Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đọc hiểu Kinh Dịch - Thích Nghiêm Minh

Đọc Hiểu Kinh Dịch là cuốn sách đầu tiên sử dụng gần 600 đồ hình minh họa giúp bạn đọc nắm bắt được vấn đề cơ bản của dịch lý từ ý nghĩa của dịch, phần kinh, diễn biến của 64 quẻ cho tới phần dụng chiếm bốc dịch…

Cuốn sách gồm 6 chương:

Cuốn sách gồm 6 chương:

Chương 1: Dịch Kinh là một cuốn sách thế nào?

Chương 1: Dịch Kinh là một cuốn sách thế nào?

Chương 2: Khái luận cơ bản về “dịch kinh”

Chương 2: Khái luận cơ bản về “dịch kinh”

Chương 3: Phương pháp chiêm bốc trong “dịch kinh”

Chương 3: Phương pháp chiêm bốc trong “dịch kinh”

Chương 4: Đồ giải 64 quẻ trong “Dịch Kinh”

Chương 4: Đồ giải 64 quẻ trong “Dịch Kinh”

Chương 5: “Hệ từ” truyện

Chương 5: “Hệ từ” truyện

Chương 6: Thuyết quái truyện

Chương 6: Thuyết quái truyện

“Kinh Dịch” là bộ sách kinh điển rất lâu đời của người Trung Hoa mà đến nay người ta vẫn chưa biết rõ nguồn gốc, tuy đã có truyền thuyết là nó có nguồn từ các dân tộc Bách Việt vào thời các vị vua thời Thần Nông. Nó là một hệ thống tư tưởng triết học của người Á Đông cổ đại. Tư tưởng triết học cơ bản dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và thay đổi. Ban đầu, “Dịch kinh” được coi là một hệ thống để bói toán, nhưng sau đó được phát triển dần lên bởi các nhà triết học Trung Hoa. Cho tới nay, “Dịch kinh” đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Á Đông và được coi là một tinh hoa của cổ học Trung Hoa, nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh…

Kinh có nghĩa là một tác phẩm kinh điển, trong tiếng Hoa có gốc gác từ “quy tắc” hay “bền vững”, hàm ý rằng tác phẩm này miêu tả những quy luật của tạo hóa không thay đổi theo thời gian.

Dịch nghĩa là “thay đổi” hay “chuyển động”.

Khái niệm ẩn chứa sau tiêu đề này là rất sâu sắc. Nó có ba ý nghĩa cơ bản có quan hệ tương hỗ như sau:

Giản dịch: Thực chất của mọi thực thể. Quy luật nền tảng của mọi thực thể trong vũ trụ là hoàn toàn rõ ràng và đơn giản, không cần biết là biểu hiện của nó là khó hiểu hay phức tạp.

Biến dịch: Hành vi của mọi thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là liên tục thay đổi. Nhận thức được điều này con người có thể hiểu được tầm quan trọng của sự mềm dẻo trong cuộc sống và có thể trau dồi những giá trị đích thực để có thể xử sự trong những tình huống khác nhau.

Bất dịch: Bản chất của thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là luôn thay đổi, tuy nhiên trong những thay đổi đó luôn luôn tồn tại nguyên lý bền vững quy luật trung tâm là không đổi theo không gian và thời gian.

“Dịch kinh” được cho là có nguồn gốc từ huyền thoại Phục Hy. Theo nghĩa này thì ông là một nhà văn hóa, một trong Tam Hoàng của Trung Hoa thời thượng cổ (khoảng 2852 2738 TCN, theo huyền thoại), được cho người sáng tạo ra Bát quái là tổ hợp của ba hào. Dưới triều vua Vũ nhà Hạ, Bát quái đã phát triển thành quẻ, có tất cả sáu mươi tư quẻ, được ghi chép lại trong kinh Liên sơn còn gọi là Liên sơn Dịch. Liên sơn, có nghĩa là “các dãy núi liên tiếp” trong tiếng Trung, bắt đầu bằng quẻ Thuần Cấn, với nội quái và ngoại quái đều là Cấn (tức hai ngọn núi liên tiếp nhau) hay là

Tiên thiên Bát quái.

Sau khi nhà Hạ bị thay thế bởi nhà Thương, các quẻ sáu hào được suy diễn ra để tạo thành Quy tàng (còn gọi là Quy tàng dịch), và quẻ Thuần Khôn trở thành quẻ đầu tiên. Trong Quy tàng, đất (Khôn) được coi như là quẻ đầu tiên. Vào thời kỳ cuối của nhà Thương, vua Văn Vương nhà Chu diễn giải quẻ (gọi là Thoán hay Soán) và khám phá ra là quẻ Thuần Càn biểu lộ sự ra đời của nhà Chu. Sau đó ông miêu tả lại các quẻ theo bản chất tự nhiên của chúng trong Quái từ và quẻ Thuần Càn trở thành quẻ đầu tiên. Hậu thiên Bát quái ra đời.

Khi vua Chu Vũ Vương (con vua Văn Vương) tiêu diệt nhà Thương, em ông là Chu Công Đán đã tạo ra Hào từ, để giải thích dễ hiểu hơn ý nghĩa của mỗi hào trong mỗi quẻ. Tính triết học của nó ảnh hưởng mạnh đến chính quyền và văn học thời nhà Chu (khoảng 1122-256 TCN).

Muộn hơn, trong thời kỳ Xuân thu Chiến quốc (khoảng 722481 TCN), Khổng Tử đã viết Thập Dực, để chú giải Kinh Dịch. Vào thời Hán Vũ Đế của nhà Tây Hán (khoảng 200 TCN), Thập Dực được gọi là Dịch truyện.

Cuốn sách Đọc hiểu Dịch kinh là cuốn sách đầu tiên sử dụng gần 600 đồ hình minh họa giúp bạn đọc nắm bắt được các vấn đề cơ bản của dịch lý từ ý nghĩa của dịch, phần kinh, diễn biến của 64 quẻ cho tới phần dụng chiêm bốc dich…

Trong quá trình soạn dịch khó tránh khỏi thiếu sót, rất mong bạn đọc gần xa chỉ bảo để cuốn sách tái bản lần sau được hoàn thiện hơn.

NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Bí ẩn của Chiêm mộng và Vu thuật
Bí Ẩn Của Chiêm Mộng Và Vu Thuật Bí Ẩn Của Chiêm Mộng Và Vu ThuậtVăn hóa Trung Hoa không chỉ nổi tiếng vì lâu đời, phong phú, mà còn được người Trung Quốc và nước ngoài ngượng mộ vì tính chất thần bí sâu đậm của nó. Nói thần bí, có nghĩa là thần kỳ và bí ẩn. Tất cả những nền văn hóa mang sắc mầu thần bí, đều có thể gọi là văn hóa thần bí. Bằng việc vận dụng các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với thái độ khách quan khoa học, các tác giả đã chỉ ra những yếu tố hợp lý cần kế thừa trong số các kinh nghiệm và tri thức của người xưa để lại trong các thuật Phong thủy, Trạch cát, Quyến mưu, Chiêm tinh, Chiêm mộng,… đồng thời cũng chỉ ra các điểm vô lý mê tín dị đoan, các lý luận mâu thuẫn và phản khoa học trong các thuật đó. Văn hóa Trung Hoa không chỉ nổi tiếng vì lâu đời, phong phú, mà còn được người Trung Quốc và nước ngoài ngượng mộ vì tính chất thần bí sâu đậm của nó. Nói thần bí, có nghĩa là thần kỳ và bí ẩn. Tất cả những nền văn hóa mang sắc mầu thần bí, đều có thể gọi là văn hóa thần bí.Bằng việc vận dụng các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với thái độ khách quan khoa học, các tác giả đã chỉ ra những yếu tố hợp lý cần kế thừa trong số các kinh nghiệm và tri thức của người xưa để lại trong các thuật Phong thủy, Trạch cát, Quyến mưu, Chiêm tinh, Chiêm mộng,… đồng thời cũng chỉ ra các điểm vô lý mê tín dị đoan, các lý luận mâu thuẫn và phản khoa học trong các thuật đó. Diêu Vĩnh Quân, Diêu Chu Huy NXB Văn Hóa Thông Tin 2004 633 Trang Cội nguồn của thuật đoán mộng. Quan hệ giữa các loại hình chiêm, bói, đoán mộng. Cách đoán mộng. Những chủng loại cầu hồn, gọi hồn nhập xác. Cô đồng. Thủ pháp của ma thuật sư. Nguồn gốc, sự hình thành, sự lan rộng của tục cầu hồn. Diêu Vĩnh Quân, Diêu Chu Huy NXB Văn Hóa Thông Tin 2004 633 Trang Cội nguồn của thuật đoán mộng. Quan hệ giữa các loại hình chiêm, bói, đoán mộng. Cách đoán mộng. Những chủng loại cầu hồn, gọi hồn nhập xác. Cô đồng. Thủ pháp của ma thuật sư. Nguồn gốc, sự hình thành, sự lan rộng của tục cầu hồn.
Can Chi thông luận - Nguyễn Ngọc Hải
Can và Chi là hai khái niệm cổ của văn hóa Trung Quốc , trai qua mấy nghìn năm lịch sử , chúng tồn tại và làm tốn khá nhiều giấy mực của các học giả , và từ khi xuất hiện nó đã tác động đến khác nhiều phương diện như lịch sử , chính trị , xã hội, văn hóa, lịch pháp,... của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông như Việt Nam, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản,... Can và Chi là hai khái niệm cổ của văn hóa Trung Quốc , trai qua mấy nghìn năm lịch sử , chúng tồn tại và làm tốn khá nhiều giấy mực của các học giả , và từ khi xuất hiện nó đã tác động đến khác nhiều phương diện như lịch sử , chính trị , xã hội, văn hóa, lịch pháp,... của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông như Việt Nam, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản,... Ngày nay khi nền văn minh vật chất phương Tây với những cuộc khủng hoảng thừa và thiếu gây nên những cú sốc tâm lý cho con người và xã hội, thì nhiều học giả bắt đầu tìm đến văn minh tinh thần phương Đông với những giá trị ổn định trường tồn. Nhân loại đi sâu vào nghiên cứu Kinh Dịch, học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và lý thuyết về hệ thống Can - Chi,... Ngày nay khi nền văn minh vật chất phương Tây với những cuộc khủng hoảng thừa và thiếu gây nên những cú sốc tâm lý cho con người và xã hội, thì nhiều học giả bắt đầu tìm đến văn minh tinh thần phương Đông với những giá trị ổn định trường tồn. Nhân loại đi sâu vào nghiên cứu Kinh Dịch, học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và lý thuyết về hệ thống Can - Chi,..."Can Chi thông luận" được xuất bản với mục đích giới thiệu những luận điểm và những ứng dụng rộng rãi của nó trong bức tranh toàn cảnh của nền văn hóa Trung Hoa để tham khảo.Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.NXB Văn Hóa Thông Tin.
Bốc Phệ Chính tông - Trần Khang Ninh
Từ xưa, về truyền thuyết bốc phệ không có ai bằng họ Tả đời Xuân-Thu. Ông Chu Tử ở núi Tử Dương có nói: “Thời tam đại, về thái bốc – thái phệ đều có quan chuyên giữ chức, cho nên chuyên nghệ tinh vi, ứng nghiệm thần diệu. Những thời sau phế bỏ chức quan ấy đi; hơn nữa, sách chiêm bốc cũng không được lưu truyền cho nên ít người đạt đến chỗ thần minh”. Trong thời cận đại, các thiên Hoàng Kim Sách có thể nói là đến cùng được lý thâm ảo của âm dương, lường được huyền vi của tạo hoá, nhưng vì giải thích chưa được rõ nên người sau tôn theo đó để chiêm nghiệm mà không thể không sai lầm. Lại có sách truyền lại mà không thấu đáo được tinh ý của cổ nhân. Nếu như có bậc học rộng, hiểu sâu, thấu được thần minh thì tự mình làm ra sách cũng không khó, mà còn có thể phát huy được đến chỗ tinh vi, bỏ được những chỗ u tối nữa. Lâm ốc Vương Sơn nhân buông rèm ở mé sông quân, trị Ngô quận, ta ở gần bên cạnh đấy, gặp chỗ nào ngờ liền đến hỏi, đem thử hằng nghiệm không sai, rõ ràng như đếm, xa gần đều xưng tụng là thần. Nhưng Sơn Nhân cố từ chối không nhận và nói thác rằng: đã được thụ giáo ở người khác. Tân An Dương Quảng Hàm tiên sinh là thầy ta có truyền cho ta một quyển sách chiêm nghiệm. Các sách khác đều không thể sánh kịp. Những năm gần đây, ta tặng bổ biên soạn rồi cho khắc in để tựa rằng: “ Xưa kia thánh hiền nói về lý, không nói về số, mà thực Kinh dịch là sách vì bốc phệ mà đặt ra để có thể biết trước được cát, hung, hối, lận. Tuy vậy, gọi là lấy Số mà suy lường, nhưng thực ra là lấy Lý mà đoán vậy.”  Nay sách của Sơn Nhân ta còn giữ đủ. Phần tinh vi, ảo diệu thì cố nhiên là thần tình về Số. Nhưng nếu không quán triệt được Lý âm dương biến hoá, ngũ hành sinh khắc, thì cũng không đoán được phần Số học. Vì vậy, sách nay tuy nói về Số, mà chính là sách nói về Lý vậy. Nếu nghiên cứu đến chỗ thật tinh vi, thì dù là bậc thần minh thời xưa về bốc phệ cũng không thể hơn được. Niên hiệu Khang Hy, năm Kỷ Sửu, mùa Đông, tháng Mười. Ngô Quận Trương Cảnh Tùng viết tại Dung Giang Thảo đường.     
Bát Trạch Minh Kính - Dương Quân Tùng
Bát Trạch Minh Kính là một bộ sách cổ nổi tiếng bàn về phong thủy dương trạch, cũng là tác phẩm tiêu biểu của phái phong thủy Bát trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ của người chết, dương trạch lúc nơi ở của người sống. Đây là một bộ sách chuyên luận về địa lý phong thủy dương trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ người chết, chủ yếu quyết định đến sự giàu nghèo, sang hèn của hậu duệ người đã khuất. Dương trạch tức là nơi ở của người sống. Mời bạn đọc cùng tham khảo. Bát Trạch Minh Kính là một bộ sách cổ nổi tiếng bàn về phong thủy dương trạch, cũng là tác phẩm tiêu biểu của phái phong thủy Bát trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ của người chết, dương trạch lúc nơi ở của người sống. Đây là một bộ sách chuyên luận về địa lý phong thủy dương trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ người chết, chủ yếu quyết định đến sự giàu nghèo, sang hèn của hậu duệ người đã khuất. Dương trạch tức là nơi ở của người sống. Mời bạn đọc cùng tham khảo. Bát Trạch Minh Kính là một bộ sách cổ nổi tiếng bàn về phong thủy dương trạch, cũng là tác phẩm tiêu biểu của phái phong thủy Bát trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ của người chết, dương trạch lúc nơi ở của người sống. Đây là một bộ sách chuyên luận về địa lý phong thủy dương trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ người chết, chủ yếu quyết định đến sự giàu nghèo, sang hèn của hậu duệ người đã khuất. Dương trạch tức là nơi ở của người sống. Mời bạn đọc cùng tham khảo. Phong thủy Bát trạch cho rằng môi trường trong 8 hướng chính của tự nhiên đều nắm giữ một loại “khí” khác nhau, gây nên phản ứng tích cực hoặc tiêu cực cho con người và ngôi nhà mà con người cư ngụ. Nói cách khác, phong thủy Bát trạch được dung để xác định 4 hướng cát và 4 hướng hung, hay những khu vực cát và hung trong và ngoài ngôi nhà. Đây là những hướng lợi và bất lợi có thể ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần con người. Phong thủy Bát trạch cho rằng môi trường trong 8 hướng chính của tự nhiên đều nắm giữ một loại “khí” khác nhau, gây nên phản ứng tích cực hoặc tiêu cực cho con người và ngôi nhà mà con người cư ngụ. Nói cách khác, phong thủy Bát trạch được dung để xác định 4 hướng cát và 4 hướng hung, hay những khu vực cát và hung trong và ngoài ngôi nhà. Đây là những hướng lợi và bất lợi có thể ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần con người.Mệnh Nam nữ có phân biệt âm dương, tìm phương cát lợi từ bát trạch để có thể chuyển vận. Bếp, phòng ở, giường, cổng cửa…Chủ về gia vận hoặc tài lộc, đổi một phương vị lập tức ứng nghiệm ngayBát Trạch Minh Kính là một bộ sách cổ nổi tiếng chuyên bàn về phong thủy dương trạch, đồng thời cũng là tác phẩm tiêu biểu của phái phong thủy Bát Trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ của người chết, chủ yếu quyết định đến sự giàu nghèo,sang hèn của hậu duệ người đã khuất. Dương trạch tức nơi ở của người sống, như nhà ở, cửa hiệu, công sở …,sẽ tác động đến vận mệnh của người đang sống.Bát Trạch Minh Kính là tác phẩm mang tính đại diện cho trường phái Bát trạch. Tác phẩm tương truyền là sáng tác của Đại sư phong thủy Dương Quân Tùng đời Đường, do Nhược Quan Đạo nhân đời Thanh biên soạn, chỉnh lý. Có thể nói rằng, đây là một tập đại thành của lý luận phong thủy Bát Trạch. Để độc giả tiện theo dõi, sau đây, chúng tôi xin giới thiệu khái quát về những khái niệm, mệnh đè chủ yếu xuất hiện thường xuyên trong tác phẩm.