Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bản Đàn Thôn Dã - André Gide

La Symphonie Pastorale của tác giả André Gide có nhiều bản dịch tiếng Việt, trong đó bản dịch của Mai Kim Ngọc lấy tên Bản Đàn Thôn Dã, bản dịch của Ðoàn Văn Khanh lấy tên Khúc Nhạc Đồng Quê, còn một bản dịch nữa của Bùi Giáng thì có tên là Hòa Âm Điền Dã. Cuốn sách nào của Gide cũng mang chất hàm hỗn dị thường, là khởi từ duyên cớ đó. Dịch Gide thật là một điều đáng ngại. Ông trích dẫn lơ thơ một câu trong Kinh Thánh, một câu của Saint Paul - nhưng ông "rút một dây" mà chấn động cả một rừng... *** Đã ba hôm nay tuyết rơi không ngớt cơn, đường sá hoàn toàn bế tắc. Tôi không đi tỉnh R. làm lễ như thông lệ một tháng hai lần đã mười lăm năm qua. Sáng nay tại nhà thờ Breville chỉ có ba chục tín đồ tới. Nhân dịp rảnh rỗi bất đắc dĩ vì không ra được khỏi nhà, tôi ngồi ôn lại từ đầu sự việc đã xui khiến tôi đón Gertrude về nuôi. Tôi đã dự định viết ra đây từng bước nhỏ sự phát triển của tâm hồn ngoan đạo này mà tôi đã mang từ bóng đêm u tối ra như với mục đích duy nhất để tôn quý và yêu thương. Cám ơn Thượng Đế đã giao phó cho tôi nhiệm vụ. Câu chuyện khởi đầu đã đúng hai năm sáu tháng. Hôm đó tôi đi Chaux-de-Fonds về, có con bé lạ mặt vội vã tới tìm tôi để dẫn đi thăm một bà cụ sắp chết cách đấy bẩy cây số. Xe còn thắng ngựa, tôi bảo con bé lên ngồi sau khi với cây đèn bão mang theo, e rằng chắc phải đến đêm mới xong việc. Tôi vẫn tự cho là mình thông thạo vùng này, vậy mà vừa quá khúc rẽ sau sơn trại Saudraie, con bé chỉ cho tôi một con đường ngang tôi chưa từng phiêu lưu rẽ vào. Tuy nhiên quá đó hai cây số, phía tay trái, tôi nhận ra một cái hồ có phong cảnh huyền bí mà hồi nhỏ tôi đã đôi lần tới trượt băng. Khoảng mười lăm năm nay đã không trở lại vì không có mục vụ nào ở đây. Có ai hỏi có lẽ tôi cũng không còn biết hồ ở đâu, lại cũng không nghĩ đến nữa nên chi khi bất thần thấy hồ sáng chói trong ráng chiều huy hoàng tôi tưởng như thấy lại cảnh cũ từ một giấc mơ. Con đường chạy dọc theo con sông nhỏ một quãng, để cắt ngang cuối rừng và men theo một bãi đầm lầy. Chỗ này thì chắc chắn là tôi chưa bao giờ đặt chân tới. Mặt trời từ từ lặn và tôi chạy xe trong bóng hoàng hôn đã một lúc khá lâu, sau cùng con bé chỉ cho tôi bên đồi một căn nhà tranh tưởng như bỏ hoang nếu không có làn khói mảnh bốc lên, màu xanh trong bóng râm chuyển thành màu vàng óng của nắng chiều. Tôi buộc ngựa vào cây táo gần nhà rồi theo chân con bé bước vào một căn phòng tối, nơi bà cụ vừa mãn phần. Tôi sững người vì quang cảnh trang trọng, cũng như sự tĩnh lặng, và vẻ trang nghiêm của giây phút. Có người đàn bà dáng còn trẻ đang quỳ bên giường. Con bé người làm mà tôi đã tưởng là cháu bà cụ bước tới cuối phòng châm ngọn đèn khói um, rồi lặng lẽ tới đứng bên giường. Trên đường tới đây, tôi đã gợi con bé mà chỉ được trả lời vài câu vắn tắt. Người đàn bà quỳ bây giờ đứng dậy. Bà không phải người nhà như tôi đoán, mà chỉ là chỗ hàng xóm tốt bụng, bạn vớì bà cụ, khi được báo tin là bà cụ sắp đi đã sốt sắng sang giúp đỡ và tình nguyện ở lại canh thi hài. Bà bảo bà cụ đi nhẹ nhàng không đau đớn gì. Chúng tôi bàn tính về tang lễ cho người mãn phần. Trong miền đất hẻo lánh này, nhiều lần tôi đã phải tự tay cắt đặt mọi chuyện cho tang gia. Tôi thoáng thấy không yên tâm vì phải giao phó căn nhà dù nghèo hèn này cho người hàng xóm và con bé người làm. Đây chỉ là mái tranh xơ xác, nhưng biết đâu lại chẳng có bảo vật cất giấu trong xó xỉnh nào. Lo vậy, nhưng thật ra tôi cũng không làm gì hơn được. Tôi hỏi xem ai là người thừa kế. Bà hàng xóm bấy giờ cầm cây nến bước tới góc nhà, và tôi nhận ra lờ mờ có người ngồi xổm bên bếp lửa, mớ tóc dày che hết khuôn mặt. Bà giải thích: “Tôi nghe đứa ở kể thì con bé mù này là cháu bà cụ; hình như gia đình chỉ có vậy, vỏn vẹn hai bà cháu. Chắc rồi phải đưa nó đi cô nhi viện thôi. Nếu không, biết ai trông nó bây giờ.” Tôi lúng túng thấy bà lớn tiếng bàn bạc về số phận con bé ngay trước mặt nó, sợ những lời sống sượng làm nó buồn lòng. Tôi nhỏ nhẹ nhắc khéo bà nên có chút tế nhị: ... Mời các bạn đón đọc Bản Đàn Thôn Dã của tác giả André Gide.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bảy Bước Tới Mùa Hè - Nguyễn Nhật Ánh
Bảy Bước Tới Mùa Hè là một mùa hè ngọt ngào, những trò chơi nghịch ngợm và bâng khuâng tình cảm tuổi mới lớn. Chỉ vậy thôi nhưng chứng tỏ tác giả đúng là nhà kể chuyện hóm hỉnh, khiến người đọc cuốn hút từ tựa đến trang cuối cùng, có lẽ chính vì giọng văn giản dị và trong trẻo của Nguyễn Nhật Ánh, và kết thúc thì có hậu đầy thuyết phục. Câu chuyện cho tuổi học trò, đọc xong là thấy ngập lên khao khát quay về một thời thơ bé, với tình thầy trò, bè bạn, tình xóm giềng, họ hàng, qua cách nhìn đời nhẹ nhõm, rộng lượng. Bảy bước tới mùa hè sẽ là món quà mà nhà văn Nguyễn Nhật Ánh dành tặng bạn đọc thân thiết, một lần nữa ông đánh thức “Những năm tháng ấu thơ”, trở lại tuổi học trò đầy nghịch ngợm, trong veo với những bâng khuâng tình cảm “treo ngược cành cây” … Nguyễn Nhật Ánh vẫn dùng cây đũa thần là giọng kể chuyện hóm hỉnh của mình, khiến ai đọc qua cũng thấy xao xuyến với một thưở hồn nhiên cắp sách đến trường. Mời các bạn đón đọc Bảy Bước Tới Mùa Hè của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Cánh Đồng Bất Tận - Nguyễn Ngọc Tư
Cánh đồng bất tận là tên một tập truyện ngắn phát hành năm 2005 của  Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời cũng là tên một truyện trong tập truyện ngắn đó được đăng báo lần đầu cùng năm. Tính đến nay, tập truyện đã được phát hành dưới dạng sách in và sách nói. Một vài truyện ngắn trong tuyển tập đã được chuyển thể thành phim và kịch. Gồm có: Cải ơi Thương quá rau răm Huệ lấy chồng Cái nhìn khắc khoải Nhà cổ Mối tình năm cũ Cuối mùa nhan sắc Biển người mênh mông Nhớ sông Dòng nhớ Duyên phân so le Một trái tim khô... Cánh đồng bất tận Mời các bạn đón đọc ​Cánh Đồng Bất Tận của tác giả Nguyễn Ngọc Tư.
Cho Tôi Xin Một Vé Đi Tuổi Thơ - Nguyễn Nhật Ánh
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là truyện dài của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Tác phẩm là một trong những sáng tác thành công nhất của ông và nhận được Giải thưởng Văn học ASEAN của năm 2010. Nguyễn Nhật Ánh viết ở mặt sau cuốn sách: "Tôi viết cuốn sách này không dành cho trẻ em. Tôi viết cho những ai đã từng là trẻ em". Trả lời phỏng vấn của báo Người lao động, ông nói "đối tượng cảm thụ mà tôi muốn nhắm tới là người lớn", với Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ ông "cho phép mình mở rộng biên độ đề tài và hình ảnh đến tối đa vì tôi viết về trẻ em nhưng là cho những ai từng là trẻ em đọc". Ông chia sẻ, "tôi muốn người lớn thông cảm với trẻ em hơn". Tác phẩm gồm những câu chuyện nhỏ xoay xung quanh 4 đứa trẻ trong cùng một khu xóm là con Tủn, con Tí sún, thằng Hải cò và thằng cu Mùi. Trong đó, người kể chuyện là cu Mùi dưới hình thức kể song song của "thằng cu Mùi" lúc bé và nhận xét, đánh giá của "ông Mùi" khi đã gần 50 tuổi. Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một  nhà văn  Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày  7 tháng 5 năm  1955 tại huyện  Thăng Bình,  Quảng Nam. Truyện dài, truyện ngắn, thơ và các tác phẩm khác: Thành phố tháng tư (thơ, in chung với Lê Thị Kim, 1984) Trước vòng chung kết (truyện dài, 1984) Cú phạt đền (truyện ngắn, 1985) Đầu xuân ra sông giặt áo (thơ, 1986) Trò chơi lãng mạn của tình yêu (tập truyện, 1987) Chuyện cổ tích dành cho người lớn (tập truyện, 1987) Bàn có năm chỗ ngồi (truyện dài, 1987) Còn chút gì để nhớ (truyện dài, 1988) Bí mật của một võ sĩ (tập truyện, 1989) Cô gái đến từ hôm qua (truyện dài, 1989) Chú bé rắc rối (truyện dài, 1989) Nữ sinh (truyện dài, 1989) Thiên thần nhỏ của tôi (truyện dài, 1990) Phòng trọ ba người (truyện dài, 1990) Mắt biếc (truyện dài, 1990) Thằng quỷ nhỏ (truyện dài, 1990) Hoa hồng xứ khác (truyện dài, 1991) Hạ đỏ (truyện dài, 1991) Bong bóng lên trời (truyện dài, 1991) Bồ câu không đưa thư (truyện dài, 1993) Những chàng trai xấu tính (truyện dài, 1993) Tứ tuyệt cho nàng (thơ, 1994) Lễ hội của đêm đen (thơ, 1994) Trại hoa Vàng (truyện dài, 1994) Út Quyên và tôi (tập truyện ngắn, 1995) Đi qua hoa cúc (truyện dài, 1995) Buổi chiều Windows (truyện dài, 1995) Quán Gò đi lên (truyện dài, 4/12/1999) Những cô em gái (truyện dài, 7/5/2000) Ngôi trường mọi khi Kính vạn hoa (bộ truyện 54 tập, 1995-2002: 45 tập, 9 tập viết thêm sau) Chuyện xứ Lang Biang (bộ truyện 4 phần, 2004-2006) Tôi là Bêtô (truyện, 4/4/2007) Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (truyện, 1/2008) Đảo mộng mơ (truyện, 21/10/2009) Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (truyện dài, 24/10/2010) Lá nằm trong lá (truyện dài, 24/9/2011) Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ (truyện dài, 6/2012) Sương khói quê nhà (tạp văn, 2012) Người Quảng đi ăn mì Quảng (tạp văn, 2012) Ngồi khóc trên cây (truyện dài, 27/6/2013) Thương nhớ Trà Long (tạp văn 2014) Chúc một ngày tốt lành (truyện dài, 6/3/2014) Bảy bước tới mùa hè (truyện dài, 1/3/2015) Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng (truyện dài, 28/2/2016) Mời các bạn đón đọc  Cho Tôi Xin Một Vé Đi Tuổi Thơ của tác giả  Nguyễn Nhật Ánh.
Tu Viện Thành Parme - Stendhal
Có những cuốn sách đi vào trong con người chúng ta như một ông khách lầm nhà, vào rồi ra không dấu vết. Lại có những cuốn ta đọc lần đầu không thấy hay mấy, nhưng vẫn cảm thấy có một cái gì khiến chúng ta không đành dứt bỏ, rồi đến một lúc nào đó tìm đọc lại mới thấy sâu sắc, nhất là khi mình đã hiểu biết việc đời chút ít thì càng đọc càng khám phá ra những khía cạnh mới, tuyệt vời… và mình ân hận như đã mất bao nhiêu năm chậm hiểu một người bạn khó tìm thấy trên đời. Tu Viện Thành Parme thuộc loại này. Nói về Tu Viện Thành Parme, nhà văn Paul Morand (1888 - 1976) viết: “Những tác phẩm lớn ngao du trong con người chúng ta, có khi chúng lần lượt biến thành nhiều sách khác nhau, trong lúc chúng ta cũng hóa nên nhiều người, chúng ta đọc Stendhal lúc cuối đời không như đọc ông trong tuổi đầu xuân. Tôi đã phát hiện nhiều “Tu viện” như thế đó, những “Tu viện” ấy đã đi vô định năm mươi năm trong tôi và có lẽ cũng chưa làm trọn cuộc chu du của nó!” Không những đối với một đời người, mà đối với nhiều thế hệ. Tu Viện Thành Parme cũng làm một cuộc hành trình tương tự. Cũng như mấy tiểu thuyết khác của Stendhal, buổi mới ra đời, Tu Viện Thành Parme không được hưởng một số phận tốt đẹp lắm, nó không làm chấn động dư luận, nhưng rồi thời gian và cuộc sống đã công bằng đem lại cho tác giả ánh hào quang thích đáng. Một phần vì Stendhal không viết theo thời thượng, phần khác vì sự phân tích con người rất sâu dưới vỏ ngôn ngữ mộc mạc, hầu như khô khan ở trên cái tầm tiếp thu thông thường của độc giả, ai dù thông minh, tinh tế và chịu khó đi vào chất nội dung mới thấy lý thú. Stendhal thường nghĩ rằng tác phẩm của mình phải mấy chục năm sau người ta mới đánh giá đúng và ham đọc. Thật ra, không phải đợi lâu đến thế. Đối với những ai ý chí lớn, những ai có dụng ý khác đời thì tri kỷ quả có hiếm, nhưng không phải là không có, Tu Viện Thành Parme phát hành đầu tháng từ năm 1839, thì tháng 9, ngày 25, đã có một bài bình luận của Balzac, dài 72 trang, Balzac tuy sinh sau 16 năm nhưng lúc bấy giờ đã lẫy lừng danh tiếng với ba bốn chục tác phẩm và những kiệt tác như Eugénie Grandet (1833), Le Père Goriot (1834) … Balzac nức nở khen Tu Viện Thành Parme và viết một cách kiêu hãnh: “Tu viện chỉ có thể tìm độc giả trong số một nghìn hay nghìn rưỡi người đứng đầu châu Âu. Bởi vậy tất cả những điều tôi sắp nói ra đây là để gửi đến những người trong sạch và cao quý ở nước nào cũng có, như những thiểu số không ai biết đến…”. Mời các bạn đón đọc Tu Viện Thành Parme của tác giả Stendhal.