ánh, lúc nãy tôi đã làm phiền lòng Ánh. Ánh cúi đầu làm thinh. Ông giáo sư nói tiếp : - Tôi rất mến Ánh. Tôi để ý đến Ánh lâu rồi, chắc Ánh cũng đã cảm thấy. Ngay từ ngày Ánh vô giúp việc trong nhà này, nghĩa là cách đây sáu tháng, tôi đã hiểu Ánh nên tôi yêu Ánh. Nhưng chỉ yêu âm thầm mà thôi. Nay nhân cơ hội gia đình đi vắng, tôi muốn thú thực với Ánh cảm tình thiết tha chân thật của tôi. Nếu Ánh tin tôi, tôi sẽ thuê phòng riêng để ở với Ánh. Con ở điềm nhiên không đáp, Ông Ngọc-Minh ngồi xuống ngạch cửa, gần Ánh. Ông âu yếm nhìn vào khuôn mặt hổng hào tuyệt đẹp, khẽ hỏi : - Ánh có yêu tôi không ? Ánh ngẩng mặt lên, nghiêm nghị ngó ông : - Tôi không thể yêu ông được. - Tại sao không thể ? - Tại hoàn cảnh. - Tôi không thấy hoàn cảnh nào cản trở tình yêu của tôi với Ánh. Ánh biết rằng tôi góa vợ đã hai năm nay và không có con ? - Dạ tôi biết. - Vậy thì tôi được tự do yêu Ánh và lấy Ánh làm vợ, có gì ngăn cản đâu ? - Ông được tự do, nhưng tôi không được tự do. - Nếu tôi không lầm thì Ánh chưa có chồng. - Dạ, tôi chưa có chồng. - Vậy sao Ánh nói là không tự do ? Con ở làm thinh. Ông Ngọc-Minh hơi ngạc nhiên vì những câu trả lời cứng rắn của người tớ gái mười chín tuổi. Rất đẹp và rất hiền lành, thường ngày Ánh ít nói, Lần đầu tiên ông thấy Ánh có cử chỉ và ngôn ngữ khôn ngoan cương quyết không ngờ. Ông gặng hỏi : - Ánh ! Tại sao Ánh không được yêu tôi ? Hay là Ánh đã có người yêu rồi ? Con ở vẫn nghiêm nét mặt : - Dạ không phải. - Thế thì tại sao ? - Ông là người trí thức, chắc ông hiểu nhiều. - Tôi thực không hiểu. - Xin ông tha lỗi tôi phải đi ủi đồ khuya rồi, ông Năm bà Năm sắp về. - Hai em tôi dẫn các cháu đi xem xi-nê, 12 giờ khuya mới về. Nhưng Ánh không muốn nói chuyện nữa, Ánh đi thẳng lên phòng giữa, ngồi lặng lẽ tiếp tục ủi đồ, làm công việc bỏ dở ban nãy. Ông Ngọc-Minh đến ngồi cạnh Ánh : - Ánh à, tôi muốn biết tại sao Ánh không được tự do yêu tôi, trong lúc tôi thiết tha yêu Ánh ? - Thưa ông, tôi chỉ là đứa đầy tớ, tôi đâu có quyền được yêu một người ở giai cấp giàu sang, một bậc trí thức thượng lưu. - Tôi không cần giai cấp. Tôi không phân biệt giai cấp. Tôi chỉ biết Ánh là một thiếu nữ như tất cả các thiếu nữ khác. Ánh lại có tư cách đứng đắn, ngôn ngữ đoan trang, nết na hiền lành, và Ánh có đi học, đã ở Đệ-Tứ. Ánh có học thức, chỉ tại vì số phận quá hẩm hiu cực khổ nên Ánh phải đi ở mướn tạm một thời gian thôi. Tôi biết rõ hoàn cảnh của Ánh lắm chớ ! Ánh ngạc nhiên : - Tại sao ông biết ? Tháng bảy vừa rồi, bà cô của Ánh đến thăm Ánh, trong lúc Ánh đi chợ, Ánh có nhớ không ? Nhân vui miệng với em tôi, bà đã kể hết chuyện của Ánh cho em tôi nghe. Ngồi ở pbòng khách tôi được nghe rõ cả. Do đó, tôi được biết rằng ba má của Ánh là người lao động ở một ngõ hẻm xóm An-Bình. Hồi nhỏ Ánh đi học đã được thầy thương bạn mến, vì Ánh học giỏi và hạnh kiểm tốt nhất trong lớp, Ánh đã đỗ bằng tiểu học và học đến lớp Đệ-Tứ thì ba của Ánh chết vì tai nạn lao động trong xưởng máy. Ánh phải thôi học, kiếm việc làm ở đâu cũng chưa được nên phải ở nhà giúp đỡ mẹ. Sau, Ánh đi bán hàng ở cầu Muối. Mẹ Ánh thì làm công trong một hãng thuốc lá. Rồi hai năm sau mẹ Ánh tái giá, gặp phải người chồng lưu manh, chỉ cờ bạc rượu chè, và giao du với bọn đàng điếm. Nhiều lần cha ghẻ bắt ép Ánh đi làm nghề mãi dâm do y kiếm mối. Ánh cự tuyệt và hai lần phải bỏ nhà trốn đi đến nhà bà cô. Ánh muốn học đánh máy chữ để dễ kiếm việc làm, nhưng không có tiền. Ánh phải gánh nước thuê ở xóm Bàn-Cờ. Rồi có lần Ánh nhớ mẹ, về thăm mẹ thì mẹ Ánh đi vắng, người cha ghẻ khốn nạn lại ép buộc Ánh làm nghề mãi dâm. Ánh cương quyết không chịu liền bị y đánh đập tàn-nhẫn đến đỗi lổ đầu sưng mặt. Người cha ghẻ vũ phu, vô lương tâm, đạp Ánh té nhào xuống cạnh chum nước, Ánh nằm bất tỉnh, tưởng như chết rồi. May nhờ hai bà hàng xóm kêu xe chở Ánh vào nhà thương. Ở bệnh-viện ra, Ánh không về nhà cha ghẻ nữa, trốn đến nhà bà cô ở ngõ hẻm Bàn-Cờ. Từ đó Ánh đi ở mướn để kiếm tiền độ thân. Ánh xem, tôi biết rõ hoàn cảnh rất đau khổ của Ánh như thế đấy. Vì lẽ đó mà tôi đem lòng thương Ánh và yêu Ánh. Ánh ngồi ủi đồ, hai dòng nước mắt lặng lẽ trào ra trên đôi má hồng, âm thầm rơi xuống áo. Ông Ngọc-Minh khẽ hỏi : - Những điều bà cô của Ánh kể lại như thế có đúng không, Ánh ? Ánh ngưng bàn ủi, gục đầu vào tường, khóc nức nở. Ông giáo sư bảo : - Ánh à, với tôi Ánh không phải một kẻ ty tiện đâu. Tôi coi Ánh như một người bạn gái đau khổ, vì nghèo, phải, chỉ vì NGHÈO, mà chịu cảnh lầm than cực nhọc ! Tôi không có quan niệm giai cấp. Tôi chỉ có quan niệm LÀM NGƯỜI. Cho nên tôi thành thật đem lòng yêu Ánh, và tôi muốn giúp đỡ Ánh tìm hạnh phúc mà mọi người đều có quyền được hưởng, mọi người đều phải có, không phân biệt ở từng lớp nào, không chia ranh giới một giai cấp nào. Ánh có tin lời nói của tôi không ? Ánh càng khóc, nước mắt càng chảy ràn rụa. Ông Ngọc-Minh xúc động, âu yếm hỏi : - Ánh à, nếu tôi thành thật muốn cưới Ánh, thì Ánh nghĩ sao ? Ông Ngọc-Minh hỏi đi hỏi lại ba lần, Ánh chỉ khóc mà không trả lời. Ông hỏi nữa, Ánh lau nước mắt, khẽ nói : - Thưa ông, ông có lòng tốt nói vậy, nhưng tôi đâu dám nhận. - Tại sao ? - Tại vì tôi là một đứa ở. Tôi là hạng người hèn hạ như ông thấy. - Tôi đã nói với Ánh rằng tôi không nghĩ như thói thường nhiều người đã nghĩ. Quả thật trong xã hội có những thành kiến giai cấp quá vô lý, nhưng tôi sẽ tỏ cho mọi người thấy rằng, không giai cấp nghèo và giàu, không có giai cấp tư bản và vô sản, mà chỉ có giai cấp lương thiện và bất lương, chỉ có giai cấp quân-tử và tiểu-nhân, chỉ có giai cấp cao thượng và đê tiện, chỉ có giai cấp ở phẩm giá của con người mà thôi. Trước mắt tôi, một thiếu nữ nghèo nàn mà tính tình cao đẹp như Ánh, có tư cách đứng đắn, đoan trang như Ánh, là đáng quí, đáng trọng hơn một tiểu thơ khuê các ở nhà cao cửa rộng, đi xe hơi Mỹ, mà tính tình bất hảo, tư cách đê tiện, phẩm giá hèn hạ. Tôi đánh giá trị con người không phải với những hào nháng bề ngoài của vật chất, mà với giá trị tinh thần và đạo đức. - Thưa ông, ông nói thế chớ làm sao xóa bỏ những thành kiến giai cấp cho được ? Tôi đã nói, tôi không được tự do, bởi tôi bị ràng buộc trong thành kiến giai cấp. Tôi ít học, tôi chỉ thấy thực tế đời người trong xã-hội, cho nên tôi đâu đám mơ tưởng đến danh vọng-cao xa. - Nhưng tôi yêu Ánh, tôi muốn chánh thức cưới Ánh làm vợ, tức là tôi muốn phá tan những thành kiến bất công. - Tôi xin lỗi ông, dù ông thực lòng thương tôi chăng nữa, tôi cũng xin thành thật cảm ơn tấm lòng quá tốt của ông, nhưng thật tình tôi không dám nhận. Bởi lẽ gia đình của ông và xã hội thượng lưu của ông, vẫn khinh bỉ tôi, vì họ chỉ thấy tôi là một đứa đầy tớ, con gái của một người cu-li đi làm thuê ở mướn. Thưa ông, tôi hiểu như thế cho nên tôi phải giữ giá trị của tôi. Thà rằng tôi cam phận tôi đòi, một ngày kia tôi có lấy người chồng cu-li chăng nữa, cũng không ai khinh tôi được. Tôi tuy là ít học nhưng tôi cũng biết gìn giữ danh giá của một người con gái. Tôi vẫn thường nghe người ta nói rằng tình yêu không có giai cấp, nhưng tôi phải tự biết thân phận tôi ở một địa vị hèn hạ, thấp kém mọi bề, tôi đâu có tham vọng lớn lao. - Nhưng một khi tôi yêu Ánh, thì Ánh có quyền yêu tôi chớ, Ánh có quyền tỏ cho mọi người thấy rằng một cô gái nghèo cũng có thể là một người vợ tốt, một người mẹ hiền, một phụ nữ xứng đáng trong xã hội… Tôi đã nói những ý nghĩ của tôi cho Ánh nghe, tôi mong Ánh suy nghĩ, và hiểu lòng tôi. Tôi mong Ánh sẽ đồng ý với tôi, và Ánh đừng tưởng rằng tôi muốn ve vãn Ánh để làm trò chơi, hoặc lừa gạt Ánh như một kẻ trưởng giả bất lương. Không phải vậy đâu Ánh à. Tôi thật lòng yêu Ánh và muốn lấy Ánh làm vợ, công khai trước gia đình và xã hội. Thôi tôi lên lầu… Ánh suy nghĩ, và mai mốt Ánh trả lời cho tôi biết nhé. Tôi tha thiết chờ đợi câu trả lời của Ánh. Ông Ngọc-Minh chúc Ánh ngủ ngon đêm nay, rồi ông thong thả bước lên lầu, Ánh điềm nhiên ngồi ủi đồ. Một đống áo quần của gia đình bà Năm, Ánh giặt từ lúc sáng sớm, phơi cả ngày, rồi bắt đầu ủi từ lúc chín giờ tối, sau khi dọn rửa chén bát, đến bây giờ mới gần hết. Đồng hồ treo trên tường điềm mười một tiếng đã lâu. Một cây đèn nê-ông gắn trên trần nhà chiếu một ánh sáng xanh dịu xuống căn phòng khá rộng, nơi đây dựng một tủ lạnh, một tủ chứa đồ vặt, và một bao gạo, một xe mô-tô, một bàn máy may, một tủ đựng đồ chơi cho hai đứa con của ông Năm, bà Năm, là em rể và em gái của ông giáo sư Ngọc-Minh. Ông Năm làm chủ sự trong một văn phòng Bộ trưởng với ông giáo Minh đều là công chức vào hàng thượng lưu và trung lưu, bậc « ông » chớ không phải là bậc « thầy » theo thủ tục giai cấp ở miền Nam. Đây là căn nhà giữa, thông qua phòng ăn và phòng khách ở phía trước và nhà bếp ở phía sau. Nơi đây, con ở thường ủi đồ hoặc may vá, làm các việc lặt vặt. Vợ chồng bà Năm kêu con ở bằng « nó », gọi nó là « Con Ánh ». Hai đứa con bà gọi bằng « Chị Ánh ». Riêng ông Ngọc-Minh thì gọi thân mật bằng tên : « Ánh ». Phòng ngủ của Ánh ở kế bếp, có cửa nhưng chật, vừa đủ kê một chõng tre, một bàn con và treo một ngọn đèn mười lăm nến mù mờ, Ánh tuy là đứa đầy tớ đi ở mướn cho gia đình bà Năm mỗi tháng sáu trăm đồng bạc lương, nhưng với tuổi mười chín, Ánh có thân hình nở nang tuyệt đẹp và sạch sẽ, lễ phép, nhu mì. Ông Ngọc-Minh góa vợ đã cảm mến Ánh và yêu Ánh thành thật, hay là chỉ mê sắc đẹp « con nhỏ ở » rồi tìm cách lợi dụng, quyến rũ nó, như trăm nghìn ông chủ nhà khác đã tư tình với con ở, lừa gạt lấy con ở cho có chửa rồi tống cổ nó ra khỏi nhà ? Ông giáo sư Ngọc-Minh có thật yêu Ánh hay không, chỉ có lương tâm ông biết mà thôi. Nhưng có điều chắc chắn là làm vinh dự cho ông, là ông không bao giờ khinh khi người nghèo. Thật sự, ông không hề có thành kiến giai cấp và giả sử ông có thật lòng yêu Ánh thì chắc vi hoàn cảnh xót xa đau khổ của Ánh, vì tư cách đứng đắn của Ánh, chứ không phải hoàn toàn vì nhan sắc diễm kiều của cô gái đang tuổi dậy thì. Ông đã lén lút nhiều lần tìm cơ hội để chuyện trò với con ở. Nhưng không có dịp nào ông được toại nguyện cả, vì Ánh cứ tìm cách thối thoát và trốn tránh ông hoài. Ánh không tàn nhẫn đâu, trái lại Ánh rất lễ phép, dịu dàng nhưng Ánh cũng rất cương quyết và khéo léo chối từ. Đã nhiều lần ông muốn tặng Ánh một vài món tiền khi hai trăm đồng khi năm trăm đồng, nhưng không lần nào Ánh nhận. Ánh nhã nhặn cảm ơn ông mà không bao giờ Ánh cầm lấy những tờ giấy bạc mới tinh của ông âu yếm trao tặng Ánh. Một hôm đầu tháng lương ông Ngọc-Minh có mua một chiếc đồng hồ đeo tay của phụ nữ đáng giá gần ba ngàn đồng. Thừa lúc cơm trưa xong, vợ chồng ông chủ sự đã lên lầu, ông Ngọc-Minh lén xuống bếp đưa cho con ở và nói thầm với nó : - Tôi tặng Ánh chiếc đồng hồ này làm kỷ niệm. Nhưng Ánh khẽ bảo : - Thưa ông, ông thật có lòng cao quí, tôi xin đa tạ ơn ông. Nhưng tôi không dám nhận. - Tại sao Ánh không nhận ? Tôi thành thật tặng Ánh đây mà. - Dạ, xin cám ơn ông. Nhưng tôi ít có dịp dùng đến đồng hồ. - Tôi đã mua nó để tặng Ánh, có hóa đơn để tên của Ánh đấy. Ánh nhận món quà kỷ niệm nầy cho tôi vui lòng. - Dạ thưa ông, tôi không dám. Nhưng tôi rất cảm ơn lòng tốt của ông. Ánh đi rửa chén bát. Ông Ngọc-Minh khẽ nắm lấy cánh tay con ở, cánh tay trắng nõn nà, xinh xắn làm sao ! Nhưng Ánh nghiêm nghị ngó ông : - Thưa ông, xín ông buông cháu ra ! Mời các bạn đón đọc Mồ Hôi Nước Mắt của tác giả Nguyễn Vỹ.