Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Pháo Hiệu Đỏ

Tác phẩm Pháo Hiệu Đỏ khắc họa tinh thần chiến đấu của những người lính Liên Xô trong cuộc chiến tranh Vệ quốc, thông qua một trận đánh chiếm trường học với quân Đức. Cuốn Pháo Hiệu Đỏ này gồm hai truyện vừa: Pháo hiệu đỏ Gia đình đại úy Đôrôkhin *** Lời tác giả Các bạn thân mến! Cuốn truyện vừa nhỏ bé này đã được viết vào lúc nghỉ ngơi giữa các trận đánh hồi cuối năm 1942: thời kỳ gian khổ của cuộc chiến tranh mà đất nước chúng tôi đã tiến hành để chống chủ nghĩa phát-xít Đức. Tôi đã phục vụ trong một sư đoàn đã tham gia phòng thủ Moskva, về sau sư đoàn ấy đã tham gia cuộc phản công của quân đội chúng tôi đánh đuổi bọn xâm lược Hitler. Trong truyện vừa này, tôi cố kể lại về chủ nghĩa anh hùng của những người lính Xô-viết đã chiến đấu trên những phòng tuyến ngoại thành Moskva. So với hồi bấy giờ thì trong truyện vừa này không có điều gì đặc biệt và khác thường cả, truyện này chỉ nêu lên việc xảy ra bình thường ngoài mặt trận. Trong những ngày ác liệt này, chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Xô-viết ở ngoài tiền tuyến cũng như ở hậu phương là một biểu hiện chung của mọi người và ở khắp nơi; hồi đó, chiến công là tiêu chuẩn trong tư cách con người. Nhân dân Xô-viết thuộc mọi lứa tuổi, mọi nghề nghiệp đều đứng lên chiến đấu chống quân thù. Đảng cộng sản đã đoàn kết toàn dân – và chúng tôi đã chiến thắng! Tôi vô cùng sung sướng là cuốn sách này của tôi sẽ được các bạn đọc, tôi hy vọng như thế. Chúng tôi, những người Xô-viết, hiểu rất rõ thế nào là chiến tranh, chúng tôi nhớ lại mọi điều: những trận ném bom thường xảy ra, những đám cháy của thành thị, tình trạng tâm thần căng thẳng tột độ, những hy sinh, những mất mát họ hàng thân thích… Và vì thế, hỡi các bạn thân mến, chúng tôi rất khâm phục tinh thần dũng cảm của các bạn! Nhân loại sẽ không bao giờ quên chiến công huy hoàng của các bạn, những người Việt Nam gan dạ, tự hào và tha thiết yêu tự do. Còn kẻ thù của các bạn, kẻ thù độc ác trong nhiều năm ngập ngụa trong những tội ác đẫm máu, thì nhất định sẽ bị đánh bại. Cũng như chủ nghĩa phát-xít Đức đã bị đánh bại – điều đó thì không còn nghi ngờ gì nữa. Cuối cùng thì thắng lợi bao giờ cũng thuộc về chính nghĩa, tự do và dũng cảm. Hỡi các chiến sĩ Việt Nam, chúng tôi hết lòng ủng hộ các bạn! Georgy Beryozko *** Đúng 17 giờ 30, trung úy Gorbunov dẫn quân mở đợt tấn công, và để chấp hành mệnh lệnh, trung úy vừa chiến đấu, vừa lao vút đến rìa phía đông của làng. Một bộ phận những xạ thủ của anh đã nằm trong những chiến hào phủ băng mà bọn Đức bỏ lại. Gorbunov vừa bắn tiểu liên vừa chạy đến ngôi trường đen sẫm. Ngọn lửa chập chờn chiếu sáng gian phòng trống, ngổn ngang những gạch vỡ. Gorbunov dừng lại và ngừng bắn. Anh nghe ở phía sau lưng có tiếng chân nện thình thịch và hơi thở hồng hộc của những người đang chiến thắng. Các chiến sĩ dùng báng súng mở toang những cánh cửa và lần lượt chiếm lớp này đến lớp khác. Tiếng hô “xung phong” đã ngừng bặt, và trung úy cất cao giọng khản đặc ra lệnh bắn ba phát pháo hiệu trắng. Theo mệnh lệnh đã quy định thì đó là dấu hiệu chiến thắng của anh. Những chiếc pháo hiệu bay vút lên bầu trời, và bây giờ thì chính Gorbunov phải chờ tín hiệu. Pháo hiệu đỏ ở hướng tây-nam sẽ phải báo cho anh biết về cuộc tấn công chung đã bắt đầu. Gorbunov nhận được lệnh yểm hộ cuộc tấn công của nhóm quân chủ lực có nhiệm vụ đánh chiếm, còn sau đó thì sẽ hợp nhất với nhóm đó để tiêu diệt quân thù. Mệnh lệnh rõ ràng và ngắn gọn, như mọi mệnh lệnh xuất sắc khác. Các chiến sĩ bố trí trong trường học. Họ nạp lại đạn, làm huyên náo, ăn tuyết – một sự khích động lớn đang nung nấu trong lòng họ. Sức mạnh đáng sợ của lòng căm thù dữ dội đã làm cho họ vùng lên, và chỉ vừa mới đây thôi, họ đã chạy trên lũy đất băng giá được những ánh lửa chói lòa bùng lên soi sáng. Nảy sinh từ ý chí muốn sống, sức mạnh đó đã làm tiêu biến nỗi lo sợ chết, và giờ đây sức mạnh đó vẫn đang tìm lối thoát. Tròng trắng của những cặp mắt dữ tợn ánh ngời lên trên những khuôn mặt đen sạm và tím lại vì băng giá. Hơi tỏa ra từ những cái mồm mở rộng, bay lơ lửng trên đầu. Gorbunov đứng giữa lớp vừa thét vừa ra lệnh. Qua lỗ thủng to tướng trên tường do đạn đại bác đã xuyên qua, nom thấy rõ mảnh trời trăng dày đặc sương mù. Những viên đạn sáng rực vút bay trong không trung màu lam nhạt. Gorbunov đi đến gần lỗ thủng, áp mình vào tường và nhìn ra ngoài. Ở phía trước, khoảng chừng một trăm rưởi thước, bọn Đức đang ở trên bờ cao của dòng mương xói phân cách làng với trường học. Chúng ẩn nấp trong những ngôi nhà gỗ đen ngòm, phủ đầy tuyết; ở hầm nhà thì chúng đặt những khẩu đại liên. Những nòng súng không nom thấy từ đó chĩa thẳng đến trường học và các chiến hào… Đằng sau ngôi nhà đó, mờ mờ hiện lên một dải rừng xanh phủ tuyết, giống như một đám mây đen sa xuống. Ở phía ấy, trong lòng sâu của đám mây đen kia, đáng lẽ phải lóe sáng lên ánh chớp của mũi tấn công chủ lực, nhưng dải rừng lúc đó thật là yên tĩnh và bí ẩn. Thỉnh thoảng những chiếc pháo sáng treo lơ lửng trên hàng tiền duyên tuyến phòng ngự của địch. Ánh sáng không sinh khí tỏa xuống mương xói, và Gorbunov nom thấy rõ rệt ở đáy mương xói một thành giếng phủ đầy băng, những lối mòn in hằn trên tuyết, những xác chết đã biến dạng tựa hồ như những vết mực nhòe. Ở đằng xa trên chân trời, một cái ấp đang cháy. Ngọn lửa vàng khè, hầu như bất động, le lói sáng trong màn đêm sâu thẳm và giá lạnh của tiết tháng giêng. Gorbunov vuốt mặt, sờ thấy trên má một thỏi băng con. Anh rứt nó đi và cảm thấy ran rát đau. Té ra là khi tấn công, anh bị xây xát mặt mà không biết. Anh lấy lòng bàn tay thu nhặt tuyết có lẫn cả gạch và áp vào má. Tuyết nhanh chóng tan ra. Trung úy nhìn bàn tay vấy bẩn nước đen đen, nghĩ rằng cần phải băng má lại, nhưng ngay lập tức, anh đã quên bẵng điều đó. - Trung úy đâu? – một giọng khản đặc thét lên trong bóng tối. Gorbunov nhận ra Medvedovsky, tiểu đội trưởng. - Có chuyện gì thế hở? – trung úy thét lên và chỉ đến bây giờ anh mới nhận thấy là mình luôn mồm thét to, mặc dù chẳng cần phải thét nữa. - Báo cáo đồng chí trung úy, các chiến sĩ hỏi, cớ sao bọn ác ôn kia được ngồi trong nhà sưởi ấm, còn chúng ta thì giẫm chân trong băng giá. - Củng cố vị trí rồi chứ? – cố kìm mình, trung úy hỏi khẽ. - Báo cáo có! – tiểu đội trưởng gào to. - Việc gì anh phải thét lên thế? – Gorbunov nói. - Tôi không thét ạ! – tiểu đội trưởng gào to. - Củng cố rồi, thế là được! – Gorbunov đáp. Anh cảm thấy nóng và dựng những vành tai của chiếc mũ lông lên. Khí phách hiên ngang vừa vui vẻ vừa dữ dội lạ lùng vẫn còn sôi nổi trong tâm hồn anh. Trong giây lát, một ý nghĩ điên rồ thoáng hiện trong óc trung úy: không chờ tín hiệu, cứ dẫn quân tấn công đánh chiếm làng mà không cần sự chi viện của ai cả. Một cảm giác tinh nghịch đã thôi thúc anh, giống như cảm giác của con bạc gặp vận đỏ đang đặt món tiền cái tăng gấp đôi. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh, không lôi thôi gì cả; và hơn nữa với lực lượng nhỏ bé mà anh hiện có trong tay thì cuộc tấn công vào một vị trí đã được củng cố chắc chắn sẽ thất bại thảm hại. - Hãy quan sát, – trung úy nói. – Có lẽ là chúng ta sẽ sưởi ấm cho đến tảng sáng. Các chiến sĩ túm tụm lại. Trong góc, những chiếc áo dài ngụy trang của họ ánh lên màu trăng trắng. Sau giờ phút căng thẳng đến kiệt lực của trận tấn công, giờ đây mọi người đều muốn ăn và hút. Họ gặm lương khô, và những ánh lửa thuốc lá lập lòe trong bóng tối. - Nó xông vào tớ, – Lugovykh thét to, anh ta là một nông dân mặt chữ điền, râu ria xồm xoàm, quê ở Ngoại Ural, – nhưng chính cu cậu thì lại sợ quá nên khẩu súng trường run rẩy trong tay. Tất nhiên là tớ chẳng bỏ lỡ cơ hội… - Tớ lễ phép bảo nó: “Đồ chó đẻ, đầu hàng đi!” còn nó thì đưa tay lấy lựu đạn. Tớ liền nói: “Tùy ngài thôi…” Dvoeglazov không nói hết câu và nhún vai. - Cậu bắn chứ? – Lugovykh thét to. - Nếu kẻ thù không hàng thì người ta diệt nó, – Dvoeglazov nói. - Đúng thế! – Kochesov gào lên. – Tớ cũng làm như thế. Kochesov quê ở Baku, anh là một người xà ích có đôi vai rộng, vạm vỡ như ông hộ pháp, anh thở hồng hộc và chậm rãi đảo qua đảo lại cặp mắt tròn, tựa hồ như cặp mắt người say rượu. Vừa ngắt lời nhau vừa tranh nhau nói, các chiến sĩ kể lại trận đánh mà họ đã chiến đấu rất giỏi. Họ cảm thấy sung sướng vì họ còn sống và được thấy quân thù tháo chạy khỏi họ. Sự gần gũi của đồng đội giờ đây đã đem lại cho họ nỗi lòng khoan khoái rõ rệt. Việc cùng nhau chịu đựng nguy nan và cùng nhau vui hưởng thắng lợi đã xóa bỏ mọi điều không thích nhau giữa người này với người khác mà trong những hoàn cảnh khác thì có thể xảy ra. Vì bị kích động nhiều nên họ chửi rủa và đùa cợt lẫn nhau. Gorbunov gọi trung sĩ Rumyantsev đến chỗ mình. Một vệt xám rời khỏi tường và bò trên sàn. Trung sĩ đứng sau lưng Gorbunov. Ngoái lại, trung úy thấy khuôn mặt sạm đen với cái mũi hếch và đôi mắt ti hí tươi cười. - Cảm ơn, trung sĩ, – Gorbunov nói. – Anh không bị thương chứ? - Còn sống! – với một vẻ ngạc nhiên vui vẻ, Rumyantsev trả lời. Gorbunov mỉm cười nhìn trung sĩ. Chính anh ta, Rumyantsev, người đầu tiên len lén bò đến hầm súng máy, liệng vào đấy một quả lựu đạn, và khi bọn Đức sống sót chạy thục mạng, thì anh đã hét to đến nỗi mọi người đều nghe được: “Nào, các cậu ơi! Bọn phát-xít trong tay chúng ta rồi!” - Còn sống, – Gorbunov lặp lại, tỏ vẻ tán đồng, dường như chính điều đó là công lao chủ yếu của cá nhân trung sĩ. – Cừ lắm! Rumyantsev thích người chỉ huy của mình. Giờ đây anh đặc biệt khoái trá thấy nét mặt trông nghiêng của trung úy với gò má cao, cái mũi to và đôi môi mỏng. Trong sự nghiệp đầy nguy hiểm lớn lao ấy mà họ cùng nhau thực hiện, đời sống của mỗi người tùy thuộc không những vào sự khéo léo hay may mắn của cá nhân, mà còn vào điều những người khác đã xử sự và hành động như thế nào. Sau trận đánh thắng lợi, Rumyantsev cảm thấy một niềm tin vô hạn đối với trung úy. Anh cho là cái may mắn riêng của mình trong một chừng mực nào đó cũng là nhờ những hành động khéo léo của người chỉ huy. Anh lúng túng lặng thinh, không tìm được lời diễn đạt lòng biết ơn và khâm phục của anh. - Còn sống! – anh nhắc lại một lần nữa với giọng biết ơn. Trung úy giao cho một người chỉ huy cấp dưới của anh theo dõi xem ở hướng tây-nam pháo hiệu đỏ có xuất hiện không. Anh bảo Rumyantsev đi theo và ra đi xem xét trường học. Bước ra cửa thì hai người gặp Masha Ryzhova. - Chào đồng chí trung úy! – Masha nói khẽ, giọng hầu như là trẻ con. – Có gì mới không ạ? - Không, – Gorbunov nói. - Khó khăn lắm mới lần đến chỗ đồng chí được, – Masha nói. - Cô ta thì dù khó khăn đến mấy đi nữa, bao giờ cũng vẫn lần đến được cả! – Rumyantsev nói to. Cô gái thở dài, cất mũ và lắc đầu giũ làn tóc rối. Dưới ánh trăng lờ mờ, Gorbunov thấy khuôn mặt tròn trĩnh của cô với đôi mắt sâu trong bóng màu lam đẹp một cách lạ lùng. Cũng như mọi người trong đơn vị, anh tự hào về người nữ y tá của mình. Nhưng Masha là một cô gái trẻ măng, nên Gorbunov cho rằng anh có thể hỏi cô những điều mà không bao giờ anh hỏi người đàn ông. - Thế nào, chị đi đến đây có sợ không? – anh niềm nở nói. - Mọi người đều hỏi tôi như thế, – Masha nói. – Khoảng không quanh tôi thì rộng và nhiều, tôi chỉ chiếm một chỗ không lớn lắm ở trong đó. Thế thì vì sao đạn lại cứ phải nhất thiết trúng vào tôi? - Viên đạn là đồ ngốc, – trung úy âu yếm nói. - Đúng thế, – Rumyantsev bật cười. - Tôi chỉ phải băng cho ba người, – Masha nói. – Thiệt hại chỉ có thế thôi. - Ivanovsky thế nào? – trung úy hỏi. - Sẽ khỏi thôi, – Masha đáp. - Tội nghiệp, anh chàng thật không may, – Gorbunov nói. Chính trị viên Ivanovsky bị thương lúc mới bắt đầu tấn công. - Mệt kinh khủng, – Masha phàn nàn. - Thế thì chị hãy nghỉ đi, – trung úy nói. Gorbunov và Rumyantsev lần theo cầu thang bằng đá có tay vịn bị sập xuống, leo lên tầng hai. Trong gian phòng mà họ bước vào, có lẽ trước đây là thư viện của nhà trường. Sách nằm hàng đống trong góc, phủ đầy tuyết từ ngoài trời bay vào, Những tờ giấy bị xé ra nổi lên lờ mờ màu lam nhạt trên nền nhà đen thẫm. Gorbunov cúi xuống nhặt một quyển sách, Anh đọc trên trang bìa: – “Gogol. Taras Bulba”. Trung úy nhặt một quyển sách khác: “Jules Verne. Tám vạn dặm dưới nước”. - Sách hay đấy, – anh nói với Rumyantsev, rồi lấy tay áo phủi lớp sương muối trên bìa và để sách lại chỗ cũ. Trong khung cửa sổ hình chữ nhật tràn ngập ánh trăng, hai chiến sĩ đã đặt khẩu súng liên thanh. Chiếc bàn dài trắng xóa lạ thường vì bị phủ lớp sương muối. Gorbunov nói chuyện với các chiến sĩ, rồi đi tiếp. Trong một lớp học bên cạnh còn giữ được hai tấm các tông treo trên tường, trên đó có dán những tranh vẽ của học sinh. Trên một mẩu giấy con, có những chiếc phi cơ kỳ lạ đang bay; những bông hoa với tràng cân đối hướng về phía người xem. Những con người với những cặp chân quẹo đứng bên cạnh những ngôi nhà bé tí, đẹp đẽ, và mặt trời tua tủa những gai, hệt như một con nhím, chiếu sáng họ từ trên bầu trời quang mây. Sương muối bám trên những nếp cong của tờ giấy, trên những góc gãy của tấm các tông. - Thật giống hệt như cháu Lena nhà tôi đấy, – Rumyantsev thốt lên. – Con gái của tôi, cũng là nữ họa sĩ cơ đấy. - Chúng nó vẽ tuyệt thật! – Gorbunov nói tin tưởng. Anh đã hai mươi bốn tuổi, chưa vợ. Nhưng đứng trước những tranh vẽ mà trên đó có ghi tên họ của các tác giả theo đủ mọi hướng “Vitya Pogorelov, lớp II”, “Zoya Surovtseva, lớp I”, “Dusya Pyatakova, lớp I”, “S. G. Lukashin, lớp II”, “Nina Volkova, lớp II”, trung úy cảm thấy nếu anh không phải là bố của những đứa bé ấy, thì cũng là người anh cả của chúng. Anh khâm phục chúng, với tư cách một người bà con gần gũi nhất. Và với tư cách là một người bà con, anh cảm thấy rất hài lòng với ý nghĩ là chính anh cùng với các chiến sĩ của mình đã trả lại trường học cho bé Nina Volkova. Bọn Đức đã đuổi các em đi khỏi nơi này, đã phá phách thư viện và làm bẩn các lớp học, – còn trung úy, trong khi đánh đuổi bọn Đức đi, anh đã làm một công việc thật là thiêng liêng. Anh đã làm cho chính nghĩa được thắng lợi. Ý nghĩ đó nảy ra sau trận đánh, dường như là một phần thưởng vì đã trải qua những trận thử thách đầy gian khổ. Chính ngay trong trận chiến đấu, trong tiếng nổ ầm ầm của kim loại, trong đám khói thuốc súng thơm thơm, trong hoạt động căng thẳng đến tột độ, anh cảm thấy hình như chỉ có những cái gì đang diễn ra chung quanh mới có ý nghĩa mà thôi. Khi tiếng súng tiếng đạn đã ắng lặng thì tất cả những điều gì đã bị lãng quên giờ đây lại lơ mơ hiện ra trong trí nhớ, lần lượt điều nọ nối đuôi điều kia, dường như trở lại với cuộc sống, cuộc sống một lần nữa đã giữ gìn được. Gorbunov nhớ lại rằng anh làm nghề khí tượng và tốt nghiệp trường đại học một thời gian không lâu trước chiến tranh, rằng mẹ anh, Natalia Sergeevna Gorbunova, đang ở Saratov, rằng chị anh đã lấy chồng và em anh đi bộ đội. Anh buồn nhớ những đồng chí đã hy sinh trong chiến đấu và hỏi xem quân bưu đã đưa thư đến chưa. Anh thấy đói và phái người đi hỏi xem bao giờ thì người ta sẽ đưa cơm nước đến. Ý thức về ý nghĩa cao cả và tính chất chính nghĩa của cuộc chiến đấu mà anh đang tham gia, đã đem lại cho lòng anh một niềm kiêu hãnh tràn đầy. Cũng như mọi quân nhân khác, trung úy không đánh giá cao những người đàn ông ở lại hậu phương, nhưng thỉnh thoảng anh cũng thương hại nghĩ đến họ. Những người đó thì không bao giờ được biết nỗi hân hoan mà hiện giờ Gorbunov đang cảm thấy khi nhìn vào những tấm các tông của học sinh. Gorbunov đứng ngắm tranh vẽ trong vài giây, rồi nhanh nhẹn bước đi, dường như có một sức mạnh kỳ diệu nâng anh lên. Anh đi qua những chốn quê hương thân mến mới giành giật lại được trong tay quân cướp nước bằng một trận chiến đấu ác liệt. Anh cảm thấy mình là người bảo vệ cho những người yếu đuối – cho Gogol, Jules Verne, Nina Volkova, những người sẽ trở lại đây, theo sau các chiến sĩ của anh. Anh là một người đem lại hạnh phúc. Đi qua dãy hành lang ngổn ngang những bàn học, Gorbunov bước vào gian phòng có treo những giá trống không trên tường. Anh là người giải phóng, và ngọn gió chiến thắng đã thổi xốc anh tiến lên. Trung úy lấy chân đá mạnh vào cái ống của chiếc mặt nạ Đức đề phòng hơi độc, cái ống ấy chạm vào tường kêu loảng xoảng. Trong lớp rơm trải trên sàn, thấy lấp lánh sáng những vỏ đồ hộp. Cửa phòng bên cạnh đã đóng chặt, và trung úy mở toang cửa ra. Gian phòng ở góc tràn ngập ánh sáng xanh lam. Ngay đối diện cửa, một người cao, có râu, mặc áo vét-tông đen, đứng áp sát tường. Đầu của người đó ngoẹo ra sau, mặt ngửa lên, và hai mắt sợ hãi sáng lên nhìn chằm chằm những người đang đi vào. Gorbunov suýt nữa thì kêu lên: “Anh làm gì ở đây thế?”, nhưng nghẹn lời và nghiến chặt quai hàm. Hai chân không giày của người đó lơ lửng trên sàn. Một cái khung ảnh bằng gỗ dán có đường chạm trổ, nằm gọn trong bàn tay duỗi nắm chặt, chắc là nó bị giật ra trong giây phút giãy giụa cuối cùng của người đó để tìm chỗ bấu víu. Một sợi dây điện mảnh choàng qua cổ, chạy thẳng lên trần nhà. Các cửa sổ đều không có kính, và tuyết phủ lên tấm vải trải giường nhàu nát, lên bàn, lên áo của người bị xử giảo. Gorbunov và Rumyantsev tháo dây thòng lọng cho cái thi hài nặng nề, cứng đờ như một tấm gỗ, rồi khiêng đặt lên giường. - Chắc là thầy giáo… – Rumyantsev thốt lên. - Vâng, – trung úy nói. Trời bỗng sáng bật hẳn lên. Ngọn lửa xanh nhạt của chiếc đèn dù Đức chiếu sáng gian phòng. Tròng trắng lồi ra của cặp mắt đùng đục như thủy tinh trên mặt cụ già, lấp lánh lên, dường như trong giây lát sức sống đã sáng lên. Trong chiếc khung gỗ dán mà cụ giáo viên không muốn rời ra, có tấm ảnh một cô bé đeo hai chiếc nơ trên mái tóc. - Đồ quỷ sứ! – trung sĩ cau có lầu bầu. Hai người đi ra và lặng thinh bước xuống bậc cầu thang. - Chắc là cháu gái của cụ, – trung sĩ phỏng đoán. Gorbunov hình dung thấy cụ giáo viên già vùng vẫy đôi tay, quào bấu trên tường cố giữ cho thân hình không rơi vào cõi chết. - Có thể là thế, – trung úy nói lạnh lùng. Anh cảm thấy nghẹn lời, khó nói về cụ già bị hành hạ. Trong trận đánh gần đây, Gorbunov đã tự tay mình bắn chết một tên lính phát-xít. Nhớ lại điều đó, anh thấy nhẹ nhõm hơn trong lòng. Anh đi đến gần người quan sát đang đứng cạnh lỗ thủng ở tường. Chẳng hiểu vì sao Gorbunov cảm thấy là hình như ngay bây giờ anh sẽ ra lệnh tấn công. Anh khát khao được trả thù ngay lập tức, trả thù một cách đầy đủ. - Báo cáo đồng chí trung úy, không có pháo hiệu đỏ, – người quan sát báo cáo. - Anh xem kỹ rồi chứ? – Gorbunov hỏi. Và cả hai người nhìn về hướng tây-nam, về phía dải rừng xa xăm, phủ đầy tuyết, dải rừng bí ẩn và đen sẫm, giống như một đám mây dông. Mời các bạn đón đọc Pháo Hiệu Đỏ của tác giả Georgy Beryozko.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bố Già
TÁC GIẢ & TÁC PHẨM   Mario Puzo (Mario Gianluigi Puzo, 1920-1999) sinh ra trong một gia đình người Italia nhập cư sang Mỹ. Cha mẹ Mario hoàn toàn mù chữ và tuổi thơ của cậu bé này đã trôi qua “dưới đáy” xã hội ở New York. Trong Chiến Tranh Thế Giới II, Mario Puzo phục vụ trong quân đội Mỹ. Ông từng có mặt trên chiến trường nước Đức và vùng Đông Á. Sau đó Puzo học Cao Đẳng Khoa Học Xã Hội New York và Đại Học Tổng Hợp Colombia rồi công tác gần 20 năm tại các cơ quan của Chính Phủ ở New York và nước ngoài. Năm 1955, Puzo cho ra đời tác phẩm đầu tay mang tên “Đấu Trường Đen”. Đây không phải là một cuốn sách về Mafia mà về cuộc đời một chàng cựu binh Mỹ trong bối cảnh thành phố Berlin hoang tàn sau chiến tranh với những vụ áp phe, buôn lậu, lừa đảo và cả những mối quan hệ nồng ấm tình người. Tuy nhiên, “Đấu Trường Đen” không thuộc số những cuốn sách ấn tượng nhất của Puzo. Từ năm 1963, Mario Puzo bắt đầu tác nghiệp như một phóng viên tự do, đồng thời coi viết văn là công việc nghiêm túc của mình. Năm 1969, với sự xuất hiện lừng lẫy của “Bố Già”, Puzo đã trở thành nhà văn được cả thế giới ngưỡng mộ. Suốt một thời gian dài, “Bố Già” luôn chiếm vị trí đầu trong bảng xếp hạng sách bán chạy nhất hành tinh. Nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và có con số xuất bản đáng kinh ngạc: 11 triệu bản trong năm 1969 và 21 triệu bản tính đến tháng 7/1999. Bố Già Don Vito Corleone trong tiểu thuyết của ông và những sự kiện bạo liệt quanh ông ta dường như được bao phủ bởi một màu sắc lãng mạn khiến cuốn sách có sức hấp dẫn kỳ lạ. Tuy nhiên Puzo không chỉ dừng lại ở việc lãng mạn hóa “Bố Già”. Tác giả đã xây dựng câu chuyện dựa trên những chất liệu có thật, đã tiểu thuyết hóa các nhân vật bằng những nét miêu tả chân chất. Nhiều tư liệu gần đây về Mafia cho biết Bố Già ngoài đời chính là Don Vito Cascio Ferro, một trong những thủ lĩnh đầu tiên của giới Mafia Italia di cư sang Mỹ. Ông này cầm đầu giới giang hồ ở Sicily (Italia) và sau đó là thống soái của nhóm “Bàn Tay Đen”, tiền thân của Mafia Mỹ. Tuy nhiên, bản thân Puzo thì nói rằng ông chưa bao giờ tiếp cận với một tay gangster bằng xương bằng thịt, rằng nguyên mẫu cho nhân vật bố già chẳng phải ai xa lạ mà chính là mẹ ông, một phụ nữ Italia nhập cư đã phải làm mọi thứ để có thể nuôi sống con cái và giữ cho gia đình hòa thuận. Trong cuốn “Bố Già” Puzo cũng cẩn thận ghi chú rằng: Tất cả nhân vật trong truyện đều là hư cấu và bất kỳ sự trùng hợp nào nếu có đều là ngẫu nhiên… Độc giả cũng như giới phê bình đều công nhận rằng, Puzo đã miêu tả thế giới của “Bố Già" tuyệt vời đến nỗi có người còn ngờ ông là “tay trong” của Mafia. Năm 1972 Francis Coppola đã chuyển thể “Bố Già” thành phim. Sau đó vị đạo diễn tên tuổi này lại đề nghị Puzo hợp tác để viết tiếp kịch bản “Bố Già II”. Bộ phim bất hủ này đã đi vào lịch sử Hollywood và điện ảnh thế giới với các giải Oscar cho phim hay nhất và cho kịch bản hay nhất. Vai diễn Bố Già cũng đem đến cho hai diễn viên gạo cội Marlon Brando và Robert De Niro 2 giải Oscar. Kịch bản cho phim “Bố Già III” (xuất hiện trên màn bạc vào năm 1990) cũng được viết chung bởi Puzo và Coppola. Puzo tâm sự về việc viết “Bố Già” như sau: Một lần tình cờ có một đồng nghiệp ghé đến chỗ tôi. Tôi đã đưa bản thảo “Fortunate Pilgrim” (bản tiếng Việt là Đất Khách Quê Người) cho anh ta đọc. Một tuần sau anh ta quay lại và tuyên bố: Mario là một nhà văn vĩ đại! Tôi rất phấn chấn và đã thết anh bạn một bữa thịnh soạn tại nhà hàng. Trong khi ăn, tôi kể cho anh nghe những câu chuyện về Mafia và đọc một vài đoạn trong bản thảo “Bố Già”. Bạn tôi đã bị sốc. Một tuần sau anh ấy lại đến và nói rằng đã lên lịch hẹn cho tôi gặp một chủ xuất bản. Tại cuộc gặp đó, tôi cũng kể rất nhiều về Mafia. Ông chủ xuất bản rõ ràng là rất thích. Vì vậy ông ta đặt tôi viết một cuốn tiểu thuyết về những chuyện đó và ứng trước cho tôi 5 nghìn đôla. Chuyện xảy ra như thế đấy. Thật kỳ lạ và không thể hiểu nổi. Tôi đã bắt tay vào viết “Bố Già” nhưng thực lòng không hề thấy hứng thú… Tôi viết cuốn sách trong vòng 3 năm. Thời gian ấy tôi đồng thời còn viết cho Martin Gudman một số truyện phiêu lưu mà không đòi hỏi nhuận bút… Độc giả Việt Nam hẳn không xa lạ gì với “Bố Già” - cuốn tiểu thuyết được đánh giá là hay nhất về giới giang hồ Mafia ở Mỹ. Nhà văn Mario Puzo, cha đẻ của “Bố Già” lại thú nhận rằng ông không hề hào hứng khi viết cuốn sách bán chạy nhất này, ông chỉ viết nó vì đang... túng tiền! *** Amerigo Bonasera ngồi ở phòng ba tòa đại hình New York chờ xem công lý được thực thi và lưỡi gươm trừng phạt sẽ bổ xuống đầu mấy thằng mất dạy đã hành hung thành thương tật và toan làm nhục con gái lão. Ngài chánh án uy nghi trang trọng vén tay áo thụng như sắp sửa tự tay mình trị tội hai thằng côn đồ đang đứng trước tòa. Bộ mặt sắt của ngài đầy khinh bỉ, cao ngạo, song ở đây có một cái gì đó giả trá mà Amerigo Bonasera đã nhận thấy bằng trực giác mặc dù còn chưa hiểu ra sự thể. — Hành động của các người là hành động của bọn cặn bã mạt hạng, - ngài chánh án lớn tiếng. “Đúng", Bonasera nghĩ bụng, “đúng thế! Lũ súc sinh. Loài dã thú". Hai thằng thanh niên tóc bóng mượt cắt đúng mốt, mặt mày sáng sủa lộ rõ vẻ ăn năn, hai đứa cúi đầu cam chịu. Quan chánh án phán tiếp: — Các người hành động như lũ dã thú trong rừng, may mà cô gái đáng thương chưa bị các người xâm phạm tiết hạnh, bằng không ta phải nhốt các người đủ hai chục năm mới nghe. - Ngài dừng lại một lúc, cặp mắt cáo bên dưới đôi lông mày rậm rì nhíu lại dữ tợn đảo nhanh qua bộ mặt tái ngắt của Bonasera. Rồi càng sa sầm mặt với vẻ dữ tợn hơn, so vai như để kìm cơn giận tự nhiên, ngài kết thúc. - Nhưng xét các người còn trẻ, trước đây chưa có tiền án, vả lại đều là con nhà tử tế, mặt khác luật pháp là cực kì sáng suốt, đặt ra không phải để trả thù, nên ta tuyên phạt mỗi tên ba năm tù. Cho phép các người được hưởng án treo. Chỉ nhờ thói quen bốn chục năm nghề nghiệp mới giúp ông chủ xe đòn Bonasera đủ sức ghìm cơn giận không để lộ ra ngoài mặt. Đứa con gái trẻ trung tươi tắn của lão giờ này vẫn phải nằm bệnh viện với cái xương hàm gẫy, thế mà bọn súc sinh kia lại được thả rông ngoài đường. Ra người ta diễn trò hề với lão đây. Đám cha mẹ, họ hàng của chúng đang hớn hớ xúm quanh hai cậu quí tử. Bọn họ làm sao mà không hớn hở cơ chứ. Cổ họng Bonasera đắng ngắt, nước dãi chua loét tứa ra đầy mồm đằng sau hai hàm răng nghiến chặt. Lão rút chiếc khăn tay phin nõn ở túi ngực ra bịt mồm, đứng đực giữa lối đi, còn hai thằng khốn nạn thì trâng tráo đi ngang qua mặt lão, mồm nhếch lên cười nhạt, thậm chí còn không thèm nhìn đến lão. Lão để chúng đi qua mà không nói một lời, chỉ áp chặt hơn chiếc khăn vào mồm. Cha mẹ chúng đi sau, hai bà và hai ông cùng trạc tuổi lão có điều ăn mặc ra dáng Mĩ nòi. Mấy người này nhìn lão có vẻ lúng túng nhưng đầy thách thức và đắc thắng ngấm ngầm. Không nhịn nổi, Bonasera nhoài người ra hét lớn: — Các người cứ chờ đấy, rồi các người sẽ được khóc như ta đã từng khóc. Thấy vậy mấy ông luật sư đi đằng sau vội đẩy các thân chủ tới chỗ mấy thằng con đang dừng lại hầm hừ như chực nhảy vào bênh bố mẹ. Một tay mõ toà to như hộ pháp vội chạy ra đứng chặn lối, sợ Bonasera làm liều. Nhưng rốt cuộc chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Bao nhiêu năm làm ăn sinh sống ở xứ này Bonasera luôn tin ở pháp luật và trật tự kỉ cương. Dựa vào đâu thì ăn nhờ đấy. Ngay cả lúc này, tuy đầu óc lão cứ ong ong vì uất hận ngất trời, căm gan tức ruột chỉ muốn thửa ngay một khẩu súng bắn chết toi hai thằng chó cho hả, nhưng Bonasera vẫn phải cắn răng quay sang bà vợ đang ngớ ra chẳng hiểu ngô khoai gì hết. — Người ta lỡm vợ chồng mình đấy, - lão nói. Lão im bặt, máu liều bốc lên. Lão quyết định dứt khoát, muốn đến đâu thì đến: “Muốn có công lý thì phải đến kêu cửa Ông Trùm Corleone". *** Tại Los Angeles, một mình giữa căn phòng Deluxe sang trọng choáng người trong khách sạn, Johnny Fontane cũng mượn rượu giải sầu như bất kỳ một anh chàng mọc sừng nào. Hắn nằm duỗi dài trên chiếc đivăng đỏ, cầm nguyên cả chai mà tu rồi úp mặt vào cái thố pha lê đựng đá liếm nước lạnh cho thông họng. Lúc đó là bốn giờ sáng, trí tưởng tượng mờ mịt hơi men của hắn đang hình dung cảnh hắn tẩn con vợ đĩ thõa lúc con kia về, nếu như nó còn về. Muộn rồi chứ không thì phôn một cú đến cô vợ cũ hỏi thăm mấy đứa con cho đỡ sầu. Không hiểu sao hắn không muốn gọi tới mấy đứa bạn, nhất là từ dạo công việc của hắn bắt đầu xuống dốc. Có thời được hắn gọi điện vào lúc bốn giờ sáng là bọn kia sướng lắm. Giờ thì chẳng ma nào thèm biết hắn. Mà kể cũng lạ, lúc hắn đang lên, hễ mới hơi khó ở một chút là các minh tinh sáng giá nhất nước Mĩ đã tới tấp hỏi thăm ngay. Hay thật! Hắn lại đưa chai rượu lên mồm, và rốt cuộc cũng nghe thấy tiếng chìa khoá xoay ngoài cửa. Johnny cứ ngậm nguyên chai rượu cho tới khi vợ hắn vào phòng và dừng lại trước mặt hắn: Xinh đẹp, con mắt tim tím mơ mộng lả lơi, gương mặt thần tiên, thân hình thon thả, óng chuốt. Cả triệu đàn ông khắp thế giới mê mệt Margot Ashton, chịu xì tiền ra để được ngắm ả trên màn bạc. — Phất phơ đâu về? - Johnny lè nhè hỏi. — À, đi ngủ với trai, - Ả đáp. Ả tính hơi nhầm, hắn chưa phải đã say khướt. Hắn nhảy chồm qua cái bàn con để báo, túm ngay lấy cổ áo dài của ả. Nhưng vừa kéo khuôn mặt thần tiên kia đến gần thì bao nhiêu tức giận của hắn trôi tuột đi đâu mất, người hắn nhũn ra. Cô ả tớn môi chế nhạo và lại một lần nữa tính nhầm, Johnny vung nắm đấm lên. — Cấm đánh vào mặt đấy nhé! - Ả hét thất thanh, - Người ta đang đóng phim đấy, Johnny! Cú đấm trúng ngay ức làm ả ngã chỏng gọng. Hắn đè lên, đấm như bổ củi xuống vai, xuống hông, xuống cặp đùi mịn màng rám nắng. Hắn quần ả như ngày nhỏ vẫn nện bọn nhãi ranh thò lò mũi ở “Rốn Hỏa Ngục", tức là Khu Ổ Chuột của New York. Đòn của hắn ngấm đáo để tuy không gây thương tích như gẫy răng, vỡ mũi. Mà nói vậy chứ hắn còn nương tay. Hắn không thể làm khác được. Thế là ả lại cười vào mũi hắn. Ả xoạc cẳng nằm tô hô, lớp váy lụa thêu bên trong lộ ra, tru tréo: — Đây này, đánh nữa đi, đánh đi... ăn thua mẹ gì! Johnny chán ngán bò dậy. Tức anh ách mà không đánh được con đĩ, nó đẹp quá. Margot lật sấp người, nhẹ nhàng nhún mình bật dậy rồi vừa õng ẹo vừa nhè mồm ra trêu như một con bé con: — Ê, ê... đếch đau. Ê, ê... đếch đau. Rồi nghiêm mặt, ánh mắt lộ rõ vẻ ngán ngẩm, ả nói thêm: — Chán mớ đời, mày đè đau cả bụng chị đây này, bé con ạ. Chà! Johnny, mày suốt đời vẫn chỉ là con nghé con, đến cả làm tình cũng chẳng bằng đứa trẻ ranh. Mày tưởng như trong các bài mày vẫn rống ông ổng dạo trước đấy hả? - Ả lắc đầu. - Gà tồ? Thôi, khỏe nhé, Johnny. Ả vào phòng ngủ và khóa trái cửa lại. Johnny ngồi bệt xuống sàn, tay bụm mặt. Uất ức, nhục nhã, thất vọng ê chề. Nhưng vốn là đứa trẻ lang thang trong Khu Ổ Chuột New York, cuộc đời chìm nổi ngày xưa đã giúp hắn sống sót trong miền rừng hoang Hollywood, bây giờ lại thức tỉnh hắn cầm máy gọi taxi ra sân bay. Còn một người có thể cứu hắn. Miễn là về được New York gặp người ấy, kẻ duy nhất giúp hắn tìm được sức mạnh và sự khôn ngoan mà lúc này hắn đang thiếu, một người thực sự yêu thương hắn. Đó là Bố Già của hắn, Ông Trùm Corleone. *** Bác thợ bánh Nazorine hồng hào tròn xoay như những chiếc bánh kiểu Italia nở phồng của bác. Người vẫn dính đầy bột mì, bác lừ mắt nhìn bà vợ và cô con gái đến tuổi cập kê rồi quay sang gã giúp việc Enzo, đã kịp đóng bộ quần áo đính băng vải có hai chữ “Tù Binh" viết tắt màu xanh, đang lo ngay ngáy sợ muộn giờ điểm danh tối ở trại trên Đảo Thống Đốc. Giống như hàng ngàn tù binh Italia hàng ngày đến làm cho các chủ Mĩ sau khi đã cam đoan, Enzo sống nơm nớp, chỉ sợ mất cái đặc ân ấy thì meo. Vì thế nên cái màn hài kịch đang diễn ra ở đây đối với anh quá ư là nghiêm trọng. — Chú định để tai tiếng cho gia đình tôi đấy phỏng? - Nazorine gầm gừ. - Chiến tranh sắp hết, chú định tương cho con bé nhà tôi một món quà kỉ niệm chứ gì? Rồi sau thế nào thì ai còn lạ gì nữa: Nước Mĩ thúc cho chú một gối vào đít là chú mình phới luôn về Sicily đếm rệp ở quê nhà hả? Enzo, người lùn tịt, chân cẳng ngắn ngủn, vội ấp tay lên ngực như muốn khóc, tuy vậy vẫn tỉnh lắm: — Padrone, thề có Đức Mẹ Đồng Trinh, nào cháu có dám lấy oán trả ân bác đâu. Cháu yêu thương con gái bác thực bụng, đời nào lại dám sàm sỡ. Tiện đây, xin bác cho cháu lấy cô ấy. Cháu thực không nên không phải, song nếu người ta trả cháu về Italia thì bao giờ cháu mới sang Mĩ được? Nếu vậy ngày nào cháu với Katherine mới nên vợ nên chồng? Bà Filomena vợ bác không thích dông dài, nói toang toác luôn: — Đừng có mà ngốc thế, bố nó - Bác ta bảo ông chồng - Làm thế nào thì bố mày biết rồi đấy. Thằng Enzo cứ để nó ở đây, có gì bố mày đưa nó sang chỗ bà con mình bên Long Island gửi gắm ít lâu xem sao đã. Katherine khóc lên khóc xuống. Người đã béo trục béo tròn, mép lại lấm tấm tí ria, nó có đẹp đẽ gì cho cam. Biết tìm đâu một tấm chồng điển trai bằng Enzo bây giờ. Lấy ai mà xoa bộ ngực tú ụ của nó cho nồng nàn và mơn trớn như chàng? — Tôi về Italia tôi ở cho bố trắng mắt ra! - Nó giãy nẩy lên với ông bố.- Bố mà không giữ anh ấy lại thì tôi bỏ bố tôi đi? Hư... hư... Nazorine tinh quái nhìn nó. Con bé nhà mình gớm thật! Bác đã trông thấy: Hễ mỗi lần thằng bé phải lách qua sau lưng nó để xếp bánh vào giỏ là y như rằng con ranh lại miết bàn tọa vào người thằng kia sát sạt. “Cứ cái đà này không khéo thằng lỏi còn lách vào tận đâu ấy chứ - Nazorine thầm cho phép mình nghĩ bậy. - Phải giữ thằng Enzo lại Mĩ, phải xoay cho nó cái quốc tịch. Và chỉ có một người làm nổi việc ấy: Bố Già. Ông Trùm Corleone". Mời các bạn đón đọc Bố Già của tác giả Mario Puzo & Đoàn Tử Huyến (dịch) & Trịnh Huy Ninh (dịch).
Một Chín Tám Tư
Một chín tám tư là tên một tiểu thuyết dystopia (phản địa đàng) phát hành năm 1949 của nhà văn người Anh George Orwell. Kể từ khi ra đời vào năm 1949, Một chín tám tư đã được xem là tác phẩm kinh điển về tư tưởng chính trị và khoa học giả tưởng. Nhiều từ vựng, khái niệm có trong tiểu thuyết như Big Brother, doublethink, thoughtcrime, Newspeak, Room 101, telescreen, 2+2=5 và memory hole đã đi vào đời sống (những người nói tiếng Anh). Tiểu thuyết cũng là nơi phổ biến tính từ Orwellian nhằm chỉ sự phủ nhận lịch sử, tung tin giả, theo dõi ngầm và tuyên truyền của nhà nước toàn trị. Năm 2005, tạp chí TIME đã đưa Một chín tám tư vào danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh xuất sắc nhất từ 1923 đến 2005. Trong danh sách "100 tiểu thuyết xuất sắc nhất của Modern Library", Một chín tám tư đứng thứ 13 do ban biên tập bình chọn và thứ 6 do người đọc bình chọn. Năm 2003, tiểu thuyết đứng vị trí thứ 8 trong "The Big Read", theo một cuộc điều tra của BBC. *** Anh Cả và tiểu thuyết ‘1984’ Hôm qua, tôi xem cuốn phim “First, they killed my father” do Angelina Jolie đạo diễn. Cuốn phim, sản xuất năm 2017, mô tả thảm cảnh của một gia đình trung lưu ở Pnom Penh sau 1975 khi Khmer Đỏ chiếm Cambodia. Trong phim, có một chữ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần là ‘Angkar‘, có nghĩa là Tổ Chức, nhưng có người dịch là ‘Anh Cả’. Khái niệm ‘Anh Cả’ làm tôi nhớ đến cuốn tiểu thuyết “1984” của văn hào George Orwell. Đối với nhiều người Việt Nam, đặc biệt là ở miền Nam, sẽ thấy cuốn phim “First, they killed my father” rất cuốn hút, vì nhiều người có thể tìm thấy mình qua những hình ảnh và nhân vật trong phim. Cuộc sống yên ấm của một gia đình trở thành đảo lộn sau khi Khmer Đỏ tiến vào ‘giải phóng’. Những gì xảy ra sau đó như tịch thu tài sản, tù cải tạo tập trung, tra tấn, giết chóc, v.v. làm cho người ta nhớ lại một thời kinh hoàng. Có những chi tiết nhỏ những đầy ý nghĩa như một cán bộ Khmer Đỏ đòi tước lấy cái đồng hồ của một người dân, vì Anh Cả cần cái đồng hồ đó, hay như chi tiết về một cựu viên chức giả vờ không biết tiếng Pháp để đóng vai người nông dân nhằm thoát bàn tay tử thần của đám cán bộ đang lăm le giết người. Thế nhưng cuối cùng thì anh ta cũng bị giết trong lúc cải tạo. Xuyên suốt cuốn phim, nhân vật vô hình “Anh Cả” được nhắc đi nhắc lại. Anh Cả biết hết. Anh Cả theo dõi mọi người. Anh Cả vĩ đại. Anh Cả bao dung và độ lượng. Nhưng trong thực tế, Anh Cả là kẻ giết người vô hình. Vô hình là vì không ai biết Anh Cả là ai. Đó chính là viễn ảnh của một xã hội được mô tả trong tiểu thuyết 1984. 1984 là một trong hai cuốn tiểu thuyết (cuốn kia là ‘Animal Farm’) nổi tiếng nhứt của văn hào George Orwell được xuất bản vào năm 1949. Trong 1984, Orwell cảnh báo thế giới về một viễn ảnh chế độ toàn trị sẽ gieo rắc lên xã hội, như hạn chế quyền tự do con người, kiểm soát hành vi, thậm chí suy nghĩ của dân chúng. Cảnh báo của Orwell thật ra đã thành hiện thực không chỉ ở các nước theo chế độ toàn trị, mà còn ngay tại những nước từng có thời tự xem là ‘Tự do & Dân chủ’ ngày nay. Khái niệm ‘Anh Cả’ / Big Brother / Angkar bàng bạc trong xã hội ngày nay. Nó không chỉ là những khẩu hiệu, biểu ngữ giăng trên đường phố, mà còn là những ‘Ứng dụng’ trong cái điện thoại động và máy tính cá nhân theo dõi từng bước đi, đếm từng hơi thở, và lắng nghe từng lời nói của chúng ta. Anh Cả ngày nay hiện diện mọi nơi. Tóm tắt ‘1984’ Câu chuyện xảy ra trong nước Oceania vào năm 1984 (nên nhớ ông viết trước đó và chỉ xuất bản vào năm 1949). Oceania là một nước theo thể chế toàn trị (totalitarian). Ngoài Oceania, còn có 2 nhà nước toàn trị khác là Eurasia và Eastasia. Oceania bị thống trị bởi một đảng gọi là Party. Party được sự lãnh đạo của một lãnh tụ ‘anh minh’ có danh xưng là Big Brother (Anh Cả). Anh Cả biến Party thành một tổ chức chuyên tẩy não dân chúng, đổi trắng thành đen, đổi đen thành trắng, làm cho người dân lẫn lộn không biết đâu là thực và đâu là giả. Mục tiêu của Party là làm cho người dân phải vâng lời lãnh tụ Big Brother một cách vô điều kiện. Nhà nước Oceania bao gồm một số bộ có tên rất … khác. Bộ Sự Thật (Ministry of Truth), Bộ Hoà Bình (Ministry of Peace), Bộ Tình Thương (Ministry of Love) và Bộ Dồi Dào (Ministry of Plenty). Những cái tên bộ hoàn toàn đi ngược lại ý nghĩa của nó. Chẳng hạn như Bộ Sự Thật chuyên trách tuyên truyền dối trá. Theo Bộ Sự Thật, 2 + 2 không phải là 4, mà là 5. Bộ Sự Thật kiểm soát tất cả báo chí, giải trí, và nghệ thuật. Trong nhà nước toàn trị, không có báo chí đối lập; tất cả phải phục vụ cho Party. Bộ Hòa Bình chuyên trách chiến tranh, lúc nào cũng sẵn sàng gây chiến với nhà nước Eurasia và Eastasia. Bộ Tình Thương là bộ đáng sợ nhứt vì nó có chức năng như là Bộ Công An, chuyên trách đàn áp và tra tấn người dân. Bộ Dồi Dào có chức năng kiểm soát nền kinh tế tập trung, kiêm luôn phân phối thực phẩm và hàng hoá cho dân. Cuốn tiểu thuyết xoay quanh 4 nhân vật: Winston Smith là một cán bộ cấp thấp, Julia là người yêu của Smith, O’Brien là giả lãnh tụ đảng đối lập, và Emmanuel Goldstein là Anh Cả. Ngoài ra, còn có nhân vật Charrington là chủ tiệm bán đồ cổ, và ông này là một người chỉ điểm, thành viên của Cảnh sát Tư tưởng. Winston Smith là một cán bộ trong Bộ Sự Thật. Công việc của Winston là thay đổi các sự thật lịch sử sao cho phù hợp với đường lối và chánh sách của Party / Đảng. Dù làm công việc đó, nhưng Winston không thấy thoải mái vì sự gian dối của Đảng. Chẳng hạn như Đảng nói nước Oceania luôn là đồng minh của Eastasia trong cuộc chiến chống Eurasia, nhưng sự thật thì không phải vậy. Hay như Đảng cho rằng Emmanuel Goldstein (lãnh tụ của nhóm Brotherhood) là người nguy hiểm nhứt, là Kẻ Thù Của Nhân Dân, nhưng Winston thấy không phải vậy. Winston trú ngụ ở tầng 7 trong một toà nhà tồi tàn, hôi mùi cải bắp luộc, còn thang máy thì thường bị hư hỏng. Trớ trêu thay, toà nhà này được Đảng đặt tên là “Victory Mansion” (Biệt thự Thắng Lợi). Thật ra, cái tên ‘Thắng Lợi’ được dùng cho rất nhiều sản phẩm (như thuốc lá, rượu, bia, cà phê, v.v.) của nước Oceania. Orwell mô tả Smith như là một công chức nghèo, uể oải với công việc và cuộc sống. Chiều về căn hộ, anh ta được ‘chào đón’ bằng những bài ca hay chương trình giải trí mang tính ‘cách mạng’ và tẻ nhạt. Còn cái màn hình thì hình như lúc nào cũng theo dõi mỗi bước đi và hành vi của anh. Còn ra ngoài nhà thì bất cứ anh đi đến nơi nào, Party đều theo dõi anh. Đi đường anh cũng thấy sự hiện diện của Party và lãnh tụ vĩ đại qua băng rôn và khẩu hiệu. Anh phải tỏ ra là một cán bộ trung thành với Party, về nếu không thì anh ta sẽ bị trừng phạt, thậm chí giết chết. Cảnh sát Tư tưởng lúc nào cũng có mặt để bảo đảm anh ta phải trung thành, mẫn cán với Party / Đảng. Winston càng ngày càng thấy bất bình trước sự trấn áp và kiểm soát của Đảng. Đảng cấm không được suy nghĩ tự do, không có tình dục, và không có bất cứ diễn đạt mang tánh cá nhân. Do đó, anh ta bắt đầu không ưa đảng và viết nhựt kí. Nói cách khác, anh ta đang trở thành một Tội phạm Tư tưởng. Winston thương thầm nhớ trộm một cô gái đồng nghiệp tên là Julia. Nhưng Winston sợ Julia là ‘gián điệp’ được cài cắm để theo dõi những kẻ Tội phạm Tư tưởng như anh ta. Một ngày kia, Winston nhận được thư của Julia với dòng chữ ‘I love you’ (em yêu anh), và thế là họ bí mật bắt đầu một mối quan hệ tình cảm. Càng yêu Julia chừng nào, Winston càng ghét Đảng chừng nấy. Một hôm, Julia và Winston nhận được lời mời ghé thăm O’Brien, lãnh tụ của Đảng. Tuy Đảng mang danh là của giai cấp lao động, nhưng O’Brien sống trong xa hoa.  O’Brien cho biết rằng cũng như Winstin và Julia, ông rất ghét Đảng. Ông đang tham gia nhóm Brotherhood (Hội Ái Hữu) nhằm lật đổ Đảng. O’Brien mời Julia và Winston tham gia Hội Ái Hữu và được tặng cuốn sách của Emmanuel Goldstein về tuyên ngôn của Hội. Winston say sưa đọc cuốn sách cho Julia nghe trong một tiệm. Đột nhiên, lính xông vào tịct thu cuốn sách, và người báo lính bắt là chủ nhân của tiệm tên Charrington, ông này là thành viên của Cảnh sát Tư tưởng. Winston được chở tối Bộ Tình Thương, và ở đó Winston lại gặp O’Brien. Lúc bấy giờ, Winston mới biết rằng O’Brien là một gián điệp của Đảng. O’Brien chỉ giả vờ là người của Hội Ái Hữu để gài bẫy Winston. Tại Bộ Tình Thương, đích thân O’Brien tra tấn và tẩy não Winston. Winston kháng cự, và thế là bị gởi đi giam cầm trong Phòng 101, nơi kinh khủng nhứt của Bộ Tình Thương dành cho những tù nhân sừng sỏ nhứt. Cách O’Brien tra tần ở Phòng 101 là buộc một lồng đầy chuột trên đầu của Winston, và để cho chuột gặm nhấm mặt của Winston. Cuối cùng thì Winston bị suy sụp và van xin O’Brien tha thứ cho mình, và hãy dùng hình thức tra tấn này cho Julia. Winston được thả trong điều kiện sức khoẻ tinh thần bị suy sụp hoàn toàn. Ở ngoài tù, Winston gặp Julia nhưng không còn cảm tình gì với nàng. Ngược lại, Julia cũng bị suy sụp tinh thần và không còn yêu Winston nữa. Winston chấp nhận Đảng và học cách yêu thương lãnh tụ Anh Cả. Phân tích ‘1984’ Nội dung câu chuyện tôi tóm tắt có lẽ không làm cho các bạn quan tâm, vì xem quá có vẻ quá … tầm thường. Có lẽ thế, nhưng ý nghĩa đằng sau nó thì không tầm thường chút nào, vì qua câu chuyện, văn hào đã phác hoạ một xã hội toàn trị có hình thù ra sao và vận hành như thế nào. Tác phẩm còn hàm chứa một thông điệp rất quan trọng mà George Orwell muốn gởi đến độc giả, đó là các chế độ toàn trị có khả năng gieo rắc nỗi kinh hoàng đến người dân. Đó cũng là một cảnh báo mà văn hào đưa ra từ những 80 năm trước. Luận đề căn bản của 1984 là thế giới sẽ được chia thành 3 siêu nhà nước toàn trị: Oceania, tượng trưng cho chế độ Stalin; Eurasia tượng trưng cho chế độ Phát-xít; và Eastasia tượng trưng cho xã hội theo tư bản chủ nghĩa. Tuy Oceania tượng trưng cho xã hội Stalin, nhưng câu chuyện lại không lấy Moscow làm bối cảnh mà là London. Tuy nhiên, ngày nay thì chúng ta có thể thấy cái nhà nước Oceania hiện diện ở bất cứ nơi nào trên thế giới, dưới hình thức này hay hình thức khác. Nước Oceania có ba thành phần: một nhóm nhỏ gọi là Nội Đảng (Inner Party), Ngoại Đảng (Outer Party) và nhóm lớn nhứt là Proles không nằm trong Đảng.  Nội Đảng bao gồm một nhóm nhỏ chóp bu của Đảng, có quyền điều hành và ra chánh sách. Ngoại Đảng là nhóm lớn hơn, bao gồm những cán bộ như Winston Smith, những kẻ bị tẩy não nặng nề và chỉ biết phục vụ cho Nội Đảng một cách vô điều kiện. Proles hay thường dân là nhóm lớn nhứt, ngoài Đảng, chẳng có quyền lực gì cả, và gần như vô nghĩa. Nhóm Probes này được quản lí bởi một lực lượng gọi là Cảnh sát Tư tưởng (Thought Police). Nhóm Proles chẳng có vai trò gì, và thường được Cảnh sát Tư tưởng cho chơi thể thao và những màn giải trí vớ vẩn khác để không chất vấn những gì Nội Đảng và Ngoại Đảng làm. Mục tiêu tối hậu của Nhà nước Oceania là kiểm soát toàn bộ xã hội và kiểm soát suy nghĩ của người dân. Để thực hiện mục tiêu này, Oceania dựa vào 2 trụ cột chánh: dối trá & tẩy não, và đàn áp. Dối trá & tẩy não được thực hiện bởi Bộ Sự Thật. Đàn áp thì do Bộ Tình Thương phụ trách. Bộ Sự Thật sáng chế ra một ngôn ngữ gọi là Newspeak. Trong thực tế, Newspeak là loại ngôn ngữ mới nhằm hạn chế tự do tư tưởng và xiển dương đường lối chủ trương của Đảng. Ngôn ngữ Newspeak thay thế tiếng Anh truyền thống. Newspeak không có những chữ mang tính phản kháng. Ngay cả suy nghĩ phản kháng cũng là bất hợp pháp, và suy nghĩ phản kháng trong tâm tưởng là một ‘tội phạm tư tưởng’ (thought crime). Tội phạm tư tưởng là loại tội phạm nặng nhứt trong nhà nước Oceania. Trong Newspeak có một chương trình một cách nói gọi là ‘Doublethinking‘ (Suy Nghĩ Kép). Khẩu hiệu của Doublethinking và cũng là chủ trương của Oceania là: Chiến tranh là hoà bình (War is Peace) Tự do là nô lệ (Freedom is slavery) Dốt nát là sức mạnh (Ignorance is strength) “Chiến tranh là hoà bình” có nghĩa là đặt quốc gia trong tình trạng chiến tranh thì người ta sẽ quên đi những bất công xã hội và thối nát của chế độ để chuẩn bị chiến tranh, và qua đó mà duy trì hoà bình trong nước. Điều này giải thích tại sao các nước toàn trị lúc nào cũng doạ công chúng rằng có một kẻ thù đang đe doạ đến sự tồn vong của chế độ (dù chẳng có đe doạ nào cả) để biện minh cho sự đàn áp của họ và làm cho dân chúng lúc nào cũng bị động, không có thì giờ suy nghĩ sâu xa. “Tự do là nô lệ” có nghĩa là tự do tuyệt đối sẽ dẫn đến một cuộc sống mà người ta chỉ theo đuổi những thú vui vật chất và nhục dục. Họ không thể nào suy nghĩ đến những vấn đề lớn hơn. Do đó, họ rất dễ trở thành nô lệ cho chế độ. “Dốt nát là sức mạnh” có thể hiểu rằng dốt nát là niềm vui. Khi người ta chạy theo niềm vui để thoả mãn nhu cầu cá nhân, người ta sẽ không quan tâm đến sự thật nữa. Sự dốt nát của họ là sức mạnh của nhà nước. Doublethinking là một ‘vũ khí’ lợi hại của Đảng (Bộ Sự Thật). Với Doublethinking, người ta có thể tin vào 2 điều hoàn toàn đối nghịch nhau. Đó chính là lí do tại sao các chế độ toàn trị rất thích nói về tự do, dân chủ, hoà bình. Chế độ Oceania lúc nào cũng nói rằng tự do là quí báu, nhưng chính chế độ đó lại tước đoạt quyền tự do tư tưởng của người dân. Dân chủ là một khẩu hiệu rất phổ biến trong nước Oceania nhưng trong thực tế người dân không có quyền bầu cử. Còn hoà bình thì chỉ là khẩu hiệu, vì trong thực tế Oceania lúc nào cũng chuẩn bị chiến tranh chống các nhà nước khác. Cho đến nay, chúng ta vẫn thấy nhan nhản những thủ thuật của Bộ Sự Thật trong tuyên truyền và tẩy não người dân. Vì nhà nước Oceania kiểm soát toàn bộ báo chí và hệ thống truyền thông, nên nó có thể nói bất cứ điều gì mà không quan tâm đến phản kháng. Nó nói 2 + 2 = 5 mà không ai dám nói khác. Nó đổi đen thành trắng, và trắng thành đen cũng chẳng ai nói khác được. Dần dần, theo thời gian những ‘tiêu chuẩn’ mới này thành chân lí và người dân phải chấp nhận. Để kiểm soát tư tưởng và tẩy não dân, Đảng duy trì một hệ thống kiểm soát tư tưởng có tên là Thought Police (Cảnh sát Tư tưởng). Cảnh sát Tư tưởng có thể theo dõi công dân mỗi phút và biết họ suy nghĩ gì! Bất cứ ai trong nhà nước Oceania suy nghĩ khác với Đảng là bị bắt bỏ tù và tra tấn. Nhà nước Oceania thích dùng những cách nói thậm xưng. Họ nói về những chiến thắng vang vội, và bất kẻ thù nào cũng bị đánh bại. Tiểu thuyết bắt đầu bằng nhà nước Oceania gây chiến với Eurasia và làm hoà với Eastasia. Nhưng sau đó thì Oceania đột nhiên làm hoà với Eurasia và gây hấn Eastasia. Cứ mỗi lần như thế, Oceania tuyên bố là chiến thắng. Họ khắc cái ‘chiến thắng’ đó bằng cách đặt tên cho các sản phẩm là ‘Thắng lợi’ / Victory. Người dân tưởng đó là thật và cũng tự hào và ảo tưởng về sức mạnh của Nhà nước Oceania. Nhà nước Oceania tuy bề mặt thì tỏ ra là một chánh quyền mạnh và vững chãi, nhưng trong thâm tâm họ rất yếu. Họ rất sợ dân. Họ nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và ai cũng đáng nghi ngờ. Đó chính là lí do họ có đội quân Cảnh sát Tư tưởng. Một trong những cụm từ họ hay dùng là ‘Kẻ Thù Của Nhân Dân‘. Trong ‘1984’, Orwell mô tả các thành viên của Ngoại Đảng cứ mỗi lần họp họ dành ra 2 phút để làm Nghi lễ Thù Ghét chống lại Emmanuel Goldstein, người được xem là ‘Kẻ thù của Nhân dân‘. Tuy nhiên, cái nhãn đó chỉ được dựng lên làm biểu tượng nhằm đánh lạc hướng người dân từ một kẻ thù lớn hơn là Anh Cả! Cái mô hình Oceania dĩ nhiên là có mặt trong thế giới XHCN cũ. Ở Đức, sau khi thống nhất đất nước, người ta mới biết cơ quan mật vụ khét tiếng Stasi đã theo dõi người dân như thế nào. Họ dùng những người thân như cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp làm điềm chỉ viên cho họ. Các điềm chỉ viên báo cáo rất chi tiết về người họ theo dõi, như gặp ai, nói chuyện về gì, suy nghĩ ra sao, thậm chí … ngủ với ai! Ngày nay, cái ngôn ngữ Newspeak cũng hay thấy ở những nước chuyển sang XHCN. Ở Tàu, sau cuộc ‘cách mạng’, chế độ mới thay đổi các cách nói và ngữ vựng cũ bằng những cách nói xa lạ và những từ ngữ khó hiểu. Họ cố tình tẩy não sao cho dân chúng phải đoạn tuyệt với ngôn ngữ của cha ông để lại và làm quen với một thứ ngôn ngữ mới. Ngôn ngữ Newspeak cũng có những chữ như tự do, dân chủ, hoà bình, v.v. nhưng ý nghĩa thật thì hoàn toàn ngược lại, y như Doublethinking. Trong cái nhìn của Orwell, không phải chỉ xã hội chủ nghĩa sẽ thất bại, nhưng một xã hội hiện đại (như ngày nay) và xã hội dân chủ đại chúng cũng sẽ thất bại. Trong xã hội ngày nay, những kẻ cai trị đã có trong tay những kĩ thuật và công nghệ để duy trì quyền lực và kiểm soát dân chúng. Trong xã hội Oceania, người dân tin vào những gì kẻ cai trị (Anh Cả) vì họ không thể nào nói lên những bất đồng chánh kiến, hoặc họ bị tẩy não và không nghĩ ra được một cách diễn giải khác. Có lẽ ý tưởng chánh của Orwell trong 1984 là những kẻ cai trị có khả năng ngăn chận những suy nghĩ độc lập của người dân. Lời cảnh báo đó vẫn còn tính thời sự. Dù đã gần 80 năm xuất bản, những khái niệm như Newspeak, Doublethink, Anh Cả, Tội phạm Tư tưởng, Cảnh sát Tư tưởng, v.v. vẫn còn liên quan. Ngay cả người dân ở Mĩ, Úc, Anh trong thời dịch bệnh có lẽ đều tìm thấy nhiều sự trùng hợp lạ lùng với những gì mô tả trong 1984. Chính vì thế mà mà ‘1984’ được xem là một kiệt tác, vì mức độ ảnh hưởng của nó xuyên thời gian. ___ [1] George Orwell tên thật là Eric Arthur Blair sanh năm 1903 và qua đời năm 1950, tức chỉ thọ 46 tuổi. Ông chết vì bệnh lao phổi. Ông xuất thân là một nhà báo và nhà phê bình, nhưng lại biết đến như là một nhà văn. Ông mô tả gia đình ông thuộc giai cấp trung lưu, thân phụ là công chức làm việc ở Ấn Độ (nơi ông sanh ra) và thân mẫu xuất thân từ một gia đình doanh nhân gốc Pháp. Sau một thời gian sống ở Ấn Độ, ông theo thân mẫu về Anh, nơi ông được gởi đi học tại những trường danh tiếng như Sussex và Eton. Ngay từ thuở đó cậu bé George đã biểu hiện một tư chất thông minh nhưng thụ động. Aldous Huxley là một trong những người thầy của Orwell. Tuy nhiên, ông không thích môi trường học đường. Sau trường học, ông làm cảnh sát một thời gian, nhưng ông cũng không thích nghề cảnh sát. Thật ra, ông lúc nào cũng cảm thấy xấu hổ vì đã làm cảnh sát. Sau khi bỏ nghề cảnh sát, ông lang thang ở London và Paris và sống trong một khu tồi tàn, chung nhà với những người ăn xin. Ở Paris ông làm nghề rửa chén trong nhà hàng. Có lẽ chính vì thế mà ông rất ghét chủ nghĩa đế quốc. Ông tự xem mình là một người xã hội chủ nghĩa, thậm chí là người cộng sản. Nhưng trớ trêu thay, hai tác phẩm Animal Farm và 1984 của ông lại là những cảnh báo về một viễn cảnh chế độ Nazi và Stalin áp đặt lên xã hội loài người. Mời các bạn đón đọc Một Chín Tám Tư của tác giả George Orwell & Phạm Nguyên Trường (dịch).
Hoa Của Phế Tích
Hoa của phế tích là một trong bộ ba tiểu thuyết được phanbook phát hành vào năm nay. Từ câu chuyện một đôi vợ chồng trẻ tự sát vì những lí do bí hiểm mở ra một cuộc điều tra, theo đó là những bước chân lần theo những khu phố cũ, những đại lộ, những tòa nhà… đậm dấu tích của quá khứ. Giọng văn chậm rãi với những câu chữ buồn mà đẹp đến nao lòng của Modiano mang đến cho độc giả những dư âm mãi váng vất. Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Patrick Modiano là Nhà văn Pháp với hơn 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch bản phim,... các tác phẩm của ông đã được dịch 36 thứ tiếng trên thế giới, đạt nhiều giải thưởng danh tiếng, phải kể đến giải Nobel Văn học năm 2014. "Lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ - nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó."_ Bí thư thường trực của học viện Nobel Peter Englund Con chó mùa xuân là một trong bộ ba tiểu thuyết được phanbook phát hành vào năm nay. Vẫn với lối viết đơn giản mà tinh tế, Patick Modiano đã dần người đọc vào một hành trình lạ lùng khi hai con đường ngược nhau, cắt nhau nơi ký ức. Như một tất định của đời sống, có tồn tại rồi sẽ có lãng quên, cuối cùng thì không gì có thể níu kéo được hiện hữu thuộc về quá khứ, và tất cả được chứa đựng trong lặng im vĩnh viễn. Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Kho đựng nỗi đau (tựa gốc: Remise de peine, viết năm 1988), Hoa của phế tích (tựa gốc: Fleurs de ruine, 1991), Con chó mùa xuân (tựa gốc: Chien de printemps, 1993) được nhà văn Patrick Modiano (giải Nobel Văn học, 2014) hoàn thành trong ba mốc thời gian khác nhau, nhưng mang đầy đủ những nét đặc thù của không khí, phong cách văn chương ông. Kho đựng nỗi đau lần đầu tiên bức chân dung thời thơ ấu của chú bé Patrick cùng em trai sống trong căn hộ của những diễn viên xiếc ở vùng ngoại vi Paris. Hoa của phế tích là cuộc lần theo manh mối về một vụ tự sát với lý do bí hiểm của đôi vợ chồng kỹ sư trẻ tuổi vào một ngày tháng 3 năm 1933. Còn Con chó mùa xuân là cuộc dò tìm của một người viết tiểu thuyết trẻ tuổi với nỗ lực phục dựng bản tiểu sử của Jasen - một nhiếp ảnh gia sống và ghi chép về Paris nhưng căn cước cá nhân lại nhiều điểm mù bởi dư chấn của thời Đức tạm chiếm… Ba cuốn tiểu thuyết này là dẫn chứng xuất sắc, thuyết phục cho điều mà Patrick Modiano viết trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học vào năm 2014: “Người ta có thể lạc lối hoặc biến mất trong một đô thị. Người ta thậm chí có thể thay đổi căn cước và sống một đời khác. Người ta có thể lao mình vào một cuộc điều tra rất dài lâu để tìm lại những dấu vết của một ai đó, và lúc khởi đầu chỉ có một hoặc hai địa chỉ trong một khu phố đã mất biệt. Chỉ dấu ngắn ngủi đôi khi hiện lên trên những phiếu tra cứu luôn luôn tìm được một âm hưởng trong tôi: Nơi cư trú cuối cùng được biết.” Trong lần ấn hành ba tiểu thuyết này, Phanbook cũng phát hành hộp giấy đựng sách Patrick Modiano với thiết kế đẹp, trang nhã dành cho độc giả sưu tầm đủ ba tác phẩm. *** VỀ NHÀ VĂN PATRICK MODIANO Patrick Modiano là nhà văn người Pháp, sinh năm 1945. Ông đạt giải Nobel văn học năm 2014. Nhiều tác phẩm của Modiano đã được in tại Việt Nam. Ba tác phẩm của Patrick Modiano do Phanbook ấn hành: Kho đựng nỗi đau, Hoa của phế tích, Con chó mùa xuân, đều do Hoàng Lam Vân dịch. *** Buổi tối Chủ nhật tháng Mười một ấy, tôi ở trên phố Abbé-de-l’Épée. Tôi đi dọc theo bức tường lớn của Học viện dành cho người câm điếc. Bên trái là tháp chuông nhà thờ Saint-Jacques-du-Haut-Pas cao cao. Tôi còn giữ kỷ niệm về một quán cà phê nơi góc phố Saint-Jacques, tôi hay đến đó sau khi xem phim, rạp Studio des Ursulines. Trên vỉa hè, lá rụng. Hoặc cũng có thể là các trang đã cháy thui của một quyển từ điển Gaffiot[1] cũ. Đây là khu phố của các trường và các tu viện. Vài cái tên cổ kính quay trở lại trong ký ức tôi: Estrapade, Conttescarpe, Tournefort, Pot-de-Fer... Tôi cảm thấy e sợ khi phải băng ngang những chốn tôi chưa từng đặt chân kể từ tuổi mười tám, hồi tôi còn hay lai vãng một trường trung học trên đồi Sainte-Geneviève[2]. Tôi có cảm giác các địa điểm vẫn cứ ở trong tình trạng mà tôi đã để chúng lại từ đầu thập niên sáu mươi, chúng bị bỏ hoang cùng quãng đó, cách đây đã hơn hăm lăm năm. Phố Gay-Lussac - cái phố im lìm ấy, nơi trước đây người ta từng dỡ đá lát và dựng chiến lũy[3] - cửa ra vào một khách sạn đã bị xây bịt lại và phần lớn cửa sổ không còn kính. Nhưng biển hiệu thì vẫn gắn ở đó, trên tường: Khách sạn Tương lai. Tương lai nào? Là tương lai, đã chấm dứt, của một sinh viên hồi những năm ba mươi, thuê lấy một căn phòng nhỏ tại khách sạn ấy, lúc vừa rời trường Sư phạm, và tối thứ Bảy thì mời các bạn học cũ đến chơi. Và họ đi vòng qua mấy khối nhà để tới rạp Studio des Ursulines xem một bộ phim. Tôi đi qua trước rào sắt và ngôi nhà màu trắng nhiều chớp cửa sổ, với rạp chiếu phim chiếm tầng trệt. Sảnh vào sáng đèn. Hẳn tôi có thể đi tiếp tới Val-de-Grâce, cái vùng yên bình ấy, nơi chúng tôi từng trốn, Jacqueline và tôi, để ông hầu tước không có cơ may gặp được nàng. Chúng tôi sống tại một khách sạn nằm đầu phố Pierre-Nicole. Chúng tôi tằn tiện với số tiền mà Jacqueline kiếm được bằng cách bán chiếc măng tô lông thú của nàng. Phố ngập nắng, vào buổi chiều Chủ nhật. Đám thủy lạp của ngôi nhà gạch nhỏ, đối diện trường Sévigné. Dây thường xuân phủ kín các ban công khách sạn. Con chó ngủ trong hành lang lối vào. Tôi đi đến phố Ulm. Nó hoang vắng. Có tự nhủ rằng vậy thì đâu có gì kỳ cục vào một tối Chủ nhật, tại cái khu phố chuyên cần và nhiều chất tỉnh lẻ này, thì tôi vẫn tự hỏi mình có đang còn ở Paris hay không. Trước mặt tôi là vòm tròn của Panthéon. Tôi sợ lại thấy chỉ có độc mình tôi, dưới chân tòa công trình cho người chết ấy, dưới ánh trăng, thế là tôi vội rẽ sang phố Lhomond. Tôi dừng lại trước trường Ái Nhĩ Lan. Một cái chuông điểm tám tiếng, có lẽ chuông của giáo đoàn Thánh Linh mà mặt tiền đồ sộ đang ở kia, bên tay phải tôi. Thêm vài bước nữa, tôi bước vào quảng trường Estrapade. Tôi tìm số 26 phố Fossés-Saint-Jacques. Một tòa nhà hiện đại, kia, trước mặt tôi. Chắc hẳn tòa nhà cũ đã bị phá đi chừng hai mươi năm về trước. Ngày 24 tháng Tư năm 1933. Cặp vợ chồng trẻ tự sát vì những lý do bí hiểm. Đúng là một câu chuyện lạ thường, những gì đã xảy ra đêm qua trong tòa nhà số 26, phố Fossés-Saint-Jacques, gần Panthéon, ở nhà ông và bà T. Ông Urbain T., kỹ sư trẻ tuổi, tốt nghiệp thủ khoa trường Hóa học, cách đó ba năm lấy cô Gisèle S., hăm sáu tuổi, hơn ông một tuổi. Bà T. là một phụ nữ xinh đẹp tóc vàng, cao và thanh mảnh. Về phần chồng bà, ông thuộc típ đàn ông tóc nâu đẹp trai. Cặp vợ chồng hồi tháng Bảy vừa rồi chuyển vào sống ở tầng trệt số 26, phố Fossés-Saint-Jacques, trong một cái xưởng được họ cải tạo thành nhà ở. Cặp vợ chồng trẻ rất gắn bó với nhau. Dường như chẳng mối lo lắng nào nhuốm lên hạnh phúc của họ. Tối thứ Bảy, Urbain T. quyết định cùng vợ ra ngoài đi ăn tối. Họ rời khỏi nhà vào quãng bảy giờ. Mãi khoảng hai giờ sáng họ mới về, cùng hai cặp khác. Gây ồn ào chối tai, họ đánh thức các hàng xóm vốn dĩ chẳng mấy quen thuộc với những biểu hiện ầm ĩ như vậy từ phía những người thuê nhà thông thường rất kín đáo. Chắc hẳn bữa tiệc đã có các biến cố bất ngờ. Quãng bốn giờ sáng, những người khách đi khỏi. Trong vòng nửa tiếng sau đó, vốn dĩ trôi qua trong im lặng, hai phát nổ sượng đục vang lên. Chín giờ, một hàng xóm, ra khỏi nhà, đi qua trước cửa nhà của vợ chồng T. Bà ta nghe thấy có tiếng rên rỉ. Đột nhiên nhớ đến những tiếng nổ trong đêm, bà ta thấy lo lắng nên đập cửa. Cửa mở ra và Gisèle T. xuất hiện. Máu chầm chậm chảy từ một vết thương thấy rõ dưới vú trái. Cô thì thầm: “Chồng tôi! Chồng tôi! Chết rồi”. Một lúc sau, ông Magnan, cảnh sát trưởng, tới nơi. Gisèle T. rên rỉ, nằm trên một cái đi văng. Trong phòng bên cạnh, người ta phát hiện xác chồng cô. Anh vẫn giữ chặt một khẩu súng ngắn trong bàn tay co quắp. Anh ta đã tự sát bằng một viên đạn bắn thẳng vào tim. Bên cạnh anh, một bức thư nguệch ngoạc: “Vợ tôi đã tự sát. Chúng tôi đã say rượu. Tôi tự sát đây. Đừng tìm...”.   Dường như, theo cuộc điều tra, Urbain và Gisèle T., sau bữa tối, đã đến một quán bar ở Montparnasse. Tối hôm trước, từ phố Fossés-Saint-Jacques, tôi đã đi bộ tới giao lộ nơi có quán Dôme và quán Rotonde, sau khi để lại sau lưng khu vườn Đài Thiên văn tối tăm. Vợ chồng T. hẳn đã đi theo cùng con đường như tôi, vào cái đêm năm 1933 ấy. Tôi chợt thấy mình đang ở một cái nơi mà tôi đã tránh kể từ những năm sáu mươi. Cũng như khu Ursulines, khu Montparnasse làm tôi nghĩ đến tòa lâu đài của nàng công chúa trong khu rừng ngủ. Tôi từng có cùng cảm giác ấy, hồi hai mươi tuổi, khi thuê phòng để trú vài đêm tại một khách sạn trên phố Delambre: Thời ấy Montparnasse đối với tôi đã có dáng vẻ của một khu phố sống sót sau chính nó và đang chậm rãi thối rữa, cách xa khỏi Paris. Những lúc trời mưa trên phố Odessa hay phố Khởi Hành, tôi thấy như thể mình đang ở một bến cảng vùng Bretagne, dưới làn mưa phùn. Từ nhà ga, hẵng còn chưa bị phá hủy, bốc lên những bụm không khí của Brest hay Lorient. Bữa tiệc, ở đây, đã kết thúc từ lâu. Tôi còn nhớ rằng biển hiệu của quán Jimmy’s ngày xưa vẫn còn treo trên bức tường của phố Huyghens, và nó bị rơi mất dăm ba chữ, gió ngoài khơi đã thổi tung chúng đi mất. Đó là lần đầu tiên - theo các báo hồi tháng Tư năm 1933 - cặp vợ chồng trẻ bước vào một quán ban đêm của khu Montparnasse. Họ đã hơi quá chén trong bữa tối chăng? Hoặc giả, hết sức đơn giản, họ muốn phá vỡ, dẫu chỉ trong một buổi tối, dòng chảy êm đềm cuộc đời họ? Một nhân chứng khẳng định đã trông thấy họ, quãng mười giờ tối, tại quán Café de la Marine, một sàn dancing, ở số 243, đại lộ Raspail; một người khác, ở quán cabaret tên là Isles, trên phố Vavin, đi cùng hai phụ nữ. Cảnh sát cho công bố ảnh họ nhằm kêu gọi những lời chứng rất có nguy cơ cần phải được thẩm tra kỹ vì có rất nhiều phụ nữ trẻ tóc vàng và chàng trai tóc nâu, như Urbain và Gisèle T. Trong vòng vài ngày, người ta tìm cách xác định hai cặp trai gái mà vợ chồng T. đã đưa về nhà họ, trên phố Fossés-Saint-Jacques, rồi cuộc điều tra được khép lại. Gisèle T., trước khi chết vì các vết thương, đã cất tiếng nói, nhưng những kỷ niệm của cô mơ hồ. Đúng, họ đã gặp, tại Montparnasse, hai phụ nữ, hai người xa lạ mà cô chẳng hề biết gì... Và những người đó đã lôi kéo họ tới Le Perreux, tại một sàn dancing nơi có hai người đàn ông đến với họ. Rồi họ tới một ngôi nhà, ở đó có một cái thang máy màu đỏ. Tối nay, tôi đi theo dấu chân họ trong một khu phố ủ dột được tòa tháp Montparnasse phủ tấm màn tang tóc. Trong ngày, nó che giấu mặt trời và phóng cái bóng của nó lên đại lộ Edgar-Quinet cùng các phố lân cận. Tôi để lại sau lưng quán Coupole mà người ta đang phá đi dưới một mặt tiền bằng bê tông. Tôi thấy thật khó mà tin rằng Montparnasse xưa kia từng biết đến một cuộc sống về đêm... Chính xác thì vào thời nào tôi từng sống ở cái khách sạn trên phố Delambre kia? Quãng năm 1965, khi tôi làm quen với Jacqueline và không lâu trước khi tôi lên đường đi Viên, bên Áo. Căn phòng bên cạnh phòng tôi được thuê bởi một người đàn ông trạc ba lăm tuổi, một người đàn ông tóc vàng mà tôi hay gặp trong hành lang, rốt cuộc tôi cũng bắt đầu quen biết ông ta. Tên ông ta? Cái gì đó giống như Devez hay Duvelz. Lúc nào ông ta cũng ăn vận hết sức chỉn chu và đính một huy chương trên hàng cúc áo. Nhiều lần, ông ta từng mời tôi uống một cốc, rất gần khách sạn, tại một quán bar, Rosebud. Tôi không dám từ chối, ông ta có vẻ rất thích nơi đó. - Ở đây tuyệt quá... Ông ta nói giọng nhiều âm răng, giọng của một người con nhà gia giáo, ông ta đã kể với tôi là ông ta từng ở hơn ba năm “vùng bưng biền”[4] và tại đó, ông ta đã kiếm được tấm huy chương kia. Nhưng cuộc chiến tranh Algérie khiến ông ta thấy lộn mửa. Ông ta đã cần rất nhiều thời gian thì mới hồi phục được từ đó. Ông ta sắp sửa kế tục bố ông ta làm chủ một doanh nghiệp dệt sợi lớn trên miền Bắc. Rất mau chóng, tôi nhận ra rằng ông ta không nói cho tôi sự thật: Về “doanh nghiệp dệt sợi” ấy, ông ta luôn luôn mơ hồ. Và ông ta tự nói ngược với chính mình, một hôm khẳng định với tôi là từng tốt nghiệp trường Saint-Maixent, ngay trước khi sang Algérie, rồi, tới hôm sau, rằng ông ta đã hoàn toàn học bên Anh. Đôi khi, cái giọng đầy âm răng của ông ta nhường chỗ cho giọng đớt của một kẻ bán hàng rong. Chắc cần phải có chuyện tôi bước đi, tối Chủ nhật ấy, trong khu Montparnasse, thì cái tay Duvelz - hay Devez - kia mới có thể đột nhiên hiện ra từ hư vô như thế. Một hôm, tôi còn nhớ, chúng tôi đã tình cờ gặp nhau trên phố Rennes, và ông ta đã mời tôi một bốc bia - như ông ta nói - tại một trong những quán cà phê thuộc giao lộ Saint-Placide buồn thảm. Quán cabaret tên Isles, trên phố Vavin, nơi hẳn người ta phải để ý thấy sự hiện diện của cặp vợ chồng, chiếm tầng hầm của tiệm Vikings. Bầu không khí đậm màu sắc Scandinavia cùng gỗ ốp tường sáng màu của Vikings trông thật tương phản với cái quán rượu nhọ nhem ấy. Chỉ cần đi xuống hết cầu thang: Từ những ly cocktail và các món nhẹ Na-uy ở tầng trệt, người ta sục thẳng vào giữa những điệu nhảy Martinique. Có phải vợ chồng T. đã gặp hai người phụ nữ ở đó? Tôi có cảm giác phải là tại Café de la Marine, đại lộ Raspail, về phía Denfert-Rochereau. Tôi còn nhớ căn hộ nơi Duvelz từng dẫn chúng tôi, Jacqueline và tôi, đến, cũng nằm ở đầu đại lộ Raspail đó. Cả lần ấy nữa, tôi cũng không dám từ chối lời mời của ông ta. Trong vòng gần một tuần, ông ta đã nằn nì cả hai chúng tôi một tối thứ Bảy nào đó cần phải tới nhà một người bạn gái của ông ta, ông ta rất muốn giới thiệu chúng tôi với người ấy. Bà mở cửa cho chúng tôi và, trong bóng tối lờ mờ của tiền phòng, tôi không nhìn rõ khuôn mặt bà. Phòng khách lớn, nơi chúng tôi bước vào, khiến tôi choáng váng vì vẻ xa xỉ của nó, chẳng hề tương hợp với căn phòng nhỏ của Duvelz, trên phố Delambre. Ông ta ở đó. Ông ta giới thiệu chúng tôi với nhau. Tôi đã quên mất tên bà: Đó là một phụ nữ tóc nâu đường nét hài hòa, một bên mặt, ở đoạn gò má, có vết sẹo lớn. Chúng tôi, Jacqueline và tôi, ngồi xuống trường kỷ. Duvelz và người phụ nữ, trong phô tơi, đối diện với chúng tôi. Chắc bà khoảng ba lăm, cùng độ tuổi với Duvelz. Bà tò mò nhìn chúng tôi. - Em có thấy họ thật duyên dáng không, cả hai?, Duvelz hỏi, bằng giọng nói nhiều âm răng của mình. Bà chăm chăm nhìn chúng tôi. Bà hỏi chúng tôi: - Hai người có muốn uống gì không? Giữa chúng tôi xuất hiện một quãng ngại ngần. Bà rót rượu porto mời chúng tôi. Duvelz uống một ngụm lớn. - Thoải mái đi, ông ta nói. Đây là một người bạn lâu năm... Bà ném về phía chúng tôi một nụ cười rụt rè. - Thậm chí chúng tôi từng đính hôn với nhau. Nhưng cô ấy đã phải lấy người khác... Bà không hề nhíu mày. Bà vẫn ngồi rất thẳng ở phô tơi, tay cầm ly rượu. - Chồng cô ấy hay đi vắng... Chắc chúng ta có thể tận dụng điều đó để đi chơi chung cả bốn người... Các bạn nghĩ sao? - Đi chơi đâu? Jacqueline hỏi. - Nơi nào các bạn muốn... Thậm chí chúng tôi còn không có nhu cầu ra ngoài. Ông ta nhún vai. - Ở đây thật hay... Phải không? Bà vẫn ngồi rất thẳng ở phô tơi. Bà châm một điếu thuốc lá, có lẽ để che giấu sự căng thẳng. Duvelz đã lại làm thêm một ngụm porto nữa. Ông ta đặt ly của mình lên cái bàn thấp, ông ta đứng dậy và bước về phía bà. - Cô ấy thật xinh đẹp, phải không? Ông ta đưa ngón tay trỏ lướt trên vết sẹo ở má. Rồi ông ta cởi cúc cái áo của bà và vuốt ve hai vú. Bà không hề động cựa. - Hồi trước chúng tôi đã gặp một tai nạn ô tô rất nghiêm trọng, ông ta nói. Bà hất tay ông ta ra bằng một động tác dữ tợn. Bà lại mỉm cười với chúng tôi. - Chắc hai người đói rồi... Giọng bà trầm và thoáng có âm sắc nước ngoài, dường như vậy. - Anh có thể giúp em mang bữa tối vào đây không? bà hỏi ông ta, giọng khá xẵng. - Tất nhiên rồi. Họ đứng dậy, cả hai. - Toàn đồ lạnh thôi, bà nói. Hai người thấy có được không? - Rất được, Jacqueline đáp. Ông ta đã choàng tay quanh vai bà và kéo bà ra khỏi phòng khách, ông ta thò đầu qua khe cửa mở. - Các bạn có thích sâm banh không? Ông ta đã đánh mất cái giọng nhiều âm răng. - Rất thích, Jacqueline đáp. - Có ngay đây. Chỉ còn lại chúng tôi trong phòng khách, vài phút, và tôi dồn hết nỗ lực ký ức để tập hợp lại càng nhiều chi tiết càng tốt. Những cửa sổ bệ thấp nhìn xuống đại lộ mở hé vì trời nóng. Đó là số 19 đại lộ Raspail. Năm 1965. Một cây đàn piano loại có đuôi đặt tận về cuối phòng. Trường kỷ và hai phô tơi đều làm bằng cùng một thứ da màu đen. Cái bàn thấp, bằng kim loại dát bạc. Một cái tên như là Devez hay Duvelz. Vết sẹo trên má. Cái áo bị cởi cúc. Một làn ánh sáng rất rực của đèn chiếu, hay nói đúng hơn là của đèn pin. Nó chỉ rọi sáng một mảnh nhỏ của décor, một giây phút đơn lẻ, mà để những gì còn lại trong bóng tối, bởi chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được đoạn sau các sự kiện và nói cho đúng thì hai người kia là ai. Chúng tôi lẻn ra khỏi phòng khách và, thậm chí còn không khép cửa lại, chúng tôi đi xuống cầu thang. Lúc nãy, chúng tôi đã dùng thang máy để lên, nhưng nó không màu đỏ, giống cái thang máy mà Gisèle T. từng nhắc đến. Mời các bạn đón đọc Hoa Của Phế Tích của tác giả Patrick Modiano & Hoàng Lam Vân (dịch).
Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada
“Những vị khách của tiệm bá nghệ Tada” miêu tả cuộc sống của một số khách hàng của tiệm bá nghệ Tada đã xuất hiện ở tập 1 cũng như cuộc sống, mối quan hệ của Tada và Gyoten một năm sau khi Tada để Gyoten tá túc ở nhà mình. Gyoten đã ăn nhờ ở đậu tiệm bá nghệ Tada đến năm thứ hai, vậy mà mối quan hệ giữa Tada và Gyoten vẫn chỉ dừng ở mức đồng nghiệp chẳng phải, bạn bè hãy còn xa. Chẳng những thế, hai người còn như nước với lửa, Tada thì cặm cụi với từng đơn hàng nhỏ, trong khi Gyoten thì bơ đời, làm biếng, và chỉ thảng hoặc mới tỏ ra được việc. Chỉ là, qua những lần cùng nhau tiếp xúc với khách hàng đã khiến họ lần lần hiểu rõ nỗi đau của nhau. Dần dần, mỗi người lại trở thành niềm an ủi thầm lặng của người kia, là chỗ dựa để có thể tìm lại niềm tin và lòng dũng cảm đối mặt với quá khứ… *** Tada Keisuke, một nhân viên bán ô tô quyết định bỏ nghề, mở tiệm bá nghệ. Gyoten Haruhiko, một nhà nghiên cứu bệnh lý bỗng nhiên bỏ việc, lang bạt nay đây mai đó. Hai người bạn cấp ba chung lớp chưa một lần trò chuyện và chẳng khác nào hai đường thẳng song song ấy chỉ vì một lần trùng phùng nơi trạm xe buýt mà bước vào cuộc sống của nhau. Để rồi, ngày ngày họ rong ruổi khắp những con phố ở Mahoro trên chiếc xe tải nhẹ, làm đủ loại việc vặt mà khách yêu cầu; dắt chó đi dạo, thăm nom người ốm, quét dọn vườn tược, sửa chữa chuồng chó… Hai con người với hai tâm hồn cô độc chưa bao giờ cố để hiểu nhau, càng chẳng đòi hỏi gì ở đối phương, chỉ lặng lẽ sống như vậy qua ngày. Bởi họ biết rằng, một ngày nào đấy, hạnh phúc nhất định sẽ lại tìm đến mình dưới một hình hài nào đó thật khác. *** Miura Shion Cô sinh năm 1976 tại Tokyo, là con gái một học giả cổ điển nổi tiếng của Nhật Bản, vì vậy tình yêu với sách của tác giả được nảy sinh từ khi còn rất trẻ . Khi còn là sinh viên năm cuối khoa Văn Thư tại Đại học Waseda, cô bắt đầu tìm kiếm cho mình một vị trí biên tập, một công ty văn học đã nhận ra được tài năng viết lách của cô và thuê cô để bắt đầu viết một cột nhận xét sách trực tuyến ngay cả trước khi cô tốt nghiệp. Cô đã giành được nhiều giải thưởng lớn như:  Giải thưởng Naoki lần thứ 135.   Giải thưởng Oda Sakunosuke và Giải thưởng Nhà sách Nhật Bản năm 2012.   Một số các phẩm của cô đã được chuyển thể cho phim ngắn hoặc phim truyền hình. Sách của cô đã được dịch sang tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Ý. Tác phẩm: Bước Chạy Thanh Xuân Người Đan Chữ Xếp Thuyền Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada Khúc Ngẫu Hứng Trước Ga Mahoro ... *** Viên đá lấp lánh Trời mưa rả rích. Tada Keisuke ngưng tay lau cửa sổ văn phòng đồng thời cũng dừng luôn bài “Tiếng mưa điệu Chopin”* đang ngâm nga trong miệng. Hắn ngó xuống con phố trước mặt qua bậu cửa, cẩn thận không để lớp dầu trên da trán lưu dấu lại cửa kính. Con đường ẩm ướt không người qua lại in bóng khoảng trời nhiều mây loáng lên một màu xám ngoét. Tada mơ màng trong những tưởng tượng trẻ con hết sức, người ta phát lệnh giới nghiêm rồi à, hay một căn bệnh lạ nào đó đang hoành hành và loài người sắp tuyệt diệt đến nơi? Nhưng mà, nếu thế thật thì cũng đỡ, chẳng phải lo làm lụng chi nữa. Ba ngày nay tiệm bá nghệ Tada đang nhàn rỗi quá thể. Nhưng chẳng phải do bọn hắn làm biếng đâu. Tại cái điện thoại của tiệm nhất quyết muốn ngủ đông trái mùa đấy. Mưa dầm mưa dề khiến số đơn hàng của tiệm cứ tuột dốc không phanh. Trong cái bầu không khí nhớp nháp này, chẳng mấy ai lại muốn thuê người lạ đến nhà mà dọn dẹp cả. Tỉa tót vườn tược ấy à, cũng không đâu. Chỉ khi thấy trời trong xanh người ta mới có hứng làm sạch cho xung quanh thôi. Mà sau đợt hoa anh đào rụng thì lại chẳng mấy bận được thấy trời xanh ló dạng. Cứ cái đà này lại chẳng mấy mà vào mùa mưa mất thôi. Tada đành ngâm nga tiếp điệu nhạc hòng giấu đi tiếng thở dài, đồng thời tay cũng làm việc trở lại. Mỗi lần dùng miếng giẻ khô lau đi lớp bọt xà phòng nhỏ li ti là khung cửa sổ lại càng gần hơn với màu trời. “Đói thấy mồ!” Nghe tiếng người, Tada quay lại. Gyoten Haruhiko vừa dựng người dậy khỏi ghế xô pha. Cậu ta cũng ở nhà cơ đấy, hắn nghĩ. Con người này vừa mới đánh một giấc ngủ trưa ngon lành, và mặc cho Tada loay hoay làm việc. Gyoten thả chân xuống sàn, tóc rối bù một búi to tướng. “Tôi vừa mơ cái này kỳ lắm nha! Thế nào mà một ông sư lại đứng đọc kinh ở bùng binh cửa Nam chứ. Tôi thì vừa ngồi xổm vừa liên tục thảy mấy viên đá phát sáng vào cái bát ông sư ấy cầm. Kiểu muốn bảo “Thôi đừng tụng kinh nữa’ mà ông ta nhất quyết không chịu thôi.” Rõ vớ vẩn! Bụng thì nghĩ vậy nhưng Tada vẫn im lặng quay ra cửa sổ. Tất nhiên không bỏ sót hình ảnh cậu ta nghiêng đầu khó hiểu. “Đã cuối năm rồi sao ta?” “Không phải cuối năm cũng lau cửa sổ! Bẩn thì phải lau!” “Ầy…” Nói vậy chứ Gyoten nào có định động chân động tay chi. Mà Tada cần mẫn lau cửa sổ thế này cũng chỉ là để kiểm định lại đống đồ dọn vệ sinh, chứ chẳng phải hắn mắc bệnh ưa sạch không thể sống chung dẫu với một vết bẩn nhỏ hay gì. Lâu lắm rồi mai tiệm bá nghệ mới lại có đơn hàng. Nghĩ vậy thôi là đã khiến Tada không thể ngồi yên một chỗ rồi. Ấy thế mà cái con người kia lại chẳng mảy may nghĩ rằng phải chung tay vào giúp sức cho chủ nhà kiêm ông chủ của mình đâu. “Này, tôi đói bụng lắm rồi!” “Có bánh bao người ta cho đấy thôi!” Tiếng bước chân bước ngang qua phòng, rồi tiếng nồi niêu hay ấm đun nước chi đó loảng xoảng trong bếp. “Tada… Nấm mốc làm ổ trên bánh bao rồi đây này…” Ai biết! Mốc cũng xơi đi! Bụng thì quở vậy chứ sau đó thấy im ắng quá hắn lại đâm lo. Một tay vẫn cầm miếng giẻ vừa lau cửa sổ, Tada chui qua tấm rèm ngăn giữa khu tiếp khách và khu sinh hoạt. Gyoten đang đứng quay mặt vào bồn rửa. Tada đi vòng sang nhòm vào thì đúng lúc cậu ta đang giơ cái bánh ra trước mặt và định ngoạm lấy phần đáy. Còn mặt trên của bánh thì đã khoác một lớp nấm mốc xanh như bột trà. “Thôi thôi thôi!” Tada cuống cuồng tóm lấy cánh tay Gyoten. “Mốc thế này rồi còn định ăn là sao hả cái thằng này. Đói thì đi mua đồ mà ăn.” “Thôi… Phiền chết được!” Gyoten đặt cái bánh bao xuống bồn rửa, quay sang lục lọi kệ để đồ. Tada tranh thủ ném luôn cái bánh vào thùng rác. “Chẳng có cóc khô gì thế này,” Gyoten lầm bầm. Kể cũng lạ. Bình thường cậu ta có mấy khi tỏ ra hào hứng với việc ăn đâu. Lượng calo cậu ta hấp thụ từ rượu có khi còn nhiều hơn thức ăn có hình dạng ấy chứ. Chuyện gì đang xảy ra thế này. Thời tiết năm nay cũng lạ mà cái dạ dày của Gyoten cũng bất bình thường. Mưa nhiều lại hóa ham ăn, cậu là ốc sên đấy à? Chẳng buồn nhận ra ánh nhìn đầy ám muội của Tada, Gyoten cực chẳng đã rót whisky vào cốc rồi quay về xô pha. Miệng ư ử bài “Tiếng mưa điệu Chopin” rất điêu luyện. À vâng, xin lỗi vì đã bắt cậu nghe tôi hát mà như đọc kinh ạ! Tada còn đương trong cơn chán nản thì cửa văn phòng mở tung. “Khỏe không, mấy anh bá nghệ?” Một giọng nói tươi rói quen thuộc vang lên. Không ngoài dự liệu, hắn vừa vén rèm, thò mặt ra buồng tiếp khách thì y như rằng đã thấy Lulu và Hicy ở đó. Hicy còn đang ôm chihuahua trên tay. Con chihuahua được khoác cho một chiếc áo mưa dành cho chó màu hồng chói. Lulu cũng vận một chiếc áo mưa cùng màu cộng thêm đôi giày cao gót. “Mưa dầm mưa dề thấy ngán quá à. Chẳng làm ăn chi được!” Lulu chào hỏi qua loa rồi cởi ngay áo mưa sà xuống ngồi cạnh Gyoten. Từ dưới lớp áo mưa lộ ra chiếc váy màu tím bóng lộn khiến Tada có cảm giác như vừa gặp con ác mộng cuồng loạn sắc màu. Hicy thả con chihuahua xuống, cởi áo mưa cho nó rồi mới ngồi vào ghế xô pha đối diện Gyoten. Con chihuahua lắc mình cho không khí tràn khắp bộ lông rồi chạy đến chỗ chân Tada, ngoáy tít cái đuôi thay cho lời chào. Tada cúi xuống xoa đầu nó. “Quà nè!” Nói đoạn, Hicy đặt một hộp giấy lên chiếc bàn tròn. Gyoten từ nãy chẳng đếm xỉa chi tới những vị khách không mời, chỉ mải đắm chìm với ly rượu cuối cùng cũng chịu phản ứng. “Đồ ăn hả?” “Cái quán mới mở trước ga ngày nào khách cũng xếp hàng dài ấy. Bánh kem phô mai của hàng đó đó.” “Các cô cất công xếp hàng đấy à?” Tada chêm vào, Hicy nhún nhẹ vai. “Chúng tôi tỷ phú thời gian mà. Tranh thủ lúc đợi người ta tía tót bộ lông cho con Hana thôi.” Nghe Hicy nói hắn mới để ý, dưới tai con chihuahua được cài một bông hoa nhỏ xinh màu hồng. Trang phục cho chó, rồi thì tiệm làm đẹp cho chó… Ừm… cái kiểu chiều chuộng này thì hắn xin hàng rồi. Trong lúc Tada ngắm con chihuahua lông lá bóng mượt thì Gyoten mở hộp bánh kem phô mai. “To dữ!” Gyoten hớn hở nói, sau đó rời khỏi ghế xô pha nhảy chân sáo vào bếp. Đầu gối cậu ta còn huých cả vào vai Tada đang lom khom. “Ái ui…!” Mời các bạn đón đọc Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada của tác giả Shion Miura & Nhật An (dịch).