Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hòn Đất

Review Hồng Khánh: “Hòn Đất” là một khúc nhạc kiêu dũng và bi tráng về miền quê hồn hậu và anh hùng trong thời kỳ thương đau của đất nước những năm kháng chiến chống Mỹ - Nguỵ. Đọc “Hòn Đất”, tôi đã mê mải lạc về nơi hang Hòn nơi 17 người du kích đã anh dũng, kiên cường chiến đấu và bám trụ, nơi những khóm ấp ấm áp ngập tràn tình yêu thương. Ở nơi ấy, họ sống, họ yêu thương và sát cánh bên nhau dẫu chết chẳng chia lìa. Nước mắt tôi ướt đầm trang giấy nhỏ bởi sự hi sinh lớn lao, bởi tình yêu nồng nàn thấm từng con chữ. “Chị Sứ yêu Hòn Đất bằng tình yêu hầu như là máu thịt” Chị “yêu biết bao nhiêu cái chốn này, nơi chị oa oa cất tiếng khóc đầu tiên, nơi quả ngọt trái sai đã thắm hồng da dẻ chị”. Và chị, cũng như tất cả người con của Hòn Đất đã chiến đấu tới cùng vì một tình yêu sâu nặng như thế. Dù kẻ thù có mạnh đến đâu, có bạo tàn đến đâu chúng cũng không khuất phục được, không dập tắt được ngọn lửa rừng rực cháy trong mỗi người dân Hòn Đất, trong má Sáu, Út Quyên, anh Ba Rèn, Cà Mỵ, Ngạn hay San... Điều tôi yêu thích nhất ở Hòn Đất là cách viết đầy nhân đạo với những người phụ nữ nơi đây. Tất cả đều sáng trong và đẹp đẽ: tấm lòng của người mẹ, người bà, người chị, người vợ hay người yêu đều lấp lánh như sao trời và dịu êm như ánh trăng đổ tràn bên bờ suối, tắm đẫm áng tóc mây của chị Sứ. Chị Sứ, người con ưu tú của Hòn Đất yên giấc trong lòng đất mẹ, nhưng tinh thần chiến đấu, tình yêu của chị vang vọng và tỏa lan đến từng nhành cây ngọn cỏ của Hòn Đất, cũng là nguyên nhân của biết bao sự kiện khiến lính Cộng Hoà run sợ mà đỉnh điểm là cái chết của thằng Xăm - kẻ trực tiếp xuống tay tàn độc với chị Sứ, cũng là hung thần của Hòn Đất. Chiến tranh, lúc nào cũng đau thương và khốc liệt, nhưng cảnh nồi da nấu thịt luôn khiến người ta đau đớn gấp vạn lần. Và người phụ nữ khiến tôi xót thương hơn cả chính là bà Cà Xợi - mẹ thằng Xăm. Ai cũng qua một thời tuổi trẻ, bà già gàn dở Cà Xợi xưa kia là người con gái đẹp Khơ Me xinh đẹp, uyển chuyển, dịu dàng nhất vùng. Chả thế mà bà bị ép lấy tên chủ Mưu độc địa và sinh ra thằng Xăm. Dẫu hắn giống cha, ảnh hưởng của cha mà trở nên ác ôn, dẫu cô Cà Xợi bị đuổi đi khi bụng mang dạ chửa đứa con thứ 2, dẫu bà Cà Xợi - người chịu ơn cứu tử, cưu mang của mẹ con chị Sứ- đã nhiều lần van xin dân làng đừng coi hắn là con bà thì sự thật cũng chẳng thể nào thay đổi. Dù thuộc lòng vị trí từng mô đất, viên đá, bà vẫn ngã dúi dụi trên con đường quen thuộc khi hay tin thằng Xăm chuẩn bị về càn, bà ngất lên ngất xuống khi thấy vệt máu nơi khoé miệng hắn, khi hắn vừa ăn xong 1 buồng gan Việt Cộng và trở nên ngây dại từ đó. Đúng là “Cho dù ở Hòn Đất hay là ở trên khắp thế gian, người mẹ nào mà chẳng có nỗi đau khổ của riêng mình, nhưng thật cũng ít có người mẹ nào lại có nỗi đau như bà Cà Xợi”. Bà không dám nhìn bà con chòm xóm, những người mở rộng vòng tay và lòng bao dung với mẹ con bà, bà không dám đối diện với bà Sáu trong tang lễ chị Sứ, bà ngất lịm trước di vật của chị... Nỗi đau cứ lần lượt xếp chồng lên, trĩu nặng trái tim bà. Có người mẹ nào không yêu thương con hơn chính bản thân mình, có người mẹ nào không muốn con sống một cuộc đời thật tốt đẹp. Thế nhưng bà Cà Xợi đã không dưới một lần ước đứa con mình chết đi. Cái hình ảnh bà cầm con dao đứng bên cạnh thằng con say giấc sau bữa cơm rượu mẹ nấu là một hình ảnh đầy bi thương và ám ảnh. Nếu như Anh Đức để bà tự tay kết liễu cuộc đời hắn - như một bà mẹ Liên Xô nào đó đã làm, có lẽ tính tuyên truyền của tác phẩm sẽ vang dội hơn. Nhưng tác giả đã nhân đạo, đã không để bà mẹ Việt Nam lòng đầy yêu và hận làm việc đó. Cũng chính vì điều này, mà tôi thấy tác phẩm đẹp đẽ, trọn vẹn và nhân văn hơn rất nhiều. Cuốn sách, dẫu đây đó vẫn còn những hạt sạn ở tính Logic trong một vài tình tiết (lí do tên chủ Mưu đuổi bà Cà Xợi khi bà mang trong mình giọt máu của hắn chưa thật thỏa đáng, khói chẳng lùa vào hang, mùa khô mà xuất hiện mưa rào, bà Cà Xợi dễ dàng tìm ra 2 người du kích đầy đủ vũ trang...) thì “Hòn Đất” vẫn là một tác phẩm thật đẹp, rực rỡ như bông hoa Sứ thắm tươi - tên người con gái huyền thoại của Hòn Đất. *** Review Kẻ Lang Thang:   Không có cuộc chiến tranh nào là không ác liệt, nhưng khủng khiếp nhất, có lẽ, là nội chiến. Hòn Đất nói về một thời kỳ như thế, khi những người lính Việt Nam, dù là Việt Nam Cộng hoà hay Việt Nam Dân chủ cộng hoà, buộc phải giương súng bắn vào chính đồng bào của mình. Bằng giọng văn truyền cảm, nhà văn Anh Đức đã đưa người đọc tham gia vào một trận đánh có thật xảy ra tại Hòn Đất-Kiên Giang tháng 1 năm 1962. Đắm mình vào tác phẩm, khó ai có thể nén nổi xúc động trước những bi kịch và sự thảm khốc của chiến trường miền Nam giai đoạn 1960-1965. Khi việc tiếp cận với kho tri thức khổng lồ của nhân loại là quá dễ dàng như hiện nay, thiết nghĩ, đôi khi cũng nên dừng lại để đọc một tác phẩm văn học Việt Nam như thế này, để cảm nhận, dù chỉ một phần nhỏ sự dữ dội của chiến tranh và trên hết, để trân trọng hoà bình của Tổ quốc.   Nắng sớm đẫm chiếu người Sứ. Qua đây để thấy đó rất tốt ! Ánh nắng chiếu vào đôi mắt chị, tắm rợp mái tóc, phủ đầy đôi bờ vai tròn trịa của chị. Cuộc đời thật khốn nạn với tôi. Có những lúc, bỏ lỡ hiện tại, vĩnh viễn không còn cơ hội nữa.. Đó quả là một lựa sáng suốt.”. Cứ nghĩ là dễ dàng.. Cảm thấy bất lực khi không thể làm được.Đọc tiếp Đã lâu rồi mới có 1 cuốn sách làm mình vừa đọc vừa khóc như thế này. Khóc vì cảm phục tinh thần quyết tử của các anh du kích, khóc vì thương cho số phận của người dân trong thời chiến tranh loạn lạc, đặc biệt là khóc cho số phận của người phụ nữ Việt Nam, như mẹ Sáu, chị Sứ, Út Quyên, Cà Mỵ, Năm Nhớ, Thím Ba… những người phụ nữ thân yếu tay mềm nhưng tinh thần vô cùng bất khuất, thà chết chứ không bao giờ đầu hàng. Càng đọc truyện lại càng thấm tội ác tột cùng của tụi Mỹ-Diệm. Nó uống máu đồng bào ta, mỏ ruột moi bụng, cưỡng hiếp phụ nữ… Thật sự mình đã khóc khi chị Sứ và Đạt hi sinh, khi mẹ Sáu đau khổ vì mất con và khi trận chiến kết thúc, mọi người lại được đoàn tụ. Thật sự thì đây là cuốn truyện vô cùng cảm động và rất đáng để đọc, ngoại trừ 2 điểm mình không hài lòng lắm. Thứ nhất là bìa quá mềm và dễ rách. Thứ 2 là tác giả nên thay thế những từ như “tôi, tụi tôi” thành ” tui, tụi tui”. Vì nếu đã viết theo phong cách miền Nam thì nên thống nhất kiểu xưng hô. Còn không nên gọi là “chúng tôi”, mỗi lần đọc “tụi tôi” nghe hơi buồn cười. *** Tôi bắt đầu viết tiểu thuyết "Hòn Đất" tại Hội Văn Nghệ Giải Phóng miền Nam đóng giữa những cánh rừng già thuộc Đông Nam Bộ vào cuối năm 1964. Sang đầu năm 1965 thì tôi viết xong. "Hòn Đất" gởi ra Hà Nội và Nhà xuất bản Văn Học xuất bản đầu tiên năm 1966, đồng thời ở miền Nam tác phẩm này cùng với tập truyện và bút ký "Bức thư Cà Mau" của tôi được tặng giải chính thức giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu. Tính đến nay, "Hòn Đất" ra mắt bạn đọc đã trên ba mươi năm và được tái bản tới lần thứ tám. Sách cũng đã được dịch và xuất bản nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Espéranto, Tây Ban Nha, Nga, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản... Ngày viết "Hòn Đất" tôi còn rất trẻ, mới hăm chín. Câu chuyện Hòn Đất là một câu chuyện về một trận đánh trong hàng ngàn trận đánh xảy ra trên chiến trường miền Nam trong giai đoạn sau đồng khởi, Mỹ tiến hành chiến tranh đặc biệt. Cuộc chống cự diễn ra trong hang Hòn Đất và ngoài xóm, trong thế chênh lệch: bên ta có mười mấy người bị vây trong hang với vũ khí thô sơ, cũ kỹ, còn phía Mỹ - ngụy gồm tới gần hai ngàn quân với vũ khí tối tân. Vì sao tôi đã chọn trận đánh có thật xảy ra tại Hòn Đất - Kiên Giang vào cuối 1962 đó để viết thành một tiểu thuyết có cùng tên với địa danh ấy? Trước hết là do bản thân câu chuyện tựa như là cả miền Nam chiến đấu được thu nhỏ, có tính tiêu biểu - có khả năng từ cái tiêu biểu mà khái quát hóa, thể hiện ở các mặt: tinh thần quân dân đoàn kết chiến đấu bất khuất dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, vận dụng phối hợp ba mũi giáp công, lực lượng đôi bên chênh lệch, và điều quan trọng hơn cả là viết ra câu chuyện này như gióng lên tiếng chuông báo trước: chiến tranh đặc biệt nói riêng và chiến tranh xâm lược nói chung bất kể dưới hình thức nào do Mỹ tiến hành sẽ thất bại. Ngoài ra, về mặt dựng truyện, một yếu tố khiến tôi tin tưởng là ngay từ trong chuyện đã xuất hiện một người con gái, đã sống và đã chết như một nữ anh hùng. Đó là chị Phan Thị Ràng, mà trong tiểu thuyết tôi đặt tên là Sứ. Việc có được và hình thành vun đắp ra được một nhân vật phụ nữ như thế, từ lâu trong đời viết của tôi luôn là niềm khao khát muốn khắc họa, và đó là sự quen thuộc, gần gũi như trước kia tôi đã từng khắc họa chị Tư Hậu trong "Một chuyện chép ở bệnh viện". Bởi lẽ đó, "Hòn Đất" là một tiểu thuyết viết về một cuộc chiến đấu mà cũng là một tiểu thuyết về một đời người con gái. Tôi đã rút ra từ nhiều mẫu người con gái miền Nam anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang để đúc lại thành một người. Đó là chị Sứ. Trong hơn ba mươi năm, tôi rất sung sướng về một chị Sứ trong Hòn Đất do tôi xây dựng nên từ một nguyên mẫu, đã trở thành nhân vật văn học đến cùng bạn đọc gần xa. Tôi hy vọng hình tượng chị Sứ sẽ sống lâu trong lòng bạn đọc, qua các thế hệ, nhất là đối với các em gái nhỏ sắp lớn lên thành những người con gái trên xứ sở xanh tươi yên bình của chúng ta hôm nay - đất nước đã thấm biết bao máu của những người cô người dì mình như Sứ. Giờ đây Hòn Đất vẫn còn đó. Trên đường đi từ Rạch Giá lên Hà Tiên, các bạn sẽ nhìn thấy trái núi xanh rì ấy mé tay trái, sát kề bên biển. Cách hang Hòn không xa là ngôi mộ chị Ràng, tức chị Sứ. Câu chuyện chiến đấu ác liệt ngày nào ở Hòn Đất đã qua lâu, nhưng chị Sứ vẫn còn. ở đó, bên vịnh biển Tây Tổ quốc ngày đêm sóng vỗ. 30 - 4 - 1998 Anh Đức Mời các bạn đón đọc Hòn Đất của tác giả Anh Đức.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bất Khuất - Nguyễn Đức Thuận
Theo dõi bước chân Nguyễn Đức Thuận trên từng trang, từng trang "Bất Khuất", người đọc nhiều lúc nín thở, hồi hộp, xúc động đến trào nước mắt, trái tim căng lên, sôi sục máu căm thù. Tác giả dẫn chúng ta đi theo anh trên con đường đầy đau thương, khổ ải, trong hơn ba ngàn ngày, trải qua những lò giết người cực kỳ man rợ, man rợ hơn cả bọn đao phủ thời Trung cổ, hơn cả bọn phát xít Hítle. Qua gần ba nghìn cửa ải, từ Pêcarăngđơ, nhà lao Gia Định, trung tâm Thủ Đức, Tổng pha đến Côn Đảo, sa vào những chuồng cọp, địa ngục trần gian đầy rẫy ác ôn quỷ dữ là tập đoàn đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai mổ bụng ăn gan, uống máu người không biết tanh, Nguyễn Đức Thuận cũng với biết bao chiến sĩ cộng sản kiên cường, biết bao người Việt Nam yêu nước, đã đối mặt với quân thù, chống chào cờ ba que, chống học tập "tố cộng", chống "ly khai" tới cùng. Tám năm trời đằng đẵng, ba ngàn ngày mà mỗi phút, mỗi giây, mạng người bị treo bằng một sợi tóc mong manh, chơi vơi trên một vực thẳm kinh hồn. Hơn một ngàn đồng bào đồng chí chúng ta đã hy sinh. Nhưng Nguyễn Đức Thuận và những con người kiên cường như anh vẫn đứng vững trong chồng cọp, đánh bại lũ diêm vương quỷ sứ, đẩy lùi bàn tay thần chết, bắt lũ chúng phải quỳ lạy dưới chân mình. Mỗi trang "Bất khuất"  là một trang thấm máu và nước mắt, tràn đầy một sức sống mãnh liệt, vang lên tiếng hát yêu đời, yêu cuộc sống, yêu con người, vang lên bài ca chiến thắng không bao giờ tắt. Với trên bốn trăm trang hồi ký, Nguyễn Đức Thuận đã phản ánh sâu sắc cuộc sống anh hùng với tinh thần cách mạng tiến công của những con người có thực, vạch trần hiện thực đen tối trong những địa ngục của xã hội miền Nam dưới gót sắt của một lũ sói lang mặt người dạ thú. "Bất Khuất" toả ra một niềm tin bất diệt vào sự nghiệp cách mạng, vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa giải phóng con người, nêu cao phẩm giá của những con người nhận thức được quy luật và chân giá trị cuộc sống, biết sống và biết chết xứng đáng là Người. *** Nguyễn Đức Thuận (1916 – 1985) là nhà cách mạng Việt Nam, nguyên là Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Ông là tác giả cuốn Bất khuất, một cuốn tự truyện từng gây tiếng vang ở miền Bắc về "sức chịu đựng kỳ diệu của một người chiến sĩ", suốt 8 năm bị tra tấn dã man vẫn không khuất phục..."). Nguyễn Đức Thuận có một cuốn tự truyện duy nhất và khá nổi tiếng tại miền Bắc lúc in lần đầu là cuốn Bất khuất. Cuốn sách này thuật lại toàn bộ thời gian ông bị bắt và chịu tù đày của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, và sách cũng từng gây chấn động miền Bắc và quốc tế về sức chịu đựng khó tin của một người chiến sĩ. Sách được xuất bản lần đầu vào tháng 4 năm 1967 với 210.000 bản in tại miền Bắc. Những năm sau đó, Nhà xuất bản Ngoại văn Việt Nam đã dịch tác phẩm Bất khuất ra 5 ngôn ngữ khác (Anh, Hoa, Nga, Pháp và quốc tế ngữ), in với số lượng lớn phát hành ra nước ngoài, nhằm gây chú ý của dư luận thế giới. Cuốn sách này có nhiều ý kiến tranh cãi về độ xác thực của một số chi tiết trong đó song vẫn được xem là một tác phẩm có giá trị nên đã được tái bản một số lần[ Tuy nhiên trong cuốn hồi ký Đèn cù, Trần Đĩnh cho rằng mình là người chấp bút tác phẩm này. Mời các bạn đón đọc Bất Khuất của tác giả Nguyễn Đức Thuận.
Thủy Đạo Vùng Ven Sài Gòn - Mã Thiện Đồng
Chiến tranh đã gây nên bao nhiêu căng thẳng đau thương và mất mát cho dân tộc Việt Nam ta. Trên con đường giành độc lập thống nhất đất nước, lớp lớp thanh niên đã hi sinh cả cuộc đời, cả tuổi thanh xuân cả những khát vọng tuổi trẻ và tình yêu cho tổ quốc. Đề tài về chiến tranh vẫn đang cuốn hút tôi. Chiến tranh dù đã lùi xa hơn 40 năm rồi, nhưng nỗi đau nhức nhối về một thời đạn bom còn đó, con người trong cuộc chiến còn đây. Tôi chỉ muốn dựng lại trên trang sách những hình ảnh Biệt động Sài Gòn, một đội quân không quân phục nhưng lại tinh nhuệ vào bậc nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam. Mỗi cuốn sách là một mảng hiện thực đầy hi sinh và tinh thần quả cảm anh dũng tuyệt vời của Biệt động Sài Gòn được sống lại, để những ai quan tâm tới quá khứ, muốn tìm hiểu truyền thống anh hùng của Miền Nam Thành Đồng Tổ Quốc, hãy tìm đọc nó. Địa đạo là đường trong lòng đất. Ta đã được nghe đến nhiều, nhất là địa đạo Củ Chi. Nay tôi xin đưa các bạn xuống phía Đông Nam Sài Gòn, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở thế kỷ XX. Tôi gọi là vùng Thủy Đạo, bởi đây là nơi các chiến sĩ biệt động sống trong nước, di chuyển trong sình lầy, nhịn đói chịu khát và biết bao gian khổ hi sinh, chiến đấu với địch vô cùng dũng cảm trong thủy đạo, một đội quân mà có lẽ trên thế giới chỉ ở Việt Nam mới có. Đội quân thể hiện rõ nét nhất cuộc chiến tranh nhân dân, lập căn cứ lòng dân, dân nuôi để sống; đội quân lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn. Ta hãy về thăm nơi những con người chọc trời khuấy nước vùng ven khói lửa, một thời “bám thắt lưng Mỹ mà đánh”, lập ra một thế trận tàng hình trong sình lầy. Chúng ta hãy đến nơi, một thời nước bưng hòa cùng máu đỏ con người! Cùng với những người trong cuộc chiến, hoài niệm về những gì mà cuộc đời họ đã trải qua, tôi đã viết. Không phải là viết lịch sử nên tôi không thể viết hết được nỗi gian khổ,, tinh thần dũng cảm và những chiến công của quân và dân Thủ Đức, Quận 9, Cánh Đông Nam Sài Gòn; cuốn sách nhỏ này chỉ kể lại được một số trận đánh của đơn vị biệt động ở đây. Dù vậy tôi vẫn mong muốn nó giúp cho thế hệ hôm nay và mai sau có thêm tư liệu để tìm hiểu lịch sử, tìm hiểu về nơi đã làm nên một khúc tráng ca hào hùng của vùng ven khói lửa. Xin cám ơn anh Chín Trí (Đại tá Trần Xuân Trí, nguyên đại đội trưởng, chánh trị viên Đội Biệt động Cánh Đông Nam, nguyên Bí thư Liên quận (Quận 9, Thủ Đức) và những đồng đội của anh đã kể cho tôi nghe, đã cung cấp tư liệu để tôi viết cuốn sách : “Thủy Đạo - vùng ven Sài Gòn”, nhân dịp kỷ niệm 40 năm, ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Mã Thiện Đồng TP.HCM năm 2014 .............…Để bảo tồn lực lượng, có thể căn cứ Liên quận của ta phải tạm thời rút sang Long Thành! - Nếu dễ mình ở, khó mình đi, dân nghĩ sao! Chắc chắn bà con và cả anh em mình nữa sẽ mất niềm tin! - Ở lại có trụ được không? - Trụ được. - Bám vào đâu mà trụ? Khi phen này chúng kiên quyết “vén sình tróc gốc”... - Vẫn có chỗ bám. - Địch đốn hết lá, phá hết lùm, chỗ đâu bám? - Đốn hết lá ta bám bập dừa. - Hết bập dừa bám vào đâu? - Bám gốc ô rô - Hết gốc ô rô bám vào đâu? - Bám căn cứ lòng dân, còn dân là ta còn sống!.. ........................ Mời các bạn đón đọc Thủy Đạo Vùng Ven Sài Gòn của tác giả Mã Thiện Đồng.
Tiểu Đoàn Trừng Giới - Heinz Günther Konsalik
Các tiểu đoàn trừng giới được thành lập từ những thành phần bất hảo đủ loại như tù chính trị, tội phạm hình sự,… và cả những người lính chính quy vi phạm kỷ luật quân đội. Mức khổ cực của một tháng phục vụ trong những đơn vị này tương đương với 10 năm tù giam. Với trang bị vũ khí sơ sài - "3 người 1 khẩu súng trường", các tiểu đoàn trừng giới bị điều ra tuyến đầu để thực hiện những nhiệm vụ dường như bất khả thi. Trong thực tế, quân Đức rất sợ những đơn vị "trừng giới". Bởi vì họ biết rõ, đây là những đối tượng… "chẳng còn gì để mất" (!!!). Những người lính "cùng đường-mạt lộ" này có thể chiến đấu "chỉ bằng răng và móng tay" (!?). Vì với họ, chỉ có 1 con đường duy nhất - tiến lên phía trước. Sát ngay sau lưng họ, 1 lần nữa là…"tử thần" - các đơn vị "Dân ủy Nội vụ", sẵn sàng bắn bỏ những người có ý định tháo lui… *** T hực sự, Schwanecke đã vào rừng Gorki nơi kẻ tử thù của hắn cũng ở đó Tarinukine. Micha, ngồi trước chiếc hầm, hút thuốc và dỏng tai về phía Anna ở dưới đáy hầm, đang lủng củng với những dụng cụ làm bếp. Trước đó một giờ, Trung úy thủ trưởng Sergei đã qua đây và nói : - "Các đồng chí, ba ngày nữa chúng ta sẽ tấn công. Lần này ta sẽ đuổi quân Đức như những con chó. Nếu các đồng chí mà được thấy tất cả những gì tập hợp ở phía sau kia... Ba trăm dàn đại pháo Staline, ít ra là hai trăm chiến xa và pháo binh nhiều chưa bao giờ tôi trông thấy như vậy"! Lời nói như điệu nhạc rót vào tai Micha. Anh đã quên câu truyện Tania. Không ai nói đến tên nàng nữa coi như một điều cấm kỵ nhưng mọi người đều biết rằng kẻ nào phản bội đều phải chết như vậy. Sau khi đuổi xong quân Đức, Micha sẽ cưới Anna, hiển nhiêu là không đẹp lắm nhưng tin tưởng hoàn toàn.,. Mải suy tư, anh không nghe cũng không thấy một người đang bò lại gần ở phía san anh và mắt không rời anh. Chính là Schwanecke. Hắn đã thấy nhiều hầm của du kích nhưng chưa thấy hầm nào thuận lợi như chiếc này vì ở rất xa những chiếc khác. ... Mời các bạn đón đọc Tiểu Đoàn Trừng Giới của tác giả Heinz Günther Konsalik.
Mặt Trận Phía Sau - Nguyễn Thế Duyên
Đường càng ngày càng bớt dốc. Những cánh rừng gỗ tạp rậm rì chằng chịt những dây leo thưa dần ra, cuối cùng nhường chỗ cho những cánh rừng khọoc bạt ngàn quang đãng mở ra nom thật thích mắt. Những cây khọoc to lớn, lực lưỡng, mùa khô đã trút gần hết lá lao thẳng lên giữa nền trời đầy nắng và gió. Mặt đất bằng lì được trải dưới một lớp lá khô giòn tan như bánh đa mới nướng làm rừng vừa sạch sẽ lại vừa phóng khoáng. Nắng! Ngước nhìn lên chỉ thấy những chiếc lá khọoc cuối cùng đang quắt lại, lay lắt, run rẩy trong những đợt gió dữ dội của cánh Nam. Mới đầu mùa khô mà bầu trời không lấy một gợn mây. Những đám mây đen dày đặc ngự trị bầu trời suốt sáu tháng nay như đã bị mặt trời đốt cháy. Mặt trời không còn rõ nét. Chỉ thấy một vành mờ sáng trắng, lóa lên những vầng lửa hung hãn thiêu đốt mặt đất đã khô cong. Những con suối nhỏ đã cạn hết nước. Lòng suối khô khốc phơi ra những tảng đá trắng mốc lên hơi hầm hập. Họa hoằn lắm mới gặp một vũng nước còn sót lại mà những đám rêu quanh đấy đã bị dẫm nát bởi muôn vàn những dấu chân người, chân thú. Văn đặt ba lô lên một gốc cây đổ men theo dòng suối đến vũng nước. Một đàn bướm đông nghịt, đủ các mầu sắc đang đậu trên những miếng đất ẩm ướt giật mình tung lên. Những cánh bướm quạt nắng chấp chới “ Còn em thương bên tây anh mùa đông Nước khe cạn bướm bay lèn đá Biết lòng anh say miền đất lạ….” Văn chợt nhớ đến bài hát “Trường Sơn đông, Trường sơn tây” Mà anh rất thích. Chính cái cảnh này đây đã làm anh “Say miền đất lạ” và bây giờ anh đã gặp nó rồi. Hồi Văn vào là cuối mùa mưa, mùa măng đã qua. Rừng tre chỉ còn lại những cây măng nhọn hoắt, cao vút. Cô gái giao liên một lần nhìn thấy bữa cơm ăn với canh ruốc lèo tèo vài ngọn rau tàu bay của bọn Văn đã bảo. - Sao các anh không đi lấy măng về mà ăn? - Măng năm ngoái à, Đồng chí? Văn đã lém lỉnh hỏi lại. Tất cả cười ồ. Cô giao liên cũng cười một cách dễ dãi. - Các anh không biết đấy thôi. Đến cuối tháng mười mới hết vụ măng cơ mà. Bọn Văn ngớ người không biết cô gái nói gì. Về sau hỏi lại mới biết ở Trường sơn này măng có ba vụ. Đầu mùa mưa, những chiếc măng mới nhú lên khỏi mặt đất như những chiếc sừng nghé. Muốn ăn, người ta phải đào xuống đất lấy cả củ măng mang về vụ ấy gọi là vụ măng đào. Vào giữa mùa mưa, những ngọn măng đã mọc khá cao, muốn ăn chỉ việc lấy chân đạp gẫy ngọn măng bỏ vào gùi nên gọi là vụ măng đạp. Vụ này là vụ măng chính. Măng vừa nhiều, vừa ngon lại dễ lấy. Còn bây giờ, những ngọn măng đã mọc cao tít tắp, người ta phải rung cây măng cho ngọn rụng xuống mang về ăn. - Mà lấy măng rung các anh nhớ phải lấy mũ cứng đội vào không ngọn măng rơi vào đầu thì khốn. ... Mời các bạn đón đọc Mặt Trận Phía Sau của tác giả Nguyễn Thế Duyên.